Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Rèn và nâng cao kỹ năng thực hành thông qua bài Vẽ theo mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.79 KB, 14 trang )

Rèn và nâng cao kỹ năng thực hành thông qua bài Vẽ theo mẫu
PHẦN I
NHẬN THỨC VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết, xã hội ngày càng phát triển thì yêu cầu của xã
hội đối với nguồn nhân lực ngày càng cao, để đáp ứng được nhu cầu
đó của xã hội, những năm gần đây Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều
những quyết sách, đầu tư thích đáng cho giáo dục, điều đó được thể
hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau nhưng mang tính vĩ mô và cụ thể
nhất đó là đã ban hành luật giáo dục (Ban hành 2005). Trước hết, nói
về mục tiêu giáo dục, theo chương I điều 2: “Mục tiêu giáo dục là đào
tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp …. Hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy, ngay từ phần đầu của
bộ luật ta đã thấy sự quan tâm đến giáo dục, nâng vị thế của giáo dục
lên một tầm cao mới, coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, đầu
tư chiều sâu. Còn nguyên lý của giáo dục là “Học đi đôi với hành,
Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn,
giáo dục nhà trường kết hợp với gia đình và xã hội”. “Phương pháp
giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh; Phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, từng
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo
nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Tất
cả những vấn đề trên đây đã được luật giáo dục đề cập đến một cách
ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiểu, mục tiêu của giáo dục đề cập đến đào
tạo con người phải có thẩm mỹ, nguyên lý giáo dục thì nói học phải đi
đôi với hành, lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Môn mỹ thuật trong
trường phổ thông cũng không nằm ngoài mục tiêu và nguyên lý giáo
dục đã đề ra, việc thông qua phân môn vẽ theo mẫu nhằm rèn và nâng
cao kỹ năng thực hành cho học sinh là mục đích chính khi xây dựng


chương trình mỹ thuật đặc biệt là trong chương trình đổi mới sách
giáo khoa ở bậc THCS, việc thực hành trong môn mỹ thuật là một
việc không thể thiếu, nó tuân thủ theo một nguyên tắc vòng tròn lôgíc
nhất định: Quan sát - So sánh - Thực hành (vẽ) - Đánh giá (nhận xét) -
Quan sát và cứ như vậy cho đến khi nhận thức về thẩm mỹ được
phát triển đến trình độ nhất định. Chính việc thực hành trong môn MT
quan trọng đến như vậy nên tôi đã chọn đề tài “Rèn và nâng cao kỹ
năng thực hành thông qua bài VTM”.
PHẦN II:
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Nếu như người ta coi sự phát triển của mỹ thuật như một cây đại
thụ thì những công trình điêu khắc, kiến trúc sẽ là những bông hoa
thơm và quả ngọt, những tác phẩm hội hoạ sẽ là những tán lá rộng
xum xuê, trang trí và ấn loát sẽ là cành còn cái thân to và bộ rễ chắc
khoẻ sẽ là HÌNH HOẠ.
Thật vậy, những tác phẩm hội hoạ đầu tiên trong buổi bình minh của
loài người là những tác phẩm còn mang nặng dấu ấn của hình hoạ, đó
là những hình vẽ con vật, những hình người với cách vẽ nét viền chu
vi, những mảng đen đậm đặc toàn hình, trong lao động săn bắn và hái
lượm, người nguyên thuỷ đã biết chế ra những công cụ thô sơ như rìu
đá, búa đá để sử dụng. Từ đó, trong quá trình lao động và đấu tranh
với thiên nhiên nghiệt ngã để bảo tồn và phát triển, con người đã vạch
khắc lên công cụ, lên vách đá những hình muông thú quen thuộc,
những động tác săn bắn, những cảnh sinh hoạt, múa hát để ghi nhớ,
đó cũng chính là những tín hiệu để thông báo cho nhau, dù chỉ là
những đường viền, hay mảng màu đen đặc thì ta vẫn thấy sự nắm bắt
hiện thực của người nguyên thuỷ vẫn hết sức chính xác và sinh động,
Dù bằng cách nào đi chăng nữa, đơn giản hay tinh tế, vụng về hay
trau chuốt… thì chất hiện thực vẫn là những phẩm chất đầu tiên của
bức vẽ. Vậy hình hoạ là gì mà nó quan trọng như vậy, quan trọng đến

