Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

thực trạng về sản xuất chế biến và các giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm chè nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.25 KB, 93 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Trung Thành
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, HÌNH, BIỂU HÌNH
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG, HÌNH, BIỂU HÌNH
BẢNG
Bảng.2.7 Khối lượng, giá trị xuất khẩu 6 năm gần đây: Error:
Reference source not found
Bảng.2.8. Cơ cấu chè xuất khẩu 52
Bảng 2.9 Một số thị trường xuất khẩu lớn của chè nước ta Error:
Reference source not found
Bảng 3.0 Bảng quy hoạch phát triển chè cả nước đến năm 2020
Error: Reference source not found
HÌNH
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Chè là loại cây công nghiệp lâu năm, nếu chăm sóc tốt chè có thể sống
hàng trăm năm, cây chè càng già càng sống ở núi cao lại cho năng suất cao và
chất lượng tốt. Đối với nước ta, chè là sản phẩm dùng để uống cho mọi người,
nó vừa cung cấp cho người các loại vitamin C, B, K, PD, E,… nó có tác dụng
điều hòa sinh lý con người, uống chè có thể tăng hệ thống miễn dịch phòng
chống ung thư, phòng chống bệnh áp huyết cao, tiểu đường, chống lão hóa do
tác dụng chống oxy hóa và chống đột quỵ. Bởi vậy uống chè trở thành một
“văn hóa - chè” ở nước ta. Đặc biệt cây chè sống chủ yếu trên các vùng núi cao


và nó là cây đem lại thu nhập cho khoảng 6 triệu đồng bào các dân tộc miền
núi và trung du ở cả ba miền của đất nước, nó là cây góp phần xóa đói giảm
nghèo của đồng bào dân tộc vùng cao biên giới nước ta. Theo đánh giá của tổ
chức Nông lương quốc tế và Ủy ban chè quốc tế: những năm gần đây kinh tế
phát triển chất lượng cuộc sống càng cao thì nhu cầu về chè càng cao, đặc biệt
là các nước phát triển và đang phát triển. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều
chính sách tạo điều kiện cho ngành chè nước ta phát triển. Cho đến nay, ngành
chè nước ta đã có được tất cả các loại chè mà thế giới có nhu cầu. Việt Nam
hiện đã trở thành thành viên 113 của Ủy ban chè thế giới, đã xuất khẩu di hơn
70 thị trường và được xếp vào loại nước có diện tích và sản lượng chè thứ 5
trên thế giới. Tuy nhiên năng suất chè còn thấp so với các nước, đặc biệt chất
lượng chè còn thấp làm cho giá bán chỉ bằng 50% đến 70% mức giá cùng một
loại chè với các nước khác. Đây là tồn tại lớn nhất của chè Việt Nam. Sau một
thời gian nghiên cứu ở Hiệp Hội chè Việt Nam, tôi đã lựa chọn đề tài làm đề tài
luận văn tốt nghiệp cao học của mình.“Thực trạng về sản xuất chế biến và
các giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm chè nước ta”.
1
2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng sản xuất chế biến chè và
thực trạng xuất khẩu chè và các giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu chè
của Việt Nam. Trong đó tập trung nghiên cứu thực trạng gieo trồng, chăm
bón, thu hoạch, chế biến, tổ chức sản xuất, phát hiện nguyên nhân làm giảm
chất lượng chè không đáp ứng đòi hỏi của người mua, đề xuất các giải pháp
mở rộng thị trường.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
- Phân tích thực trạng công tác gieo trồng thu hoạch chế biến phát
hiện nguyên nhân dẫn đến chè chưa được đánh giá cao, chưa thỏa mãn khách
hàng trong các khâu tạo sản phẩm xuất khẩu.
- Hệ thống hóa lý luận mở rộng thị trường xuất khẩu, làm rõ quan
niệm để có hàng xuất khẩu tốt phải chú ý từ các yếu tố đầu vào, tạo sản phẩm

xuất khẩu, nói gọn hơn là phải quan niệm được chuỗi giá trị trong xuất khẩu
chè.
- Kiến nghị các giải pháp theo nguyên lý của chuỗi giá trị trong xuất
khẩu chè để đạt mục tiêu nâng cao khả năng tạo giá trị chè cho người tiêu
dùng.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu một số chè chủ yếu được sản
xuất và xuất khẩu của ngành chè Việt Nam ở 10 tỉnh trọng điểm chiếm 80%
chè cả nước gồm: Lâm Đồng, Thái Nguyên, Hà Giang, Phú Thọ, Yên Bái,
Cao Bằng, Nghệ An, Tuyên Quang, Sơn La, Lào Cai.
Về thời gian: Nghiên cứu trong vòng 10 năm và phương hướng phát triển
từ khi Quyết định số 43/1999-TTg được ban hành ngày 10/3/1999 về việc phê
duyệt kế hoạch sản xuất ngành chè và phương hướng phát triển đến 2010, từ
2
đó kiến nghị giải pháp trong 10 năm tiếp theo 2010 đến 2020.
Sản phẩm chủ yếu sản xuất từ búp và lá chè trong các tỉnh trồng chè trọng
điểm của Việt Nam.
5. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận; luận văn được kết thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về mở rộng thị trường xuất khẩu của một
doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng sản xuất, chế biến và xuất khẩu sản phẩm chè ở
nước ta.
Chương 3: Các giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu chè giai đoạn
2010 - 2020.
Trong quá trình hoàn thiện luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Viện nghiên cứu Thương mại -
Bộ Công Thương, Hiệp hội Chè Việt Nam, Tổng Công ty Chè (VinaTea),
Công ty Cổ phần chè Kim Anh, cùng các thành viên trong gia đình và bạn bè
đồng nghiệp, đặc biệt là sự giúp đỡ, tư vấn khoa học của giáo viên hướng dẫn

