Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại ngân hàng tmcp liên việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.77 KB, 86 trang )

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Cùng với quá trình hội nhập, phát triển của nền kinh tế và sự gia tăng nhu
cầu của con người, các sản phẩm dịch vụ của hệ thống ngân hàng thương mại ngày
càng đa dạng và đóng góp tích cực vào sự gia tăng thu nhập của ngân hàng. Tại Việt
Nam, các dịch vụ ngân hàng mặc dù đã có sự đa dạng, tuy nhiên, hoạt động cơ bản
đóng góp lớn trong thu thập của các ngân hàng thương mại hiện nay vẫn là hoạt
động cho vay. Vì vậy, các ngân hàng thương mại vẫn đang cạnh tranh gay gắt để
mở rộng quy mô tín dụng, với mục tiêu gia tăng lợi nhuận, điều này đồng nghĩa với
việc rủi ro đối với ngân hàng cũng tăng lên. Để hạn chế các rủi ro trong hoạt động
cho vay thì chất lượng thẩm định các khoản vay là vấn đề rất cần được các ngân
hàng quan tâm, đặc biệt là với các khoản cho vay theo dự án đầu tư với đặc thù thời
gian cho vay dài và quy mô vốn thường lớn.
Ngân hàng TMCP Liên Việt được thành lập năm 2008, là một trong những
ngân hàng thương mại có tuổi đời non trẻ nhất tại Việt Nam. Với mục tiêu trong 5
năm từ ngày thành lập sẽ trở thành một trong mười NH TMCP hàng đầu Việt Nam,
Ngân hàng TMCP Liên Việt hiện đang đẩy nhanh tốc độ mở rộng mạng lưới hoạt
động và quy mô tài sản, trong đó có định hướng đẩy mạnh hoạt động cho vay trên
quan điểm hiệu quả và kiểm soát tốt rủi ro. Để hoàn thành mục tiêu này, Ngân hàng
TMCP Liên Việt đã luôn chú trọng đến công tác quản trị rủi ro tín dụng. Tuy nhiên,
tình trạng tỷ lệ nợ quá hạn tăng trong thời gian gần đây thì bên cạnh yêu cầu phải
tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tín dụng, ngân hàng cần thiết phải
kiểm soát rủi ro ngay từ khâu xét duyệt cho vay – tức là phải nâng cao chất lượng
thẩm định tại ngân hàng.
Xuất phát từ thực tế tại đơn vị là hoạt động cho vay đối với dự án đầu tư
đang được mở rộng, từ mức độ rủi ro đối với loại hình cho vay này và mục tiêu của
ngân hàng khi thẩm định dự án đầu tư, tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu là “Nâng
cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại
2
Ngân hàng TMCP Liên Việt” nhằm đưa ra những giải pháp thiết thực trong việc


nâng cao chất lượng nghiệp vụ tại đơn vị.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng thẩm định tài chính
DAĐT trong hoạt động cho vay của Ngân hàng Thương mại.
- Phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng thẩm định tài chính DAĐT
trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Liên Việt.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính
DAĐT tại Ngân hàng TMCP Liên Việt.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại
Ngân hàng Thương mại cổ phần.
- Phạm vi nghiên cứu: Các dự án đầu tư mà Ngân hàng TMCP Liên Việt đã
cho vay trong 3 năm đầu thành lập (2008 – 2010).
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh…, để đưa ra
các kết quả đánh giá nhằm giúp cho công tác nghiên cứu thuận lợi và đạt kết quả
tốt.
5. Những đóng góp của đề tài
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về hoạt động thẩm định và chất lượng
thẩm định tài chính DAĐT trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại,
làm cơ sở để đánh giá chất lượng thẩm định tài chính DAĐT tại Ngân hàng TMCP
Liên Việt hiện nay và đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng
nghiệp vụ tại đơn vị.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài “Phần mở đầu” và “Kết Luận”, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong
hoạt động cho vay tại Ngân hàng Thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt
đọng cho vay của Ngân hàng TMCP Liên Việt
3

Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Liên Việt
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM
ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế, có lịch sử hình thành và phát triển gắn với sự phát triển của nền kinh tế hàng
hóa. Quá trình phát triển kinh tế là điều hiệu và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng,
đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Cho đến nay có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng
4
thương mại thông qua chức năng, các dịch vụ và vai trò mà ngân hàng thực hiện
trong nền kinh tế. Một trong những cách tiếp cận thận trọng nhất có thể xem xét là
trên phương diện những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, theo đó “Ngân hàng là
loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng
nhất – đặc biệt là tín dụng tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất cứ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” –
Trích Quản trị Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội (2004).
Lịch sử phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam còn khá non trẻ so với lịch
sử hình thành và phát triển của các ngân hàng trên thế giới. Tổ chức tín dụng đầu
tiên tại Việt Nam được ra đời năm 1951 (là tiền thân của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam hiện nay) với chức năng chính là huy động tiền gửi của các doanh nghiệp, cơ
quan đoàn thể, tổ chức kinh tế và dân cử để cho vay. Ngân hàng Nhà nước vừa là cơ
quan quản lý về tiền tệ vừa là tổ chức kinh doanh phi lợi nhuận nhằm thực hiện các
mục tiêu trong thời kỳ chiến tranh. Do hoàn cảnh lịch sử, phải đến năm 1990 khi
Pháp lệnh ngân hàng được ban hành thì các tổ chức tín dụng tại Việt Nam mới bước
vào giai đoạn phát triển. Đến nay, Việt Nam đã có trên 60 tổ chức tín dụng đang
hoạt động gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên

