Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố nội tại đến khả năng hình thành cây hom Sao đen (Hopea odorata Roxb) tại trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.82 KB, 62 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NNG LÂM



NGUYỄN ĐÌNH DỰ


Tên đề tài:
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ NỘI TẠI ĐẾN
KHẢ NĂNG HÌNH THÀNH CÂY HOM SAO ĐEN (Hopea odorata)
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN”



KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Lâm nghiệp
Khoa : Lâm nghiệp
Lớp : 42 – Lâm nghiệp
Khoá học : 2010 - 2014
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Lương Thị Anh
Khoa Lâm nghiệp - Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên




Thái Nguyên, năm 2014
LỜI CẢM ƠN



Để hoàn thành chương trình đào tạo, ngoài những kiến thức đã học về lý
thuyết mỗi sinh viên rất cần có cơ hội tiếp cận và làm quen với thực tế, thực
hiện tốt việc “học đi đôi với hành”. Qua đó, giúp sinh viên hoàn thiện về kiến
thức, phương pháp làm việc, nghiên cứu khoa học.
Được sự đồng ý của Ban giám hiệu nhà trường và Ban chủ nhiệm Khoa,
em thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố nội tại đến
khả năng hình thành cây hom Sao đen (Hopea odorata Roxb) tại trường
đại học Nông Lâm Thái Nguyên”.
Trong quá trình học tập, rèn luyện và thực hiện khoá luận em đã được sự
chỉ bảo của thầy cô khoa Lâm nghiệp, các bộ môn Trung tâm nghiên cứu Lâm
nghiệp vùng núi phía Bắc, trường Đại học nông Lâm Thái Nguyên, nhất là cô
giáo hướng dấn Lương thị Anh, đã tạo điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ em
suốt quá trình thực tập, điều tra thu thập số liệu phục vụ cho quá trình làm
khoá luận và đạt kết quả như mong muốn.
Đến nay bản khoá luận đã hoàn thành, nhân dịp này em xin chân thành
cảm ơn tất cả sự giúp đỡ quý báu đó.
Do kiến thức của bản thân còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu
sót và vấn đề còn tồn tại. Vậy em rất mong nhận được sự giúp đỡ cử thầy cô
giáo để khoá luận của em được hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái nguyên, ngày 20 tháng 5 năm 2014
sinh viên

Nguyễn đình Dự

MỤC LỤC
Trang
Phần 1:
MỞ ĐẦU 1

1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục đích nghiên cứu 3
1.3. Mục tiêu nghiên cứu 3
1.4. Ý nghĩa nghiên cứu 3
Phần 2:
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
2.1. Cơ sở khoa học của phương pháp nhân giống bằng hom 4
2.2. Những yêu cầu kỹ thuật cơ bản khi giâm hom 15
2.3. Những nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam 15
2.3.1. Trên thế giới 15
2.3.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam 18
2.4. Giới thiệu chung về loài cây Sao đen 19
Phần 3:
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
3.1. Đối tượng nghiên cứu 22
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 22
3.3. Nội dung nghiên cứu 22
3.4. Phương pháp nghiên cứu 22
3.4.1. Ngoại nghiệp 22
3.4.2. Nội nghiệp 25
Phần 4:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 30

4.1. Ảnh hưởng của độ dài hom giâm đến tỷ lệ sống, khả năng ra rễ, chồi
của hom cây Sao đen 30
4.1.1. Ảnh hưởng của độ dài hom giâm đến tỷ lệ sống của hom cây Sao
đen 30
4.1.2. Ảnh hưởng của độ dài hom giâm đến khả năng ra rễ của hom cây
Sao đen 31
4.1.3. Ảnh hýởng của ðộ dài hom giâm ðến khả nãng ra chồi của hom cây

Sao ðen 36
4.2.2. Ảnh hưởng của loại hom giâm đến khả năng ra rễ của hom cây Sao
đen ở các công thức thí nghiệm 41
4.2.3. Ảnh hưởng của loại hom giâm đến khả năng ra chồi của hom cây
Sao đen 46
Phần 5:
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ 49
5.1. Kết luận 49
5.2. Tồn tại 50
5.3. Kiến nghị 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO 51



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CTTN : Công thức thí nghiệm
CT : Công thức
TB : Trung bình
IAA : Axit Indol-axitic
IBA : Axit Indol-butiric
IPA : Axit Indol-propionic
NAA : Axit Napthalen-axetic


DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Mẫu bảng3.1: Bảng sắp xếp các trị số quan sát phân tích phương sai 26
Mẫu bảng 3.2: Bảng phân tích phương sai 1 nhân tố ANOVA 29

Bảng 4.1: Kết quả về ảnh hưởng của độ dài hom giâm đến tỷ lệ sống
trung bình của hom cây Sao đen ở các công thức thí nghiệm 30
Bảng 4.2: Kết quả về khả năng ra rễ của hom cây Sao đen ở các công
thức thí nghiệm 31
Bảng 4.3: Bảng tổng hợp kết quả về chỉ số ra rễ của độ dài hom của
cây Sao đen 34
Bảng 4.4: Bảng phân tích phương sai một nhân tố ảnh hưởng đến chỉ
số ra rễ của độ dài hom của cây Sao đen 35
Bảng 4.5: Bảng sai dị từng cặp
xjxi −
cho chỉ số loại hom của cây
Sao đen 36
Bảng 4.6: Kết quả về khả năng ra chồi của hom cây Sao đen ở các
công thức thí nghiệm 37
Bảng 4.7: Tỷ lệ sống của loại hom cây Sao đen ở các công thức thí
nghiệm 40
Bảng 4.8: Kết quả về khả năng ra rễ của loại hom giâm cây Sao đen 41
Bảng 4.9: Bảng tổng hợp kết quả về chỉ số ra rễ của loại hom của cây
Sao đen ở cuối thí nghiệm 43
Bảng 4.10: Bảng phân tích phương sai một nhân tố ảnh hưởng đến chỉ
số ra rễ của loại hom của cây Sao đen 45
Bảng 4.11: Bảng sai dị từng cặp
xjxi −
cho chỉ số loại hom giâm của cây Sao
đen 45
Bảng 4.12: Kết quả về ảnh hưởng của loại hom giâm đến khả năng ra
chồi của hom cây Sao đen
46
DANH MỤC CÁC HÌNH


