Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

nghiên cứu ảnh hưởng của phân hữu cơ vi sinh chế biến từ phụ phẩm nông nghiệp đến sinh trưởng và chất lượng của giống chè ldp2 tuổi 5 tại khải xuân - thanh ba - phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.5 KB, 110 trang )



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NGUYỄN THỊ KIỀU NGỌC









NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA PHÂN HỮU CƠ VI SINH
CHẾ BIẾN TỪ PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP
ĐẾN SINH TRƢỞNG VÀ CHẤT LƢỢNG CỦA CHÈ LDP
2
TUỔI 5
TẠI KHẢI XUÂN - THANH BA - PHÚ THỌ


Chuyên ngành: Trồng trọt
Mã số: 60.62.01





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP








Thái Nguyên - năm 2011
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NGUYỄN THỊ KIỀU NGỌC









NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA PHÂN HỮU CƠ VI SINH

CHẾ BIẾN TỪ PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP
ĐẾN SINH TRƢỞNG VÀ CHẤT LƢỢNG CỦA CHÈ LDP
2
TUỔI 5
TẠI KHẢI XUÂN - THANH BA - PHÚ THỌ


Chuyên ngành: Trồng trọt
Mã số: 60.62.01




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP













Thái Nguyên - năm 2011




Thái Nguyên - Năm 2011


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn của tôi là
hoàn toàn trung thực và chƣa từng đƣợc sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự
giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn này đều đã đƣợc cảm ơn. Các thông tin trích
dẫn và tài liệu trong luận văn đều đã đƣợc chỉ rõ nguồn gốc./








Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Kiều Ngọc

























Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ nhiệt tình của
các thầy cô giáo giảng dạy, cô giáo hƣớng dẫn khoa học, đƣợc sự giúp đỡ của
các cơ quan, tập thể, cá nhân và nhân dân địa phƣơng nơi thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và kính trọng đến:
TS. Nguyễn Thị Ngọc Bình - Phó trƣởng bộ môn Nông Lâm kết hợp -
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc
Đảng ủy - UBND xã Khải Xuân - Thanh Ba - Phú Thọ

Gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và
thực hiện đề tài.


Thái Nguyên, tháng 11 năm 2011

Tác giả luận văn






Nguyễn Thị Kiều Ngọc


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

MỤC LỤC
Danh mục bảng biểu…………………………………………………………… i
Danh mục các chữ viết tắt………………………………………………………… iv
MỞ ĐẦU 6
1.Tính cấp thiết của đề tài 6
2. Mục đích - yêu cầu của đề tài 7
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 7
PHẦN 1:TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 9
2.1. Cơ sở khoa học xác định biện pháp kỹ bón phân hữu cơ vi sinh cho chè 9
2.2. Tình hình nghiên cứu phân hữu cơ vi sinh đến cây chè trên thế giới và ở Việt
Nam……………………………………………………………………………… 11
PHẦN 2:VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19

2.1. Vật liệu nghiên cứu 19
2.2. Phạm vi nghiên cứu 19
2.3. Nội dung nghiên cứu 19
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu 19
PHẦN 3:KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 26
3.1.Nghiên cứu ảnh hƣởng của phân hữu cơ vi sinh phối hợp với các mức đạm khác
nhau đến sinh trƣởng và chất lƣợng của chè LDP
2
tuổi 5 26
3.1.1. Ảnh hƣởng của bón phân HCVS phối hợp với các mức đạm khác nhau đến
động thái sinh trƣởng chiều cao cây và chiều rộng tán chè 26
3.1.2. Ảnh hƣởng của việc bón phân HCVS phối hợp với các mức đạm khác nhau
đến một số chỉ tiêu sinh trƣởng, các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất chè 27
3.1.3. Ảnh hƣởng của việc bón phân HCVS phối hợp với các mức đạm khác nhau
đến tỷ lệ mù xòe, chất lƣợng nguyên liệu chè 32
3.1.4. Ảnh hƣởng của việc bón phân HCVS phối hợp với các mức đạm khác nhau
đến chất lƣợng chè: chất lƣợng sinh hóa, chất lƣợng cảm quan 34
3.1.5. Ảnh hƣởng của bón phân HCVS phối hợp với các mức đạm khác nhau đến
sâu bệnh hại chè 37


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

3.1.6. Hiệu quả kinh tế 40
3.2. Thí nghiệm 2 42
3.2.1. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân khác nhau đến động thái sinh trƣởng
của cây chè 42
3.2.2. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân khác nhau đến một số chỉ tiêu sinh
trƣởng, các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất chè 43
3.2.3. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân khác nhau đến lý tính, hóa tính và vi

sinh vật đất trƣớc và sau khi tiến hành thí nghiệm 47
3.2.4. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân khác nhau đến tỷ lệ mù xòe, chất
lƣợng nguyên liệu chè 52
3.2.5. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân khác nhau đến chất lƣợng chè: chất
lƣợng sinh hóa, chất lƣợng cảm quan 54
3.2.6. Ảnh hƣởng của các công thức bón phân khác nhau đến sâu bệnh hại chè 56
3.2.7. Hiệu quả kinh tế 60
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 68
1. Kết luận 64
2. Đề nghị 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 66


i

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng
Nội dung
Tr
Bảng 3.1
Ảnh hƣởng của bón phân HCVS phối hợp với các mức đạm
khác nhau đến chiều cao cây chè, chiều rộng tán chè
32
Bảng 3.2
Ảnh hƣởng của việc bón phân HCVS phối hợp với các mức
đạm khác nhau đến động thái tăng trƣởng chiều dài búp chè
33
Bảng 3.3
Ảnh hƣởng của bón phân HCVS phối hợp với các mức đạm

khác nhau đến chiều dài búp, các yếu tố cấu thành năng suất
chè: Mật độ búp, khối lƣợng búp
35
Bảng 3.4
Ảnh hƣởng của việc bón phân HCVS phối hợp với các mức
đạm khác nhau đến chất lƣợng nguyên liệu chè
38
Bảng 3.5
Ảnh hƣởng của việc bón các mức đạm khác nhau phối hợp
với phân HCVS đến chất lƣợng sinh hóa của chè
40
Bảng 3.6
Ảnh hƣởng của việc bón phân HCVS phối hợp với các mức
đạm khác nhau đến kết quả thử nếm cảm quan
42
Bảng 3.7
Ảnh hƣởng của bón phân HCVS phối hợp với các mức đạm
khác nhau đến sâu bệnh hại chè
43
Bảng 3.8
Ảnh hƣởng của việc bón phân HCVS phối hợp với các mức
đạm khác nhau đến hiệu quả kinh tế của các công thức bón
phân
46
Bảng 3.9
Ảnh hƣởng của các công thức bón phân khác nhau đến
chiều cao cây và chiều rộng tán chè
48
Bảng 3.10
Ảnh hƣởng của các công thức bón phân khác nhau đếnđộng

thái sinh trƣởng búp chè sau bật mầm
49
Bảng 3.11
Ảnh hƣởng của các công thức bón phân khác nhau đến năng
suất và các yếu tố cấu thành năng suất chè
50
Bảng 3.12
Thành phần hóa học của đất trƣớc và sau khi thí nghiệm
53
ii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