mức bất cứ ai khi học vẽ cũng phải bắt đầu từ đó. Theo cuốn Hình họa
và điêu khắc của nhà xuất bản giáo dục thì: “Hình hoạ là phương pháp
dựng hình vẽ để mô tả đối tượng khách quan có thực mà mắt ta quan
sát được bằng đường nét, mảng, hình khối, sáng tối để tạo ra không
gian. Không gian trong hình hoạ có thể là một màu hoặc nhiều màu”.
Có nhiều cách gọi khác nhau về hình hoạ, song tựu chung lại có
những cách gọi chính là: Vẽ hình hoạ, vẽ tả thực, vẽ tả sống, vẽ theo
mẫu. Trong trường phổ thông thì gọi là vẽ tả thực, vẽ tả sống, vẽ theo
mẫu, còn trong trường chuyên nghiệp thì gọi là vẽ hình hoạ. Về cơ
bản thì các cách gọi trên không khác nhau nhưng trên thực tế các giáo
viên không chuyên thường hay hiểu nhầm là vẽ tả thực, vẽ tả sống
phải vẽ như thực về cả kích thước, đậm nhạt, màu sắc mà không quan
tâm đến vị trí xa, gần, cao, thấp, nghiêng hay chính diện, hơn nữa còn
bỏ qua cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm thụ của người vẽ, nhất nhất
yêu cầu “mười người như một” phải vẽ giống nhau như đúc một
khuôn. Vì thế, để hiểu đúng kháI niệm về phân môn này, năm 1980
Hội đồng bộ môn MT đã nhất trí dùng thuật ngữ Vẽ theo mẫu để dùng
trong trường phổ thông .
Vẽ theo mẫu được hiểu như sau: VTM là tả lại, mô phỏng lại mẫu có
thực bằng cách nhìn, cách nghĩ và cách cảm thụ của người vẽ. Rõ
ràng ở đây không có sự rập khuôn, bắt tất cả vẽ như nhau mà vẽ theo
cách nhìn, cách nghĩ và cách cảm thụ của người vẽ, vì vậy bài VTM
của cả lớp sẽ không giống hệt nhau , mà có thể chỉ giống nhau trên
những nét lớn, những đặc điểm chính về hình dáng chung còn kích
thước, đậm nhạt, bố cục sẽ khác nhau theo khả năng phân tích của học
sinh, cuối cùng khi nhìn tổng thể ta sẽ thấycó bài đẹp, bài chưa đẹp,
bài đạt bài chưa đạt yêu cầu.
Trong trường phổ thông, vẽ theo mẫu gồm những nội dung cơ bản sau
đây:
*/ Lý thuyết chung: Những bài này chỉ giới thiệu một lần, sau đó vận

dụng vào suốt quá trình học. Quá trình vận dụng sẽ củng cố bổ sung
dần, tạo điều kiện cho phần thực hành vững vàng và phong phú. Đó là
những bài: Luật xa gần, Phương pháp vẽ theo mẫu, vẽ mầu; vẽ tập
hợp đồ vật; vẽtĩnh vật; vẽ người; ký hoạ…
*/ Bài tập thực hành gồm có: Vẽ mẫu đơn, mẫu ghép, vẽ tĩnh vật chì,
tĩnh vật mầu, xé dán, tranh phong cảnh, vẽ chân dung, vẽ tượng, ký
hoạ người và vật… những kiến thức trên được nâng cao dần theo kiến
trúc đồng tâm, yêu cầu từ dễ đến khó- đơn vị kiến thức được lặp đi lặp
lại nhiều lần nhưng có bổ sung nâng cao dần từ lớp dưới lên lớp trên.
VD: ở lớp 6 chỉ vẽ đồ vật có khối đơn giản nhằm chỉ để học sinh nắm
bắt được cách nhìn hình và đặt bố cục trong trang giấy cho hợp lý,
nhưng đến lớp 7, yêu cầu phải đạt là hình và đậm nhạt phải gần sát
với mẫu, lớp 8 ngoài yêu cầu về hình, bố cục còn phải diễn tả được độ
đậm nhạt của màu và đến lớp 9 ngoài những yêu cầu trên còn phải
diễn tả được không gian, tương quan của mẫu và phải giống mẫu (bài
2,3) .
Đây cũng là vấn đề khó mà người giáo viên cần phải truyền đạt được
đến học sinh và ngược lại học sinh muốn thực hiện được các yêu cầu
trên thì phải thực hành thật nhiều, nhưng điều này thì còn nhiều hạn
chế từ phía học sinh.
Cụ thể là ở trường tôi, mỗi khi đến bài thực hành VTM, ngoài sự
chuẩn bị của giáo viên là một số dồ dùng gần giống mẫu SGK thì hầu
như các em không có sự chuẩn bị với lý do rất đơn giản là các em
chưa quan tâm đúng mức hoặc một lý do khác không kém phần quan
trọng là không có kinh phí để mua sắm, ngay từ những dụng cụ đơn
giản như bộ bút chì sáp chứ chưa nói đến mầu bột, mầu nước hay sơn
dầu…. Quả thực để các em thực hành được tốt trong giờ MT thật là
một điều khó, còn vấn đề khác như sự quan tâm của các bậc phụ
huynh, bản thân các em chưa ham thích, áp lực của các môn học khác
còn đè nặng, thời gian học tập còn hạn chế vì các em phải phụ giúp

