Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

nghiên cứu các yếu tố giảm năng suất và xây dựng mô hình dự đoán năng suất lúa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 92 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



PHẠM VĂN HOÀI



NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ
GIẢM NĂNG SUẤT VÀ XÂY DỰNG MÔ HÌNH
DỰ ĐOÁN NĂNG SUẤT LÚA

Chuyên ngành: TRỒNG TRỌT
Mã số: 60.62.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN TUẤN ANH





THÁI NGUYÊN, NĂM 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận
văn này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng để bảo vệ một học vị
nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các
thông tin, tài liệu các thông tin tài liệu trình bày trong luận văn này đều đã
được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả


PHẠM VĂN HOÀI

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

ii
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ
tận tình của các thầy, cô giáo cùng các tập thể và cá nhân đã giúp đỡ tôi hoàn
thành công trình này.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Tuấn Anh - Trưởng phòng
QHQT - ĐHTN, người đã tận tình hướng dẫn để tôi hoàn thành tốt đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn chính quyền địa phương và bà con nông dân
xã Quyết thắng, TPTN đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện thí
nghiệm và xây dựng mô hình thực nghiệm tại địa phương.

Tác giả


PHẠM VĂN HOÀI


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC CÁC BẢNG vii
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ viii
MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3. Ý nghĩa khoa học của đề tài 2
1.4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 2
Chƣơng I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 3
1.2. Tình hình nghiên cứu về cây lúa trên thế giới 5
1.3. Tình hình nghiên cứu đạm, lân và kali cho cây lúa trên thế giới 7
1.3.1. Nghiên cứu về đạm cho cây lúa trên thế giới 8
1.3.2. Nghiên cứu về lân cho cây lúa trên thế giới 9
1.3.3. Nghiên cứu về kali cho cây lúa trên thế giới 12
1.4. Tình hình nghiên cứu về sử dụng phân đạm, lân và kali cho cây
lúa ở Việt Nam 13
1.4.1. Những nghiên cứu về bón phân đạm cho cây lúa ở Việt Nam 15
1.4.2. Những nghiên cứu về phân lân ở Việt Nam 16
1.4.3. Những nghiên cứu về bón phân kali cho cây lúa ở Việt Nam 18
1.5. Hàm lượng các yếu tố đạm, lân, kali trong đất lúa ở Việt Nam 20
1.5.1. Đạm trong đất lúa nước ở Việt Nam 20

1.5.2. Lân trong đất lúa nước ở Việt Nam 21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

iv
1.5.3. Kali trong đất lúa nước ở Việt Nam 23
1.6. Một số kết quả nghiên cứu phân bón đối với lúa 24
1.6.1. Phân bón và cách bón phân cho lúa 24
1.6.2. Nhu cầu dinh dưỡng của cây lúa và vai trò của phân bón 26
1.7. Sự cần thiết phải bón phân cân đối và hợp lý cho lúa 36
1.7.1. Cân đối đạm - lân 37
1.7.2. Cân đối đạm - kali 39
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 41
2.1. Đối tượng, phạm vi, thời gian và địa điểm nghiên cứu 41
2.1.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 41
2.1.2. Thời gian 41
2.1.3. Địa điểm nghiên cứu 41
2.2. Nội dung nghiên cứu 41
2.3. Phương pháp nghiên cứu 41
2.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 41
2.3.2. Điều kiện thí nghiệm 41
2.3.3. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 42
2.3.4. Phương pháp phân tích mẫu đất 43
2.4. Xử lý số liệu 43
Chƣơng III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 44
3.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Thái Nguyên 44
3.1.1. Diễn biến thời tiết khí hậu vụ Mùa 2010 và vụ Xuân 2011 tại
Thái Nguyên 44
3.1.2. Tài nguyên đất ở Thái Nguyên 46

3.2. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp và hiện trạng sản xuất lúa ở
Thái Nguyên 48

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

v
3.2.1. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp ở Thái Nguyên 48
3.2.2. Hiện trạng sản xuất lúa ở Thái Nguyên 50
3.3. Kết quả nghiên cứu các yếu tố dinh dưỡng đất đến sinh trưởng,
phát triển và năng suất lúa 52
3.3.1. Các đặc điểm của đất thí nghiệm 52
3.3.2. Khả năng sinh trưởng và phát triển của cây lúa 54
3.3.3. Tương quan giữa năng suất lúa với tính chất đất và sinh
trưởng của lúa 57
3.3.4. Các yếu tố dinh dưỡng ảnh hưởng tới năng suất lúa 59
3.3.5. Phân tích các yếu tố sinh trưởng ảnh hưởng tới năng suất lúa 65
3.3.6. Phân tích các yếu tố môi trường ảnh hưởng tới năng suất lúa. 72
3.3.7. Tương quan giữu năng suất thực thu và năng suât dự đoán 74
3.3.8. Lập mô hình dự đoán ảnh hưởng của các yếu tố thí nghiệm
tới năng suất lúa. 75
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 76
1. Kết luận 76
2. Đề nghị 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu
Chữ đƣợc viết tắt
CEC
Dung tích hấp thu
CT
Công thức
Dw
Khối lượng chất khô
ĐHNL
Đại học Nông Lâm
ĐN
Đẻ nhánh
ĐVT
Đơn vị tính
GĐST
Giai đoạn sinh trưởng

Thời kỳ phân hóa đòng
NN&PTNT
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
NS
Năng suất
NSLT
Năng suất lý thuyết
PC
Phân chuồng
QT
Quy trình
TB
Trung bình

TTKN
Trung tâm khuyến nông
OM
Hàm lượng mùn
VCK
Vật chất khô

Giai đoạn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

vii
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Việt Nam
những năm gần đây 6
Bảng 1.2. Mối quan hệ lân - đạm và hiệu lực phân đạm với lúa 38
Bảng 1.3. Ảnh hưởng của phân kali đến hiệu lực phân đạm với
lúa trên đất bạc màu 40
Bảng 1.4. Liều lượng phân bón nông dân sử dụng cho lúa 40
Bảng 3.1: Điều kiện thời tiết khí hậu vụ Mùa năm 2010 và vụ
xuân 2011 45
Bảng 3.2. Hiện trạng sử dụng đất 1/1/2009 tỉnh Thái Nguyên 49
Bảng 3.3. Diễn biến diện tích và năng suất lúa ở Thái Nguyên 51
Bảng 3.4. Kết quả phân tích các chỉ tiêu về đất khu thí nghiệm 52
Bảng 3.5. Kết quả phân tích các chỉ tiêu sinh trưởng và phát triển 54
Bảng 3.6. Tương quan giữa năng suất lúa với sinh trưởng và tính
chất đất 58
Bảng 3.7. Mô hình dự đoán năng suất lúa 75