Bảng 3.13
Thành phần lý tính đất trƣớc và sau khi thí nghiệm
55
Bảng 3.14
Hoạt động của vi sinh vật trƣớc và sau khi thí nghiệm
56
Bảng 3.15
Độ ẩm đất qua các tháng ở độ sâu 20cm
57
Bảng 3.16
Ảnh hƣởng của các công thức bón phân khác nhau đên chất
lƣợng nguyên liệu chè
58
Bảng 3.17
Ảnh hƣởng của các công thức bón phân khác nhau đến
thành phần sinh hóa của búp chè
60

Bảng 3.18
Kết quả thử nếm cảm quan chè thành phẩm của các công
thức nghiên cứu
61
Bảng 3.19
Ảnh hƣởng của các công thức bón phân khác nhau đến sâu
bệnh hại
62
Bảng 3.20
Ảnh hƣởng của các công thức bón phân khác nhau đến hiệu
quả kinh tế
66
Hình 3.1
Động thái tăng trƣởng chiều dài búp
34
Hình 3.2
Ảnh hƣởng của việc bón phân HCVS phối hợp với các mức
đạm khác nhau đến chiều dài búp
36
Hình 3.3
Ảnh hƣởng của việc bón phân HCVS phối hợp với các mức
đạm khác nhau đến mật độ búp
36
Hình 3.4
Ảnh hƣởng của việc bón phân HCVS phối hợp với các mức
đạm khác nhau đến năng suất
38
Hình 3.5
Diễn biến gây hại của bọ cánh tơ
44

Hình 3.6
Diễn biến gây hại của bọ xít muỗi
45
Hình 3.7
Diễn biến gây hại của nhện đỏ
45
Hình 3.8
Diễn biến gây hại của rầy xanh
46
Hình 3.9
Động thái tăng trƣởng chiều dài búp
50
iii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

Hình 3.10
Ảnh hƣởng của các công thức bón phân đến chiều dài búp
51
Hình 3.11
Ảnh hƣởng của các công thức bón phân đến mật độ búp
52
Hình 3.12
Ảnh hƣởng của các công thức bón phân đến năng suất
53
Hình 3.13
Diễn biến gây hại của bọ cánh tơ
63
Hình 3.14
Diễn biến gây hại của bọ xít muỗi

64
Hình 3.15
Diễn biến gây hại của nhện đỏ
65
Hình 3.16
Diễn biến gây hại của rầy xanh
66





















iv


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ và cụm từ viết tắt
Viết đầy đủ
ADB
Ngân hàng phát triển Châu Á
CT
Công thức
Cs
Cộng sự
Ctv
Cộng tác viên
Đ/C
Đối chứng
ĐHNN
Đại học Nông nghiệp
Công nghệ EM
Công nghệ vi sinh vật hữu hiệu
HCVS
Hữu cơ vi sinh
KHKT
Khoa học kỹ thuật
Viện KHKT NLN MNPB
Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi
phía Bắc
NN&PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
PHCVSVCN
Phân hữu cơ vi sinh vật chức năng

TCVN
Tiêu chuẩn Việt Nam
VIETGAP
Thực hành sản xuất Nông nghiệp tốt theo tiêu chuẩn
Việt Nam
VSV
Vi sinh vật
TCN
Tiêu chuẩn ngành
1

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam có lịch sử trồng chè lâu đời nhƣng cây chè mới chỉ đƣợc trồng và phát triển
với quy mô lớn từ khoảng 100 năm nay. Với đặc điểm là loại cây công nghiệp dài ngày,
dễ trồng và chăm sóc, nhiệm kỳ kinh tế dài 30 - 40 năm, phù hợp với điều kiện tự nhiên
ở các vùng đất dốc của Việt Nam, do vậy cây chè đã trở thành cây công nghiệp mũi
nhọn, mang lại giá trị kinh tế cao, tham gia vào thị trƣờng xuất khẩu.
Năng suất và chất lƣợng chè phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ: giống, khí hậu, đất
đai, phân bón, kỹ thuật canh tác và công nghệ chế biến. Việc áp dụng tiến bộ kỹ
thuật trong thâm canh chè ở các khâu: chọn tạo đƣa giống năng suất cao vào sản
xuất, chế độ bón phân, áp dụng kỹ thuật hái, kỹ thuật đốn chè đã giúp cho ngành
chè đạt đƣợc sự phát triển nhanh chóng về diện tích, năng suất và sản lƣợng.
Ngày nay, mặc dù phân hoá học đƣợc coi là yếu tố tiên phong trong việc cải tạo
năng suất cây trồng và xu hƣớng sử dụng phân hoá học ngày càng có chiều hƣớng
gia tăng do sử dụng phân hóa học tiết kiệm thời gian và công lao động song phân
hữu cơ vẫn giữ một vai trò quan trọng không thể thay thế trong sản xuất nông
nghiệp nói chung và ngành chè nói riêng, đặc biệt là canh tác chè bền vững. Trong
nền nông nghiệp cổ truyền của các nƣớc trên thế giới cũng nhƣ ở các nƣớc Asian và
ở Việt Nam, phân hữu cơ không chỉ cung cấp dinh dƣỡng cho cây trồng với hàm

lƣợng vốn có của nó mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện các đặc
tính lý hoá học của đất thông qua vai trò của vật chất hữu cơ (Koorevaar và cộng sự,
1983) [3]. Thực tế sản xuất cho thấy, ngƣời trồng chè thƣờng bón phân hữu cơ chủ
yếu là phân chuồng kết hợp với phân vô cơ cho chè ở giai đoạn kiến thiết cơ bản,
trồng mới và chủ yếu sử dụng phân vô cơ cho chè ở các giai đoạn sản xuất kinh
doanh để tiết kiệm thời gian và công lao động, thúc đẩy nhanh quá trình sinh trƣởng
của búp mới, tăng năng suất. Mặc dù đã nhận thức đƣợc vai trò của phân hữu cơ vi
sinh trong việc nâng cao năng suất , cải thiện độ phì của đấ t , song ở Việt Nam cho
đến nay mức độ ứng dụng loại phân bón này còn hết sức hạn chế. Vì vậy, việc tìm
ra các giải pháp thay thế một phần phân hóa học và tận dụng phế phụ phẩm nông
2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

nghiệp tại chỗ đang là một xu hƣớng mới đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Do đó xây dựng quy trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ phế phụ phẩm nông
nghiệp phục vụ sản xuất chè an toàn là một trong những hƣớng nghiên cứu của
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc. Dƣới sự hƣớng dẫn
của Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Bình - Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp
miền núi phía Bắc, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“ Nghiên cứu ảnh hƣởng của phân hữu cơ vi sinh chế biến từ phế phụ
phẩm nông nghiệp đến sinh trƣởng và chất lƣợng của giống chè LDP
2
tuổi 5 tại
Khải Xuân - Thanh Ba - Phú Thọ ”
2. Mục đích - yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích
- Nghiên cứu ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đƣợc sản
xuất từ phụ phẩm nông nghiệp đến sinh trƣởng của cây chè LDP
2

tuổi 5.
- Nâng cao năng suất, phẩm chất chè búp góp phần nâng cao giá trị kinh tế cho
ngƣời trồng chè tại địa phƣơng.
2.2. Yêu cầu
- Đánh giá ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh khác nhau
đến khả năng sinh trƣởng, năng suất của cây chè.
- Đánh giá ảnh hƣởng của các công thức bón phân hữu cơ vi sinh đƣợc sản xuất
từ phụ phẩm nông nghiệp đên chất lƣợng búp chè nguyên liệu và chè thành phẩm.
- Xác định đƣợc diễn biến loài sâu hại chính gây hại trên giống chè LDP
2