TS. Trần Thanh Toàn (Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội),
kết quả của luận văn này chính là lời cảm ơn chân thành những sự giúp đỡ
quý báu đó.
3
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU CỦA MỘT DOANH NGHIỆP
1.1. SỰ CẨN THIẾT KHÁCH QUAN, ĐẶC ĐIỂM CỦA MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU TIÊU THỤ SẢN PHẨM CHÈ NƯỚC TA:
1.1.1. Lược sử về phát triển chè và nhu cầu chè của thế giới và Việt Nam:
Theo các nhà khoa học đã khẳng định vùng nguyên sản của cây chè là từ
phía Nam cao nguyên Tây Tạng, dọc theo các triền sông lớn như sông Dương
Tử (Trung Quốc), sông Hồng (Việt Nam), sông Mê Công. Vùng nguyên sản
cây chè chính là biên giới Việt - Trung thuộc vành đai á nhiệt đới có đặc điểm
nhiệt độ ôn hoà, khí hậu ẩm ướt.
Cây chè sinh trưởng quanh năm không có thời kỳ ngủ nghỉ rõ rệt. Trên
các vùng núi càng cao so với mặt nước biển lượng gió lớn thoáng mát, độ
thuần khiết của không khí càng cao chất lượng chè càng tốt.
Từ trước Công nguyên cây chè được tìm thấy ở Trung Quốc, con người
lúc đầu dùng chè làm thuốc dã độc sau đó chè lan truyền sang Triều Tiên,
Nhật Bản, Inddoonessia, Ấn Độ, Banglades, Srilanka, Cutumari, Argentina,
Malaysia. Đến 1920 người Anh đầu tư trồng chè mạnh vào các nước châu
Phi, Kenya, Manavoi, Uganda, Tanzania (theo khoa học văn hoá chè). Đến
nay toàn thế giới có 2.550.000 ha với sản lượng 3.750.000 tấn, bình quân đầu
người uống chè 0,55kg. Điều này chứng tỏ xã hội phát triển chất lượng cuộc
sống càng cao nhu cầu tiêu dùng chè càng lớn.
* Về tiêu thụ chè trên thế giới: Theo FAO cho đến năm 2008, toàn thế
giới có 3/4 người dùng nước chè với tổng sản phẩm chè xuất và tiêu thụ 3.716
4
ngàn tấn/6,7 tỷ người, bình quân đầu người sử dụng 0,554 kg/đầu người/năm.

Những nước có mức tiêu dùng trên đầu người cao là: Quata 3,2kg; Ailen
3,09kg; Anh 2,87kg; Thổ Nhĩ Kỳ 2,72kg; Iraq 2,59kg; Côét 2,23kg; Tuynidy
1,82kg; Braxin 1,4kg; Ai Cập 1,44kg … Mức tiêu thụ của Việt Nam tăng
nhanh 1999, khoảng 0,360kg/người/năm. Năm 2009 khoảng
0,4kg/người/năm.
Các nước tiêu dùng nhiều: Ấn Độ từ 650 – 700 ngàn tấn, Trung Quốc từ
700 – 750 ngàn tấn, Mỹ 140 ngàn tấn, Nga 156 ngàn tấn.
Theo thống kê của Hiệp hội chè thế giới: toàn thế giới tiêu thụ hàng năm
từ 3.500 ngàn tấn đến 3.700 ngàn tấn. Có 26 mức tiêu thụ nhiều đứng đầu là
Châu Á: 11 nước, châu Âu: 5 nước, châu Phi: 6 nước, châu Mỹ: 3 nước, châu
Úc: 1 nước.
Thị hiếu tiêu dùng chè trên thế giới có khác nhau theo tập quán sinh hoạt,
văn hoá ẩm thực và kinh tế của mỗi nước. Các nước Âu, Mỹ phát triển có tập
quán uống chè lâu đời, dùng đường sữa. Họ thường coi trọng các loại chè đen
có màu nước đỏ tươi sáng, vị đậm đà có hậu. Các nước châu Á thường dùng
chè xanh nhiều hơn. Xu thế trên toàn thế giới đang có nhu cầu dùng chè xanh
chất lượng cao nhiều hơn. Nước Mỹ trước đây toàn dùng chè đen đến nay đã
dùng tới 15% chè xanh trong tổng số tiêu dùng từ 140 – 150 ngàn tấn do tác
dụng chè xanh đang ngày càng được quảng bá.
* Với chè của nước ta: Từ thời kỳ các vua Hùng dựng nước, các dân tộc
Việt Nam đã trải qua nhiều thế hệ phát triển nông nghiệp hình thành nên 2
vùng chè lớn:
- Vùng chè rừng cổ thụ của đồng bào Dao, Mông, Tày, Nùng… ở các
triền núi cao thuộc các tỉnh miền núi Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng,
Hà Giang, Lạng Sơn… cung cấp các loại chè mạn, chè chi…
- Vùng chè của các hộ người kinh theo các triền sông cung cấp chè tươi,
5
chè nụ, chè hạng, chè Huế. Người lao động thì uống các loại chè tươi, chè gay
(Nghệ An), chè nụ, chè chi. Giới thượng lưu quý tộc uống chè mạn, chè hạng,
chè tàu, chè Olong…