doanh. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (số 47/2010/QH12, có hiệu lực từ ngày
01/01/2011) đĩnh nghĩa: Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực
hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy
định của Luật tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Với chức năng là một trung gian tài chính, trung gian thanh toán trong nền
kinh tế, ngân hàng thương mại có các hoạt động có bản sau:
- Hoạt động huy động vốn: nguồn vốn huy động của ngân hàng là từ tiền gửi
của các tổ chức và dân cư trong nền kinh tế, do đó, hoạt động huy động vốn của
ngân hàng thương mại chính là việc ngân hàng nhận tiền gửi của các tổ chức, cá
nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm,
phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi
5
khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa
thuận. Nguồn vốn chủ sở hữu ngân hàng thường chỉ chiếm một tỷ lệ nhất định trong
quy mô nguồn vốn của ngân hàng, để đảm bảo lượng vốn cần thiết cho hoạt động,
ngân hàng phải thường xuyên thực hiện huy động vốn trong nền kinh tế.
- Hoạt động sử dụng vốn: được hiểu bao gồm hoạt động cấp tín dụng và đầu
tư của ngân hàng. Cấp tín dụng là việc ngân hàng thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử
dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên
tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, leasing, bao thanh toán, bảo
lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Đầu tư là việc ngân hàng bỏ
vốn vào các hoạt động sinh lời như mua trái phiếu kho bạc, duy trì tiền gửi tại các tổ
chức tín dụng khác, góp vốn thành lập công ty con, … để đem lại cho ngân hàng
một lợi ích kỳ vọng nhất định trong tương lai. Hoạt động sử dụng vốn của ngân
hàng thương mại phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt về quản lý, kiểm soát
rủi ro của Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt đối với hoạt động cấp tín dụng.
- Hoạt động trung gian thanh toán: được thể hiện thông qua việc cung ứng
phương tiện thanh toán và các dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế và sự gia tăng các nhu cầu của con người, các dịch vụ thanh

toán ngân hàng cung cấp ngày càng đa dạng, như thực hiện dịch vụ thanh toán séc,
lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các
dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
Bên cạnh các dịch vụ cho vay, thanh toán cơ bản, ngân hàng thương mại
ngày nay còn cung cấp rất nhiều dịch vụ hiện đại như dịch vụ bảo quản tài sản hộ,
dịch vụ ủy thác và tư vấn, dịch bảo hiểm, dịch vụ đại lý, dịch vụ môi giới đầu tư
chứng khoán… đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và đòi hỏi của quá trình
phát triển.
1.1.3. Các hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
“Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết
giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một
thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.” –
6
Trích Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (số 47/2010/QH12, có hiệu lực từ ngày
01/01/2011).
Cùng với sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng hiện đại, các loại hình cho
vay của Ngân hàng thương mại cũng ngày càng đa dạng và đáp ứng tốt hơn các nhu
cầu của khách hàng.
- Theo thời hạn của khoản vay, các loại hình cho vay của Ngân hàng thương
mại được chia thành:
+ Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng.
+ Cho vay trung hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay trên 12 tháng đến
60 tháng.
+ Cho vay dài hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng.
- Theo phương thức bảo đảm cho khoản vay, các loại hình cho vay của Ngân
hàng thương mại được chia thành: Cho vay có bảo đảm bằng tài sản và cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản.
- Theo mục đích cho vay, các loại hình cho vay của Ngân hàng thương mại
được chia thành:
+ Cho vay thương mại: thường là các khoản vay ngắn hạn, phục vụ nhu cầu

bổ sung vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng.
+ Cho vay tiêu dùng: đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân và hộ gia
đình.
+ Cho vay theo dự án: cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư
phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời
sống.
Cùng với nhu cầu đầu tư phát triển gia tăng, cho vay theo dự án đang dần trở
thành một trong những hình thức cho vay phổ biến của các ngân hàng thương mại.
Cho vay theo dự án mang những đặc trưng cơ bản sau:
+ Thời gian cho vay vốn dài: các DAĐT có thời gian sử dụng vốn vay dài do
cần có thời gian cho việc hình thành các tài sản cố định và thời gian để tài sản cố
7
định đó tạo ra đủ nguồn thu bù đắp chi phí đầu tư ban đầu. Vì vậy, cho vay theo dự
án thuộc loại hình cho vay trung dài hạn của ngân hàng.
+ Số tiền cho vay lớn: các DAĐT mua sắm tài sản cố định, đổi mới thiết bị,
xây dựng cơ sở hạ tầng… của khách hàng thường có nhu cầu vốn lớn. Có những
DAĐT nhu cầu vốn vượt quá khả năng đáp ứng của một ngân hàng, đòi hỏi nhiều
ngân hàng cùng tham gia tài trợ.
+ Mức sinh lời cao, rủi ro lớn: nguyên nhân cơ bản do thời gian thực hiện dự
án kéo dài, khiến cho dự án chịu tác động từ nhiều yếu tố thị trường, pháp luật và tự
nhiên, trong trường hợp biến động bất lợi thì ngân hàng khó có thể bảo toàn được
vốn. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho các cam kết dài hạn, ngân hàng cũng phải chấp
nhận nhiều rủi ro hơn khi cân đối nguồn vốn huy động. Vì vậy, ngân hàng thường
áp dụng mức lãi suất cho vay đối với dự án trung dài hạn cao hơn nhiều so với các
dự án vay vốn ngắn hạn. Điều này đồng nghĩa với việc, cho vay theo dự án là hoạt
động mang lại nguồn lợi lớn cho ngân hàng.
Hiện nay, cùng với nhu cầu đầu tư phát triển của nền kinh tế, ngày càng
nhiều các DAĐT có quy mô lớn có nhu cầu vay vốn ngân hàng, đây là cơ hội cho
những ngân hàng có đủ tiềm lực tiếp tục mở rộng phát triển thị trường tín dụng.
1.2. Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho

vay của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Vai trò của thẩm định tài chính dự án đầu tư
Đặc trưng cơ bản của hoạt động cho vay theo dự án là tiềm ẩn nhiều rủi ro,
mức độ rủi ro này phụ thuộc vào các yếu tố như: thời gian thực hiện dự án, quy mô
dự án, mục đích dự án, năng lực chủ đầu tư, các nguồn vốn tài trợ dự án. Trong khi
đó, hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại phải chịu sự quản lý giám sát
chặt chẽ của hệ thống quy định pháp luật, phải đảm bảo nguyên tắc cơ bản là “hoàn
trả cả gốc và lãi” đúng hạn, đồng thời đạt mục tiêu sinh lợi cho ngân hàng. Do đó,
yêu cầu đặt ra đối với Ngân hàng thương mại là làm thế nào để lựa chọn được
phương án khả thi nhất trong các nhu cầu vay vốn của khách hàng, hạn chế tối đa
các rủi ro đối với ngân hàng.
8
Để đáp ứng yêu cầu này, trước khi đưa ra quyết định tài trợ vốn cho dự án,
các Ngân hàng thương mại phải tổ chức thẩm định dự án đầu tư để có thể đánh giá
tính khả thi và hiệu quả của dự án. Thẩm định dự án đầu tư chính là việc tổ chức,
xem xét một cách khách quan, có cơ sở khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản
của dự án, nhằm khẳng định tính hiệu quả và tính khả thi của dự án, từ đó, ra quyết
định về đầu tư và cho phép đầu tư. Thẩm định DAĐT đòi hỏi phải xem xét dự án
trên tất cả các khía cạnh: tính pháp lý của dự án; thị trường của dự án; giải pháp kỹ
thuật, công nghệ của dự án; tài chính dự án; tài sản bảo đảm tiền vay; các rủi ro liên
quan tới dự án. Do đó, thẩm định DAĐT đòi hỏi những điều kiện nhất định về thời
gian và nguồn lực thẩm định. Kết quả của việc thẩm định DAĐT là phải đưa ra kết
luận về tính khả thi hay không khả thi của dự án.
Thẩm định tài chính DAĐT là một nội dung, một khâu trong quy trình thẩm
định dự án đầu tư, đó là việc rà soát, đánh giá một cách khách quan, có cơ sở khoa
học và toàn diện các nội dung cơ bản của dự án trên khía cạnh tài chính, từ đó, đưa
ra kết luận về tính khả thi và hiệu quả tài chính của dự án, là cơ sở quyết định đầu
tư/tài trợ vốn cho dự án. Thẩm định tài chính DAĐT trong hoạt động của NHTM là
việc ngân hàng tổ chức thẩm định tài chính dự án trên quan điểm của ngân hàng,
làm cơ sở đưa ra kết luận cho vay hay không đối với dự án đó.

Thẩm định tài chính DAĐT là cần thiết và đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại.
Thứ nhất, các dự án đầu tư xin vay vốn thường rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh
vực với quy mô và tính chất khác nhau. Trong điều kiện và khả năng có hạn, ngân
hàng khó có thể thẩm định chi tiết tất cả các khía cạnh, do đó, ngân hàng chủ yếu
tập trung vào khía cạnh tài chính – đây là thế mạnh, phù hợp với chuyên môn
nghiệp vụ của ngân hàng.
Thứ hai, thẩm định tài chính DAĐT giúp ngân hàng đánh giá được hiệu quả
tài chính của dự án trên quan điểm của người tài trợ vốn, từ đó lựa chọn được các
cơ hội đầu tư tốt, có khả năng thu hồi vốn cao, hạn chế rủi ro phát sinh. Một dự án
đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng vẫn mang tính chủ quan
của người soạn thảo. Dự án do chủ đầu tư lập hoặc thuê đơn vị tư vấn lập dự án
9
nhìn chung đều dựa trên ý đồ kinh doanh và ý muốn chủ quan của chủ đầu tư. Trên
quan điểm của chủ đầu tư thì dự án của họ bao giờ cũng khả thi, có hiệu quả về mặt
tài chính và họ mong muốn được ngân hàng cho vay, do đó, có thể chủ đầu tư chưa
xem xét và đánh giá đầy đủ về các rủi ro liên quan trong quá trình thực hiện dự án.
Để đảm bảo an toàn vốn và sinh lời, trước khi đưa ra quyết định tài trợ, ngân hàng
phải xem xét, đánh giá lại tính khả thi và hiệu quả tài chính của dự án. Thông qua
thẩm định tài chính dự án, ngân hàng có thể lựa chọn và đưa ra quyết định tài trợ
đối với các dự án khả thi và có hiệu quả, hạn chế các rủi ro mang tính chủ quan.
Thứ ba, thẩm định tài chính DAĐT giúp ngân hàng xác định được dòng tiền
dự kiến của dự án, từ đó, ngân hàng có cơ sở đưa ra các điều kiện vay vốn phù hợp
về số tiền cho vay, thời hạn cho vay, thời hạn trả nợ, mức lãi suất, biện pháp quản lý
nguồn trả nợ…, đây là cơ sở cho việc thu hồi cả gốc và lãi theo đúng tiến độ, hạn
chế rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng, là điều kiện cho sự tăng trưởng và phát
triển của ngân hàng.
Yêu cầu đặt ra đối với công tác thẩm định tài chính DAĐT của Ngân hàng
thương mại là trước hết là phải đánh giá được hiệu quả tài chính của dự án, được
thể hiện thông qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án như giá trị