- Xác định đƣợc thành phân lý hóa tính của đất trƣớc và sau khi tiến hành thí nghiệm.
- Xác định đƣợc công thức cho hiệu quả kinh tế cao nhất.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Nghiên cứu các biện pháp bón phân hữu cơ vi đƣợc sản xuất từ phụ phẩm nông
nghiệp sẽ là cơ sở khoa học để xác định mức bón phân hữu cơ vi sinh hợp lý cho
giống chè LDP
2
tuổi 5.
3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

- Kết quả nghiên cứu góp phần hoàn thiện quy trình sử dụng phân hữu cơ vi sinh
cho giống chè LDP
2
, phục vụ cho sản xuất chè an toàn tại tỉnh Phú Thọ.
- Kết quả nghiên cứu góp phần củng cố cơ sở khoa học và thực tiễn, phục vụ
canh tác bền vững trên đất dốc, bảo vệ và cải tạo đất.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần đƣa ra giải pháp cải thiện năng suất và chất
lƣợng chè, từ đó nâng cao thu nhập cho ngƣời trồng chè.
- Hƣớng dẫn giúp đỡ các hộ nông dân biết sử dụng nguồn phế phụ phẩm nông
nghiệp tại chỗ làm phân hữu cơ vi sinh, thay thế phân chuồng và một phần phân vô
cơ, tăng độ xốp và cải thiện độ phì cho đất, đảm bảo tăng và ổn định năng suất chè,
khai thác hợp lý và bảo vệ nguồn tài nguyên đất.

















4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

PHẦN 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở khoa học xác định biện pháp kỹ bón phân hữu cơ vi sinh cho chè
1.1.1. Cơ sở khoa học của kỹ thuật bón phân cho chè
Cây chè Việt Nam chủ yếu đƣợc trồng đồi núi có địa hình dốc là chính, nên đất
bị xói mòn lớn, làm trôi lớp đất màu mỡ, nƣớc không đƣợc giữ lại, dẫn đến thiếu
nƣớc trầm trọng trong mùa khô sau đó. Việc lạm dụng phân bón hóa học dẫn đến
chất lƣợng sản phẩm thu đƣợc không cao. Tuy bƣớc đầu đã nhận thức đƣợc vai trò
của phân bón hữu cơ vi sinh trong việc nâng cao năng suất, cải thiện độ phì của đất,
song ở Việt Nam nói chung đặc biệt là khu vực trung du, miền núi Phía Bắc cho đến
nay mức độ ứng dụng loại phân bón này còn hết sức hạn chế. Mặt khác, chè là cây
công nghiệp dài ngày, sản phẩm là búp chè chỉ chiếm 8-13% sinh khối của cây, lại
phải thu hái nhiều lần trong 1 năm, mặt khác năng suất chè của ta chƣa cao, cho nên
so với những cây công nghiệp dài ngày khác nhƣ cà phê, cao su thì nhu cầu dinh
dƣỡng của cây chè không lớn. Với năng suất 2 tấn búp khô trên 1ha/năm, chè lấy đi
từ đất trung bình là 80kg N, 23 kg P
2
O
5
, 48kg K
2
O và 16 kg CaO. Tuy nhiên ngoài
hàm lƣợng búp chè đƣợc hái hàng năm, chè còn đƣợc đốn cành, chặt cây và mang
đi khỏi vƣờn, cho nên tổng lƣợng các chất dinh dƣỡng chè lấy đi khỏi đất là 144 kg
N, 71 kgP
2
O
5
, 62kg K
2
O , 24kg MgO và 40 kg CaO.
Nhƣ vậy, việc bón phân cân đối, đúng tỷ lệ và liều lƣợng làm cho năng suất chè

tăng 14-20%, với hệ số lãi là 2,8-3,9 lần. Bón phân đúng còn làm tăng hàm lƣợng
tanin thêm 2,0-6,5%, chất hoà tan tăng 1,5-3,5% và hƣơng vị chè đƣợc cải thiện.
1.1.2. Vai trò của các nguyên tố dinh dƣỡng đến sinh trƣởng và phát triển của
cây chè
Xu hƣớng sử dụng phân bón cho chè chủ yếu vẫn là 3 nguyên tố đa lƣợng chính
N, P, K. Một số nƣớc còn quan tâm tới 2 nguyên tố bán đa lƣợng là Mg và S. Dạng
phân bón cho chè thƣờng là phân phối hợp theo một số tỷ lệ nhất định, phù hợp điều
5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

kiện đất đai và năng suất búp chè của từng vùng nhằm tăng hiệu suất sử dụng của
từng loại phân bón. Đồng thời bón phân cân đối phần nào có ảnh hƣởng tốt phẩm chất chè.
Vai trò cụ thể của một số nguyên tố dinh dƣỡng đối với chè nhƣ sau:
Đạm (N): là thành phần của chất hữu cơ, diệp lục tố, nguyên sinh chất, axit
nucleic, protein. Đạm giúp tăng chiều cao cây, ra nhiều lá và búp mới, tăng năng suất chè.
Lân (P): là thành phần của phophatides, axit nucleic, protein… quan trọng trong
quá trình trao đổi năng lƣợng và protein. Lân cần thiết cho sự phát triển của bộ rễ,
kích thích chồi mới, tăng khả năng chịu hạn, tăng tuổi thọ của cây, tăng năng suất
và lƣợng đƣợng hòa tan và tanin, tăng chất lƣợng chè.
Thiếu lân: lá có màu xanh đục mờ không sáng bóng, thân cây mảnh, rễ kém phát
triển, khả năng hấp thụ đạm kém. Chè thiếu lân trầm trọng sẽ bị trụi cành, năng suất
thấp và chất lƣợng kém.
Kali (K): hoạt hóa enzym liên quan đến quang hợp, tổng hợp hydratcacbon,
protein, điều chỉnh pH và nƣớc ở khí khổng. Giúp cây cứng chắc, tăng khả năng
chống chịu sâu bệnh, rét và hạn, giảm khô lá và rụng lá già, tăng năng suất và tăng
độ ngọt, độ đậm trong chè búp.
Thiếu kali: cây sinh trƣởng chậm, mép và chóp lá có màu xám hay nâu nhạt sau
khô dần, lá già rụng sớm, lá non ngày càng nhỏ, dễ bị sâu bệnh. Búp thƣa, vỏ cây có
màng trắng bạc, cây chậm ra búp, năng suất thấp, chè kém ngọt, chất lƣợng giảm.