Hình 4.1: Tỷ lệ sống trung bình của hom cây Sao đen ở các công thức thí
nghiệm về độ dài hom giâm 31
Hình 4.2: Tỷ lệ rễ của hom cây Sao đen ở các công thức thí nghiệm về độ
dài hom giâm 32
Hình 4.3: Chỉ số ra rễ của hom cây Sao đen ở các công thức thí nghiệm
về 32
Hình 4.4: Tỷ lệ ra chồi của hom cây Sao đen ở các công thức thí nghiệm
về độ dài hom giâm 37
Hình 4.5: Chỉ số ra chồi của hom cây Sao đen ở các công thức thí nghiệm
về độ dài hom giâm 38
Hình 4.6: Tỷ lệ sống trung bình của hom cây Sao đen ở các công thức thí
nghiệm về loại hom giâm 40
Hình 4.7: Tỷ lệ ra rễ của hom cây Sao đen ở các công thức thí nghiệm về
loại hom giâm 41
Hình 4.8: Chỉ số ra rễ của hom cây Sao đen ở các công thức thí nghiệm
về loại hom giâm 42
Hình 4.9: Tỷ lệ ra chồi của hom cây Sao đen ở các công thức thí nghiệm
về loại hom giâm 47
Hình 4.10: Chỉ sốra chồicủa hom cây Sao đen ở các công thức thí nghiệm
về loại hom giâm 47





1
Phần 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề

Giống là một trong những khâu quan trọng của trồng rừng thâm canh.
Không có giống được cải thiện theo mục tiêu kinh tế thì không thể đưa năng
suất rừng lên cao [5].
Trong những năm gần đây, các Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng
trong cả nước đã tiến hành về chọn giống, khảo nghiệm và nhân giống cho
nhiều loại cây rừng, đã đạt được một số kết quả bước đầu, mở ra một triển
vọng lớn cho trồng rừng nguyên liệu ở nước ta.
Những loài cây rừng sau khi đã được chọn lọc, khảo nghiệm thì việc lựa
chọn phương pháp nhân giống có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc duy trì
những tính trạng tốt của loài cây rừng. Một trong những phương pháp nhân
giống duy trì được nguyên vẹn những tính trạng tốt từ đời trước cho đời sau là
phương pháp nhân giống bằng hom [11].
Họ Sao dầu (Dipterocarpaceae) bao gồm những loài cây gỗ lớn có giá trị
kinh tế cao, tiêu biểu và chiếm ưu thế trong rừng mưa nhiệt đới. Với khoảng
580 loài nằm trong15 giống khác nhau, cây họ Sao dầu được phân bố rộng
khắp, nhưng tập trung chủ yếu ở khu vực Đông nam châu Á. Đây là loài cây
đặc hữu của vùng Đông nam châu Á và của Việt Nam, đặc sắc của khu vực
Ấn độ - Mã Lai [14]. Cây họ Sao dầu cung cấp một nguồn tài nguyên dồi dào
về gỗ và nhựa dầu thiên nhiên ở nước ta. Bên cạnh những giá trị kinh tế cao
của họ Dầu như gỗ sử dụng cho công nghiệp đóng tàu, công nghiệp xây dựng,
chất dầu cho dược liệu, nhựa dầu dùng chát ghe thuyền, pha sơn, chế biến
vecni và sử dụng trong y học,… Chúng còn có ý nghĩa quan trọng về mặt sinh
thái, là những loài cây sinh trưởng và phát triển tiên phong trong rừng nhiệt
đới, cộng với khả năng hình thành mối quan hệ cộng sinh hữu ích với một số




2
mô sinh vật đất, cây họ Dầu rất có triển vọng trong tất cả các hoạt động trồng

và phục hồi rừng. Thêm vào đó, với khả năng hấp thụ khí CO
2
lớn, cây họ
Dầu còn được chọn làm đối tượng cho các dự án phục hồi rừng với quy mô
lớn và đó được coi như là những biện pháp thuyết phục nhằm làm cân bằng
lại lượng CO
2
khí quyển, góp phần làm giảm hiệu ứng nhà kính.
Rừng cây họ Sao dầu ở Việt Nam cũng giống như các nước trong khu
vực đã và đang bị tàn phá. Với khoảng 40 loài nằm trong 6 giống, bao gồm
hầu hết các loại có giá trị kinh tế cao [8]. Hiện nay nhiều loại cây thuộc họ
Sao dầu đang được coi là có nguy cơ bị tuyệt chủng [1].
Cùng với cây Dầu rái, Sao đen đang được coi là cây quan trọng để làm
giàu rừng ở các tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Đây cũng là loài cây
được các nước Đông Nam Á coi là cây bản địa có giá trị trong các chương
trình trồng rừng. Sao đen là cây gỗ lớn chiếm ưu thế trong các rừng cây họ
dầu ở Việt Nam, chúng rất có triển vọng trong các hoạt động trồng rừng và
phục hồi rừng. Hiện nay, một khó khăn lớn gặp phải ở cây họ Sao dầu là thiếu
cây giống chất lượng tốt đáp ứng cho các hoạt động trồng rừng. Do cây họ
Sao dầu chỉ có chu kỳ ra hoa, kết hạt rất thất thường, dao động 2 -1,5 năm, hạt
của chúng lại mất sức nảy mầm nhanh chóng, chỉ sau 2 tuần thu hái. Do vậy,
nếu chỉ dựa vào nguồn hạt và cây con thu lượm tự nhiên thì các hoạt động
trồng rừng và phục hồi rừng Sao dầu với quy mô lớn sẽ không thể thực hiện
được [15,17].
Đứng trước tình hình thực tế đó, để công tác trồng rừng, phục hồi rừng
cây họ Sao dầu có hiệu quả thì việc cung cấp giống bằng phương pháp giâm
hom là việc cần thiết, bởi vì nhân giống bằng hom có đặc tính ưu việt do đó:
cho phép giữ lại những đặc tính quý hiếm của cây bố mẹ, ở thế hệ sau nhận
được vậy liệu di truyền là đồng nhất, đáp ứng nhu cầu trồng rừng quy mô lớn
như hiện nay. Ngoài ra, nhân giống dinh dưỡng là một thủ pháp không thể

thiếu được trong tiến hành bất kỳ trong một chương trình chọn giống nào.