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

viii
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ

Hình 3.1: Đồ thị ảnh hưởng của pH
KCl
tới năng suất lúa 59
Hình 3.2: Đồ thị ảnh hưởng của CEC tới năng suất lúa 60
Hình 3.3: Đồ thị ảnh hưởng của OM tới năng suất lúa 61
Hình 3.4: Đồ thị ảnh hưởng của N tới năng suất lúa 62
Hình 3.5: Đồ thị ảnh hưởng của P
2
O
5
tới năng suất lúa 63
Hình 3.6: Đồ thị ảnh hưởng của K tới năng suất lúa 64
Hình 3.7. Đồ thị ảnh hưởng chiều cao tới năng suất lúa 65
Hình 3.8. Đồ thị ảnh hưởng nhánh tối đa tới năng suất lúa 66
Hình 3.9. Đồ thị ảnh hưởng nhánh hữu hiệu tới năng suất lúa 67
Hình 3.10. Đồ thị ảnh hưởng VCK GĐ trỗ tới năng suất lúa 68
Hình 3.11. Đồ thị ảnh hưởng VCK GĐ chín tới năng suất lúa 69
Hình 3.12. Đồ thị ảnh hưởng số hạt chắc trên bông tới năng suất lúa 70
Hình 3.13. Đồ thị ảnh hưởng của P
1000
hạt tới năng suất lúa 71
Hình 3.14: Đồ thị ảnh hưởng nhiệt độ tới năng suất lúa 72

Hình 3.15: Đồ thị ảnh hưởng tổng số giờ nắng tới năng suất lúa 73
Hình 3.16: Đồ thị ảnh hưởng lượng mưa tới năng suất lúa 74
Hình 3.17: Đồ thị ảnh hưởng độ ẩm không khí tới năng suất lúa 74
Hình 3.18: Đồ thị tương quan giữa NSTT và NSLT 75




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Lúa (Oryza sativa L.) là một loại cây lương thực quan trọng trên thế
giới, đặc biệt ở các nước châu Á. Theo Gislum và cs., (2005) thì năng suất lúa
của châu Á hiện nay trung bình là 5,3 tấn/ha, bằng 60% tiềm năng năng suất
lý thuyết có thể đạt được trong điều kiện khí hậu của châu lục. Do vậy, một số
nghiên cứu tại Châu Á như Nhật bản Hàn Quốc, Trung Quốc, Philippines và
Thái Lan đã chỉ ra năng suất lúa thực tế và năng suất tiềm năng phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như điều kiện khí hậu, cải tạo giống lúa, dinh dưỡng đất và kỹ
thuật trồng trọt (Dobermann và cs., 2002; Kim, 2004; Nguyen, 2005; Peng và
cs., 2005; Nguyen, 2006). Đặc biệt là nghiên cứu kỹ thuật bón phân chính xác
và hợp lý dựa trên hiện trạng dinh dưỡng đất và cây trồng góp phần quan
trọng nâng cao năng suất, chất lượng lúa (Nguyen, 2005; 2006). Ngoài ra,
quản lý dinh dưỡng và kỹ thuật bón phân chính xác còn giúp nâng cao hiệu
quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp và giảm thiểu ảnh hưởng đến môi
trường (Peng và cs, 2005).
Việt Nam hiện là quốc gia xuất khẩu gạo đứng hàng đầu trên thế
giới, song năng suất lúa bình quân vẫn còn thấp so với nhiều nước khác
(Nguyen, 2009). Đặc biệt là vùng trung du miền núi phía Bắc nơi có nhiều

khó khăn như diện tích đất trồng lúa hạn chế, dinh dưỡng đất nghèo nàn và
kỹ thuật sản xuất nông nghiệp (cây lúa) còn thấp. Do vậy năng suất lúa
trung bình chỉ đạt 4.7 tấn/ha (Nguyen, 2009) trong khi năng suất tiềm năng
có thể đạt được cao hơn.
Với mục tiêu nâng cao năng suất lúa cho vùng trung du và miền núi
phía Bắc Việt Nam, trong nhiều năm qua một số nhà khoa học trong nước
cũng đã tập trung nghiên cứu tìm các giải pháp như chọn tạo nhiều giống lúa
chịu hạn phục vụ cho việc thâm canh, tăng năng suất lúa đảm bảo an ninh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

2
lương thực cho những vùng trồng lúa có điều kiện khó khăn ví dụ như chọn
tạo các giống lúa chịu hạn có khả năng chịu được thiếu nước mà vẫn cho cho
năng suất khá (Vũ Tuyên Hoàng, 1998). Nghiên cứu nâng cao hiệu quả sử
dụng bón phân bón cho lúa (Nguyen, 2009), nghiên cứu phân bón cho lúa trên
đất bạc màu (Nguyen và cs, 1995) và nghiên cứu yếu tố dinh dưỡng hạn chế
năng suất lúa (Bui, 1995). Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu tăng năng suất,
chất lượng lúa trong khi vẫn giữ được môi trường bền vững cần có nghiên
cứu xây dựng một giải pháp kỹ thuật tổng thể cho sản suất lúa tại vùng miền
núi phía Bắc Việt Nam.
Với lý do nêu trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
các yếu tố giảm năng suất và xây dựng mô hình dự đoán năng suất lúa”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu các yếu tố làm giảm năng suất và từ đó xây dựng mô hình
dự đoán năng suất lúa.
1.3. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Nghiên cứu các yếu tố làm giảm năng suất lúa.
- Xây dựng mô hình toán học dự đoán năng suất dựa trên các yếu tố
làm giảm năng suất lúa.