Magiê (Mg): cấu tạo diệp lục tố, enzym chuyển hóa hydratcacbon và axit
nucleic, thúc đẩy hấp thụ, vận chuyển lân và đƣờng trong cây, giúp cây cứng chắc
và phát triển cân đối, tăng năng suất và chất lƣợng chè khô.
Thiếu magiê: xuất hiện những vệt màu xanh tối hình tam giác ở giữa lá, lá già
dần chuyển vàng, hạn chế khả năng ra búp, năng suất thấp, chất lƣợng chè khô giảm.
Kẽm (Zn): là thành phần của men metallo-enzymes-carbonic-anhydrase,
anxohol dehydrogenase, quan trọng trong tổng hợp axit indol acetic, axit nucleic và
protein, tăng khả năng sử dụng lân và đạm của cây. Thúc đẩy sinh trƣởng, phát
6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

triển, tăng năng suất và chất lƣợng chè. Thiếu kẽm: cây lùn, còi cọc, lá chuyển dần
bạc trắng, số búp ít.
Bo (B): cần cho sự phân chia tế bào, tổng hợp protein, lignin trong cây, tăng khả
năng thấm ở màng tế bào và vận chuyển hydrat carbon. Tăng độ dẻo của búp, giảm
rụng lá, tăng năng suất và chất lƣợng chè.
Molypđen (Mo): là thành phần của men nitrogenase, cần cho vi khuẩn
Rhizobium cố định đạm, tăng hiệu suất sử dụng đạm, năng suất và chất lƣợng chè.
Theo định nghĩa: Phân bón hữu cơ vi sinh vật (tên thƣờng gọi: phân hữu cơ vi
sinh) là sản phẩm đƣợc sản xuất từ các nguồn nguyên liệu hữu cơ khác nhau, nhằm
cung cấp chất dinh dƣỡng cho cây trồng, cải tạo đất, chứa một hay nhiều chủng vi
sinh vật sống đƣợc tuyển chọn với mật độ đạt tiêu chuẩn quy định, góp phần nâng
cao năng suất, chất lƣợng nông sản. Phân hữu cơ vi sinh vật không gây ảnh hƣởng
xấu đến ngƣời, động vật, môi trƣờng sinh thái và chất lƣợng nông sản.
1.2. Tình hình nghiên cứu phân hữu cơ vi sinh đến cây chè trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình nghiên cứu phân hữu cơ vi sinh trên thế giới
Quá trình khai hoang trồng mới chè đã phá vỡ hầu hết thực bì trên bề mặt đất.
Qua 4 năm từ lúc khai hoang trồng mới đến hết giai đoạn kiến thiết cơ bản đất bị lộ
thiên, dƣới ảnh hƣởng trực tiếp của điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, sự tổn thất

về chất hữu cơ càng rõ rệt. Chuyển sang giai đoạn kinh doanh, chế độ canh tác hiện
hành đã làm giảm đáng kể lƣợng mùn trong đất. Phân tích đất tại điểm cố định sau
khi trồng chè cho thấy: Hàm lƣợng mùn của đất hoang là 2,83%, sau 7 năm trồng
chè còn 2,09%, sau 11 năm trồng chè giảm 0,73%.
Nhƣ vậy, cây trồng hú t chất dinh dƣỡ ng từ đất để sinh trƣởng và phát triển. Ngoài
các bộ phận thu hoạch ra, trong cá c sả n phẩm phụ cũng chứa đựng các chất dinh dƣỡng
mà cây trồng lấy từ đất. Sau mỗi vụ thu hoạch, cây trồng lại để lại cho đất một lƣợng lớn
các phụ phẩm hữu cơ. Thông qua các quá trình chuyển hoá vật chất trong đất mà các sản
phẩm này trở thành nguồn dinh dƣỡng đáng kể cho cây trồng vụ sau.
Theo cuốn Thực vật cận lợi chí của tác giả Tôn Phúc Bảo và tuyển tập Lƣ Sơn
vật sản chí cảo của tác giả Mẫu Bá Bình (1930), (dẫn theo Đỗ Ngọc Quỹ) đều nói
7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

rằng phân hữu cơ là những phân bón chủ yếu của vƣờn chè đƣơng thời, trong đó
khô dầu là tốt nhất. Và cũng theo đây, các giới học giả nói chung đều gọi phân hữu
cơ là phân bón thế hệ 1 của các vƣờn chè Trung Quốc [10].
Theo F.Roule (1934), (dẫ n theo Đỗ Ngọ c Quỹ ) cho thấy trong quy trình canh
tác với cây chè, ngƣời Châu Âu thƣờng hay vùi phân xanh ở đồi chè nhằm tạo
lƣợng phân hữu cơ.
Ấn độ, Trung Quốc, Cu Ba là những vùng trồng mía lớn trên thế giới cũng có
cách thức trả lại ngọn mía và lá mía cho đất để làm dinh dƣỡng cho vụ sau thông
qua kỹ thuật ủ tạo phân hữu cơ. Van Dillewijn (1952) phân tích thấy bộ phận ngọn
và lá mía chiếm 62 % N, 50 % P
2
O
5
và 55 % K
2

O trong tổng số của bộ phận thu
hoạch. Nhƣ vậy có nghĩa nếu trả lại ngọn lá mía bón lại cho vụ sau thì cung cấ p một
lƣợng dinh dƣỡng tƣơng đối lớn cho cây [37].
Theo tà i liệ u củ a Đỗ Ngọ c Quỹ , Kooevaar và cộng sự (1983) nhận thấy rằng:
nền nông nghiệp cổ truyền của các nƣớc trên thế giới, các nƣớc Asian và ở Việt
Nam, phân hữu cơ không chỉ cung cấp chất dinh dƣỡng cho cây trồng với hàm
lƣợng vốn có của nó mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện các đặc
tính lý hoá học của đất thông qua vai trò của vật chất hữu cơ.
Từ năm 1992- 1997, Quỹ Kellogg, W.K tài trợ thử nghiệm bón phân hữu cơ
đƣợc bổ xung thêm một số loài vi sinh vật có ích thuộc 2 chi: Bacillus,
Pseudomonas có khả năng phân giải lân , kali tại 2 vùng trồng chè trọng điểm của
Srilanca và nhận thấy năng suất chè tăng từ 9- 14 % so với đối chứng có bón phân
hữu cơ và tăng 17 % so với đối chứng không sử dụng loại phân bón này [31].
Ngoài ra, sử dụng phế phụ phẩm còn tiết kiệm đƣợc 50 % lƣợng phân bón hoá
học, giảm chi phí cho ngƣời dân trong sản xuất. Heman và Cs (Viện nghiên cứu
Khoa học Nông nghiệp, trƣờng đại học Banaras Hindu của Ấn Độ, (1992) cũng
thừa nhận ảnh hƣởng của vùi phụ phẩm nông nghiệp đến năng suất cây trồng ở
vùng khô hạn của Ấn Độ. Sinh khối tăng 25,3 % và năng suất hạt tăng 9,2 % so với
công thức đối chứng [30].
8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