3
Song cần nhận thấy rằng, nhân giống cây rừng bằng hom không chỉ thay đổi
phương thức sản xuất cây con, mà quan trọng hơn là để sản xuất cây con có
chất lượng di truyền được cải thiện [13]. Đối với cây Sao đen nhân giống
bằng hom mới chỉ thực sự bắt đầu, cần được ưu tiên phát triển trồng cây bản
địa gỗ lớn này. Xuất phát từ vấn đề trên tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
ảnh hưởng của một số yếu tố nội tại đến khả năng hình thành cây hom Sao
đen (Hopea odorata Roxb) tại trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm rút ngắn thời gian, giảm chi phí trong nhân giống, tạo
ra được cây con đảm bảo số lượng và chất lượng, cung cấp giống cho công
tác trồng rừng hiện nay.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Lựa chọn được loại hom đem giâm cho tỷ lệ ra rễ tốt nhất để sản xuất
cây giống Sao đen.
Lựa chọn được kích thước hom đem giâm cho tỷ lệ ra rễ tốt nhất để sản
xuất cây giống Sao đen.
1.4. Ý nghĩa nghiên cứu
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
+ Các kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo
và xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất giống cây Sao đen.
+ Giúp cho sinh viên làm quen với thực tế sản xuất, biết áp dụng và kết
hợp giữa lý thuyết và thực hành.
+ Tạo cho sinh viên một tác phong làm việc tự lập khi ra thực tế.
- Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất

Kết quả nghiên cứu vận dụng vào thực tế để sản xuất cây giống Sao đen




4
Phần 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. Cơ sở khoa học của phương pháp nhân giống bằng hom
Nhân giống bằng hom là phương pháp dùng một phần lá, một đoạn thân,
đoạn cành hoặc đoạn rễ để tạo ra cây mới gọi là cây hom, cây hom có có đặc
tính di truyền như của cây mẹ.Nhân giống bằng hom là phương pháp có hệ số
nhân giống lớn tương đối rẻ tiền nên được dùng phổ biến trong nhân giống cây
rừng, cây cảnh và cây ăn quả [5].
Vấn đề có ý nghĩa quyết định trong giâm hom là làm cho hom ra rễ, còn
thân cây sẽ được hình thành từ chồi bên hoặc chồi bất định. Nếu sử dụng hom
lá thì hom phải hình thành cả rễ và thân mới. Tuy nhiên khả năng hình thành
rễ và thân phụ thuộc vào đặc điểm di truyền của loài cây, bộ phận của cây lấy
làm giống cũng như loại tế bào đã phân hóa của cây, do đó người ta phải tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho chúng ra rễ.
Cơ sở tế bào của sự hình thành rễ bất định:
Rễ bất định là rễ sinh ra ở bất kì bộ phận nào của cây ngoài hệ rễ của nó,
rễ bất định có thể sinh ra tự nhiên (ví dụ: Đa, Si, khi ra rễ là mọc từ cành và
đâm dài xuống đất, còn cây Cau, Dừa thì rễ lại mọc ra từ giữa các thân).
Có hai loại rễ bất định là: Rễ tiềm ẩn và rễ mới sinh, rễ tiềm ẩn là rễ có
nguồn gôc tự nhiên trong thân, cành cây nhưng chỉ phát triển khi đoạn thân
hoặc cành đó tách ra khỏi cây, còn rễ mới sinh được hình thành khi cắt hom
và là hậu quả của phản ứng với vết cắt, khi hom bị cắt các tế bào sống ở vết
cắt bị tổn thương và các tế bào dẫn truyền của mô gỗ được hở ra và gián đọan,

sau đó quá trình tái sinh xảy ra theo ba bước: Các tế bào bị thương ở mặt một
lớp bần, mạch gỗ được đậy lại bằng keo, lớp bảo vệ này giúp cho mặt cắt khỏi
thoát nước.
+ Các tế bào sống ở ngay dưới lớp bảo vệ đó sẽ bắt đầu phân chia ngay
sau khi bị cắt vài ngày và có thể hình thành một lớp mô mềm. Các tế bào ở
vùng lân cận của tượng tầng mạch và li be bắt đầu hình thành rễ bất định.




5
+ Cây gỗ có một hoặc nhiều lớp mô gỗ thứ cấp và li be thì rễ bất định
thường phát sinh ở tế bào như mô còn sống của hom bắt nguồn từ li be thứ
cấp còn non. Tuy nhiên, đôi khi rễ bất định cũng phát sinh từ mạch dây, tượng
tầng, li be, bì khổng và tủy.
Nói chung, các rễ bất định thường được hình thành bên cạnh và sát ngoài
lõi trung tâm của mô mạch và ăn sâu trong thân (cành) tới gần ống mạch sát
bên ngoài tượng tầng.
Như vậy: Việc giâm hom để hình thành bộ rễ mới là quan trọng nhất, sau
đó là số lượng rễ trên hom, chiều dài của rễ.
Cơ sở sinh lý của sự hình thành chồi và rễ bất định
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ ra rễ trong quá trình giâm hom
về cơ bản có thể chia làm 2 nhóm chính: Nhóm nhân tố nội sinh và nhóm
nhân tố ngoại sinh [12].
Các nhân tố nội sinh:
Đặc điểm di truyền của loài:
Kết quả nghiên cứu của (A.D Komixarop, 1964: B.Martin, 1974; Nanda,
1970 ) đều đi đến một kết luận chung nhất là: Các loại cây khác nhau thì đặc điểm
ra rễ khác nhau. Các tác giả này đã dựa vào khả năng ra rễ để chia làm 3 nhóm:
+ Nhóm dễ ra rễ: bao gồm các loại cây không cần sử dụng chất kích

thích vẫn có tỉ lệ ra rễ cao, nhóm này gồm 29 loại như: Đa, Sung, Tre, Nứa,
Dương…

+ Nhóm khó ra rễ: bao gồm các loại hầu như không ra rễ hoặc phải dùng
chất kích thích rễ mà vẫn cho tỷ lệ ra rễ thấp.
+ Nhóm ra rễ trung bình: bao gồm các loại chỉ sử dụng chất kích thich
với nồng độ thấp cũng có thể ra rễ với tỉ lệ cao.
Đặc điểm di truyền của từng xuất xứ, từng các thể:
Trong một chi, các loài khác nhau cũng có đặc điểm ra rễ khác nhau
(ví dụ: Bạch đàn trắng có tỉ lệ ra rễ 50- 90%, nhưng với Europhylla chỉ ra
rễ 15- 35,5%.




6
Trong một loài các xuất xứ khác nhau có tỷ lệ ra rễ khác nhau.
E.camaldulensis xuất xứ Victroria River 60,0%, còn E.camaldulensis xuất xứ
Gibb River là 85,0 %, E.camaldulensis xuất xứ Nghĩa Bình: 35% [3].
Tuổi cây mẹ và tuổi cành lấy hom:
Khả năng ra rễ không những do tính di truyền quyết định mà còn phụ
thuộc rất lớn vào tuổi cây mẹ và tuổi cành lấy hom, nó ảnh hưởng rất lớn đến
lỷ lệ ra rễ của hom, nhất là đối với loài cây khó ra rễ. Nhìn chung cây mẹ càng
già thì tỷ lệ ra rễ của hom càng giảm, cây chưa sinh sản bằng hạt thì dễ nhân
giống bằng hom hơn khi cây đã sinh sản bằng hạt, ví dụ: Hom cây Mỡ 1 tuổi
thì tỷ lệ ra rễ là 98%, Mỡ 3 tuổi la 47%, 20 tuổi thì không ra rễ [4]. Sự thành
thục của cây mẹ là một trở ngại cho giâm hom, song ngày nay con người đã
biết khác phục bằng các biện pháp như: ghép, chiết, giâm hom, nuôi cấy mô
phân sinh, các biện pháp cơ giới như chặt, khoanh vỏ, hoặc các biện pháp lâm
sinh như tưới nước, bón phân.