hiện tại ròng (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), thời gian thu hồi vốn đầu tư (T)
…. Bên cạnh đó, phải đánh giá mức độ an toàn tài chính của dự án, được thể hiện
qua các chỉ tiêu an toàn về khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính ngắn hạn và
khả năng trả nợ và sự chắc chắn của hiệu quả tài chính khi các yếu tố khách quan có
tác động bất lợi. Để đảm bảo các yêu cầu đó, khâu thẩm định tài chính dự án đầu tư
cần tuân theo một quy trình và nội dung thẩm định khoa học.
1.2.2. Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư
Thẩm định tài chính DAĐT trong hoạt động cho vay của NHTM bao gồm
nhiều nội dung có liên hệ chặt chẽ với nhau, các nội dung thẩm định phải bao hàm
đầy đủ các khía cạnh tài chính của dự án như vốn đầu tư, hiệu quả tài chính, khả
năng trả nợ và rủi ro của dự án. Nội dung thẩm định càng chi tiết thì độ chính xác
của kết quả thẩm định càng cao, nhưng cũng đòi hỏi tiêu tốn nhiều nguồn lực cho
10
công tác thẩm định. Vì vậy, tùy vào quy mô, tính chất của từng dự án mà mức độ
yêu cầu chi tiết có thể khác nhau.
* Thẩm định tổng vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn tài trợ cho dự án:
- Thẩm định tổng vốn đầu tư là việc xác định lại tính hợp lý của tổng vốn đầu
tư do khách hàng đưa ra so với phương án thiết kế kỹ thuật của dự án. Đây là nội
dung quan trọng đầu tiên ngân hàng cần xem xét khi tiến hành thẩm định tài chính
DAĐT.
Tổng vốn đầu tư của dự án là toàn bộ số vốn cần thiết để thiết lập và đưa dự
án vào hoạt động, bao gồm:
+ Vốn đầu tư cố định: là toàn bộ các chi phí để hình thành lên tài sản cố định
của dự án gồm chi phí đầu tư xây dựng, chi phí thiết bị, lãi vay trong thời gian xây
dựng, chi phí quản lý dự án và các chi phí hợp lý khác trước khi đưa dự án vào vận
hành khai thác.
+ Vốn lưu động ban đầu: là các chi phí để tạo ra tài sản lưu động cho chu kỳ
sản xuất đầu tiên đối với dự án sản xuất, bao gồm: chi phí nguyên vật liệu, nhiên
liệu, dự trữ hàng tồn kho, chi phí nhân công … đảm bảo cho dự án có thể đi vào
hoạt động bình thường theo các điều kiện kinh tế - kỹ thuật đã dự tính.

+ Vốn dự phòng: là khoản dự trù cho các chi phí phát sinh trong quá trình
triển khai dự án.
Xác định chính xác tổng mức vốn đầu tư là cơ sở để lập kế hoạch và quản lý
vốn đầu tư, cơ sở để xác định hiệu quả tài chính của DAĐT và ngược lại, xác định
không chính xác tổng mức vốn đầu tư có thể dẫn đến những kết luận sai lầm về hiệu
quả dự án. Nếu tổng mức vốn đầu tư xác định quá thấp thì dự án không thể triển
khai theo đúng kế hoạch, không bảo đảm cho khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
Đồng thời, nếu xác định tổng mức vốn đầu tư thấp sẽ làm cho các chỉ tiêu hiệu quả
tài chính của dự án được tốt hơn, có thể dễ dẫn đến lựa chọn sai lầm là tài trợ cho
các dự án không thực sự hiệu quả. Ngược lại, nếu xác định tổng mức vốn đầu tư quá
cao sẽ làm giảm các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án, không phản ánh chính xác
hiệu quả tài chính dự án, có thể dẫn tới quyết định bỏ qua một dự án khả thi và hiệu
quả. Khi xác định mức vốn đầu tư quá cao có thể làm tăng tỷ lệ tài trợ vốn của ngân
11
hàng trên nhu cầu vốn đầu tư thực tế, giảm mức vốn tự có tham gia của chủ đầu tư,
khi đó, phần lớn các rủi ro sẽ được đẩy về phía ngân hàng.
- Thẩm định cơ cấu nguồn vốn của dự án trước hết là việc xác định các
nguồn vốn tài trợ cho dự án và phương thức huy động các nguồn vốn đó. Các nguồn
vốn tài trợ cho dự án bao gồm: nguồn vốn tự có của chủ đầu tư, nguồn vốn huy
động khác trong quá trình triển khai dự án, nguồn vốn vay ngân hàng. Mỗi nguồn
vốn có chi phí khác nhau, do đó, cần xác định cơ cấu vốn có chi phí bình quân gia
quyền thấp nhất để đảm bảo tối đa hóa lợi ích ròng thu được từ dự án. Tiếp đó phải
xem xét, đánh giá khả năng đảm bảo chắc chắn của các nguồn tài trợ này và sự phù
hợp của tiến độ huy động các nguồn tài trợ so với tiến độ sử dụng vốn của dự án.
Kết quả của bước thẩm định này giúp ngân hàng đánh giá được tính khả thi của
phương án huy động vốn cho dự án, xác định được số vốn mà ngân hàng cần cho
vay, đồng thời là cơ sở để xác định kế hoạch giải ngân, thu nợ.
* Thẩm định về doanh thu, chi phí và xác định báo cáo tài chính dự kiến cho
từng năm của dự án:
- Thẩm định về kế hoạch doanh thu: doanh thu được xác định cho từng năm

hoạt động của dự án, bao gồm doanh thu do bán sản phẩm và cung cấp dịch vụ cho
bên ngoài. Trong thẩm định kế hoạch doanh thu, ngân hàng cần làm rõ hai vấn đề:
sản lượng sản xuất, tiêu thụ hàng năm và giá bán sản phẩm. Sản lượng sản xuất phải
phù hợp với công suất thiết kế và kế hoạch vận hành hàng năm, cũng như khả năng
bảo đảm về các nguồn lực đầu vào. Sản lượng tiêu thụ và giá bán phải phù hợp với
các phân tích dự báo về nhu cầu thị trường, với giá thành sản xuất dự kiến.
- Thẩm định về kế hoạch chi phí: chi phí cũng được tính cho từng năm hoạt
động của dự án, bao gồm: chi phí nguyên vật liệu, nhân công, dịch vụ mua ngoài,
chi phí khấu hao, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lãi vay, chi phí sửa chữa,
bảo dưỡng trong quá trình vận hành, … Khi thẩm định kế hoạch chi phí, ngân hàng
cần làm rõ các vấn đề:
+ Chủ đầu tư đã tính đầy đủ các loại chi phí cần thiết hay chưa, nếu chưa đủ
thì cần bổ sung thêm các chi phí này trước khi xác định các chỉ tiêu hiệu quả tài
chính của dự án.
12
+ Các chi phí đưa ra có hợp lý hay không: ở đây cần xem xét sự phù hợp của
các chi phí với định mức kinh tế - kỹ thuật theo quy định, theo thiết kế của dự án,
với kế hoạch sản xuất kinh doanh dự kiến (bao gồm: sản lượng sản xuất, nhu cầu dự
trữ hàng hóa, nhu cầu tiền mặt, các khoản phải thu, phải trả …), với các dự báo về
thị trường đầu vào.
+ Đối với chi phí khấu hao: do đây không phải là chi phí thực bằng tiền, nên
chủ đầu tư có thể điều chỉnh để làm thay đổi lợi nhuận kế toán của dự án, do đó,
ngân hàng cần kiểm tra sự phù hợp về thời hạn và phương pháp khấu hao đối với
từng hạng mục tài sản với quy định hiện hành về trích khấu hao tài sản cố định.
- Lập báo cáo tài chính dự kiến: gồm Báo cáo kết quả kinh doanh, Bảng cân
đối kết toán và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Khi thẩm định các báo cáo tài chính dự
kiến của dự án, ngân hàng cần kiểm tra tính chính xác của báo cáo so với kế hoạch
doanh thu, chi phí mà khách hàng đưa ra, thẩm định về sự phù hợp với các quy định
về chế độ kế toán doanh nghiệp hiện hành, về các quy định pháp luật về thuế thu
nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế nhập khẩu