1.4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Từ kết quản nghiên cứu xây dựng biện pháp kỹ thuật nhằm mục tiêu
tăng năng suất lúa và giảm ô nhiễm môi trường hoá nông nghiệp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

3
Chƣơng I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Trong những năm gần đây nền móng nông nghiệp nước ta đã có những
bước nhẩy vọt, từ một nước thiếu lương thực trầm trọng đã vươn lên sản xuất
đủ nhu cầu lương thực đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan. Diện tích trồng
lúa hầu như không tăng mà có xu hướng giảm dần, do đô thị hoá và chuyển
sang đất chuyên dùng, nhưng sản lượng không ngừng tăng lên từ 25 triệu tấn
thóc năm 1995, năm 2005 sản lượng lúa nước đạt 35,8 triệu tấn. Lương thực
bình quân đầu người là 475,8kg/người/năm. Lượng gạo xuất khẩu đạt trên 4
triệu tấn. Để đạt được thành quả đó là nhờ vào yếu tố giống, phân bón tạo tiền
đề của năng suất và phẩm chất thì phương pháp thâm canh hợp lý đã làm thay
đổi cấu trúc của cây lúa như:
Quan hệ giữa năng suất và cá thể (khóm lúa, bông lúa) với năng suất
quần thể ruộng lúa là rất chặt chẽ. Trên một đơn vị diện tích nếu mật độ càng
cao (gieo cấy dày) thì số bông nhiều song số hạt trên bông càng ít (bông bé),
tốc độ giảm số hạt trên bông mạnh hơn tốc độ tăng của mật độ. Vì vậy, gieo
cấy dày quá sẽ làm giảm năng suất nghiêm trọng. Nếu gieo cấy quá thưa nhất
là những giống có thời gian sinh trưởng ngắn rất khó hoặc không thể đạt được
số bông tối ưu. Vì vậy, các khâu kỹ thuật khác được duy trì thì chọn một mật
độ vừa phải là phương án tối ưu để đạt được số lượng hạt thóc nhiều nhất trên
một đơn vị diện tích gieo cấy.
Trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa cần một lượng

dinh dưỡng nhất định, đặc biệt là phân đạm, lượng dinh dưỡng này một phần
có sẵn ở trong đất, phần còn lại là do con người cung cấp (bón thêm). Nếu
cung cấp hợp lý sẽ làm cho cây lúa sinh trưởng tốt năng suất cao.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

4
Khi nghiên cứu về vai trò của đạm đối với cây trông nói chung, với cây
lúa nói riêng, nhiều tác giả đã chỉ rõ: Đạm tham gia cấu thành nên cơ thể thực
vật, đạm có trong protein, đạm điều tiết các hoạt động sống của cây, tham gia
vào các chất kích thích sinh trưởng các Xytokinin, Vitamin. Đạm có hoạt tính
sinh học cao, làm tăng giảm các hoạt động sinh lý của cây. Người ta còn thấy
đạm có trong các enzim xúc tiến các quá trình biến đổi sinh hoá trong cơ thể
cây. Đặc biệt đạm có mặt trong diệp lục tố, vì thế lúa được bón đạm sẽ khác
hẳn như: Lá to, dài, xanh, quang hợp tốt, đẻ nhiều. Nếu thiếu đạm lá, vàng,
nhỏ, đẻ ít, bông nhỏ, nhưng nếu quá nhiều đạm lúa sẽ lốp đổ, sâu bệnh nhiều,
hạt lép (Nguyễn Thị Lẫm, 1994) [37].
Trong cây lúa, tính theo chất khô, tỉ lệ kali nguyên chất (K
2
O) chiếm
khoảng 0,6-1,2% trong rơm rạ khoảng 0,3-0,45% trong hạt gạo. Khác với
đạm và lân, kali không tham gia vào thành phần bất kỳ một hợp chất hữu cơ
nào mà chỉ tồn tại dưới dạng ion trong dịch bào và một phần nhỏ kết hợp với
chất hữu cơ trong tế bào chất của cây lúa. Cũng như đạm, lân và kali chiếm tỷ
lệ cao hơn tại các cơ quan non của cây lúa. Kali tồn tại dưới dạng ion nên nhờ
vậy mà kali có thể len lỏi vào giữa các bào quan, xúc tiến quá trình vận
chuyển dinh dưỡng, giúp cây lúa tăng cường hô hấp. Kali còn thúc đẩy tổng
hợp protit, do vậy nó hạn chế việc tích luỹ nitrat trong lá, hạn chế tác hại của
việc bón thừa đạm cho lúa. Ngoài ra kali còn giúp bộ rễ tăng khả năng hút
nước và cây không bị mất nước quá mức ngay cả trong lúc gặp khô hạn. Kali

làm tăng khả năng chống hạn và chống rét cho cây lúa.
Cây lúa được bón đầy đủ kali sẽ phát triển cứng cáp, không bị ngã đổ,
chịu hạn và chịu rét tốt. Cây lúa thiếu kali lá có màu lục tối, mép lá có màu
nâu hơi vàng. Thiếu kali nghiêm trọng trên đỉnh lá có vết hoại tử mầu nâu tối
trong khi các lá già phía dưới thường có vết bệnh tiêm lửa. Khi tỷ lệ kali trong
cây giảm xuống chỉ bằng 1/2-1/3 so bình thường thì mới thấy xuất hiện triệu
chứng thiếu kali trên lá, cho nên khi triệu chứng xuất hiện thì năng suất đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