Vị trí lấy hom trên cây và trên cành:
Hom lấy từ cành ở các vị trí khác nhau trên tán cũng có tỷ lệ ra rễ khác
nhau. Trên một cành, hom ở các vị trí khác nhau cũng có tỷ lệ ra rễ khác
nhau. Như vậy, với mỗi loài cây và vị trí lấy hom khác nhau thì tỷ lệ ra rễ
khác nhau. Vấn đề là xác định vị trí lấy hom tốt nhất cho mỗi loài (ví dụ: với
Keo lá tràm và Keo tai tượng thì hom ngọn và hom sát ngọn có tỷ lệ ra rễ cao
hơn (93,3% - 100%) so với hom giữa và hom sát gốc (66,7 % - 97,6 %).
Theo thuyết phát triển giai đoạn thì gốc là phần non nhất của một cây, vì
vậy hom lấy ở phần này cho tỷ lệ ra rễ cao. Điều đó giải thích tại sao khi cần
trẻ hóa một cây thành thục người ta thường chặt cây sát mặt đất để tạo ra
những trồi bất định mới.
Hiện nay nhân giống sinh dưỡng cây họ Dầu thường gặp khó khăn là xảy ra
hiện tượng bảo lưu cục bộ (Topophysis) nên tỉ lệ chồi thẳng đứng rất thấp.




7
Với cây dọ Dầu đặc biệt là Sao đen, hiện tượng bảo lưu cục bộ sảy ra
nhiều hơn [10]. Các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng mặc dù 87% hom cành
của sao đen sống 1 năm sau nhưng chỉ 7% tạo thành thân chính. Số cành thu
được bằng cách chặt ngang mặt đất, sau 6 tháng chỉ có 14%-22% số cây hom
tạo thành thân chính. Nghiên cứu về cây Sao đen và Dầu nước ở Việt Nam,
gần đây cho thấy 100% cây hom có nguồn gốc từ cành bên phát triển theo
hướng nghiêng và tác giả đề nghị: tốt hơn hết là lấy hom từ thân chính hoặc
trồi thẳng để tạo cây hom. Có thể khắc phục hiện tượng bảo lưu cục bộ bằng
cách lấy cành từ rễ cây non và chồi bất định để giâm hom [2].
Sự tồn tại của lá trên hom:
Ánh sáng là nhân tố không thể thiếu được trong quá trình ra rễ của hom,
lá là cơ quan hấp thụ ánh sáng trong quang hợp để tạo ra các chất hữu cơ cần

thiết cho cây, đồng thời lá giữ vai trò quan trọng trong viêc xây dựng các mô
phân sinh của rễ ở các hom cành chưa hóa gỗ, lá là cơ quan thoát hơi nước để
khuyếch tán tác dụng của chất kích thích ra rễ đến các bộ phận của hom, lá là
cơ quan điều tiết các chất điều hòa sinh trưởng ở hom giâm.
Ảnh hưởng của kích thước hom:
Đường kính và chiều dài của hom cũng ảnh hưởng đến tỉ lệ ra rễ của
hom giâm. Từ các kết quả nghiên cứu, D.A Komixarop (1964) với nhiều loại
cây thấy rằng hom có kích thước lớn tốt hơn hom có kích thước nhỏ. Tuy
nhiên, hom cắt từ cây có đường kính nhỏ khả năng phát sinh ra rễ thấp, hom
cắt từ cây lớn ra rễ cũng không tốt, các thí nghiệm của Trung tâm nghiên cứu
giống cây rừng cho thấy: chiều dài hom Bạch đàn, Keo 7-10cm. Phi lao: 10-
12cm là thích hợp.
Với các loài câu họ Dầu (Dipterocarpaeae) các nước Đông nam châu Á
như Indonexia, Malaysia, tường hom dài 10-12cm, dài nhất 15-20cm, với một
đốt của một phần lá.




8
Ảnh hưởng của tuổi chồi gốc và tuổi gốc:
Tuổi chồi gốc và tuổi gốc ảnh hưởng đến tỉ lệ ra rễ của hom giâm. Các
thí nghiệm với hom Bạch đàn và các loài keo Tai tượng và keo Lá tràm ở
Trung tâm nghiên cứu giông cây rừng cũng cho thấy: sau khi chặt gốc hai
tháng lấy hom thì hom có tỉ lệ ra rễ cao. Với loại Keo lai, ở một số nước Đông
Nam Á thường chặt cây dưới 5 tuổi để thu chồi gốc lấy hom.
Như vậy, tuổi gốc cũng ảnh hưởng đến tỉ lệ ra rễ của hom (ví dụ: cây
Mỡ, hom trồi gốc ở các cây 17-23 tuổi cho tỉ lệ ra rễ 75-85%. Điều này cho
phép sử dụng chồi ở các cây trội để nhân giống phục vụ công tác trồng rừng.
Chất điều hòa sinh trưởng:

Trong các chất điều hòa sinh trưởng auxin được coi là những chất quan
trọng nhất trong quá trình ra rễ của hom. Song nhiều chất tác động cùng auxin
cũng tồn tại một cách tự nhiên trong các mô của hom giâm và tác động đến
quá trình ra rễ của chúng. Những chất quan trọng nhất là Rhirocalin, đồng
nhân tố ra rễ và chất kích thích kìm hãm ra rễ (Tewari,1993).
+ Rhirocalin: được coi là cần thiết cho hình thành rễ của nhiều loại cây.
Builena, 1964 cho rằng: Rhirocalin là một phức chất của 3 nhân tố. (1). Nhân
tố đặc thù có khả năng chuyển dịch, có nhóm hiphenol được sản sinh từ lá
dưới ánh sáng. (2). Nhân tố không đặc thù là linh hoạt (auxin) tồn tại ở các
nồng độ theo giới hạn sinh lý. (3). Các enzym đặc thù có thể ở dưới dạng
phenol-Oxydaza nằm ở biểu bì, phloem và tượng tầng phức hợp hai chất đầu
cùng với chất thứ ba tạo thành Rhizocalin phát động ra rễ ở hom giâm.
+ Đồng nhân tố ra rễ: Hess, 1961 cho rằng có một số chất nội sinh điều
phối hoạt tính của IAA gây nên khởi động ra rễ và gọi là đồng nhân tố. Một
số chất thuộc loại này về sau đã được xác định là axit Chlozogenic, axit
isochlozogenic và chất kích thích khác chưa rõ. Những nghiên cứu sau này
của các tác giả khác cũng ủng hộ đồng nhân tố.