Lưu ý khi thẩm định các kế hoạch doanh thu, chi phí và báo cáo tài chính dự
kiến, cán bộ thẩm định ngân hàng không chỉ thẩm định sự phù hợp của các khoản
doanh thu, chi phí phát sinh mà cần phải kiểm tra tính chính xác của các tính toán
mà khách hàng đưa ra ở khâu nhập số liệu, công thức tính.
* Xác định dòng tiền của dự án và tỷ suất chiết khấu:
- Xác định dòng tiền dự án trên quan điểm của ngân hàng (quan điểm tổng
đầu tư): Dòng tiền dự án là dòng chi phí và lợi ích kỳ vọng xuất hiện tại các mốc
thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Khi xác định dòng tiền dự án cần
chú ý:
+ Phân biệt dòng tiền dự án theo quan điểm của chủ đầu tư và theo quan
điểm của ngân hàng: trên quan điểm của chủ đầu tư, thì vốn vay ngân hàng được
tính là dòng tiền vào của dự án và khoản trả nợ gốc, lãi hàng năm được tính là dòng
tiền ra của dự án, do đó, dòng tiền thu hàng năm của dự án phải trừ đi số tiền trả nợ
gốc và lãi hàng năm cho ngân hàng. Tỷ suất chiết khấu khi xác định dòng tiền theo
quan điểm của chủ đầu tư chính là chi phí vốn tự có tham gia dự án. Dự án do
khách hàng cung cấp thông thường chỉ xét đến hiệu quả tài chính dự án trên quan
13
điểm của chủ đầu tư, ngân hàng cần xác định lại hiệu quả này trên quan điểm của
người tài trợ (quan điểm tổng vốn đầu tư), vì dự án muốn triển khai thực hiện cần
phải huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, trên quan điểm tổng đầu tư ngân hàng
sẽ đánh giá đầy đủ về khả năng sinh lời của dự án đối với tất cả các nguồn vốn bỏ ra
để thực hiện dự án.
+ Phân biệt giữa doanh thu và khoản thu, giữa khoản mua và khoản chi.
Doanh thu là giá trị hàng hóa được bán trong kỳ, nhưng có thể chưa được thanh
toán. Khoản thu là giá trị hàng hóa đã được thanh toán. Khoản mua là giá trị mua
vào nhưng có thể chưa phải thanh toán, được phản ánh trong tài khoản nợ. Khoản
chi là giá trị hàng mua vào đã được thanh toán.
+ Phân biệt giữa dòng tiền dự án và lợi nhuận kế toán hàng năm của dự án.
Dự án có lợi nhuận kế toán dương, nhưng dòng tiền thuần âm thì cũng không đảm
bảo khả năng thanh khoản của dự án.

Xác định dòng tiền dự án là nội dung thẩm định quan trọng nhất để ngân
hàng đưa ra quyết định có cho vay đối với dự án hay không, nếu cho vay thì mức
cho vay là bao nhiêu, phương án giải ngân – thu nợ, phương án điều chỉnh lãi suất
như thế nào là phù hợp.
- Xác định tỷ suất chiết khấu: Do yếu tố giá trị thời gian của tiền mà các
khoản tiền tại thời điểm hiện tại luôn được coi có giá trị cao hơn số tiền tương
đương trong tương lai. Trong khi đó, các lợi ích và chi chí của DAĐT lại thường
xảy ra trong một thời gian dài, nên để có thể so sánh khi xác định hiệu quả tài chính
của dự án cần chuyển các khoản tiền phát sinh trong thời kỳ phân tích về cùng một
mặt bằng thời gian hiện tại hoặc tương lai thông qua một tỷ suất chiếu khấu “r”.
Tỷ suất chiết khấu này được hiểu là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu
cầu đối với một dự án, được coi là giới hạn để đánh giá hiệu quả của các dự án đầu
tư. Tỷ suất chiết khấu “r” được xác định xuất phát từ điều kiện cụ thể của từng dự
án, dựa vào cơ cấu nguồn vốn và chi phí sử dụng mỗi nguồn vốn đó. Dự án thường
được tài trợ từ nhiều nguồn vốn khác nhau, mỗi nguồn vốn có chi phí sử dụng riêng,
đó là suất sinh lời tối thiểu do người cấp vốn yêu cầu. Tỷ suất chiết khấu “r” chính
là chi phí sử dụng vốn của dự án đó, được xác định là bình quân gia quyền của chi
14
phí các nguồn vốn tài trợ cho dự án. Khi sử dụng vốn nợ (vốn vay ngân hàng), chi
phí đối với phần vốn vay là chi phí nợ sau thuế.
Tỷ suất chiết khấu “r” có thể biến đổi theo thời gian. Giả sử tại thời điểm
thẩm định khoản vay, vốn tín dụng đang khan hiếm nên mức lãi suất sẽ cao một
cách bất thường, do đó, suất chiết khấu theo thời gian sẽ có xu hướng giảm dần khi
cung cầu thị trường vốn trở về mức bình thường. Ngược lại, nếu hiện nguồn cung
vốn đang dư thừa, có khả năng mức chiết khấu lựa chọn sẽ thấp hơn mức trung bình
dài hạn và sẽ tăng khi cung cầu vốn dần quay lại xu hướng dài hạn. Do đó, khi lựa
chọn tỷ suất chiết khấu để tính hiệu quả tài chính của dự án cần phải dựa trên xu
hướng dài hạn của thị trường vốn, trong trường hợp không xác định được chi phí
vốn hợp lý trong dài hạn, có thể điều chỉnh tỷ suất chiết khấu để đảm bảo tính chính
xác của kết quả thẩm định.