5
giảm nên việc bón kali không thể bù đắp được. Do vậy không nên đợi đến lúc
xuất hiện triệu chứng thiếu kali rồi mới bón bổ xung cho cây. Trong sản xuất,
khi bón phân kali cho lúa, lượng kali clorua bao giờ cũng ít nhất trong 3 loại
phân bón chính và thường sử dụng để bón thúc cùng với phân đạm.
1.2. Tình hình nghiên cứu về cây lúa trên thế giới
Lúa là cây lương thực chủ yếu trên thế giới và Châu Á là cái nôi của
nghề trồng lúa trên thế giới. Việt Nam là một nước nông nghiệp sản xuất lúa
gắn liền với sự phát triển nông nghiệp. Theo tài liệu khảo cổ học cho thấy lúa
được trồng ở nước ta từ 3000 - 2000 năm trước công nguyên. Nước ta nằm
trong vùng nhiệt đới nóng ẩm, lượng bức xạ mặt trời cao và đất đai phù hợp,
nên có thể trồng được nhiều vụ lúa trong năm và với nhiều giống lúa khác
nhau. Một điểm nổi bật trong nghề trồng lúa ở nước ta là áp dụng nhanh nhất
những tiến bộ kỹ thuật về giống, phân bón, phòng trừ tổng hợp, tưới tiêu hợp
lý và các biện pháp kỹ thuật khác. Nhờ vậy, trong thời gian vừa qua hàng loạt
các giống mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, có khả năng chống chịu với
điều kiện bất lợi, thích hợp với điều kiện tự nhiên và khả năng thâm canh của
từng vùng đã được công nhận và gieo cấy trong sản xuất. Việc kết hợp gieo
cấy với các giống mới chọn tạo trong nước với việc tuyển chọn các giống từ
nước ngoài của IRRI, Trung Quốc… đã tạo ra những triển vọng to lớn trong

ngành trồng lúa của Việt Nam đặc biệt là các giống lúa lai.
Như vậy, cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp, việc
áp dụng các biện pháp kỹ thuật đã làm cho sản xuất lương thực ở Việt Nam
những năm gần đây đạt được những thành tựu to lớn và ổn định. Mặc dù bình
quân ruộng đất trên đầu người giảm nhưng bình quân lương thực trên đầu
người lại tăng. Năm 1994 là 359 kg/người/năm thì năm 2009 đạt 513
kg/người/năm. Hiện nay lúa vẫn là cây lương thực quan trọng nhất của nước
ta, cây lúa cung cấp 85-87% tổng sản lượng lương thực trong nước. Trong
những năm gần đây diện tích cây lúa không tăng nhưng năng suất lúa được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

6
cải thiện đáng kể và sản lượng lúa không ngừng tăng lên từ 24,9 triệu tấn thóc
năm 1995 đến năm 2009 đạt 38,9 triệu tấn. Do bước nhảy vọt về sản xuất lúa
trong thập kỷ vừa qua mà Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng
thứ hai trên thế giới. Năm 1989 là năm đầu tiên chúng ta xuất khẩu gạo được
1,42 triệu tấn. Từ năm 1999 đến năm 2004 chúng ta luôn đạt mức xuất khẩu
gạo trên dưới 4 triệu tấn và năm 2009 là chúng ta có số lượng suất khẩu gạo
cao đạt 6 triệu tấn.
Bảng 1.1. Diện tích, năng suất và sản lƣợng lúa của Việt Nam
những năm gần đây
Năm
Diện tích
(Nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(Nghìn tấn)
1995

6765.6
36.9
24963.7
1996
7003.8
37.7
26396.7
1997
7099.7
38.8
27523.9
1998
7362.7
39.6
29145.5
1999
7653.6
41.0
31393.8
2000
7666.3
42.4
32529.5
2001
7492.7
42.9
32108.4
2002
7504.3
45.9

34447.2
2003
7452.2
46.4
34568.8
2004
7445.3
48v.6
36148.9
2005
7329.2
48.9
35832.9
2006
7324.8
48.9
35849.5
2007
7207.4
49.9
35942.7
2008
7400.2
52.3
38729.8
2009
7440.1
52.3
38895.5
(Nguồn: tổng cục thống kê năm 2010)


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

7
1.3. Tình hình nghiên cứu đạm, lân và kali cho cây lúa trên thế giới
Từ khi biết trồng trọt và chăn nuôi thì con người đã biết sử dụng phân
bón, đầu tiên từ năm 900 năm trước công nguyên, người La Mã đã biết sử
dụng phân chuồng bón cho ruộng nho.
Người đầu tiên đặt nền móng cho sản xuất phân bón hoá học là Liebig
(Justusvon). Năm 1840, Liebig đã cho ra đời tác phẩm “Hoá học đối với nông
nghiệp và sinh lý thực vật” (Vũ Hữu Yêm, 1995) [54]. Với tác phẩm này ông
đã khẳng định rằng: tất cả các cây đều được nuôi dưỡng bằng các nguyên tố
vô cơ hay nguyên tố khoáng, phân bón không tác động trực tiếp đến cây qua
các chất hữu cơ trong phân bón mà gián tiếp đến cây qua các chất hữu cơ
trong phân bón mà gián tiếp qua các sản phẩm phân giải của chất hữu cơ. Với
công trình nghiên cứu của mình, Liebig đã đưa lại một bước tiến kỳ diệu cho
nông nghiệp, qua đó đã tạo cho sự tăng trưởng mạnh mẽ về sản xuất phân bón
hoá học ở Tây Âu và Bắc Mỹ trong nửa đầu thế kỷ XX cho đến những năm
60. Mức sản xuất phân bón năm 1905 của toàn thế giới chỉ có 1,9 triệu tấn
dinh dưỡng (N,P,K), đến năm 1939 lên 9,2 triệu tấn (tăng 384%), bình quân
mỗi năm tăng 11%. Do chiến tranh, mức sản xuất phân bón thế giới sản xuất
1946 chỉ có 7,5 triệu tấn dinh dưỡng. Đến năm 1961 là 30,9 triệu tấn chất
dinh dưỡng (tăng 312%), bình quân mỗi năm tăng là 20,8%. Thập kỷ 60, từ
năm 1961 đến 1971 cũng còn tăng bình quân mỗi năm được 13,7% (Vũ Hữu
Yêm, 1995) [54]. Vì những thành tựu hoá học to lớn đó con người đã lạm
dụng quá mức về phân bón hoá học, do đó đã để lại những hậu quả nghiêm
trọng đe doạ môi trường sống bị ô nhiễm và làm suy giảm sức khoẻ của con
người ở các nước công nghiệp phát triển. Nông nghiệp hoá học vì thế mà
được xem lại và nông nghiệp sinh học ra đời. Tuy nhiên, với điều kiện hiện
nay, dân số ngày càng tăng, nguồn lương thực sản xuất ra có hạn, nhất là các

nước chậm phát triển và đang phát triển, nền nông nghiệp hoá học vẫn không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