9
+ Các chất kích thích ra rễ và kìm hãm ra rễ: nhiều nghiên cứu đã nêu
lên sự tồn tại của chất kích thích ra rễ trong các mô của các loài cây dễ ra rễ
các chất kích thích và kìm hãm ra rễ đều có thể tồn tại ở hầu hết thực vật, tiềm
năng ra rễ của hom giâm được xác định bằng nông độ tương đối của chất này,
các loài cây dễ ra rễ chứa nồng độ các chất kích thích ra rễ và ngược lại.
Các nhân tố ngoại sinh:
Điều kiện sinh sống của cây mẹ lấy cành

Điều kiện sinh sống của cây mẹ lấy cành có ảnh hưởng khá rõ đến tỷ lệ ra
rễ của hom giâm, nhất là hom lấy từ những cây non (ví dụ: hom lấy từ cây 3 tuổi
của loài Picea abies, Pinus resinosa … Có bón phân hữu cơ và phân khoáng đã
có tỷ lệ ra rễ cao hơn rõ rệt so với hom lấy từ cây không được bón phân.
Điều kiện chiếu sáng cho cây mẹ lấy cành cũng ảnh hưởng đến khả năng
ra rễ của hom giâm, ví dụ: Komisrov,1964 đã có thí nghiệm tổng hợp về ảnh
hưởng của ánh sáng, độ ẩm không khí và độ ẩm đất đến tỷ lệ ra rễ của hom
cây Sồi 1 tuổi và thấy rằng hom lấy từ cây trồng ở nơi có ánh sáng tán xạ lớn,
độ ẩm không khí và độ ẩm đất cao có tỷ lệ ra rễ 64%-92%, trong lúc hom lấy
từ cây trồng ở nơi có ánh sáng mạnh, độ ẩm không khí và độ ẩm đất thấp chỉ
có tỷ lệ ra rễ 44-68%, còn đối với cây 18 tuổi, dù mọc ở điều kiện nào cũng
không ra rễ, từ đó tác giả nhận định là các điều kiện cây trồng có ảnh hưởng
đến tỷ lệ ra rễ của hom lấy từ cây non, song không có ảnh hưởng đến tỷ lệ ra
rễ của hom lấy từ cây lớn tuổi.
Thời vụ giâm hom
Thời vụ giâm hom là một trong những nhân tố quan trọng nhất ảnh
hưởng đến sự ra rễ của hom giâm. Tỷ lệ ra rễ của hom giâm phụ thuộc vào
thời vụ lấy cành và thời vụ giâm hom, một số loại cây có thể giâm hom quanh
năm, nhưng một số loài thì cần có thời vụ nhất định, mùa mưa là mùa giâm
hom có tỷ lệ ra rễ cao nhất của nhiều loại cây, trong khi một số loài khác lại ra
rễ cao nhất vào mùa xuân. Hom lấy trong thời kỳ cây mẹ có hoạt động sinh
trưởng mạnh thường có tỷ lệ ra rễ cao hơn so với các thời kỳ khác.




10
Nhiệt độ không khí và nhiệt độ giá thể
Cùng với ánh sáng nhiệt độ là một trong những nhân tố quyết định tốc
độ ra rễ của hom giâm, ở nhiệt độ quá thất, hom nằm ở trạng thái tiềm ẩn và

không ra rễ, còn ở nhiệt độ quá cao lại tăng cường hô hấp và bị nóng, từ đó
cũng làm giảm tỷ lệ ra rễ của hom.
Các loài cây nhiệt đới cần nhiệt độ không khí trong nhà giâm hom thích
hợp cho ra rễ là 28-33
0
C và nhiệt độ giá thể thích hợp là 25-30
0
C (longman,
1993). Trong lúc các loài cây vùng lạnh cần nhiệt độ không khí trong nhà
giâm hom thích hợp 23-27
0
C, nhiệt độ giá thể thích hợp là 22-24
0
C (Dansin,
1983). Nói chung, nhiệt độ không khí trong nhà giâm hom nên cao hơn nhiệt
đọ giá thể 2-3
0
C. theo D.A. Komixarov thì nhu cầu về nhiệt cho ra rễ của hom
các loài thực vật biến động trong một phạm vi rộng và phụ thuộc vào đặc
điểm sinh thái của chúng. Song nhiệt độ thích hợp cho ra rễ còn phụ thuộc
vào mức độ hóa gỗ của hom, hom hóa gỗ yếu ra rễ tốt hơn trong điều kiện
nhiệt độ giảm thấp (20-22
0
C) so với khi ở nhiệt độ cao (27-30
0
C) các loài cây
họ Dầu như: Shirea, Bracteolata và Hopca odolata…. Ra rễ tốt nhất ở nhiệt độ
không khí 28-32
0
C, nhiệt độ thấp nhất 15

0
C thì sắc tố của lá giảm, còn nhiệt
độ cao > 35
0
C làm héo lá và tăng tỷ lệ héo lá các loài khó ra rễ và ra rễ trung
bình như: Thông, Sồi,… ra rễ của hom tốt hơn đáng kể khi nhiệt độ giá thể
cao hơn nhiệt độ không khí 4-5
0
C
Độ ẩm không khí và đọ ẩm giá thể
Độ ẩm không khí và độ ẩm giá thể là nhân tố hết sức quan trong trong
quá trình giâm hom. Các hoạt động quang hợp, hô hấp, phân chia tế bào và
chuyển hóa vật chất trong cây đều cần nước, thiếu nước thì hom bị héo,
nhiều nước quá thì hoạt động của men thủy giải tăng lên, quá trình quang
hợp bị ngừng trệ, khi giâm hom mỗi loại cây cần một độ ẩm thích hợp, làm
mất độ ẩm của hom từ 15-20% thì hom hoàn toàn mất khả năng ra rễ. Đối
với nhiều loại cây, độ ẩm thích hợp cho các thể cắm hom là 50-70%. Yêu