Viện lân và Kali của Canada (1995) xác nhận 80 % tổng số kali cây lấy đi nằm
trong xác bã cây. Nếu các xác bã thực vật này đƣợc hoàn lại cho đất đã canh tác thì
chúng sẽ cung cấp một lƣợng kali đáng kể cho các cây trồng vụ sau.
Ở các nƣớc Canada và Mỹ, sản phẩm hữu cơ sau khi thu hoạch thông thƣờng đƣợc
trả lại trực tiếp hoặc qua một thời gian ủ làm cho chúng bị phân huỷ hoặc bán phân
huỷ, bằng cách đó làm tăng hiệu quả sử dụng của cây trồng. Lai (1997) đã cho thấy
rằng lƣợng phụ phẩm nông nghiệp tạo ra phụ thuộc vào đặc tính của từng loại cây

trồng. Ƣớc tính về phụ phẩm nông nghiệp cho thấy lúa có thể cho từ 3,5- 4,5 tấn / ha,
ngô khoảng 2,7- 3,2 tấn/ ha, đậu tƣơng 0,8- 1,0 tấn/ ha, lúa mạch 2,6- 3,3 tấn/ ha.
Christian Brun và cs (2000) cũng cho thấy nếu phân hữu cơ (làm từ phân ngƣời,
gia súc và cây xanh ) có bổ xung thêm Baciluus Subtilus, Lactobacillus
Rhammossus bón cho chè thì chất hoà tan trong chè tăng từ 47,31 % (chỉ bón phân
hữu cơ) lên 51,01 % [26].
Thí nghiệm so sánh giữa hiệu lực phân bón hữu cơ và phân bón hữu cơ vi sinh
cho chè vùng Pritchard của Phil Renfrow và Jim Evans (2000) nhận thấy: sử dụng
phân bón hữu cơ vi sinh cho hiệu quả hơn hẳn so với phân bón hữu cơ.
Theo kết quả nghiên cứu của trung tâm Bảo vệ Nguồn lợi tự nhiên - Bộ Nông nghiệp
Hoa Kỳ năm 2002, hàm lƣợng các phụ phẩm nông nghiệp có khác nhau đối với các
nhóm cây trồng khác nhau, nó phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại cây trồng.
Do vậy, sử dụng phụ phẩm nông nghiệp tại chỗ cho các cây trồng là một giải
pháp đúng đắn nhằm tận dụng nguồn hữu cơ sẵn có. Tuy nhiên việc lựa chọn các
loại phụ phẩm nông nghiệp cũng cần quan tâm đến hàm lƣợng dinh dƣỡng và thời
gian phân huỷ sau vùi. Trong trƣờng hợp sản xuất cây phân xanh, để sử dụng tối đa
nguồn dinh dƣỡng, chúng ta cần tính toán thời điểm thu hoạch hợp lý, khi khả năng
tích luỹ các chất dinh dƣỡng đạt ngƣỡng tối đa.
Chƣơng trình: “sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh cho nông nghiệp hữu cơ” của
Philipin (2003) đã tổng kết và ghi nhận hiệu quả tăng năng suất chè trong các công
thức có dùng phân bón hữu cơ vi sinh hơn là chỉ sử dụng phân bón hữu cơ [24].
9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

Thí nghiệm của Karthikeyan ở vùng Assam- Ấn Độ, Vân Nam - Trung Quốc,
Java - Indonexia khẳng định hiệu quả phối trộn giữa phân bón hữu cơ với
Mycorrhiza, Trichoderma để tạo phân hữu cơ vi sinh làm tăng năng suất chè 12 - 16
% so với chỉ sử dụng riêng phân hữu cơ [29].
Theo Zakhtop và Sevich thì việc bón phân hữu cơ có tác dụng chống xói mòn

đấ t rất tốt (giảm 40,4% so với không bón) vì phân bón thúc đẩy cây trồng sinh
trƣởng và phát triển tốt, tạo độ che phủ nhiều hơn. Khi bón phân, đất có kết cấu tốt
hơn, khả năng ngấm vào đất tốt hơn, thúc đẩy vi sinh vật hoạt động, góp phần cải
tạo các tính chất của đất.
Kết quả điều tra của Zhen va cộng sự (2005) tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc
cho thấy tình hình sử dụng phế phụ phẩm nông nghiệp ủ thành phân bón hữu cơ
trong sản xuất nông nghiệp đã tăng dần. Khoảng 77 % nông dân sử dụng 60 % phụ
phẩm của cây trồng vụ trƣớc cho cây trồng vụ sau, 18 % hộ nông dân sử dụng 90 %
sản phẩm phụ cho cây trồng vụ sau [3].
Tại Brazil, Nghiên cứu dài hạn về ảnh hƣởng của việc sử dụng nguồn phụ phẩm
nông nghiệp trên đất phiến thạch. Diekow và cộng sự (2005) sau 17 năm đã chỉ ra
rằng, trong công thức luân canh với sử dụng tối đa nguồn hữu cơ từ thân lá ngô và
cây họ đậu đã làm tăng hàm lƣợng cácbon trong tầng đất mặt (0- 17,5 cm) 24 % và
đạm tổng số tăng 15 % và hàm lƣợng kali dễ tiêu cũng tăng 5 % so với đối
chứng.Tại Úc, thí nghiệm đƣợc tiến hành đối với cây lúa mỳ, trên đất đỏ thoái hoá
thuộc vùng Warialda phía Bắc của bang New South Wales ghi nhận năng suất tăng
5-6 % khi vùi phụ phẩm [27].
Nhƣ vậy, sự đa dạng về chủng loại phế phụ phẩm cây trồng có thể cho phép
nông dân lựa chọn những loại phế phụ phẩm khác nhau. Và cho thấy sản phẩm phụ
cây trồng nhƣ lúa mỳ, rơm rạ, bã mía và các cây phân xanh đều có thể sử dụng nhƣ
một loại phân bón hữu cơ và mang lại những hiệu quả kinh tế đáng kể thông qua
việc cải tạo độ phì đất và năng suất cây trồng . Đặc biệt trong điều kiện các nƣớc
đang phát triển để đảm bảo việc bền vững và duy trì độ phì đất thông qua nguồn
hữu cơ tại chỗ là điều hết sức cần thiết.
10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

Cây chè cũng vậy, lý tính đất trồng chè có vai trò đặc biệt quan trọng trong
canh tác chè trên đất dốc. Quá trình đi lại, chăm sóc và cạn kiệt chất hữu cơ đã làm