* Xác định các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án: Về lý thuyết thì
có nhiều chỉ tiêu khác nhau để phản ánh hiệu quả tài chính của DAĐT, mỗi chỉ tiêu
có những ưu, nhược điểm riêng. Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn lực có hạn, ngân
hàng cần căn cứ vào quy mô, tính chất của từng dự án để lựa chọn đánh giá đầy đủ
các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính hay chỉ đánh giá một số chỉ tiêu nhất định.
Dưới đây là các chỉ tiêu tài chính cơ bản mà ngân hàng xem xét khi thẩm
định hiệu quả tài chính DAĐT:
+ Giá trị hiện tại ròng – NPV (Net present value): là số chênh lệch giữa tổng
các khoản thu và khoản chi phí của cả đời dự án được đưa về thời điểm hiện tại.
NPV được xác định theo công thức:

Trong đó: Bi, Ci: là các khoản thu, khoản chi của dự án ở năm i;
n: số năm hoạt động của đời dự án;
r: tỷ suất chiết khấu được chọn.
NPV được xem là chỉ tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá hiệu quả dự án đầu
tư, là chỉ tiêu tốt nhất để lựa chọn các dự án loại trừ lẫn nhau (trong trường hợp
không giới hạn về nguồn lực). Nếu một dự án có NPV ≥ 0 khi được chiết khấu với
15
tỷ lệ chiết khấu bằng chi phí cơ hội của vốn, thì khi đó nguồn thu từ dự án đủ bù
đắp cho những chi phí đầu tư bỏ ra và còn tạo ra lợi nhuận bằng giá trị NPV. Chỉ
tiêu này đề cao các dòng tiền ngắn hạn hơn là các dòng tiền dài hạn, do đó, ngân
hàng thường xem xét chỉ tiêu này khi lựa chọn dự án vì vấn đề ngân hàng quan tâm
là khả năng tạo nguồn thu sớm của dự án để thu hồi nợ. Giá trị của chỉ tiêu NPV
phụ thuộc vào việc lựa chọn tỷ suất chiết khấu, lựa chọn tỷ suất chiết khấu càng cao
thì NPV càng thấp và ngược lại.
Việc xem xét chỉ tiêu NPV trên quan điểm của ngân hàng có sự khác biệt so
với khi xem xét trên quan điểm của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, tiêu chuẩn
lựa chọn dự án là khi NPV ≥ 0, còn đối với ngân hàng, NPV không phải là chỉ tiêu
quyết định trong việc lựa chọn dự án đầu tư. Ngân hàng có thể chấp thuận tài trợ
cho một dự án đầu tư có NPV < 0 nhưng dòng tiền ròng dương trong thời gian vay

vốn, vì khi đó, dự án vẫn đảm bảo có nguồn thu để trả nợ cho ngân hàng theo kế
hoạch.
+ Tỷ suất hoàn vốn nội bộ – IRR (Interal Rate of Return): là tỷ suất chiết
khấu làm cho giá trị hiện tại ròng của đầu tư NPV = 0, hay thu nhập ròng hiện tại
đúng bằng giá trị hiện tại của vốn đầu tư, tức là:

Dự án đươc chấp nhận khi IRR ≥ r giới hạn (r giới hạn là tỷ suất chiết khấu
lựa chọn). IRR phán ánh mức sinh lợi tối đa đối với vốn đầu tư, do đó, IRR được
coi là mức lãi suất tiền vay cao nhất nhà đầu tư có thể nhận được mà không bị thua
thiệt nếu toàn bộ số tiền đầu tư cho dự án đều là vốn vay (cả gốc và lãi) được trả
bằng nguồn tiền thu được từ dự án mỗi khi chúng phát sinh. IRR khắc phục được
nhược điểm của NPV ở chỗ có thể so sánh được các dự án có thời gian khác nhau
hay vốn đầu tư khác nhau, nó thể hiện tỷ suất sinh lời bình quân hàng năm của dự
án.
16
Hạn chế khi sử dụng chỉ tiêu IRR: trong một số trường hợp không thể xác
định được IRR hoặc có nhiều giá trị IRR đối với một dự án. Điều này thường xảy ra
đối với dự án mà trong quá trình vận hành phải tiến hành sửa chữa định kỳ hoặc đầu
tư tiếp với chi phí lớn, dẫn tới việc dòng tiền ròng của năm đó âm, tức là dòng tiền
ròng dự án đổi chiều, khi đó, người ta sử dụng chỉ tiêu MIRR – tỷ suất hoàn vốn nội
bộ có điều chỉnh để thay cho IRR. Khi so sánh các dự án, chỉ tiêu IRR có thể dẫn
đến các kết luận khác với chỉ tiêu NPV, khi đó, cần kết hợp với việc xem xét chỉ
tiêu NPV để đưa ra kết luận về hiệu quả dự án.
+ Tỷ số lợi ích – chi phí (B/C: Benefits – Cost Ratio): được xác định bằng tỷ
số giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra của dự án được quy về cùng một thời điểm,
thường là thời điểm hiện tại.

Trong đó, PV(B) và PV(C) là giá trị hiện tại của dòng lợi ích và chi phí trong
tương lai của dự án. Giá trị thanh lý tài sản cuối đời dự án sẽ được khấu trừ vào
dòng chi phí của dự án sau khi chuyển về cùng mặt bằng thời gian.