11
cầu độ ẩm không những thay đổi theo loại cây mà còn thay đổi theo mức độ
hóa gỗ của hom giâm. Nhiều loại cây hom hóa gỗ yếu nên yêu cầu độ ẩm giá
thể thấp và độ ẩm không khí cao, trong khi hom nửa hóa gỗ lại yêu cầu độ
ẩm giá thể cao hơn.
Giá thể cắm hom
Giá thể cắm hom là nơi cắm hom sau khi đã sử lý chất kích thích ra rễ.
Nếu hom được cắm trực tiếp trên giá thể là đất vườn ươm hoặc trong bầu, cần
chọn đất cát pha để đảm bảo độ thoát nước trung bình, không tạo cho giá thể

quá khô hoặc quá ướt. Để chống nấm bệnh, giá thể và hom đều phải được xử
lí thuốc diệt nấm như: Benlat, Seradix, đối với giá thể xử lí thường xuyên
nồng độ 6-10g/10lit nước 10-15 ngày mới tưới một lần, tưới đều lên giá thể
để đảm bảo vệ sinh, không được đem các vật thể dễ lây truyền nấm bệnh vào
nhà kính hoặc nhà giâm hom.
Sử dụng chất điều hòa sinh trưởng:
Các chất điều hòa sinh trưởng có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá
trình hình thành bộ rễ của hom giâm. Để cho hom ra rễ thì mỗi loài cây phải
được xử lí một loại thuốc với nồng độ và thời gian thích hợp.
+ Các auxin (hay loại thuốc kích thích ra rễ)
Đa số hom các loại cây đều xử lí bằng các chất kích thích thì mới mọc
rễ, trong đó các auxin là các chất được sử dụng nhiều nhất, các auxin được
chia thành hai nhóm là auxin tự nhiên và auxin tổng hợp, auxin tự nhiên được
viết là IAA (axit Indol- axitic). Các auxin tổng hợp là IBA (axit Indol-butiric);
IPA (axit Indol-propionic) và NAA (axit Napthalen-axetic). Các chất được
dùng kích thích ra rễ hiện nay chủ yếu là những chất nói trên hoặc dẫn xuất
của chúng.
Các loại chất kích thích ra rễ thường dùng hiện nay là: IAA, IBA, NAA
ở dạng tinh khiết hay dạng thương phẩm như Seradix Exuberon, ABT… tuy




12
vậy trong từng trường hợp cụ thể thì auxin lại có hiệu quả ra rễ khác nhau đối
với từng loại cây khác nhau và các loại thuốc khác nhau.
Thí nghiệm giâm hom của các loại Bạch đàn trắng, Mỡ, Sở tại Trung
tâm nghiên cứu giống cây rừng đã thấy rằng IBA là chất có hiệu quả ra rễ cao
nhất đối với Bạch đàn trắng: 93,8%, IAA và 2,4D là chất cho hiệu quả ra rễ
cao nhất đối với cây Mỡ: 85%, còn đối với cây Sở, hiệu quả ra rễ cao nhất:

75% lại thuộc về chất NAA. Vì thế, cần phải xác định chất kích thích phù hợp
với từng loại cây mới phát huy được tác dụng của chúng.
Xử lí bằng thuốc nước:
Khi xử lý hom bằng thuốc nước thì nồng độ và thời gian xử lý ảnh
hưởng rất lớn đến tỉ lệ ra rễ của hom giâm. Nồng độ xử lý quá thấp, không có
tác dụng phân hóa tế bào để hình thành ra rễ của hom giâm. Nồng độ quá
thấp, không có tác dụng phân hóa tế bào để hình thành rễ, nồng độ quá cao
hom thối rữa trước lúc rễ hình thành, nồng độ thấp phải xử lý thời gian dài,
còn nồng độ cao thì phải xử lý trong thời gian ngắn.
Thí nghiệm nghiên cứu 3 nồng độ: 300ppm, 600ppm, 900ppm. Ví dụ: hom
thông đuôi ngựa 2 tuổi được xử lý bằng thuốc nước IBA nồng độ 75ppm,
100ppm, 150ppm trong 8h có tỷ lệ ra rễ tương ứng là: 60%, 80%, 87%.
Khi lựa chọn nồng độ chất kích thích ra rễ cần chú ý đến nhiệt độ không
khí và mức độ hóa gỗ của hom. Trong quá trình giâm hom khi nhiệt độ cao
cần xử lý với nồng độ thấp hơn và ngược lại. Hom quá non (chưa hóa gỗ)
phải xử lý với nồng độ thấp, ngược lại hom hơi già (cần hóa gỗ hoàn toàn)
phải xử lý với nồng độ cao hơn. Cái khéo của người thực hiện là chọn được
nồng độ thích hợp với từng loại hom để nhận được tỷ lệ ra rễ cao nhất.
Xử lý bằng thuốc bột:
Xử lý thuốc nước thường có hiệu quả ra rễ cao, song tốn rất nhiều thời
gian và không thuận lợi, vì thế trong những năm gần đây, nhiều nước đã
chuyển sang sử dụng các dạng thuốc bột thương phẩm để xử lý ra rễ như:




13
Seradix, Hormodin, Hormex…, đó là các dạng bột thương phẩm có chứa IBA
ở các nồng độ khác nhau. Thuốc bột TTG được sử dụng ở trung tâm giống
cây rừng là một dạng thương phẩm của IBA.

Xử lý thuốc bột tuy tỷ lệ ra rễ thường thấp hơn so với xử lý bằng thuốc
nước, song là phương pháp đơn giản, dễ thao tác, nên rất dễ áp dụng ở các cơ
sở sản xuất. Trong một số trường hợp xử lý thuốc bột TTG cho Bạch đàn
trắng không những có tỷ lệ ra rễ cao mà số rễ mà chiều dài rễ còn lớn hơn xử
lý bằng thuốc nước (ví dụ: nhân giông Phi lao bằng hom ở dạng bột 0,2%;
76,6% ra rễ.
Xử lý hỗn hợp các chất điều hòa sinh trưởng
Các auxin có vai trò khá quan trọng trong quá trình hình thành rễ của
hom giâm, vì thế khi sử dụng riêng lẻ có thể chỉ gây hiệu quả từng mặt, còn
khi dùng ở dạng hỗn hợp sẽ tạo được hiệu quả tổng hợp và tăng tỷ lệ ra rễ của
hom giâm, biết lựa chọn các chất với nồng độ thích hợp sẽ làm tăng hiệu quả
của thuốc và làm giảm giá thành cây hom (ví dụ: Thí nghiệm xử lý thuốc
nước IBA + NAA cho Tinia Platyphyllos (Komixarov,1964) và xử lý hỗn hợp
thuốc bột IAA + IBA cho Phi lao, đã thấy rằng tỷ lệ ra rễ và số rễ và chiều dài
rễ ở các công thức hỗn hợp đều cao hơn rỗ rệt so với xử lý hom bằng chất
riêng lẻ, kết quả là: Xử lý thuốc nước IBA + NAA cho hom Tilia Platyllos tỷ
lệ ra rễ là 90%, chỉ số rễ: 17,0, còn xử lý hỗn hợp thuốc bột IAA+ IBA cho
hom phi lao có tỷ lệ ra rễ là: 60% và chỉ số ra rễ là: 17,0, còn xử lý riêng lẻ
thuốc IBA cho hom phi lao thì tỷ lệ ra rễ: 33%, chỉ số ra rễ; 11,7 và cho hom
Tilia Platyphyllos cũng tương tự…
Thời gian xử lý thuốc
Cùng một loại thuốc, cùng một nồng độ, nhưng thời gian xử lý khác
nhau cũng cho kết quả khác nhau. Cần chú ý là giữa thời gian xử lý, nồng độ
và nhiệt độ không khí có mỗi quan hệ nhất định nên cần phải điều chỉnh sao
cho thích hợp thì kết quả ra rễ của hom mới được cải thiên, nếu nồng độ chất