cho đất chặt cứng, không thuận lợi cho cây chè sinh trƣởng và phát triển. Vì vậy các
biện pháp cải tạo lý tính đất làm tăng khả năng giữ nƣớc và lƣu thông chất dinh
dƣỡng của đất chè đƣợc coi là quan trọng hơn cải thiện hoá tính và những chỉ tiêu
hoá tí nh đƣợc quy định bởi lý tính của đất.
Ngƣời Pháp đã thử nghiệm nhiều loại phân hữu cơ và qua các kết quả nghiên
cứu cho thấy phân hữu cơ có tác dụng lâu bền và cải tạo đất chè nghèo mùn . Bên
cạnh việc sử dụng phân trâu , phân bò, cây chè còn có thể đƣợc bón bằ ng phân xanh
và phân hữu cơ nhân tạo theo kinh nghiệm của Châu Âu và đã đƣợc áp dụng tại một
số nƣớc trồng chè nhƣ: Ấn Độ, Srilanca và Indônêxia.
Các đồn điền trồng chè ở Châu Âu, việc sản xuất phân bón hữu cơ là rất khó
khăn vì nguyên liệu để sản xuất phân hữu cơ là không sẵn có. Trƣớc đây, các nhà
trồng trọt phƣơng Tây chƣa bao giờ nghĩ đến biện pháp sản xuất phân bón hữu cơ
nhân tạo. Chỉ gần đây, Trạm nghiên cứu Rothamsted ở nƣớc Anh mới bắt đầu
nghiên cứu kinh nghiệm của ngƣời Trung Quốc và Nhật Bản khi chế tạo phân hữu
cơ nhân tạo.
Tại Srilanca và Indonêxia ngƣời trồng chè nhận thấy phân hoá học chỉ có tác
dụng khi đất trồng chè có nhiều mùn. Sản xuất phân hữu cơ nhân tạo chất lƣợng tốt,
bằ ng nguyên liệu và phƣơng tiện tại chỗ có thể thay thế phân chuồng và giảm bớt
phân hoá học bón cho chè [32], [33].
Trong công trình nghiên cứu: “Nông nghiệp nhiệt đới” Angladette khuyến cáo
nông dân trồng chè nên tận dụng nguồn phân xanh tại chỗ để sản xuất phân hữu cơ
bón cho chè. Điều này làm tăng dự trữ mùn cho đất, tăng độ xốp, tăng khả năng hút
nƣớc, khả năng đệm của đất và số lƣợng vi sinh vật trong đất.
Ở Ấn Độ, Jha đã phối trộn nấm cộng sinh Mycorrhiza với phân hữu cơ sản xuất từ
rơm rạ thành phân bón hữu cơ vi sinh bón cho chè đã thấy tỷ lệ bệnh trên chè giảm
12 %, năng suất tăng 13 %, đặc biệt ở những vùng khô hạn năng suất tăng 18 % so
với đối chứng [29].
11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


Do vậy, cần tăng cƣờng cung cấp nguồn chất hữu cơ ổn định và bổ xung thêm
một số chủng vi sinh vật thuộc: Mycorrhiza, Trichoderma, Bacillus,
Pseudomonas một cách tƣơng đối là con đƣờng trọng yếu để tăng năng suất và
chất lƣợng chè. Giải quyết nguồn chất hữu cơ cho nƣơng chè kinh doanh bằng biện
pháp khả thi nhất là sử dụng các nguồn tại chỗ: Cành lá chè đốn hàng năm, chất
xanh từ cây che bóng mát họ đậu, cỏ dại trên nƣơng chè và ven đƣờng lộ, rơm rạ,
thân lõi ngô, phế phụ phẩm nhà máy tinh bôt sắn, bồm cẫng chè.
Hàng năm, theo ƣớc tính trên thế giới lƣợng phế phụ phẩm tạo ra từ sản xuất lúa
là 1017 triệu tấn. Chỉ riêng Mỹ, lƣợng rác thải nông nghiệp hàng năm đã là 4 tỷ tấn.
Đã có nhiều biện pháp sử lý rác thải nông nghiệp nhƣ: đốt, chôn lấp, ủ phân hữu cơ
vi sinh. Ở Austrlia, Pháp, Indonexia, Malaysia, Miến Điện, Philppine, Tây Ban Nha
và Thái Lan phụ phẩm nông nghiệp thƣờng đƣợc đem đốt. Các nƣớc Mỹ, Đức,
Italia xử lý bằng cách chôn vùi chiếm 60 - 80 % [3].
Bên cạnh việc sử dụng nguồn rác thải nông nghiệp để làm nhiên liệu, trong
nuôi trồng thuỷ sản, công nghiệp sản xuất silic đa số lƣợng rác thải còn lại đƣợc
đốt bỏ không sử dụng.
Phân hữu cơ vi sinh đƣợc hầu hết các nƣớc trên thế giới sử dụng cho sản xuất
nông, lâm nghiệp nhằm cung cấp chất dinh dƣỡng cho cây trồng và cải tạo độ phì
nhiêu của đất. Để làm phân hữu cơ nhìn chung mất khoảng từ 6 - 8 tháng.
Trong quá trình sản xuất phân bón hữu cơ của nhiều quốc gia, vào công đoạn
tạo thành phẩm ngƣời ta thƣờng bổ sung thêm một số chủng vi sinh vật đã đƣợc
phân lập và tuyển chọn kỹ. Các chủng vi sinh vật thƣờng đƣợc bổ sung vào là các
chủng có hoạt tính : Phân giải lân, cố định Nitơ, sinh các chất kích thích sinh trƣởng
thực vật, đối kháng nấm bệnh các chủng vi sinh vật đƣợc bổ sung vào sẽ tăng
cƣờng khả năng hấp thu dinh dƣỡng của cây, tăng khả năng kháng bệnh.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu phân hữu cơ vi sinh ở Việt Nam
Việt Nam có lịch sử trồng chè từ rất lâu nhƣng mới đƣợc chú trọng với quy mô
lớn và tập trung khoảng 100 năm trở lại đây. Điều kiện đất đai và khí hậu nƣớc ta
rất thích hợp cho cây chè phát triển , 2/3 diện tích đất là đất đồi núi , đặc biệt ở vùng

12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

núi cao có điều kiện tự nhiên khắc nghiệ t đã tạo nên những giống chè đặc sản nổi
tiếng. Trong quá trình canh tác thì ngƣời dân đã biết tận dụng các cành chè sau đốn
để tủ gốc cho chè (ép xanh).
Từ những năm 1968 - 1975, Trại thực nghiệm chè Phú Hộ tiến hành thực
nghiệm phân bón trên 8000 m
2
chè sản xuất kinh doanh, giống chè Trung du 8 - 15
tuổi tại Phú Hộ, Hợp tác xã Đồng Tâm (Ninh Dân - Thanh Ba - Phú Thọ) và nông
trƣờng chè Văn Lĩnh, không bón phân chuồng mà thay vào ép xanh cành lá chè đốn
hàng năm vào tháng 1 cộng với 800 kg sunfat đạm và 100 kg clorua kali. Kết quả
làm năng suất bình quân trong 8 năm đạt 800 kg bup chè/ha. Bón ép xanh bằng
cành lá già và cỏ Stilo cũng làm năng suất chè tăng 13,9 - 24,2 %. Độ xốp tăng 5 %,
độ mịn (0 - 20 cm) tăng 0,3 % ở khu ép xanh bằng cành lá chè già. Độ xốp đất tăng
8,7 % và mùn tăng 0,84 - 3,87 % ở khu ép xanh bằng cỏ Stilo. Tốt nhất là ép xanh
bằng ½ cỏ Stilo + ½ cành lá chè già, sản lƣợng chè tăng 3,19 - 16,4 %, độ ẩm tăng 3
- 5 %. Kết quả thí nghiệm cho thấy: các nguồn phụ phẩm đều có thể sử dụng để bón
cho chè và hiệu quả tăng năng suất chè đáng kể, cải thiện lý hoá tính đất chè rõ rệt.
Cành lá chè đốn tốt hơn cây phân xanh xen giữa hàng chè [15].
Kết quả nghiên cứu ở Phú Hộ năm 1981 - 1984 cho thấy tổng sinh khối phần
đốn hàng năm ở nƣơng chè kinh doanh phụ thuộc vào loại hình năng suất. Để sử
dụng có hiệu quả lƣợng cành lá chè đốn hàng năm (1981 - 1987) ở Phú Hộ đã triển
khai nghiên cứu nội dung này trên chè kinh doanh tuổi 7 - 12. Kết quả cho thấy làm
tăng đáng kể lƣợng mùn trong đất [15].
Năm 1996 - 1997, Viện nghiên cứu chè đã sử dụng toàn bộ cành lá chè đốn
hàng năm, cây cỏ dại quanh đồi và trên nƣơng chè ủ với vôi, supe lân cải thiện tốt
chế độ mùn và năng suất chè tăng 8 - 10 % .