gia đình, trong khi các em đang ở lứa tuổi ham chơi… có một lý do
không thể không nhắc tới đó là bộ đồ dùng của phòng thí nghiệm còn
thiếu và yếu một cách trầm trọng: Cụ thể là ở cả 3 khối lớp 6,7,8 đồ
dùng và tài liệu chưa thiết thực, hoặc không đủ chất lượng, ở lớp 9 thì
chưa trang bị, tài liệu tham khảo thì không phải lúc nào cũng có thể
tìm được vì lý do thời gian, lý do công việc, lý do kinh tế, lý do gia
đình…Đó là những lý do trước mắt làm ảnh hưởng xấu đến chất
lượng giờ dạy, nhưng nhiệm vụ năm học, nhiệm vụ bộ môn thì vẫn
phải hoàn thành , điều đó đã thôi thúc tôi tập trung nghiên cứu các bài
trong chương trình để tìm ra phương pháp nhằm nâng cao chất lượng
soạn giảng, chất lượng học tập của học sinh, giúp các em định hình
được phương pháp học tập , các kỹ năng cơ bản trong yêu cầu của
chương trình. Trong quá trình nghiên cứu tôi nhận thấy, chương trình
MT nói chung và phân môn VTM nói riêng đều có kiến thức nâng dần
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực tiễn.
Việc tạo đà cho các em có sức bật trong môn này đòi hỏi việc soạn
giảng phải có đầu tư cả về thời gian và sự nhiệt tình của giáo viên, đặc
biệt trong hệ thống câu hỏi của bài soạn, phải dẫn dắt học sinh một
cách tự nhiên, không gò ép, thúc dẩy học sinh tìm tòi suy nghĩ qua
từng bài, từng phần, từng chi tiết để các em nhận thức theo cách nghĩ
của mình.
Để rèn được kỹ năng thực hành cho học sinh, theo tôi việc đầu tiên
người giáo viên phải phân biệt được thực hành của môn học này là
như thế nào? Rõ ràng không thể cầm tay mà vẽ cho từng em được
hoặc chỉ ra là em phải vẽ thế này, em phải vẽ thế kia, như vậy lại là áp
đặt và sự áp đặt đó sẽ kìm hãm sự phát triển tư duy của học sinh, tạo
cho các em có thói quen lệ thuộc. Vậy phải làm thế nào?. Ta có thể
thực hiện ba phương pháp:
- Thực hành thông qua quan sát (bằng hệ thống câu hỏi) ;
- Thực hành thông qua kỹ năng vẽ (giáo viên vẽ lên bảng một số