- Người Pháp ngay sau khi đến Việt Nam rất chú trọng đến cây chè, tiến
hành khảo sát nghiên cứu đầu tiên: Tiến sĩ JJ.B.Dear viện trưởng viện nghiên
cứu chè Java, cố vấn công ty chè Đông Dương sau khi khảo sát các vùng chè
từ Srilanka, Đài Loan, Nhật Bản… Việt Nam đã phát biểu “Về chất lượng các
đồi chè Đông Dương (Việt Nam) có chất lượng cao và ngay lập tức đã có thể
xếp vào loại chè tốt nhất, sản phẩm có hương vị đặc biệt, chất lượng chè còn
tăng theo tuổi của đồi chè. Trước tiên là hương tuyệt diệu sau đó là vị của chè
thuộc loại thượng hạng”. R.Du.pasguier người Pháp là quản đốc trại nghiên
cứu chè Phú Hộ, viện trưởng viện nghiên cứu chè Đông Dương sau 20 năm
nghiên cứu chè đã kết luận Đông Dương (Việt Nam) là một nước thuộc loại
số 1 để trồng chè. Năm 1890 công ty thương mại ChaffanJon đã có đồn điền
đầu tiên với 60 ha chè tại Tình Cương - Cẩm Khê - Phú Thọ. Từ đây chè trở
thành sản phẩm quý từ Viễn đông, một mặt hàng xuất khẩu có giá trị sang
Châu Âu.
Cho đên 1945 chè Việt Nam có 13.505 ha, hàng năm sản xuất được từ
trên 6.000 tấn chè khô. Chè đen xuất khẩu sang Luân Đôn, Amstecdam. Chè
xanh được xuất khẩu sang thị trường Bắc Phi (Angieri, Tuynizi, Maroc) là các
sản phẩm quý hiếm được đánh giá cao.
Hòa bình lập lại chè được Nhà nước quan tâm phát triển có sự giúp đỡ
của Liên Xô về cả chuyên gia, công nghệ và thiết bị đồng bộ. Lần lượt 25
nông trường và các nhà máy mọc lên từ năm 1958. Cho đến 10/3/1999 Chính
phủ ban hành quyết định số 43 về “kế hoạch phát triển chè 1999-2000 và định
hướng phát triển đến 2010” đã đẩy ngành chè phát triển theo chương trình có
mục tiêu chiến lược. Chè Việt Nam đã từng bước đi vào ổn định theo 4 vùng
6
đó là:
(1) Vùng chè Trung du miền núi phía Bắc
(2) Vùng chè Bắc Trung bộ
(3) Vùng duyên hải miền Trung
(4) Vùng chè Tây Nguyên.

Đặc biệt đến năm 2002, được sự quan tâm của Nhà nước và Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn triển khai dự án ADB (khoản vay số 1781-
VIE CSF) với 56,7 triệu USD. Dự án được tiến hành trên cơ sở điều tra phân
tích chuỗi giá trị ngành chè Việt Nam xác định rõ mục tiêu: tập trung cao độ
vào thâm canh là cơ bản theo quy trình sản xuất chè an toàn được Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành tiêu chuẩn ngành năm 2001, dự án
đã được thực hiện đạt hiệu quả phù hợp với kế hoạch và chiến lược phát triển
chè của Nhà nước.
1.1.2. Uống chè là nét văn hóa của người Việt:
Nước chè là đồ uống phổ biến nhất gắn với đời sống con người, tính đến
năm 2007 bình quân tiêu thụ chè trên thế giới ở mức 0,55kg/người, ở Việt
Nam 0,40kg/người.
Dùng chè đều có tác dụng bảo vệ sức khỏe con người, kích thích vỏ đại
não giúp cho con người hưng phấn, tinh thần minh mẫn sảng khoái: dùng chè
chữa được các bệnh đường ruột như kiết lị, ỉa chảy (do có Tanin), nhuận
tràng, lợi tiểu, kích thích tiêu hóa, giảm colestoron và mỡ trong máu chống
béo phì. Chống sâu răng do có Pluar diệt được đốm khuẩn làm thơm miệng.
Trong chè có rất nhiều Vitamin C, B, K, PD, E… và các axit amin rất cần cho
cơ thể con người. Gần đây các hội nghị quốc tế về chè và sức khỏe con người
tại canlcuta - Ấn Độ (1993), Thượng Hải (1995), Bắc Kinh (1996), Shizuoha -
Nhật Bản (1996), Pari (2000), Kenia (2001), Tokyo (2005), Triết Giang -
Trung Quốc (2007), Hà Nội - Việt Nam (2009) đã thông báo tác dụng chè
7
xanh. Về chức năng điều hòa sinh lý con người, chức năng tăng hệ thống
miễn dịch phòng chống ung thư, phòng chống bệnh huyết áp cao, tiểu đường,
chống lão hóa do tác dụng chống ôxi hóa tăng nhu động của thành mạch máu
chống đột quỵ.
Sự xuất hiện sớm của cây chè đã đưa người Việt Nam lên hàng những
dân tộc biết uống trà sớm nhất thế giới. Thói quen uống nước chè của người
Việt Nam đã có từ rất lâu. Hầu hết người Việt Nam có uống chè, không phân