14

kích thích cao, cần xử lý với thời gian ngắn và ngược lại. Nếu nhiệt độ không
khí cao cần xử lý với nồng độ thấp và thời gian ngắn hơn.
Phương pháp xử lý hom:
Thông thường hom được xử lý bằng cách ngâm hom trong dung dịch
chất kích thích ra rễ hoăc chấm phần gốc của hom vào hỗn hợp chất kích
thích dạng bột. Lars schmist (1993) đã nêu lên 3 cách xử lý sau:
Chất kích thích ra rễ là hỗn hợp chất tan thì phần gốc của hom được
nhúng vào nước và chấm vào thuốc, sao cho thuốc dính vào gốc hom. Chất
kích thích là dung dịch có nồng độ thấp 20-200ppm phần gốc hom được
nhúng vào dung dịch 24h, chất kích thích ra rễ có nồng độ 500-1000ppm,
phần gốc của hom được nhúng nhanh vào dung dịch 4-5 giây.
Tóm lại: xử lý hom bằng dung dịch có ưu điểm là tăng tỉ lệ ra rễ của
hom, nhưng không thích hợp cho sản xuất lớn. Dang hỗn hợp bột phù hợp cho
sản xuất theo quy mô lâm nghiệp.
Dạng dung dịch thường được dùng trong nghiên cứu hoặc các thí nghiệm
có lượng hom ít hay loại cây rất khó ra rễ. Dạng hỗn hợp bột dễ áp dụng cho
yêu cầu sản xuất số lượng lớn của cây hom.
Nhận xét:
Như vậy, để hình thành một bộ rễ mới phải trải qua quá trình rất phức
tạp, tổng hợp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nội sinh, ngoại sinh, sử dụng
các chất điều hòa sinh trưởng (auxin) Quá trình hình thành rễ phải trải qua
rất nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn cần phức hệ nhất định các điều
kiện và hoàn cảnh, có thể nói chọn đúng thời gian giâm hom, cây tuổi mẹ lấy
hom (ngọn), chọn đúng thuốc xử lý và nồng độ thích hợp, kết hợp với các yếu
tố kỹ thuật chăm sóc tốt… thì hom xẽ có tỉ lệ ra rễ cao nhất, chất lượng của
bộ rễ tốt nhất. Chính vì vậy, nắm chắc cơ sở khoa học của việc nhân giống
bằng hom thì hom giâm sẽ đạt tỉ lệ cao nhất.





15
2.2. Những yêu cầu kỹ thuật cơ bản khi giâm hom
Vật liệu giâm hom rất nhạy cảm với sự mất nước và dễ bị nhiễm bệnh.
Hom phải ở độ hóa gỗ thích hợp cho từng loại cây và được bảo quản tốt. Khi
giâm hom yêu cầu: Không cắt hom quá già hoặc quá non, hom đã cắt không
được để dưới ánh nắng mặt trời. Vật liệu giâm hom không nên lấy quá xa nơi
giâm hom và không nêu cất giữ quá 1 ngày, khi vận chuyển phải cất giữ hom
trong bình lạnh và phải giữ đủ ẩm. Hom phải được ngắt bỏ hết hoa, nụ hoa,
chồi phụ đã ra lá, đối với cây lá kim, hom phải có đủ búp ngọn, hom giâm
không ngắn dưới 5cm, song cũng không dài quá 10cm. Khi cắt hom phải
dùng dao ghép sắc để hom không bị dập nát và xây xước. Phải xử lý thuốc
chống nấm bệnh trước khi sử dụng thuốc kích thích ra rễ, phải để lại một số lá
tối thiểu ở phía trên cho hom giâm và phải cắt bớt phiên lá, song phải cắt hết
lá ở phần giâm dưới đất. Giâm hom phải đặt trong lều nilon để giữ ẩm và giữ
nhiệt, trên lều có mái che để tránh ánh nắng trực xạ và giảm bớt cường độ
sáng. Giá thể giâm hom phải thoát nước tốt và không bị nấm bệnh phải
thường xuyên tưới phun mù đủ ẩm và giữ đủ độ ẩm không khí cho hom giâm.
Vậy để giâm hom thành công cho bất cứ loại cây nào đều phải kết hợp
một cách đầy đủ và đồng bộ, các biện pháp kỹ thuật cần thiết từ khâu chăm
sóc cây mẹ lấy cành đến lấy hom và giâm hom cũng như việc tạo diều kiện
cần thiết để hom dễ ra rễ. Sau khi hom ra rễ lại phải biết huấn luyện cây hom
để chúng thích ứng dần với điều kiện vườn ươm và rừng trồng.
2.3. Những nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam
2.3.1. Trên thế giới
Cho đến nay, trên thế giới đã có 3 cuộc hội nghị bàn về họ sao dầu
(1976, 1980, 1985), qua đó các nhà nghiên cứu đã chỉnh lý lại tên của nhiều
loại cây trong họ này và đảo Borneo thuộc Indonesia được xác định là trung
tâm phát sinh của họ sao dầu (Dipterocarparceae).





16
Trong Lâm Nghiệp, nhân giống sinh dưỡng cho cây rừng đã được sử
dụng trên 100 năm nay. Ngay từ năm 1940, Marrier de Boisdyver (người
pháp) đã ghép 10000 cây Thông đen. Năm 1883, Velinski A.H công bố công
trình nhân giống của một số loài cây lá kim và cây lá rộng thường xanh bằng
hom. Ở Pháp năm 1969, Trung tâm Lâm nghiệp nhiệt đới bắt đầu chương
trình nhân giống cho các loại Bạch đàn, năm 1973 mới có 1ha rừng trồng
bằng cây hom thì đến năm 1986 đã có khoảng 24000 ha rừng trồng bằng hom,
các rừng này đạt tăng trưởng bình quân 35m
3
/ha/ năm.
Theo tài liệu của Trung tâm giống cây rừng Asean- Canada (gọi tắt là
ACFTSC), những năm gần đây, nghiên cứu và sản xuất cây hom được tiến
hành ở các nước Đông nam Á
Ở Thái lan, Trung tâm giống cây rừng ASEAN - Canada đã có những
nghiên cứu nhân giống bằng hom từ năm 1988, nhân giống với các hệ thống
phun sương mù tự động không liên tục được sây dựng tại các chi nhánh vườn
ươm của Trung tâm, đã thu được nhiều kết quả đối với các cây họ dầu, với 1
ha vườn giống sao đen 5 tuổi có thể sản xuất 200.000 cây hom, đủ trồng 455-
500 ha rừng.
Ở Malaysia, nhân giống sinh dưỡng các loại cây họ Sao dầu bắt đầu từ
những năm 1970, hầu hết các nghiên cứu được tiến hành ở viện nghiên cứu Lâm
nghiệp Malaysia, ở trường Đại học Tổng hợp Pertanian, Trung tâm nghiên cứu
Lâm nghiệp Sepilok, cũng đã báo cáo các công trình có giá trị về công trình nhân
giống sinh dưỡng cây họ Dầu. Tuy nhiên cho đến nay, tỷ lệ ra rễ của các cây họ
dầu còn quá thấp, sau khi thay đổi các phương tiện nhân giống như: các phương
pháp vệ sinh tốt hơn, che bóng hiệu quả hơn, phun sương mù, kỹ thuật trẻ hóa