8
thể thiếu, vấn đề là sử dụng thế nào để có thể đưa đến một nền nông nghiệp
bền vững cải thiện và duy trì độ phì nhiêu của đất qua việc sử dụng hợp lý và
phân phối nguồn dinh dưỡng hữu cơ và phân bón hoá học trong hệ thống dinh
dưỡng cây trồng tổng hợp.
1.3.1. Nghiên cứu về đạm cho cây lúa trên thế giới
Trong 3 yếu tố phân bón chính (đạm, lân, kali) thì phân đạm là yếu tố
hàng đầu được nhiều nhà khoa học quan tâm nhất, nó cũng là yếu tố tăng
năng suất nhanh nhất nhưng lại gây ô nhiễm môi trường nặng nhất.
Các nghiên cứu ở ruộng cao sản của Philippin cho thấy với giống lúa
IR36 sản lượng là 9,8 tấn hạt/ha và 8,3 tấn rơm/ha thì lượng đạm có trong
rơm rạ là 7,6 kg/tấn thóc (SK.De Datta, 1989) tổng số là 22,2 kg N/tấn thóc
(Hoàng Minh Châu, 1998) [10]. Nói chung ở các ruộng cao sản với năng suất
lúa là 5 tấn/ha thì có lấy đi từ đất với lượng đạm là 110 kg N (trích từ bản
dịch của Hoàng Minh Châu, 1998) [10]. Theo De Datta và Buresh (1989) [58]
thì bón đạm urê vào đất, cây lúa sử dụng rất ít do tỷ lệ mất đạm lớn ở thể bay
hơi NH
3
.
Vlek và Byrnes (1996) [67] cho rằng cây lúa chỉ sử dụng được từ 20 -
40% lượng phân bón đạm bón vào đất. Do vậy mặc dù cây lúa được bón một
lượng đạm khoáng khá lớn, lượng sử dụng đạm từ đất vẫn chiếm khoảng 50-
80% hoặc còn cao hơn nữa (Koyama, 1981) [61], (Broadlent, 1979) [56].
Phần lớn lượng đạm cung cấp cho cây lúa từ đất được khoáng hoá từ các hợp
chất hữu cơ. Quá trình và tốc độ khoáng hoá chất hữu cơ chịu ảnh hưởng bởi
nhiệt độ, độ ẩm, chế độ nước, số lượng và chất lượng chất hữu cơ, tỷ lệ cấp

hạt sét và nhiều yếu tố khác (Broadlent, 1979) [56].
Nghiên cứu của Hung (2006) [59] thực hiện năm 2003 và năm 2004
trên 4 giống lúa ở Hàn Quốc cho kết quả: Thời kỳ đẻ nhánh có hệ số sử dụng
phân đạm rất thấp, chỉ đạt từ 24,4% (công thức bón 72N) đến 33,1% (công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

9
thức bón 36N), hiệu suất sử dụng đạm chỉ đạt 11,1 - 13,1 kg thóc/kg N, thấp
hơn cả bón đạm trước khi cấy (hệ số sử dụng đạm là 41,5%; hiệu suất sử dụng
đạm là 23,3 kg thóc/kg N). Bón đạm vào thời kỳ làm đòng có hệ số sử dụng
đạm cao nhất là 65,8% (công thức bón 72N) đến 76,1% (công thức bón 36N),
hiệu suất sử dụng đạm là 21,9 - 32,5 kg thóc/kgN.
Tuy vậy, trong đất luôn luôn xảy ra hai quá trình thuận nghịch là
khoáng hoá các hợp chất hữu cơ có chứa đạm và cố định các dạng đạm vô cơ
dưới dạng hữu cơ cây trồng khó hấp thụ. Lượng đạm khoáng bị cố định ở hữu
cơ có thể lên đến 34g N/1kg C ở rễ và gốc lúa.
1.3.2. Nghiên cứu về lân cho cây lúa trên thế giới
Yếu tố quan trọng sau đạm là lân, đây cũng là yếu tố được nhiều nhà
khoa học đặc biệt quan tâm. Đối với lân, các nghiên cứu ở ruộng cao sản ở
Philippin với giống IR36, sản lượng là 9,8 tấn/ha và 8,3 tấn rơm/ha thì hàm
lượng lân có trong rơm là 1,1 kg P
2
O
5
(SK.DC Datta, 1989 - trích dẫn theo
bản dịch của Hoàng Minh Châu, 1998) [10].
Như vậy, cây lúa cần một lượng lân rất thấp so với đạm, dễ hiểu ở một
số giai đoạn nhất định, một số nước người ta không thấy rõ hiệu lực của phân
lân bón cho lúa nhất là hiệu lực supe lân (A 1958 Angladette, R.P.

Bazthlomew, E.1958 Shapiro, R.H Walliamion và CTV 1959 vv…Trích dẫn
theo Lê Văn Căn, 1974) [9].
Jack, D.H.Grist (1958) cho rằng: một vụ thu hoạch lúa 31,7 tạ lấy đi
của đất 27,5 kg N, 2,8 kg P
2
O
5
và 67,5 kg K
2
O trong rơm rạ và 47,5 kg N;
10,7 kg P
2
O
5
và 11,2 kg K
2
O trong thóc. Như vậy là: một vụ lúa, thu hoạch
hơn 30 tạ thóc mà chỉ lấy của đất có 13,5 kg P
2
O
5
(mỗi tấn thóc thu hoạch chỉ
cần khoảng 4kg P
2
O
5
) nên có thể quan niệm được là bón phân lân vào đất
không có hiệu lực lắm (Lê Văn Căn, 1974) [9].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