biệt vùng miền, tuổi tác, giới tính, giầu nghèo, đẳng cấp thấp cao, nghề
nghiệp. Cụm từ “Văn hóa trà Việt” được dùng chỉ các vật dụng từ lọ đựng
chè, ấm đun nước, ấm pha trà, chén uống nước… đều làm từ loại đất đặc biệt
nung trong lò; để chỉ nước pha trà là nước mưa hứng giữa trời, hay nước
giếng khơi trong vắt, đun sôi; để chỉ cách thức pha trà: ấm, chén đều được
tráng bằng nước sôi, cho trà vào ấm, tráng qua nước sôi; nước chè được rót
ra chén nhỏ; uống khi thảnh thơi, tao nhã đàm đạo thơ văn, luận bàn chính
sự, trao đổi tâm tình…
Nói đến nghệ thuật thưởng trà của người Việt Nam, là người ta nói đến
thú uống trà của người Hà Nội với vẻ thanh lịch, trang nhã, sự cầu kỳ trong
ấm thủy, đã nâng tính thẩm mỹ của chén trà lên một trình độ rất cao; là người
ta nói đến cách uống chè tươi của người bình dân ở nông thôn, đó là những lá
chè tươi rửa sạch, hãm trong nước sôi sủi tăm cá, nước chè thơm dịu, xanh
vàng óng, uống chè bằng bát sành, hút thuốc lào và nếu sang hơn, sẽ có thêm
bánh chè lam hoặc kẹo cu đơ; Văn hóa chè còn thể hiện ở cách dâng mời
uống chè, chủ chè dâng mời bằng hai tay tỏ sự kính trọng người uống. Khi
uống chè, văn hóa chè thể hiện uống từng ngụm nhỏ nhẹ để cảm nhận hết cái
thơm ngọt của trà, cái hơi ấm thoát ra từ hai bàn tay nâng chén hoặc ủ nóng
khi mùa đông lạnh giá. Uống để đáp lại lòng mến khách của người dâng trà,
để bắt đầu một tâm sự, một nỗi niềm, để bàn chuyện gia đình, xã hội, nhân
8
tình thế thái, để cảm thấy trong trà có cả hương vị của đất trời, cỏ cây. Dâng
trà và mời trà cũng là một biểu hiện phong độ văn hóa, sự thanh cao, tình tri
âm tri kỷ, lòng mong muốn hòa hợp, xóa đi những đố kỵ, hận thù. Uống trà là
một cách biểu thị mức độ tâm đắc cùng người đối thoại, tình yêu, học vấn.
1.1.3. Phát triển cây chè là phát triển cây công nghiệp và thực hiện chủ
trương xóa đói giảm nghèo:
Chè là cây công chiệp lâu năm nên nếu chăm sóc tốt đúng quy trình chè
có thể sống hàng trăm năm. Ở trên núi cao chè cổ thụ chính là rừng đầu
nguồn, rừng kinh tế “sáng lên đồi chiều có tiền”. Các vùng đất giữa chè phủ

xanh đất trống đồi núi trọc. Chè trồng theo đường đồng mức vừa giữ đất ngăn
dòng chảy chống sói mòn xô lũ.
Để khai thác tiềm năng khí hậu đất đai tùy từng vùng có thể trồng xen
vào dai rừng các cây ăn quả như: hồng không hạt, các cây ăn quả khác. Các
eo hóp có độ dốc cao trồng gấc xuất khẩu để tăng công việc trái vụ và tăng
thu nhập, tăng hiệu quả sử dụng đất.
Phát triển trồng chè ngoài ý nghĩa phủ xanh đất trống đồi núi trọc môi
sinh môi trường, cây chè còn là cây kinh tế mũi nhọn, cây xóa đói giảm nghèo
các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Cao nguyên nam
Trung bộ (Lâm Đồng). Cây chè là cây công nghiệp chủ lực có vị trí đặc biệt
quan trọng và không thể thay thể thay thế được ở trung du, miền núi và Tây
Nguyên. Chè góp phần sắp xếp công ăn việc làm phù hợp cho đồng bào các
dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa cho hàng triệu lao động và ổn định dân cư
cho gần 6 triệu người ở khắp 35 tỉnh thành. Có cây chè, Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều quyết sách cho cây chè phát triển, ngành chè đã phấn đấu từ chỗ
có 7 thị trường năm 80 đến đã có 270 doanh nghiệp xuất khẩu đến 110 quốc
gia trên thế giới, là thành viên thứ 113 của Ủy ban chè thế giới. Mặt hàng chè
Việt Nam đa dạng có đủ các loại chè mà thị trường thế giới yêu cầu như chè
9
đen Orthodox, CTC, chè xanh các loại, chè vàng… đã được thế giới tiếp nhận
và ưa chuộng. Nhưng giá xuất khẩu thấp chỉ bằng 0,5 - 0,75 đơn giá chè cùng
loại của thế giới. Đây chính là mục tiêu phấn đấu để chất lượng chè Việt Nam
đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường thế giới và từ đây nâng cao giá trị cây chè
nước ta đáp ứng nhiều mặt của nền kinh tế nước ta.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT
KHẨU:
1.2.1. Xuất khẩu và phân loại thị trường xuất khẩu:
1.2.1.1. Khái niệm xuất khẩu:
Xuất khẩu được hiểu là việc cung cấp hàng hóa dịch vụ cho nước ngoài
trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương thức thanh toán. Bản chất của hoạt động

xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng hóa (bao gồm cả hàng hóa
vô hình và hàng hóa hữu hình) trong nước với nước ngoài. Khi sản xuất phát
triển hàng hóa dư thừa thì việc tìm một thị trường mới cho sản phẩm là một
nhu cầu hết sức bức thiết và điều đó chỉ có thể được thông qua hoạt động mở
rộng thị trường vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia.
Theo luật thương mại 2005 của Việt Nam thì “xuất khẩu hàng hóa là việc
hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt
nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định
của pháp luật”.
1.2.1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu:
• Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế :
- Xuất khẩu được xem là một yếu tố quan trọng trong kích thích sự tăng
trưởng kinh tế. Như chúng ta đã biết về việc xuất khẩu cho phép mở rộng quy
mô sản xuất, nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ cho hoạt động xuất khẩu,
do đó gây phản ứng dây chuyền giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển
10
theo, như vậy làm tăng tổng sản phẩm xã hội.
- Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản
xuất vì để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường thế giới về quy cách phẩm chất,
mẫu mã… của sản phẩm thì phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác
phải nâng cao tay nghề cho người lao động.
- Xuất khẩu có vai trò tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo
hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh của mỗi quốc gia.
- Xuất khẩu giúp gắn liền sản xuất trong nước và nền kinh tế trong nước
với nền kinh tế thế giới, liên kết các nền kinh tế quốc gia với nhau tạo ra
không gian và nhu cầu kinh tế mở rộng nhờ liên kết và buôn bán quốc tế.
Đồng thời xuất khẩu cũng làm tăng cường địa vị kinh tế của quốc gia trên
trường quốc tế.
- Cuối cùng xuất khẩu còn có tác động tích cực tới việc giải quyết công
ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến

đời sống bao gồm nhiều mặt, trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút
hàng triệu người lao động vào làm việc và có thu nhập cao. Xuất khẩu còn tạo
nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống nhân
dân trong nước, làm phong phú các mặt hàng phục vụ tiêu dùng làm cho mức
sống không ngừng được nâng cao.
• Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp :
- Xuất khẩu cho phép doanh nghiệp có được nguồn ngoại tệ để nhập
khẩu vật tư, máy móc thiết bị phục vụ cho việc đổi mới công nghệ tiên tiến để
nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
- Xuất khẩu tạo cơ hội cho doanh nghiệp thiết lập mối quan hệ làm ăn
với các bạn hàng nước ngoài từ đó có thể trao đổi và học hỏi kinh nghiệm
quản lý tiên tiến để áp dụng vào thực tế sản suất kinh doanh tại Việt Nam.
- Xuất khẩu tạo ra thị trường nước ngoài sẽ giúp cho các doanh nghiệp
11
xuất khẩu am hiểu và nắm rõ nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng nơi mà
doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu. Từ đó doanh nghiệp có thể cải tiến mẫu
mã cũng như chất lượng sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của người tiêu
dùng nước ngoài nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu. Đây cũng là
ưu điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp so với các hình thức khác.
- Xuất khẩu giúp cho doanh nghiệp giải quyết bài toán đầu ra cho sản
phẩm mà doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khi mà thị trường trong nước đã
trở nên bão hòa.
- Việc cạnh tranh trên thị trường thế giới diễn ra gay gắt và quyết liệt. Do
vậy việc tham gia hoạt động xuất khẩu chính là việc doanh nghiệp đã bước
lên sân chơi chung của thương mại quốc tế. Cho nên xuất khẩu sẽ tạo ra sức
ép buộc các doanh nghiệp phải tự đổi mới để mình để nâng cao năng lực cạnh
tranh.
1.2.1.3. Phân loại thị trường xuất khẩu:
Khái niệm thị trường nói chung và thị trường xuất khẩu nói riêng có thể
xét theo nhiều góc độ khác nhau từ đó có những định nghĩa khác nhau. Theo

quan điểm của kinh tế học thì: “thị trường là tổng thể của cung và cầu đối với
một hàng hóa nhất định trong một không gian và thời gian cụ thể”. Định
nghĩa trên xuất phát từ giả thiết cơ sở là tổng số cung và tổng số cầu về một
loại hàng hóa trên thị trường vận động theo những quy luật riêng và điều tiết
thị trường thông qua quan hệ cung cầu. Định nghĩa này mang tính lý thuyết
nhiều hơn và chủ yếu được dùng trong điều tiết vĩ mô.
Đứng trên giác độ quản lý một doanh nghiệp, khái niệm thị trường phải
được gắn với các tác nhân kinh tế tham gia vào thị trường như người mua,
người bán, người phân phối … với những hành vi cụ thể của họ. Khi xem xét
khái niệm thị trường của doanh nghiệp phải nhấn mạnh vai trò quyết định của
nhu cầu. Song nhu cầu là cái bên trong được biểu hiện bằng hành vi, ý kiến
12
thái độ bên ngoài của khách hàng là cái mà doanh nghiệp có thể tiếp cận
được. Vì vậy đứng trên giác độ của doanh nghiệp và theo quan điểm của các
nhà quản trị kinh doanh quốc tế thì “Thị trường xuất khẩu là tập hợp các
khách hàng có nhu cầu thị trường với sản phẩm hoặc lĩnh vực hoạt động
thương mại mà doanh nghiệp có dự án trong mối quan hệ với các nhân tố của
môt trường kinh doanh và điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Ngoài ra, thị trường xuất khẩu hàng hóa không chỉ giới hạn ở những thị
trường nước ngoài. Thị trường trong nước nhiều trường hợp là thị trường xuất
khẩu hàng hóa tại chỗ (nhất là đối với các ngành xuất khẩu dịch vụ: du lịch,
tài chính - ngân hàng, bảo hiểm…).
Chúng ta có thể phân loại thị trường xuất khẩu của một doanh nghiệp
theo những tiêu chí khác nhau như:
- Căn cứ vào vị trí địa lý:
+ Thị trường Châu lục như thị trường Châu Âu, thị trường Châu Phi, thị
trường Châu Á…
+ Thị trường khu vực như thị trường Đông Nam Á (ASEAN), thị trường
khu vực EU, thị trường khu vực bắc Mỹ (NAFTA)… việc phân chia khu vực
thị trường đối với mỗi doanh nghiệp là khác nhau, nó phụ thuộc vào tính chất,

đặc điểm của sản phẩm đó
+ Thị trường nước và lãnh thổ, đây là thị trường các quốc gia đơn lẻ như
thị trường Mỹ, thị trường Nhật Bản, thị trường Đức…
- Căn cứ vào thời gian thiết lập mối quan hệ xuất khẩu:
+ Thị trường truyền thống
+ Thị trường hiện có
+ Thị trường mới
+ Thị trường tiềm năng
- Căn cứ vào mức độ mở cửa của thị trường, mức độ bảo hộ, tính chặt
13
chẽ và khả năng xâm nhập thị trường:
+ Thị trường “khó tính”
+ Thị trường “dễ tính”
- Căn cứ vào loại hình cạnh tranh trên thị trường:
+ Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
+ Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
+ Thị trường độc quyền
1.2.2. Mở rộng thị trường xuất khẩu:
1.2.2.1. Sự thỏa mãn khách hàng của Peter Drucker và chuỗi giá trị của
Michael Porter:
Khái niệm về mở rộng thị trường xuất khẩu cũng được xem xét trên
nhiều giác độ khác nhau.
Theo quan điểm của Marketing hiện đại thì: “Mở rộng thị trường xuất
khẩu của doanh nghiệp không chỉ là việc phát triển thêm các thị trường mới
bên ngoài lãnh thổ quốc gia mà cần phải tăng thị phần của sản phẩm đó trong
các thị trường quốc tế đã có sẵn”.
Dưới góc độ của nhà quản trị doanh nghiệp thì: “Mở rộng thị trường
xuất khẩu là tổng thể các biện pháp, cách thức mà doanh nghiệp thực hiện để
có thể đưa ngày càng nhiều sản phẩm ra thị trường nước ngoài để bán và thu
về ngoại tệ mạnh cho công ty. Mở rộng thị trường xuất khẩu không chỉ là các