cách, ví dụ: dựng hình, xác định đậm nhạt, cách gạch bóng với một
số bề mặt, chất liệu…)
- Thực hành thông qua hệ thống bài tập ở lớp và giao nhiều bài tập
cho các em thực hành ở nhà.
Trước hết, nói về thực hành bằng hệ thống câu hỏi, Giáo viên có thể
đưa ra một số câu hỏi như sau:
VD: Trong bài luật xa gần ở lớp 6: GV có thể hỏi khi đưa ra một số
mẫu đã chuẩn bị, ví dụ cái bát.
- Theo em khi nhìn chính diện thì miệng bát hình gì?
- Học sinh trả lời – Hình tròn
- Nhưng tại sao khi thầy (cô) nghiêng bát đi, miệng bát lại là hình bầu
dục (elíp)?
- Học sinh sẽ suy nghĩ và trả lời theo ý của mình.
Hoặc giáo viên đưa ra hình ảnh về nhà ga xe lửa hoặc hàng cột điện:
- Giáo viên hỏi: Tại sao những cột điện có cùng kích thước mà sao
càng nhìn xa chúng càng nhỏ và mờ dần?
- Học sinh suy nghĩ…trả lời theo ý hiểu của mình.
Qua những câu hỏi trên, học sinh sẽ ham thích quan sát cảnh vật xung
quanh. đây chính là kỹ năng thực hành quan sát, nhìn nhận để nhận
xét, một kỹ năng không thể thiếu trong VTM nói riêng và mỹ thuật
nói chung, Từ những câu hỏi này khi đến bất cứ đâu, ở bất cứ chỗ
nào, các em cũng thường tự hỏi, tại sao chúng thế này, tại sao chúng
thế kia?…
Như vậy, đối với chương trình học lớp 6, học sinh chỉ mới dừng lại ở
mức nhận thức về lý thuyết, hình thành về cách nhìn nhận, đánh giá
về sự vật, hiện tượng thông qua thiên nhiên và những hình khối đơn
giản.
Còn trong chương trình lớp 7 và lớp 8 các kỹ năng đã được tiến thêm
một bước đó là: Khi vẽ các em phải vận dụng những kiến thức đã học
được để đưa vào bài vẽ.

VD: Trong bài vẽ theo mẫu lọ hoa và quả:
GV cho các em quan sát mẫu và hỏi:
- Em có nhìn thấy nét chu vi của vật mẫu không? . Nếu nhìn kỹ các
nét chu vi đó có thay đổi không?
- Học sinh nhận xét thông qua bài luật xa gần đã học ở lớp 6: Các nét
chu vi của mẫu không giống nhau mà chúng luông thay đổi, lúc rõ lúc
mờ, lúc đậm lúc nhạt vì chúng có độ xa gần, cao thấp khác nhau, hơn
nữa chúng còn bị ảnh hưởng của ánh sáng làm ta khó phân biệt được
ranh giới giữa chúng với nhau.
- Giáo viên hỏi: Vậy khi vẽ các nét chu vi của mẫu ta nên vẽ chúng
như thế nào?
Học sinh suy nghĩ và vận dụng vào bài của mình ( Là khi vẽ cần thay
đổi độ đậm nhạt, to nhỏ của nét )
Đối với học sinh tương đối có năng khiếu, ta nên nâng cao nhận thức
bằng các câu hỏi như:
- Theo em, trong thiên nhiên có đường nét giữa các vật không?
- Có học sinh trả lời là có, có học sinh trả lời là không.
- Giáo viên nhận xét và phân tích: Trong thiên nhiên không có đường
nét, sở dĩ ta tin rằng nhìn thấy đường nét chẳng qua đó chính là giới
hạn của các hình thể hay là sự phân cách giữa hai bề mặt trong không
gian mà thôi.
- Nếu là đối tượng học sinh khá, các em sẽ nhận ra ngay vấn đề là khi
vẽ không nhất thiết phải vẽ chu vi của vật, mà chỉ cần diễn tả được
không gian mà khối đó nằm trong thì hình dáng cảu mẫu đã được xác
định rồi.
Đối với đối tượng học sinh nhận thức còn trung bình và hạn chế, giáo
viên nên hỏi:
- Theo em Tô màu và vẽ màu khác nhau ở điểm nào?
- Học sinh suy nghĩ và trả lời.
- Giáo viên kết luận: Tô màu là tô theo hình vẽ đã cho trước, vẽ màu