Dự án được chấp nhận khi có tỷ số B/C ≥ 1, tức là tổng các khoản lợi ích của
dự án đủ bù đắp cho các chi phí phải bỏ ra của dự án, dự án có khả năng sinh lợi.
Hạn chế của chỉ tiêu này: là khi sử dụng để so sánh các dự án có thể dẫn đến kết
luận không đúng nếu các dự án khác nhau về quy mô. Do đó, cần phải xem xét kết
hợp với chỉ tiêu NPV khi đánh giá, lựa chọn dự án.
+ Thời gian thu hồi vốn đầu tư – PP: là thời gian cần thiết mà dự án hoạt
động để thu hồi đủ số vốn đầu tư ban đầu, nói cách khác, đó là khoảng thời gian để
hoàn trả số vốn đầu tư ban đầu bằng các khoản lợi nhuận thuần và khấu hao thu hồi
hàng năm từ dự án. Thời gian thu hồi vốn đầu tư có thể được xác định khi chưa tính
đến yếu tố thời gian của tiền (thời gian hoàn vốn giản đơn) hoặc khi có tính đến yếu
tố giá trị thời gian của tiền (thời gian hoàn vốn của chiết khấu). Đây là một chỉ tiêu
quan trọng mà ngân hàng quan tâm khi tài trợ cho dự án vì những dự án có thời gian
hoàn vốn nhanh, đồng nghĩa với việc rút ngắn thời gian cho vay, giảm các rủi ro
17
cho ngân hàng. Tuy nhiên, hạn chế của chỉ tiêu này là bỏ qua các dòng tiền vào sau
thời kỳ thu hồi vốn, điều này có thể dẫn kết quả sai lệch trong những trường hợp dự
án đầu tư có tuổi thọ kéo dài và người ta biết khá chắc chắn về lợi ích và chi phí của
dự án này trong tương lai.
* Thẩm định khả năng trả nợ của DAĐT: Là việc xem xét sự cân đối giữa số tiền
nợ gốc và lãi phải trả với nguồn trả nợ của khách hàng. Ngân hàng xác định tổng số
nợ gốc và lãi mà khách hàng phải trả trên cơ sở kế hoạch giải ngân và thu nợ của dự
án. Nguồn trả nợ từ dự án chính là nguồn lợi nhuận sau thuế và khấu hao hàng năm.
Dự án đảm bảo cân đối trả nợ khi mà nguồn lợi nhuận sau thuế và khấu hao hàng
năm của dự án lớn hơn so với tổng số tiền nợ gốc mà khách hàng phải trả (Khoản
lãi phải trả bao gồm: lãi vay vốn cố định khi dự án đi vào vận hành ổn định và lãi
vay vốn lưu động hàng năm, được tính là một khoản chi phí hoạt động khi xác định
lợi nhuận hàng năm của dự án). Mức độ an toàn về khả năng trả nợ của dự án được
phản ánh qua chỉ tiêu Tỷ số khả năng trả nợ hàng năm – là tỷ số giữa nguồn trả nợ
hàng năm của dự án chia cho nợ phải trả hàng năm (gốc và lãi) của dự án. Dự án
được đánh giá là an toàn về khả năng trả nợ nếu tỷ số khả năng trả nợ của dự án đạt

mức quy định đối với từng ngành nghề. Ngân hàng có thể điều chỉnh kế hoạch trả
nợ để đảm bảo độ an toàn của phương án cho vay.
* Thẩm định tính chắc chắn về hiệu quả tài chính của DAĐT: Là việc xem xét
các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án trong điều kiện biến động của các yếu tố
đầu vào và đầu ra của dự án. Mục tiêu là xác định mức độ rủi ro của dự án thông
qua việc đánh giá sự biến động của hiệu quả tài chính dự án và khả năng trả nợ cho
ngân hàng trong điều kiện có biến động bất lợi, từ đó, đưa ra quyết định có chấp
nhận rủi ro của dự án hay không và có biện pháp quản lý trong trường hợp chấp
nhận các rủi ro này. Việc thẩm định tính chắc chắn của hiệu quả tài chính được thực
hiện thông các phân tích sau:
+ Phân tích độ nhạy: là việc xem xét sự thay đổi của các chỉ tiêu hiệu quả tài
chính của dự án khi các yếu tố liên quan tới chỉ tiêu đó thay đổi, tức là xác định
hiệu quả tài chính dự án trong điều kiện có biến động của các yếu tố liên quan. Có
18
thể phân tích ảnh hưởng của từng yếu tố liên quan đến chỉ tiêu hiệu quả tài chính
nhằm tìm ra yếu tố gây thay đổi lớn đối với chỉ tiêu tài chính đang xét. Hoặc phân
tích sự thay đổi đồng thời của nhiều yếu tố tới chỉ tiêu tài chính đang xét.
Phân tích độ nhạy cho phép ngân hàng đánh giá được tính chắc chắn về hiệu
quả tài chính của dự án đầu tư, là cơ sở đưa ra quyết định loại bỏ dự án có rủi ro quá
lớn (các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án chịu ảnh hưởng lớn từ các yếu tố bất
lợi), đưa ra các biện pháp giải quyết, quản lý đối với nhân tố gây nên sự thay đổi
nhiều nhất cho các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trong trường hợp lựa chọn tài trợ cho
dự án. Đây là phương pháp phổ biển trong việc phân tích rủi ro, tuy nhiên, phương
pháp này có hạn chế là không tính đến xác suất xảy ra sự kiện (phạm vi các giá trị
có thể có của những yếu tố thay đổi được phản ánh trong sự phân bố xác suất của
chúng) và chưa tính đến tác động qua lại giữa các nhân tố với nhau.
+ Phân tích xác suất (phân tích tình huống): là xem xét sự thay đổi hiệu quả
tài chính của dự án khi các biến số đầu vào có thay đổi, sự thay đổi của các biến số
đầu vào có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và có sự kết hợp với nhau. Trong cùng
một thời điểm, một số yếu tố có thể biến động theo hướng bất lợi nhưng một số