hoạt động phát triển thêm các thị trường xuất khẩu mới mà còn là việc tăng
thêm doanh thu, thêm thị phần ở những thị trường truyền thống”.
Thực chất của mở rộng thị trường là để tiêu thụ các sản phẩm được sản
xuất ra.
Tiêu thụ sản phẩm “là khái niệm chỉ các hoạt động có liên quan tới việc
cung cấp sản phẩm sản xuất ra thị trường, đáp ứng nhu cầu người tiêu
14
1* Trường Ngoại Thương-Marketing quốc tế-NXB Hà Nội-Trang 7
2* Trường Ngoại Thương-Marketing quốc tế-NXB Hà Nội-Trang 9
dùng”
1*
.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về tiêu thụ sản phầm.
Nếu hiểu một cách đơn thuần, tiêu thụ sản phẩm là một hoạt động liên
quan đến việc bán các sản phẩm sản xuất ra thị trường.
Theo hiệp hội kế toán quốc tế: “Tiêu thụ sản phẩm được coi là việc
chuyển đổi quyền sở hữu sản phẩm hàng hóa từ người cung cấp đến người
tiêu dùng, đồng thời người cung cấp thu tiền hàng hoặc có quyền thu tiền bán
hàng”
2*
.
Theo những cách hiểu này, hoạt động tiêu thụ sản phẩm đơn thuần chỉ là
hoạt động bán hàng.
Theo nghĩa rộng, tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao gồm
nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, đặt
hàng, tổ chức sản xuất, tổ chức thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến bán
hàng nhằm mục tiêu lãi cao với chi phí thấp.
Cần phải hiểu khái niệm tiêu thụ theo nghĩa rộng vì khách hàng ngày nay
đang đứng trước rất nhiều chủng loại sản phẩm và nhãn hiệu, giá cả và người
cung ứng, họ tha hồ lựa chọn. Trong tình thế này Peter Drucker đã đưa ra

nhận định hế sức sáng suốt là khách hàng sẽ chọn mua thứ hàng nào đem lại
giá trị cao nhất cho khách hàng và ông định nghĩa: giá trị dành cho khách
hàng là chênh lệch giữa tổng giá trị của khách hàng và tổng chi phí khách
hàng. Tổng giá trị khách hàng là toàn bộ những lợi ích mà khách hàng trông
đợi ở một sản phẩm hay dịch vụ nhất định, sự thỏa mãn khách hàng là mức độ
của trạng thái cảm giác của một người bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu
được từ sản phẩm (hay sản lượng) với những kỳ vọng của người đó. Như vậy,
mức độ thỏa mãn là hàm của sự khác biệt giữa kết quả nhận được và kỳ vọng
khách hàng có thể có cảm nhận một trong ba mức độ thỏa mãn sau. Nếu kết
quả thực tế kém hơn so với kỳ vọng thì khách hàng sẽ không hài lòng. Nếu
15
1* Philip Kotler - quản trị marketing - NXB Thống kê - Trang 47
kết quả thực tế tương xứng với kỳ vọng thì khách hàng sẽ hài lòng. Nếu kết
quả thực tế vượt quá sự mong đợi thì khách hàng rất hài lòng, vui sướng và
thích thú.
Hình 1.1 “Mô hình các yếu tố quyết định giá trị dành cho khách hàng”
1*
Vì cung ứng giá trị và sự thỏa mãn khách hàng là rất quan trọng nên vấn
đề đặt ra là làm thế nào tạo ra và cung ứng giá trị và sự thỏa mãn đó.
Michael Porter ở trường đại học Harvard đã đề nghị lấy chuỗi giá trị làm
một công cụ của công ty để tìm cách tạo ra giá trị lớn hơn cho khách hàng.
16
Giá trị sản phẩm
Giá trị dịch vụ
Giá trị về nhân sự
Giá trị về hình ảnh
Giá tiền
Phí tổn thời gian
Phí tổn công sức
Phí tổn tinh thần

Tổng giá trị của
khách hàng
Tổng chi phí của
khách hàng
Giá trị dành cho
khách hàng
1* Philip Kotler - quản trị marketing - NXB Thống kê 2000 - Trang 54
Hình 1.2 “Mô hình chuỗi giá trị của một công ty”
1*
Cơ sở hạ tầng của công ty
Cung ứng
Hậu cần
Đầu vào
Sản xuất
Chế biến
Hậu cần
Đầu ra
Marketing
và bán hàng
Dịch vụ
Mỗi công ty là một tập hợp các hoạt động được thực hiện nhằm thiết kế,
sản xuất, bán hàng, giao hàng và hỗ trợ sản phẩm của mình. Chuỗi giá trị xác
định chính hoạt động tương ứng về chiến lược tạo ra giá trị và chi phí trong
một doanh nghiệp cụ thể. Chín hoạt động tạo ra giá trị này bao gồm năm hoạt
động chủ chốt và bốn hoạt động hỗ trợ.
Ý nghĩa của mô hình chuỗi giá trị là ở chỗ để bán được nhiều sản phẩm
công ty cần giải quyết đồng bộ từ hậu cần đầu vào (gieo trồng chăm bón tạo
nguyên liệu đầu vào), sản xuất chế biến, hậu cẩn đầu ra (chủng loại sản phẩm
đúng với nhu cầu), Marketing và dịch vụ xen kẽ vào các hoạt động chủ chốt là
bốn hoạt động hỗ trợ (cơ sở hạ tầng, công nghệ, nguồn nhân lực, cung ứng