10
Đối với đất nhiệt đới giàu sắt nhôm, nhiều tác giả đã nhận định phân
supe lân bón vào ruộng lúa sẽ chuyển thành những dạng nhôm phosphat rất
khó hoà tan, cho nên cây lúa không được mạnh mẽ và do sự thu hút supe lân
bị trì hoãn (E.lapitan 1904, Lefeme, N.1964 M.O.Ghani và M.Aislam
1946.Y.Coyand 1950, M.Malyc 1952 vv…Trích dẫn theo Lê Văn Căn
(1974) [9].
Tuy nhiên một số nghiên cứu khác lại cho rằng bón lân có hiệu quả rất
cao: ở Thái Lan, theo A.Angladette (1960) đối với đất lúa thì giữa supe lân và
dicanxi phosphate bón với liều lượng 37,8 kg P
2
O
5
/ha, hiệu quả hoàn toàn
như nhau, làm tăng năng suất được 28% so với đối chứng. Qua năm thứ 2,
hiệu lực còn lại làm tăng năng suất được 60% của bội thu năm thứ nhất. Theo
tài liệu của Owen (1953) do I.Nagai (1959) ghi lại, thì đất lúa Thái Lan hiệu
lực phân lân thể hiện mạnh mẽ ở hầu hết các nơi. Những loại phân khác bón
vào nếu không phối hợp với lân thì không có tác dụng, ở trại thí nghiệm
Trung ương Bankhen, chỉ bón đơn thuần supe lân đã tăng được 1,5 - 2,5 tấn
thóc/ha. Bón phân phối hợp với phân đạm lại còn tăng hơn nữa, chỉ bón đạm
bội thu rất thấp có khi năng suất không tăng (trích dẫn theo Lê Văn Căn,
1974) [9].
Ở Miến Điện, theo tài liệu của D.H.Grist (1958) trên đất ruộng lúa phân
đạm và phân lân có hiệu lực. Theo A.Angladette (1960) hiệu lực phân supe
lân bón cho lúa ở Miến Điện thể hiện không được mạnh ở vụ đầu nhưng qua
vụ sau bội thu được khá lớn, nhất là ở những chân đất thuộc khoáng sét
Montmoritonit. Hiệu lực của phân lân có thể được kéo dài tới 10 vụ. Đối với
những chân đất pH = 6 thì người ta thường bón với lượng phân khá cao để có

thể bội thu ngay vụ đầu. Những loại phân lân sử dụng rộng rãi ở Miến Điện
có thể bón cho lúa là Amofoot, supe lân và Nixifot (trích dẫn theo Lê Văn
Căn, 1974) [9].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

11
Theo các báo cáo tại hội nghị thực phẩm Quốc tế, loại phân lân sử dụng
phổ biến nhất ở Indonexia là supe lân kép. Thường bón 1 tạ supe lân kép, bội
thu lúa từ 600-1200kg/ha, 1kgP
2
O
5
làm bội thu từ 20-25 kg thóc. Theo tài liệu
của Y.Hoffmando Coyand (1950), ở những chân đất nghèo lân của một số
vùng thuộc java, hiệu lực supe lân kép có khả năng bội thu đến 10 tạ thóc,
lượng supe lân kép thích hợp nhất với đa số chân ruộng vào khoảng 75-100kg
P
2
O
5
/ha. Một số chân ruộng đặc biệt cần thiết có thể bón 200kg P
2
O
5
/ha [9].
Đặc biệt những nghiên cứu mới đây ở Ấn Độ cho thấy bón khoảng
60 kg P
2
O

5
/ha có thể tăng sản lượng lúa trung bình 0,5 - 0,7 tạ/ha đối với
những vùng đất hay bị khô hạn thì việc bón lân là đặc biệt cần thiết [10].
Trong điều kiện thâm canh hiện nay, việc bón phân lân lại càng hết sức cần
thiết để cây lúa sử dụng đạm tốt hơn tránh thừa đạm, bảo vệ môi trường và
sức khoẻ con người.
Sempen (1969) [9] cho rằng nếu dùng phân lân thích đáng sẽ tăng hệ số
sử dụng của cây trồng.
Nghiên cứu ở Liên Xô trước đây cho thấy đất có hàm lượng hữu cơ cao
thì càng phải bón nhiều lân. Như vậy thì đạm lân mới cân đối.
Giáo sư Dusetkin (1956) đã giải thích khi bón lân vào đất sẽ có hiện
tượng cố định lân dưới dạng hữu cơ [9]. Lân hữu cơ trong đất không có khả
năng cung cấp trực tiếp cho cây trồng mà nó chỉ trở nên hữu dụng khi đã được
khoáng hoá. Trong điều kiện ngập nước, do tốc độ giải phóng lân hàng năm từ
nguồn gốc hữu cơ trong đất chỉ đạt khoảng từ 2-4% tổng số lân hữu cơ cho nên
hữu cơ không phải là nguồn dinh dưỡng lân đối với cây trồng [65]. Quá trình
phân huỷ chất hữu cơ xảy ra với sự tham gia của các vi sinh vật đất. Tỷ số C/P
là một trong những chỉ tiêu quan trọng quyết định khả năng giải phóng lân từ
các nguồn này, vì các vi sinh vật phân giải chất hữu cơ sẽ lấy lân từ dung dịch
đất và gây hiệu quả tăng lượng lân cố định thay vì giải phóng lân [63].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

12
Như vậy hiệu lực bón phân lân có thể sẽ đặc biệt cao ở ruộng chân núi
của ta là do sự mất cân đối giữa lân và đạm. Mặt khác, cũng do phần lớn lân ở
dạng hữu cơ gây nên có khả năng đói lân trầm trọng.
Theo Chang, Jackson (1975) [43], lân khoáng trong đất có thể chia làm
4 nhóm chính gồm phosphate canxi (Ca-P), phosphate sắt (Fe-P) và phosphate
không tan bị giữ chặt giữa các khoáng sắt nhôm (RS-P). Để giải phóng lân