là theo cảm nhận và ngẫu hứng, vậy nên chúng khác nhau về tiến trình
cũng như cách làm, điều đó làm cho bài vẽ sẽ rất khác nhau.
Giáo viên có thể hỏi:
- Trong lớp học của chúng ta, các em thử hình dung nếu như cái bảng
chỉ còn bé bằng một nửa hoặc to chiếm hết cả bức tường trước mặt thì
có hợp lý không?
- Học sinh suy nghĩ và trả lời: Không hợp lý.
- Giáo viên: Vậy nên đặt hình vẽ cuả mình vào trang giấy như thế nào
là hợp lý?
- Học sinh sẽ đưa ra nhiều ý kiến.
- Sau đó Giáo viên treo bảng phụ các hình vẽ đã chuẩn bị về các dạng
bố cục: Quá to, quá nhỏ, lệch trên, lệch dưới, hoặc ngang, hoặc dọc…
Học sinh sẽ nhận thức được làm thế nào để bố cục bài vẽ có bố cục
đẹp, hợp lý.
Như vậy qua cách hỏi của từng bài có thể rèn cho các em kỹ năng
thực hành quan sát, tự hỏi, tự trả lời, đó chính là kỹ năng mở đầu cho
người học môn mỹ thuật.
Vậy là từ cách nhìn nhận, đánh giá sự vật đến kỹ năng thể hiện của
bàI vẽ đã được hình thành và vận dụng ngay từ trong những bài vẽ
theo mẫu.
Phương pháp tiếp theo là thực hành thông qua các bài vẽ, đây là phần
thực hành mà bất cứ bài nào trong môn mỹ thuật cũng dùng tới cụ thể
là:
Trong chương trình vẽ theo mẫu của hai khối lớp 7,8 còn có những
bài về tỷ lệ khuôn mặt người, vẽ chân dung bạn, vẽ dáng người, ký
hoạ dáng người. Đây là những bài mang ý nghĩa thực hành cao, ngoài
những vấn đề mang tính chất công thức, các em còn phải vận dụng
chúng vào thực tiễn, làm sao phải diễn tả được cái có thực đang hiển
hiện ngay trước mắt, kỹ năng thực hành ở đây không chỉ mang tính
đơn thuần là chỉ có vẽ đúng theo tỷ lệ là được mà chúng còn thể hiện

ở chỗ: bất cứ khi nào đặt bút để vẽ một nét thì lại phải suy nghĩ xem
nên bắt đầu từ đâu? khi nào thì dừng lại, khi nào thì nhấn bút mạnh để
tạo nét đậm, khi nào nhấn nhẹ để tạo nét nhạt? và nếu như vẽ sai hoặc
thừa nét có nên tẩy ngay không hay cứ để nguyên đến cuối bài mới
chỉnh sửa, lúc này giáo viên cần động viên các em là không nên vội
sửa, mà cứ để nét thừa đó để so sánh và chọn ra cái đúng, gần hoàn
thiện hình ta mới nên sửa cho chuẩn hình, đây là phương pháp thử và
sửa - phương pháp luôn được các hoạ sỹ hay dùng, qua nhiều lần sửa
sai như vậy ta rút ra kinh nghiệm cho những nét vẽ sau, những bài sau
.
Ví dụ: bài giới thiệu tỷ lệ khuôn mặt người, đây là một bài khó, thực
ra khuôn mặt thì ta thường xuyên nhìn thấy nhưng khi yêu cầu vẽ
khuôn mặt cho đúng thì quả thực là khó, đối với một bài mang tính
công thức như vậy, ngoài kiến thức trong SGK cần truyền đạt, giáo
viên nên mở rộng thêm là khi vẽ gương mặt không nên vẽ tất cả các
nét đều nhau vì: Các em đã học luật xa gần, các em đã biết những vật
ở xa thì nhỏ và mờ hơn vật ở gần, vậy trên khuôn mặt các em thấy cái
gì ở phía trước, cái gì ở phía sau? Nếu ở phía trước nên vẽ đầy đủ chi
tiết và rõ ràng hơn, và ngược lại ở sau thì mờ, nhoè và nhạt hơn, như
vậy khi nhìn vào bài ta sẽ thấy bài vẽ có không gian và có tình cảm
hơn là ta vẽ tất cả các nét đều bằng nhau, tất cả những nét các em vẽ
hang hãy đừng vội tẩy xoá, làm như vậy sẽ không có hiệu quả, thậm
chí còn làm hỏng bài.
Trong bài xé dán lọ hoa và quả (lớp 8), đây là bài thường các em rất
hứng thú khi thực hành vì hiệu quả của bài được thể hiện ngay sau khi
các em có những mảnh dán đầu tiên, mầu sắc cũng rất nhiều nếu như
các em chuẩn bị kỹ, các em được thực hành ngay và hình cũng dễ
thay, dễ sửa. Trong bài này kỹ năng thực hành rất nhiều, nếu để các
em tự làm, tự suy nghĩ chắc chắn bài rất đơn điệu, vì vậy cần giúp các
em một số kỹ năng cơ bản như kỹ thuật xé dán, tìm và chọn màu, Ví