cây mẹ,… thì tỷ lệ ra rễ được cải thiện (ví dụ: Hopea odorata có tỷ lệ ra rễ 86%,
Shorea Leprosula 71%, Shoera Parvifolia 70%,…
Ở Malaysia, việc giâm hom cho Sao đẹn được Alias tiến hành từ năm
1984, song không đem lại kết quả như mong muốn, từ năm 1991 đến năm
1994 Aminah tiếp tục nghiên cứu xử lý hom Sao đen bằng thuốc bột Seradix




17
(IBA 0,8%) và thấy rằng tỷ lệ ra rễ cao nhất cho hom từ cây 6-12 tháng tuổi là
75%, cây 18-20 tháng tuổi là 50%, đến năm 1996 tác giả này đã đạt được tỷ lệ
ra rễ cho Sao đen cao hơn. Nhân giống sinh dưỡng cho các loai cây họ Dầu
như loài Shorea Macrophylla đã được các nhà Lâm nghiệp đặt loài cây họ
Dầu được chú ý trong chương trình thuần hóa các loài cây nhiệt đới. Hai
phương pháp nhân giống được áp dụng là nhân giống trong buồng dưới hệ
thống phun mù tự động và nhân trên các luống nhân hom, phương pháp thứ
nhất thu được khoảng 90% đến 100% số hom ra rễ và được áp dụng để sản
xuất cây giống phục vụ trồng rừng, phương pháp thứ 2 thu được 60%- 80% số
hom ra rễ và được áp dụng rộng rãi ở nhiều địa phương.
Ở Brunei, nhân giống dinh dưỡng họ dầu bắt đầu từ năm 1987, có sự hợp
tác quốc tế với Nhật Bản ở Trung tâm Lâm nghiệp Brunei tại Sungai Liang đã
nghiên cứu giâm hom trồi của cây Shorea assmica ra rễ thành công sau 3
tháng ở môi trường tro núi lửa, nước không khí, cát khô, được sử dụng như
môi trường giâm hom trong hệ thống phun sương bao kín.
Ở Philippines, trong khi tỷ lệ ra rễ khi chiết chỉ đạt 10% đối với loài
D.Grandifolius đến 25% đối với loài Anisoptera Thurifera, thì kết quả giâm
hom đã đạt được với các loài sau 3 tháng như: Shorea almon tỷ lệ ra rễ 56%,
Shorea Quamata 44% và D.Grandifolius không ra rễ.
Ở Indonesia, các nghiên cứu nhân hom cây họ Dầu được tiến hành tại

chạm nghiên cứu cây họ Dầu Wanariset đã áp dụng phương pháp nhân giống
mới ‘‘Tắm bong bong”, sử dụng phương pháp này thu được tỷ lệ ra rễ 90%-
100% với các loài Shorea Leprosula, Shorera blanco,… 23 loài, trong đó số
loài Dipterocapus đã thành công nhờ sử dụng kỹ thuật nhân giống này (Smith,
1990). Một vườn ươm lớn ở trạm nghiên cứu Wanariset thuộc cơ quan của
Indonesia về nghiên cứu và phát triển Lâm nghiệp đã chấp nhận phương pháp
này để sản xuất cây hom đại trà, mỗi năm sản xuất 500 ngàn cây hom cho các
trương trình trồng rừng.




18
Ở Trung Quốc đã xây dựng được quy trình công nghệ sản xuất cây con
bằng mô hom cho Bạch đàn, Sở, Trà mi,….
2.3.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Từ lâu trong sản xuất nông-lâm nghiệp, người dân Việt Nam đã biết sử
dụng các phương pháp nhân giống sinh dưỡng như chiết, ghép các loại cây ăn
quả, cây cảnh. Người nông dân đã biết trồng cây bằng hom cho các loài tre,
trúc, sắn, mía…, song với loài cây rừng nhân giống bằng hom mới được chú ý
từ năm 1979 trở lại đây
Lần đầu tiên vào năm 1976, những thực nghiệm về nhân giống hom với
một số loài Thông và Bạch đàn được tiến hành tại trung tâm nghiên cứu cây
có sợi Phù Ninh-Phú Thọ. Đây là nghiên cứu sơ khai, song đã mở đầu cho các
nghiên cứu thực nghiêm tiếp sau này ở Việt Nam.
Những năm 1983-1984, các thực nghiêm bằng nhân giống bằng hom được
tiến hành tại Viên Lâm Nghiệp (nay là Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt
Nam), đối tượng nghiên cứu là loài Mỡ Lát hoa, Bạch đàn. Nội dung nghiên
cứu cứ tập chung vào các đặc điểm cấu tạo giải phẫu của hom, ảnh hưởng nhiệt
độ, nhiệt độ môi trường, và xử lí các chất kích thích ra rễ đến tỉ lệ sống và ra rễ

của hom giâm. Cũng trong thời gian này, phân viện Lâm nghiệp phía Nam
cũng có một số thực nghiệm giâm hom cho một số loại cây: Sao đen, Dầu
nước,… Song nhìn chung các thí nghiệm còn hết sức đơn giản, mang tính chất
định tính vì không được bố trí theo nguyên tắc của thống kê toán học. Năm
1984-1985, thực hiện chương trình 04-09, tác giả đã thực nghiệm đối với cây
Sao đen, Dầu nước các nội dung hướng vào việc xác định ảnh hưởng cụ thể
nồng độ xử lý đến tỉ lệ ra rễ của hom giâm [9].
Trong những năm 1990 trở lại đây, Lê Đình Khả và cộng sự đã nghiên
cứu giâm hom cho keo Lá tràm và keo Tai tượng,… đã đạt kết quả, các thí
nghiệm về loại nhà giâm hom, môi trường cắm hom, thời vụ và phương pháp
xử lý chồi cũng được thực hiện. Từ kết quả nghiên cứu này đã xây dựng được
các hướng dấn kỹ thuật nhân giống bằng hom, phục vụ cho các trương trình

×