đúng yêu cầu), các hoạt động trên chúng đan xen vào nhau.
1.2.2.2. Các phương thức mở rộng thị trường xuất khẩu:
Để mở rộng thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp có thể thực hiện theo hai
phương thức sau: Mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu và mở rộng thị
trường xuất khẩu theo chiều rộng. Tuy nhiên trong thực tế thì các doanh
nghiệp thường áp dụng cả hai phương pháp trên cùng một lúc trong hoạt động
17
Dịch vụ
Các hoạt động chủ chốt
Quản lý nguồn nhân lực
Phát triển công nghệ
G
i
á

t
r


g
i
a

t
ă
n
g
G
i
á


t
r


g
i
a

t
ă
n
g
Các
hoạt
động
hỗ trợ

Giá trị gia tăng Giá
trị gia tăng
Dịch vụ
mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp mình.
- Thứ nhất: Mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng: Khi áp dụng
phương thức này tức là doanh nghiệp muốn mở rộng thị trường theo phạm vi
khu vực địa lý, đa dạng hóa các sản phẩm và muốn tăng thêm lương khách
hàng tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp mình.
Phương thức này thích hợp với các doanh nghiệp có đặc điểm sau:
+ Doanh nghiệp không thể cạnh tranh trên các thị trường xuất khẩu
truyền thống nữa. Điều này buộc doanh nghiệp phải tìm cho mình một thị
trường mới. Vấn đề này chỉ có thể giải quyết được thông qua việc mở rộng thị

trường xuất khẩu theo chiều rộng.
+ Doanh nghiệp có đủ khả năng để mở rộng thị trường của mình. Có
nghĩa là trong chiến lược kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp, họ tự nhận
thấy việc cần thiết phải mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng và
doanh nghiệp có đủ khả năng về tài chính cũng như các nhân tố khác để thực
hiện chiến lược kinh doanh của mình.
+ Xuất hiện những trở ngại về chính trị - pháp luật - xã hội ở các thị
trường xuất khẩu hiện tại của doanh nghiệp. Đây là những vấn đề được coi là
bất khả kháng - nó có thể là những rủi ro mà doanh nghiệp phải tính đến trong
hoạt động kinh doanh quốc tế. Cách thức tốt nhất để giải quyết vấn đề này là
tránh tình trạng “bỏ tất cả chứng vào cùng một rỏ” do vậy doanh nghiệp nên
tìm cách mở rộng thị trường xuất khẩu nhằm tăng số lượng thị trường, không
nên tập trung vào một số ít thị trường vì như thế sẽ hạn chế được rủi ro khách
quan do thị trường xuất khẩu gây ra.
+ Các thị trường xuất khẩu truyền thống của doanh nghiệp đã trở nên bão
hòa với các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp. Nhu cầu của
người tiêu dùng luôn luôn biến đổi đến một lúc nào đấy thị phần của doanh
nghiệp đạt mức bão hòa nhưng những sản phẩm của doanh nghiệp sẽ có “sức
18
sống” ở một thị trường mới. Do vậy để giải quyết bài toán đầu ra cho sản
phẩm khi thị trường xuất khẩu đã bão hòa thì việc doanh nghiệp mở rộng thị
trường xuất khẩu theo chiều rộng là một tất yếu đối với mỗi doanh nghiệp
kinh doanh quốc tế.
- Thứ hai: Mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu: doanh nghiệp
sẽ áp dụng phương thức mở rộng thị trường xuất khẩu này khi doanh nghiệp
muốn tăng kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp mình sang những thị
trường mà doanh nghiệp đã thâm nhập được. Doanh nghiệp thường áp dụng
phương thức này khi:
+ Sau một thời gian thâm nhập thị trường sản phẩm của doanh nghiệp đã
được nhiều người tiêu dùng chấp nhận, cộng với việc doanh nghiệp đã có

thêm thông tin về thị trường xuất khẩu. Điều này sẽ tạo điều kiện cho doanh
nghiệp mở rộng thị trường xuât khẩu theo chiều sâu để tăng kim ngạch xuất
khẩu.
+ Doanh nghiệp đang chiếm ưu thế so với đối thủ cạnh tranh trực tiếp
trên thị trường xuất khẩu, đó là lợi thế về thương hiệu, về mẫu mã, về giá
cả… Điều này cho phép doanh nghiệp có thể tăng kim ngạch xuất khẩu tại
các thị trường xuất khẩu hiện tại của mình.
+ Vòng đời sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ doanh nghiệp vẫn còn đang
trong giai đoạn phát triển trên thị trường đó.
+ Nhu cầu về sản phẩm của công ty tại các thị trường xuất khẩu hiện tại
của công ty lớn và ổn định.
+ Doanh nghiệp vẫn có khả năng tiếp tục tăng sản lượng xuất khẩu sang
thị trường này.
- Thứ 3: Phát triển kết hợp cả chiều rộng lẫn chiều sâu: Khi doanh
nghiệp đã có vị trí vững chắc trên thị trường và có điều kiện tiềm năng về
vốn, cơ sở vất chất và năng lực quản lý có thể phát triển theo hướng kết hợp
19
1* Philip Kotler - quản trị marketing - NXB Thống kê 2000 - Trang 92
phát triển thị trường theo chiều rộng và chiều sâu để mở rộng quy mô kinh
doanh với hiệu quả cao.
1.2.2.3. Chiến lược cặp sản phẩm - thị trường của Ansoff:
Khi lựa chon chiến lược mở rộng thị trường ngoài căn cứ vào hai phương
thức mở rộng theo chiều rộng hoặc chiều sâu còn phải nghiên cứu tới chiến
lược phát triển cặp sản phẩm - thị trường của Ansoff.
Theo quan điểm của Ansoff: các công ty kinh doanh quốc tế cần căn cứ
vào cặp sản phẩm và thị trường để xác định mục tiêu kinh doanh hiện tại của
mình tại thị trường mục tiêu là gì? Từ đó có những hoạt động nghiên cứu thị
trường tập trung, hiệu quả nhằm đưa ra những chiến lược, giải pháp cụ thể
cho từng thị trường.
Biểu hình 1.1: “Ma trận Ansoff”