dụ cách xé dán: giáo viên có thể dùng một tờ giấy và xé theo nhiều
cách như xé bấm, xé tự do, xé theo hình vẽ… ở mỗi cách xé sẽ tạo ra
một hiệu quả khác nhau, khi dán ta sẽ thấy có những viền mép trắng
phân chia giữa các mảnh xé vì vậy bài xé dán sẽ không khô cứng như
là cắt dán, tiếp theo giáo viên có thể dùng giấy màu để tạo nền như:
Có thể vò nhàu mảnh giấy sau đó vuốt nhẹ ra và cho các em so sánh
với mảnh giấy chưa vò nhàu, các em sẽ thấy sự khác biệt rất lớn giữa
hai mảnh giấy, tờ giấy bị nhàu sẽ có không gian do bị va đập ánh
sáng làm chỗ sáng chỗ tối, nếu đặt vào làm nền sẽ có hiệu quả khác
bình thường ( khuyên các em không nên chỗ nào cũng vò nhàu vì chỗ
nào cũng vậy sẽ tạo cảm giác cẩu thả trong bài xé dán)
Kỹ năng thực hành đặc biệt còn được thể hiện ở chương trình lớp 9
qua một số bài vẽ theo mẫu lọ hoa và quả (bài 2,3). Bài này các em đã
được thực hành nhiều lần ở lớp trước, nhưng ngoài yêu cầu cần về
đường nét, hành dáng, bố cục đơn thuần, còn phải có một yêu cầu hết
sức cao đó là: Giống mẫu, đây là một yêu cầu khó, ít học sinh có thể
đạt được, đến bài này giáo viên nên nâng cao cho các em kỹ năng
nhận biết cách xác định gạch bóng để tạo chất liệu, ví dụ chất thạch
cao cần làm như thế nào? chất thuỷ tinh? …. Vậy muốn giống mẫu
các em phải chú ý đến cả chất liệu của chúng nữa.
Kỹ năng thực hành tiếp theo đó là giao bài tập cho các em làm tại nhà:
Trong chương trình lớp 9 còn một bài vẽ khó đó là vẽ tượng chân
dung thạch cao, đây là một bài nằm trong chương trình của học sinh
chuyên nghiệp, mặc dù yêu cầu của bài này không thật cao nhưng các
em rất khó thể hiện, khó không phải vì không làm được, mà khó vì
thời lượng của bài chỉ có 90 phút, việc giới thiệu mẫu và ôn lại tỷ lệ
cơ bản của mặt người đã chiếm rất nhiều thời gian, vậy thực hành là
không đủ, trong khi đó các em lại không có mẫu và không được vẽ ở
nhà khi không có mẫu, vậy là yêu cầu của bài khó được thực hiện,
nhưng cũng không phải không có cách, bài này giáo viên có thể cho

các em thực hành bằng cách: Cho các em làm bài tập phóng tranh
chân dung, ký hoạ người thân (đây là bài các em đã học từ lớp trước)
từ đó các em sẽ thuộc tỷ lệ cơ bản của mặt người vậy các em sẽ đỡ bỡ
ngỡ khi vẽ tượng và giáo viên cũng không mất thời gian cho việc ôn
lại tỷ lệ nữa.
Ngoài ra ở các bài khác, nên giao cho các em nhiều bài tập để các em
không bị động trong các kỹ năng khi hoạt động thực hành ở lớp.
Như vậy, hệ thống lại toàn bộ chương trình vẽ theo mẫu ở các khối
lớp ta thấy, kiến thức đi từ lý thuyết đến thực tiễn, từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp. Sau khi hàon thành chương trình, các em sẽ
nhận thức được vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người và những sản
phẩm do con người tạo ra, giáo dục cho các em tình yêu lao động, tính
kiên trì, óc tư duy sáng tạo không mệt mỏi.
Tóm lại: Để rèn và nâng cao kỹ năng thực hành của học sinh qua bài
dạy vẽ theo mẫu đòi hỏi giáo viên phải vất vả hơn nữa trong việc thiết
kế và điều hành giờ học, bản thân giáo viên cũng phải chủ động, sáng
tạo thì mới khơi dậy trong các em sự hoạt động tích cực, sáng tạo với
một số việc cụ thể như sau:
- Hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét mẫu một cách cụ thể, tránh
trường hợp quan sát chưa kỹ đã cho học sinh vẽ.
- Động viện, khuyến khích học sinh tự tìm ra phương pháp nhìn nhận,
phương pháp vẽ riêng cho mình, tôn trọng ý kiến của các em, tránh
không tạo cảm giác các em bị áp đặt.
- Hướng dẫn tỷ mỷ khi cho các em học ngoài trời.
- Chuẩn bị mẫu vẽ, tư liệu đầy đủ, đa dạng, phong phú hết khả năng
cho phép.
PHẦN III:
ĐÚC RÚT KINH NGHIỆM
Qua những năm giảng dạy ở địa phương, tôi nhận thấy:
1. Giáo viên phải nắm vững nội dung bài giảng, chuẩn bị tư liệu đầy