trong PS-P phải dùng chất khử rất mạnh mới phá bỏ được các lớp áo bọc
ngoài. Do trong thực tế, nhóm RS-P đóng góp rất ít trong việc cung cấp chất
dinh dưỡng lân cho cây trồng, hơn nữa do thủ tục phân tích lại phức tạp cho
nên người ta chỉ quan tâm nhiều đến 3 nhóm phosphate khoáng đầu. Mức độ
phong hoá là yếu tố quan trọng nhất chi phối sự phân bố các nhóm lân trong
đất. Ngược lại trong đất kiềm thì các phosphats Ca-P lại chiếm ưu thế trong
đất. Trong đất Fe-P tồn tại chủ yếu dưới dạng variscit (ALPO
4
. 2H
2
O) và một
phần dưới dạng wavelit (AL
3
(OH)
3
(PO
4
).2H
2
O); các phosphat canxi tồn tại
chủ yếu dưới dạng photphat có độ hoà tan rất khác nhau trong việc cung câp
dinh dưỡng lân cho cây trồng [62].
1.3.3. Nghiên cứu về kali cho cây lúa trên thế giới
Yếu tố tiếp theo được các khoa học nghiên cứu rất nhiều đó là yếu tố
kali. Theo các nghiên cứu của Philippin đối với ruộng lúa cao sản IR36, sản
lượng 9,8 tấn thóc/ha và 8,3 tấn rơm/ha thì hàm lượng kali chứa trong rơm rạ
khi thu 1 tấn thóc là 28,4 kg, hàm lượng kali chứa trong hạt khi thu 1 tấn thóc
là 3,2 kg. Như vậy tổng lượng kali trong rơm và hạt thóc là 31,6 kg/tấn hạt.
Đối với ruộng cao sản nói chung với sản lượng là 5 tấn thóc/ha. Có thể lấy đi
từ đất khoáng 156 kg K

2
O. So với lượng đạm và lân do cây lấy đi thì lượng
kali là cao nhất. Tuy nhiên, hàm lượng này hầu hết là ở thân lá, rơm rạ. Vì
vậy nếu chỉ thu hạt và trả lại rơm rạ cho đất thì hàm lượng kali lấy đi là rất
thấp (chỉ 3,2 kg/1 tấn thóc). Trong khi đó đạm, lân vẫn bị mất một lượng đáng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

13
kể (SK.DC Datta, 1989 - trích dẫn theo bản dịch của Hoàng Minh Châu,
1998) [10].
Ở Ấn Độ đã có khuyến cáo đối với việc dùng kali của các bảng như
sau: Các nghiên cứu ở Ấn Độ cho thấy khi bón kali bón vào mùa khô có hiệu
quả hơn mùa mưa. Cùng một cánh đồng canh tác, hiệu quả kali thu được
trong mùa khô là 10 kg thóc/kg K
2
O, trong mùa mưa là 8 kg/ kg K
2
O [10].
Mặc dù hàm lượng kali cây trồng lấy trong đất là không lớn lắm khi con
người trả lại rơm rạ cho đất.
Tuy nhiên, nếu canh tác liên tục nhiều năm mà không bón kali hợp lý
thì đất cũng sẽ bị thiếu kali. Theo Brinkman và CTV, 1985 thì mặc dù hàm
lượng kali trong đất có cao thì sự thâm canh 2-3 vụ lúa trong năm hơn 20
năm, cùng với việc bón phân đạm cao, ít bón hoặc không bón kali và việc lấy
đi không hoàn trả lại rơm rạ cho đất có thể làm giảm lượng kali dễ tiêu và kali
không trao đổi trong đất đến mức hạn [55]. Kết quả nghiên cứu ở nhiều nước
cho thấy có sự thấy có sự đáp ứng với phân kali (Kemler, 1980) [60]. Reyes
(1961) [64] cho rằng khả năng cung cấp kali của đất có thể được đánh giá
thông qua sự hấp thụ của cây trồng qua nhiều vụ. Thật vậy các yếu tố đạm,

lân, kali sẽ có hiệu lực cao, tránh được ô nhiễm môi trường do bón phân cân
đối theo nhu cầu của cây trồng.
1.4. Tình hình nghiên cứu về sử dụng phân đạm, lân và kali cho cây lúa ở
Việt Nam
Ở Việt Nam, các yếu tố đạm, lân, kali cũng được các nhà nghiên cứu
đặc biệt quan tâm. Nhất là từ sau năm 1954, những nhà nghiên cứu đi đầu
trong lĩnh vực này là Lê Văn Căn (1974) [9], Đỗ Ánh, Bùi Đình Dinh (1992)
[1], Lê Văn Tiềm (1974) [50], Nguyễn Vy, Trần Khải (1974) [52].
Cũng như ở nước ngoài, ở Việt Nam việc sử dụng phân hoá học đã đưa
năng suất cây trồng của chúng ta tăng nhanh vượt bậc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

14
Bùi Đình Dinh (1999) [18] có nhận xét: ở Việt Nam trước năm 1955
nông dân chưa sử dụng phân hoá học để bón cho lúa, mà chỉ bón khoảng 5-6
tấn hữu cơ/ha với giống lúa cũ, năng suất chỉ đạt trên dưới 2 tấn/ha. Theo
thống kê từ năm 1990 trở lại đây nhờ có giống lúa mới mà áp dụng đồng bộ
các kỹ thuật canh tác, trong đó việc sử dụng phân bón hoá học tăng nhanh,
bình quân bón 127 kg NPK nguyên chất, năng suất đạt 3,9 tấn/ha, tổng số
lượng đạt 30 triệu tấn. Trong đó bình quân phân hữu cơ cũng chỉ bón trên
dưới 6 tấn/ha chiếm khoảng 30% trong tổng lượng dinh dưỡng bón.
Từ kết quả nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm trong sản xuất năm
1997, Bùi Đình Dinh [17] đã ước tính ở Việt Nam phân bón đóng góp vào
việc tăng tổng sản lượng từ 38-40%, trong đó phân hoá học khoảng 28-30%.
Cứ sử dụng 1 tấn NPK nguyên chất sẽ thu được 10 tấn thóc trong thí nghiệm,
13 tấn thóc trong mô hình 1998, Nguyễn Văn Bộ [6] kết luận ở miền Bắc với
lúa xuân, phân bón đóng góp khoảng 36,78%, lúa mùa khoảng 21%. Nguyễn
Văn Luật, 1998 [40] cũng đánh giá ở đồng bằng sông Cửu Long phân bón
đóng góp khoảng 37%, trong đó phân vô cơ đóng góp khoảng 33%.