1*
Thị trường
Sản phẩm mới
Thị trường mới Thị trường hiện tại
Sản phẩm mới Đa dạng hóa Phát triển sản phẩm
Sản phẩm hiện tại Mở rộng thị trường Thâm nhập thị trường
Dựa vào cặp sản phẩm và thị trường của doanh nghiệp, Ansoff xác định
4 khả năng doanh nghiệp có thể xem xét để xác định mục tiêu thị trường công
ty hướng tới:
* Thâm nhập thị trường: Mục tiêu của doanh nghiệp là tăng doanh số
của sản phẩm hiện có trên thị trường hiện có bằng cách thu hút thêm khách
hàng của đối thủ cạnh tranh nhờ vào các biện pháp giảm giá, tăng thêm ngân
sách quảng cáo và cải tiến nội dung khuyến mãi… trong khi vẫn không mất đi
khách hàng đang có.
Trường hợp áp dụng:
20
- Khi thị trường của doanh nghiệp chưa bước vào giai đoạn bão hòa, sản
phẩm của doanh nghiệp đang ở những giai đoạn đầu của chu kì sống.
- Khi thị trường của đối thủ cạnh tranh đang giảm trong khi doanh số
toàn ngành đang tăng.
- Khi có một mối tương quan tuyến tính giữa doanh thu và chi phí
marketing
- Việc tăng trưởng kinh tế theo quy mô đem lại lợi thế cạnh tranh chủ
yếu cho doanh nghiệp
* Mở rộng thị trường: Là hình thức triển khai sản phẩm hiện có của
doanh nghiệp sang những phân đoạn thị trường mới, với mong muốn gia tăng
được khối lượng bán nhờ vào việc khuyến mãi những khách hàng mới.
Trường hợp áp dụng:
- Doanh nghiệp có sẵn kênh phân phối mới tin cậy, chất lượng và chi phí
hợp lý.

- Doanh nghiệp đạt được thành công trên thị trường hiện có
- Các thị trường chưa khai thác hết hoặc chưa bão hòa
- Khi doanh nghiệp có đủ nguồn lực quản lý
* Phát triển sản phẩm

: Là cách thức doanh nghiệp tạo ra sản phẩm
mới hoặc cải tiến sản phẩm để thay thế sản phẩm hiện hành sau đó đưa vào
tiêu thụ ở các thị trường hiện tại nhằm tăng thêm sức mua và tăng lượng
tiêu thụ.
Trường hợp áp dụng:
- Sản phẩm dịch vụ của công ty đang trong giai đoạn chín muồi
- Ngành kinh doanh có đặc trưng kĩ thuật thay đổi nhanh chóng
- Doanh nghiệp phải cạnh tranh trong ngành có tốc độ phát triển cao
- Doanh nghiệp có khả năng nghiên cứu và phát triển vững mạnh
21
• Đa dạng hóa : Là cách thức để doanh nghiệp mở rộng hoặc phát triển
hoạt động kinh doanh trên cơ sở đưa ra các sản phẩm mới bán trong các thị
trường mới, kể cả hoạt động trong lĩnh vực không truyền thống.
Trường hợp áp dụng:
- Khi ngành kinh doanh có sự cạnh tranh quá cao hoặc không tăng
trưởng
- Ngành kinh doanh mới đang đầy tiềm năng phát triển
- Doanh nghiệp dư thừa các nguồn lực
1.2.3. Các hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp:
1.2.3.1. Xúc tiến xuất khẩu:
Để mở rộng thị trường xuất khẩu thì trước hết doanh nghiệp phải tạo
dựng một nền móng vững chắc cho hoạt động này. Do vậy khi muốn mở rộng
thị trường xuất khẩu doanh nghiệp cần tiến hành hoạt động xúc tiến xuất khẩu.
Có thể xúc tiến xuất khẩu là nội dung quan trọng hàng đầu của mở rộng thị
trường xuất khẩu. Theo cách hiểu truyền thống, xúc tiến xuất khẩu bao gồm

các hoạt động trao đổi và hỗ trợ trao đổi thông tin thương mại giữa bên xuất
khẩu và bên nhập khẩu hoặc qua trung gian nhằm tác động tới thái độ và hành
vi mụa bán qua đó thúc đẩy việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa. Đây là một biện
pháp rất quan trọng để thúc đẩy hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của
một công ty. Do vậy, bất kỳ một công ty nào có quyết định mở rộng thị trường
xuất khẩu bắt buộc phải quan tâm đến hoạt động xúc tiến thương mại.
Muốn làm tốt hoạt động xúc tiến xuất khẩu doanh nghiệp cần tiến hành
các hoạt động sau:
- Tham gia hội trợ, triển lãm: Đây là bước đầu tiên để doanh nghiệp có
thể giới thiệu sản phẩm của mình tới người tiêu dùng cũng như thông qua
hoạt động này để tìm kiếm và thiết lập mối quan hệ làm ăn với những bạn
hàng quốc tế. Nếu như doanh nghiệp làm tốt những hoạt động này tại thị
22

×