đủ, phong phú trước khi đến lớp.
2. Phải có kỹ năng sư phạm.
3. Luôn lắng nghe ý kiến phản hồi từ phía học sinh. Tôn trọng sự tự
chủ của các em. Khuyến khích, động viên các em khi các em có tiến
bộ và những thành công nhất định.
4. Liên tục giao bài tập như ký hoạ cỏ cây, thiên nhiên, cảnh vật, con
người… và liên tục phải kiểm tra vở thực hành của các em. Đây là
phương pháp luyện tập hữu ích nhất mà các em nên làm.
5. Động viên các em tích cực tham gia các cuộc thi vẽ tranh do các
ban ngành, đoàn thể tổ chức, coi đó là dịp các em được thể hiện khả
năng của mình.
Kết luận – Khuyến nghị:
Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy một số vấn đề chưa thực sự được như
mong muốn, nhất là trong vấn đề thực hành của học sinh. Trong
nguyên lý mà bộ luật giáo dục đề ra là: Học đi đôi với hành, lý luận
gắn liền với thực tiễn, nhưng hành như thế nào? điều kiện của hành
phải được đáp ứng như thế nào? điều đó cần phải có sự quan tâm hết
sức sát sao của các cấp lãnh đạo, các ban ngành đoàn thể, các bậc phụ
huynh và chính bản thân các em học sinh nữa, qua đề tài này tôi mạnh
dạn đề đạt một số vấn đề tôi cho là cần thiết để việc thực hành của
các em thực sự có hiệu quả:
- Đối với các cấp chính quyền, các ban ngành đoàn thể nên quan tâm
nhiều hơn nữa cả về vật chất và tinh thần để nhanh chóng tiến tới
không chỉ những nơi trung tâm, những trường chuyên, trường chuẩn
mới có phòng học riêng cho môn âm nhạc và mĩ thuật, thiết bị của
môn học nên đưa về đầy đủ, kịp thời, có chất lượng, bám sát chương
trình đẫ biên soạn.
- Đối với chương trình học môn mĩ thuật nói chung và môn vẽ theo
mẫu nói riêng, nên chăng lược bỏ bớt một số tiết vẽ lọ hoa và quả ở
lớp 7,8; thay vào đó cho các em làm quen dần với tượng chân dung

bằng cách đưa vào một số bài vẽ chi tiết mắt, mũi, tai…. để đến bài vẽ
tượng ở lớp 9 các em đỡ bỡ ngỡ.
- Đối với ban giám hiệu các trường và các giáo viên chủ nhiệm nên
quan tâm và tìm cách phân tích cho các bậc phụ huynh hiểu rõ mục
tiêu và lợi ích của việc giáo dục thẩm mỹ mà trong luật giáo dục đã đề
ra.
Trên đây là một số nhận thức và kinh nghiệm của bản thân qua những
năm giảng dạy mĩ thuật ở địa phương và đặc biệt là trong chương
trình đổi mới sách giáo khoa mà bộ giáo dục đã ban hành. Rất mong
sự đóng góp ý kiến của các vị lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để đề tài
của cá nhân tôi trở lên hoàn thiện và có thể được ứng dụng trong thực
tế cho những năm học tiếp theo, tôi xin chân thành cảm ơn.



×