Cây trồng hàng vụ, hàng năm lấy đi từ đất hàng triệu tấn nitơ, phốtpho,
kali và các nguyên tố trung, vi lượng khác. Bùi Đình Dinh, 1998 [17] ước tính
8 loại cây trồng chính (lúa, ngô, khoai lang, sắn, mía, đậu tương, lạc) trong
năm 1993 đã lấy đi khoảng 2 triệu tấn NPK nguyên chất.
Việc bù đắp các yếu tố cây trồng bị lấy đi hàng năm, duy trì độ phì
nhiêu của đất là hết sức cần thiết. Theo sự tính toán tổng toán tổng hợp lượng
dinh dưỡng từ phân hữu cơ (phân chuồng, phân xanh, phân sinh học, rơm rạ)
sử dụng trong nông nghiệp cũng chỉ đạt 20% N, 30% P, 58% K cần cho cây
trồng (Bùi Đình Dinh, 1995) [16]. Tuy vậy, nếu sử dụng phân bón hoá học
không hợp lý sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư, lãng phí gây và ô nhiễm môi
trường, độc hại cho sức khoẻ của con người. Kết quả nghiên cứu về hiệu lực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

15
phân khoáng của viện Thổ nhưỡng Nông hoá cho thấy nếu bón đạm không
kèm bón phân lân thì hiệu quả đầu tư giảm.
1.4.1. Những nghiên cứu về bón phân đạm cho cây lúa ở Việt Nam
Trong 3 loại phân bón trên thì phân đạm cũng là loại phân được đưa
vào Việt Nam sớm nhất. Phân đạm có vai trò làm tăng năng suất và sản lượng
lúa ở Việt Nam. Hơn 2/3 lượng phân đạm ở Việt Nam sử dụng cho bón lúa
(Trần Thúc Sơn, 1996) [46].
Theo Ngô Ngọc Hưng, 2004 [35] đạm amon trong nước ruộng được
đưa vào Việt Nam sớm nhất. Phân đạm có vai trò quan trọng trong việc làm
tăng năng suất và sản lượng lúa ở Việt Nam. Hơn 2/3 lượng phân đạm ở Việt
Nam sử dụng cho bón lúa (Trần Thúc Sơn) [46].
Đạm amon trong nước ruộng được tạo ra từ sự thuỷ phân urê có thể tồn
tại đến 6-7 ngày sau khi bón urê. Thời gian mà lượng đạm tồn tại sau các đợt
bón urê này cần được quan tâm sự việc rửa trôi hoặc chảy tràn trong thời gian
này sẽ làm thất thoát phân đạm, đặc biệt trong vụ hè thu, mưa nhiều [35].

Đạm amon trong nước ruộng được tạo ra từ đạm trong đất lúa bị mất chủ yếu
thông qua quá trình bay hơi, các giải pháp về vùi sâu viên to, sử dụng chất ức
chế cũng như thang mầu lá đã được đề suất [28].
Theo Hoàng Thị Minh, R.Schaefer, 2006 [41], sự tích luỹ đạm khoáng
trong quá trình phân giải hữu cơ không có sự khác biệt rõ các chất hữu cơ
thêm vào. NO
3
được tích luỹ nhiều hơn NH
4
+
. Nhiệt độ, độ ẩm có liên quan
đến sự tích luỹ đạm khoáng.
Tăng liều lượng đạm (0-150 kg/ha) đã làm tăng số dảnh và tăng lượng
đạm tích luỹ trong cây lúa. Lượng tăng này rõ hơn khi bón đạm với phân
chuồng và tăng liều lượng bón lân (Trần Thúc Sơn, 1996) [46].
Theo Phạm Tiến Hoàng, Trần Thúc Sơn, Phạm Quang Hà (1996) [23],
trên đất bạc màu với nền P
60
K
60
thì lượng đạm khoáng thích hợp để đạt năng
suất cao và có hiệu quả kinh tế là N90 - 120; tỷ lệ NPK thích hợp là 1:0,5:0,5.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

16
Tuy nhiên, khi bón với lượng đạm quá cao thì năng suất chẳng những
không tăng lên, thậm chí còn giảm xuống. Kết quả nghiên cứu cho thấy, với
đất phù sa sông Hồng khi bón lượng đạm từ 80-100 kg N/ha thì hiệu suất 1
kgN là 10 - 15 kg thóc ở vụ xuân và 6 - 9 kg ở vụ mùa. Nếu bón trên 160 kg

N/ha thì hiệu suất đạm giảm rõ rệt.
Trên đất bạc mầu, khi bón lượng đạm từ 40-80 kg N/ha hiệu suất 1 kg
N là 10 - 13,5 kg thóc ở vụ mùa, bón trên 120 kg N/ha hiệu suất giảm xuống
còn 5-6 kg thóc/1kg N (Phạm Tiến Hoàng, Trần Thúc Sơn, Phạm Quang Hà,
1996) [31].
1.4.2. Những nghiên cứu về phân lân ở Việt Nam
Yếu tố đứng thứ hai sau đạm và là yếu tố được nhiều nhà nghiên cứu
của Việt Nam quan tâm nhất đó là lân. Trước năm 1954, phân lân được sử
dụng ở nước ta là bột photphorit, tuy nhiên nó cũng chỉ mới được khai thác và
sử dụng ở một số vùng. Việc nghiên cứu về lân được thực hiện nhiều nhất chỉ
sau khi thành lập các nhà máy sản xuất supe phosphate và tecmo phosphate
(1960-1961).
Theo Bùi Đình Dinh (1999) [19] thì quá trình nghiên cứu và sử dụng
phân lân ở Việt Nam được chia ra làm 3 thời kỳ và chủ yếu tập chung cho lúa.
* Giai đoạn 1960-1970: trong giai đoạn này, các giống lúa mới đã thay
dần các giống lúa cũ trên nhiều vùng đất, kể cả trên đất có vấn đề. Các giống
lúa thấp cây Chiêm bầu, Chiêm tép… các thí nghiệm về hiệu lực phân supe
phosphate và tecmo phosphate bón với liều lượng lân trong đất còn cao, nhu
cầu dinh dưỡng N, P, K của cây lúa giống cũ còn thấp, do đó đất cũng cung
cấp đầy đủ cho lúa.
* Giai đoạn 1970 - 1990: trong giai đoạn này, các giống lúa mới đã
thay dần các giống lúa cũ trên nhiều vùng đất, kể cả trên các đất có vấn đề.
Các giống lúa mới thấp cây, năng suất cao (CR203, NN8 …) nhu cầu dinh

×