Năm 1996 - 1997 kết quả nghiên cứu ở Trại chè Phú Hộ cho thấy: Cứ 2 hàng
chè đào rãnh rộng 25 cm, sâu 25 cm vào trung tuần tháng 12 hàng năm rồi bỏ phân
chuồng, nguyên liệu đốn chè cuối vụ, cỏ dại đƣa vào rãnh, vùi toàn bộ lân, bón
magie 20 kg/ha, lấp đất phía gốc chè cao hơn giữa hàng 5 - 7 cm, năm sau đào rãnh
13

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

ở hàng bên cạnh theo chu kỳ luân phiên 2 năm đã làm tăng đáng kể khả năng giữ ẩm
của đồi chè kinh doanh, nƣơng chè đủ ẩm cho thu hoạch búp ở cả những tháng khô hạn [15].
Biện pháp bón thẳng nguồn vật liệu hữu cơ có sẵn và chƣa qua xử lý có mang
lại hiệu quả tăng năng suất và bƣớc đầu nâng cao độ phì nhiêu đất, tăng độ ẩm
nhƣng sử dụng nhiều năm (từ 3 năm trở lên ) sẽ dẫn đến tăng mật độ nấm bệnh đối
với nƣơng chè. Bởi khi sử dụng phƣơng thức bón phân hữu cơ cho chè nhƣ vậy chỉ
đáp ứng đƣợc nhu cầu cung cấp chất hữu cơ cho đất, cải thiện đƣợc một phần lý tính
đất nhƣng mối quan hệ giữa vi sinh vật - đất - thực vật chƣa đƣợc cải thiện một cách
đáng kể, vì vậy Nguyễn Văn Sức và cs (2003) bắt đầu thử nghiệm đá nh giá hiệu lực
của 3 loại phân bón hữu cơ vi sinh là: phân HCVS Cầu Diễn, Fitohocmon và phân
HCVS Sông Gianh. Kết quả thí nghiệm cho thấy việc thay thế 30 % lƣợng phân
khoáng bằng phân hữu cơ vi sinh cho hiệu quả tốt nhất [23].
Nguyễn Thị Ngọc Bình (2005) đã thử nghiệm phân lân hữu cơ vi sinh Sông
Gianh cho cây chè Trung du trồng tại Tân Cƣơng, Thái Nguyên cho thấy khi thay
thế 50 % theo giá trị đầu tƣ phân bón hóa học bằng phân hữu cơ vi sinh cho hiệu
quả kinh tế cao nhất [1].
Cũng theo TS Nguyễn Thị Ngọc Bình: phế phụ phẩm nông nghiệp ở nƣớc ta
chủ yếu bao gồm: Vỏ trấu, lõi ngô, bã mía, mùn cƣa, vỏ dừa, bã thải nhà máy
đƣờng, nhà máy sắn, tổng sản lƣợng phế thải sinh khối hàng năm ở nƣớc ta có thể
đạt 8 – 11 triệu tấn, trong đó riêng công nghiệp mía đƣờng khoảng 2,5 - 3 triệu tấn
bã mía, 0,25 - 0,3 triệu tấn mùn mía. Công nghiệp cà phê mỗi năm tạo ra khoảng 0,2
- 0,25 triệu tấn vỏ cà phê. Vùng Tây Bắc có tới 55.000 - 60.000 tấn mùn cƣa từ việc

khai thác và chế biến gỗ. Tính riêng vỏ sắn thải ra từ các nhà máy sắn đóng trên địa
bàn 3 tỉnh: Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang mỗi năm lần lƣợt là: 4.500; 11.000 và
2.200 tấn. Ngoài ra còn có, một số cây tạo nguồn phân xanh tốt nhƣ : Đậu mèo
(năng suất trên 20 tấn/ha, đến lúc ra hoa tạo lớp thảm dày đạt trên 35 tấn/ha),
Muồng hoa vàng lá tròn (năng suất 30 - 40 tấn/ha), keo giậu, cỏ Lào, các loại cỏ
sinh khối lớn và các phế thải nông nghiệ p nhƣ rơm rạ , cỏ và các cây hoang dại khác
14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

nhƣ: Tế, guột, cỏ Lào, cúc quỳ là nguồn nguyên liệu sạch, thích hợp cho việc làm
phân ủ hữu cơ sinh học [3].
Ngay từ những năm 60, các nhà khoa học Việt Nam đã bắt tay vào nghiên cứu
phân bón hữu cơ sử dụng cho cây trồng, các phƣơng pháp truyền thống trong sản xuất
phân ủ đƣợc áp dụng rộng rãi ở nhiều nơi có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao độ
phì nhiêu của đất trồng. Song đến tận đầu những năm 90, phân bón vi sinh vật mới
chính thức đƣợc đƣa vào chƣơng trình nghiên cứu cấp nhà nƣớc và kéo dài cho đến
nay. Phân hữu cơ sinh học từ nguồn phế thải giàu xenluloza đã đƣợ c nghiên cứu và
triển khai tƣơng đối thành công tại một số nhà máy mía đƣờng nhƣ Lam Sơn, Thanh
Hoá, và một số đơn vị chế biến, xử lý rác thải thành phố (Cầu Diễn, Hà Nội), tuy nhiên
cũng chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ, hoặc thử nghiệm, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của
thực tế. Việc bổ sung vi sinh vật có ích vào sản phẩm hữu cơ sau khi ủ đã đƣợc quan
tâm nghiên cứu, nhƣng chƣa đƣợc áp dụng rộng rãi [21].
Trong những năm gần đây, có nhiều đề tài nghiên cứu xử lý rác thải bằng biện
pháp sinh học. Nhiều đề tài đi sâu nghiên cứu phƣơng pháp tuyển chọn các chủng vi
sinh vật có hoạt tính phân giải các chất khó phân giải và phù hợp với môi trƣờng
của bể tủ rác, tạo chế phẩm phù hợp và thử nghiệm trong thực tế cho thấy vừa rút
ngắn thời gian xử lý, vừa tăng số lƣợng và chất lƣợng mùn rác thu đƣợc [1], [2], [7],
[19], [20], [21].
Tuy nhiên, các chế phẩm vi sinh vật cũng chỉ mới đƣợc áp dụng xử lý rác thải

sinh hoạt, chƣa đƣợc áp dụng nhiều trong việc xử lý chất thải nông nghiệp cũng nhƣ
đƣa ra mô hình xử lý phù hợp cho các loại chất thải nông nghiệp. Do vậy, việc
nghiên cứu và tuyển chọn các chủng giống vi sinh vật cũng nhƣ xây dựng mô hình
xử lý rác thải nông nghiệp làm phân bón hữu cơ chất lƣợng cao là cần thiết
Kết quả thực hiện chƣơng trình công nghệ sinh học KHCN - 02: “Nghiên cứu
và áp dụng công nghệ sinh học trong sản xuất phân bón vi sinh - hữu cơ từ nguồn
phế thải hữu cơ rắn” xác định đƣợc quy trình chế biến phân hữu cơ vi sinh có hoạt
tính sinh học cao.
15

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

Giai đoạn 1996 - 2000 và 2001 - 2005, trong quá trình triển khai các đề tài
KHCN cấp nhà nƣớc về phân bón vi sinh vật, các cán bộ khoa học, Viện khoa học
kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu xử lý một số nguyên liệu
và phế thải giàu hợp chất cacbon thành các chất hữu cơ đơn giản sử dụng làm cơ
chất cho sản xuất phân bón hữu cơ sinh học trên nền chất không mang khử trùng.
Viện công nghệ sinh học và công nghệ thực phẩm, Đại học Bách Khoa Hà Nội
năm 1999 - 2000 đã thực hiện đề tài: “Công nghệ xử lý một số phế thải nông sản
chủ yếu (lá mía, vỏ thải cà phê, rác thải nông nghiệp) thành phân bón hữu cơ sinh
học” thuộc chƣơng trình công nghệ sinh học KHCN - 02 - 04 B. Kết quả của đề tài
đã đề xuất đƣợc công nghệ xử lý lá mía thành phân hữu cơ sinh học với thời gian
ngắn (còn 30 % so với bình thƣờng bằng chế phẩm vi sinh vật), xây dựng đƣợc
công nghệ xử lý rác thải nông nghiệp bằng bộ chế phẩm vi sinh vật Emuni, hoàn
thiện đƣợc công nghệ xử lý vỏ cà phê thành phân hữu cơ vi sinh bằng bộ chế phẩm Mcrocom.
Đào Châu Thu và cs (2003) (Thuộc trung tâm nghiên cứu và phát triển nông
nghiệp bền vững thuộc trƣờng Đại học Nông nghiệp Hà Nội) đã hợp tác với khoa
sinh học và kinh tế Nông nghiệp, Đại học Udine, Italia (2003 - 2005) tiến hành đề
tài: “Sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ rác thải hữu cơ sinh hoạt và phế thải nông
nghiệp để dùng làm phân bón cho rau sạch vùng ngoại ô thành phố” bƣớc đầu cho

kết quả khả quan. Năng suất rau đƣợc giữ vững, hàm lƣợng các kim loại nặng trong
rau giảm 18 - 24 % so với đối chứng [19].
Hiện nay, nƣớc ta có 2 nhà máy xử lý hiếu khí rác thải sinh hoạt làm phân bón
(Cầu Diễn - Hà Nội và Việt Trì - Phú Thọ). Trong nƣớc cũng đã có nhiều dây
truyền sản xuất phân hữu cơ vi sinh đồng bộ. Các dây truyền này thƣờng sản xuất
phân vi sinh từ mùn mía, than bùn [3].
Tại huyện Phụng Hiệp tỉnh Hậu Giang , Nguyễn Mỹ Hoa và cs (2008) đã đánh
giá chất lƣợng phân hữu cơ vi sinh đƣợc ủ từ nguồn phế thải thực vật nông thôn , kế t
luận: Phân hữu cơ - vi sinh do nông dân sản xuất tại nhà từ các nguồn dƣ thừa thực
vật ở nông thôn nhƣ: rơm rạ, bèo tây, cỏ vƣờn có bổ xung vi sinh vật đả m bả o chất
lƣợng theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn [7].
16

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

Tuy bƣớc đầu đã nhận thức đƣợc vai trò của phân bón hữu cơ, hữu cơ vi sinh
trong việc nâng cao năng suất, cải thiện độ phì của đất, song ở Việt Nam nói chung
đặc biệt là khu vực trung du, miền núi Phía Bắc cho đến nay mức độ ứng dụng loại
phân bón này còn hết sức hạn chế. Ngƣời nông dân, nhất là đồng bào dân tộc miền
núi chƣa thực sự đƣợc thừa hƣởng thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học Việ t
Nam về phân bón hữu cơ vi sinh. Nói cách khác chúng ta mới chỉ sản xuất phân bón
hữu cơ vi sinh trong nhà máy hoặc một vài cơ sở sản xuất lớn, giá thành sản xuất
còn cao, việc chuyên chở tới vùng sâu, vùng xa còn có nhiều hạn chế. Ngƣời nông
dân trồng chè khu vực trung du - miền núi phía Bắc có rất ít cơ hội để tiếp xúc và sử
dụng loại phân bón này.
Chúng ta đã xây dựng đƣợc quy trình sản xuất phân bón hữu cơ, hữu cơ vi sinh
từ bùn - bã mía, vỏ cà phê, rơm rạ, vật liệu chất xanh,…tuy nhiên với vỏ củ, bã sắn
trong công nghiệp sản xuất tinh bột sắn thì vẫn chƣa có một quy trình cụ thể. Trong
khi đó hàng năm các nhà máy sắn của 3 tỉnh: Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang thải
ra khoảng 17.700 tấn vỏ sắn, 84.600 tấn bã sắn. Vỏ củ sắn chủ yếu là đƣợc đốt còn

bã sắn thì chôn lấp trong các ao hồ xung quanh khu vực của nhà máy. Rõ ràng
lƣợng phụ phẩm này hiện chƣa đƣợc sử dụng một cách hợp lý, gây ô nhiễm môi
trƣờng, lãng phí tài nguyên thiên nhiên [3].
Để khuyến khích, tạo điều kiện cho ngƣời nông dân nghèo, các đối tƣợng thiệt
thòi trong xã hội sử dụng hữu cơ vi sinh, giảm thiểu mức đầu tƣ trong sản xuất
nông nghiệp, góp phần phát triển bền vững và bảo vệ môi trƣờng, trong khuôn khổ
kinh phí từ Chƣơng trình Nông nghiệp Hƣớng tới Khách hàng của Dự án: “Khoa
học Công nghệ Nông nghiệp vốn vay của ADB” Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
Lâm nghiệp Miền núi Phía Bắc phối hợp với Viên Thổ nhƣỡng Nông hóa thực hiện
đề tài: “Nghiên cứu chuyển giao kỹ thuật chế biến phân hữu cơ vi sinh từ phế phụ
phẩm nông nghiệp phục vụ sản xuất chè an toàn”
Đề tài đã đánh giá hàm lƣợng N, P
2
O
5
và K
2
0 tổng số trong phế phụ phẩm vỏ bã
sắn, thân cây ngô và một số phụ phẩm khác lựa chọn nguyên liệu, lựa chọn các
thông số của quy trình ủ tạo phân hữu cơ thực nghiệm quy trình ủ tạo phân hữu cơ,

×