khác lại biến động theo hướng có lợi cho dự án. Do đó, khắc phục một phần hạn chế
khi phân tích độ nhạy. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn có hạn chế nhất định là
không xác định được tất cả các trường hợp kết hợp lẫn nhau của các yếu tố và chỉ
phân tích được một vài kết cục của dự án (biến cố rời rạc), trong khi thực tế có thể
có vô số khả năng kết hợp có thể xảy ra giữa các biến cố của dự án và việc xác định
chính xác khả năng xuất hiện của một tình huống là rất khó khăn.
+ Phân tích mô phỏng Monter Carlo: là việc phân tích hiệu quả dự án dưới
sự tác động đồng thời của các yếu tố trong các tình huống khác nhau có tính tới
phân bố xác suất và giá trị có thể của các yếu tố đó. Kết quả phân tích được biển
diễn bởi hàm mật độ xác suất, là một đường liên tục và việc tính toán các hệ số đo
lường rủi ro sẽ chính xác hơn. Phương pháp này đòi hỏi người phân tích phải có
kinh nghiệm, kỹ năng thực hiện tốt và có sự trợ giúp của kỹ thuật hiện đại. Trong
19
điều kiện hiện tại, các ứng dụng của công nghệ thông tin phát triển, phân tích mô
phỏng là phương pháp được các ngân hàng ưu tiên sử dụng.
1.2.3. Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho
vay của Ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Khái niệm
Chất lượng là một khái niệm được nhắc tới thường xuyên, nhưng chưa được
thống nhất nên hiện có nhiều cách hiểu và quan điểm khác nhau về chất lượng.
Người sản xuất coi chất lượng có nghĩa là phải đáp ứng những chỉ tiêu kỹ thuật đề
ra cho sản phẩm. Người tiêu dùng coi chất lượng là sự thỏa mãn nhu cầu hoặc hơn
nữa nhưng với chi phí là thấp nhất. Theo ISO 9000:2005: “Chất lượng là mức độ
của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu”. Như vậy, hiểu một các
cơ bản nhất, chất lượng nhằm mục đích chung là đáp ứng nhu cầu và mong đợi của
khách hàng và các bên quan tâm, và được đo lường bởi mức độ thỏa mãn nhu cầu
của các bên.
Trong hoạt động thẩm định tài chính DAĐT, mục tiêu của ngân hàng là lựa
chọn được những dự án khả thi và hiệu quả để tài trợ, nhằm bảo đảm an toàn vốn và
mang lại lợi nhuận cho ngân hàng trong giới hạn nhất định về nguồn lực thẩm định.

Tức là, phải đánh giá chính xác hiệu quả tài chính của dự án, nói cách khác là phải
xác định chính xác dòng tiền tương lai của dự án, từ đó, đưa ra lời giải tối ưu cho
bài toán: cho dự án nào vay, cho vay bao nhiêu, thời gian cho vay, lãi suất cho
vay… trong thời gian nhanh nhất và với chi phí thấp nhất, hạn chế tối đa rủi ro
nhưng không bỏ lỡ cơ hội đầu tư đối với những dự án tốt. Đối với khách hàng vay
vốn, nhu cầu trước tiên của khách hàng (Chủ đầu tư) là được tài trợ đủ nhu cầu vốn
với thời hạn và lãi suất phù hợp, thời gian thẩm định và ra quyết định của ngân hàng
ngắn, không bị lỡ thời cơ kinh doanh, bên cạnh đó là được ngân hàng cung cấp các
tiện ích khác như tư vấn tài chính, tư vấn quản lý dự án… nhằm hạn chế rủi ro và
tận dụng tốt cơ hội kinh doanh.
Như vậy, có thể hiểu chất lượng thẩm định tài chính DAĐT trong hoạt
động cho vay của NHTM là mức độ thỏa mãn đồng thời các mục tiêu đặt ra của
20
ngân hàng và khách hàng trong hoạt động cho vay theo dự án đầu tư. Trên quan
điểm của ngân hàng, thẩm định tài chính DAĐT được coi là có chất lượng khi ngân
hàng có thể xác định chính xác dòng tiền tương lai của dự án, đưa ra các điều kiện
vay vốn phù hợp về số tiền cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay trong thời
gian ngắn nhất và với chi phí thẩm định thấp nhất. Trên quan điểm có doanh nghiệp
(người vay vốn), thẩm định tài chính DAĐT của ngân hàng được coi là có chất
lượng khi ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu vốn cho những dự án khả thi của
doanh nghiệp, đồng thời đưa ra những tư vấn đối với những dự án không khả thi,
hiệu quả, để chủ đầu tư có thể tham khảo và xem xét lại về quyết định của mình,
đảm bảo an toàn cho nguồn vốn của chính họ. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài,
tác giả sẽ đi vào phân tích chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trên quan
điểm của ngân hàng thương mại. Chất lượng thẩm định tài chính dự án là chỉ tiêu
phản ánh mức độ chuẩn xác của các quyết định cho vay đối với dự án đầu tư của
ngân hàng được đưa ra trong thời gian ngắn nhất với chi phí thấp nhất. Độ chuẩn
xác của các quyết định cho vay thể hiện ở việc xác định đúng số tiền cho vay, thời
gian cho vay, kế hoạch giải ngân, thu nợ, lãi suất cho vay tối ưu.
Chất lượng không phải là một kết quả ngẫu nhiên, mà là kết quả của sự tác

động của hàng loạt yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau. Muốn đạt được chất
lượng mong muốn cần phải xác định và quản lý một cách đúng đắn các yếu tố liên
quan này. Do đó, để công tác thẩm định tài chính DAĐT đạt chất lượng tốt, đòi hỏi
ngân hàng phải tuân thủ chặt chẽ trình tự và nội dung thẩm định, lựa chọn phương
pháp thẩm định khoa học, đảm bảo cho quá trình thẩm định phải hội tụ đầy đủ các
nhân tố tích cực tác động đến nó.
1.2.3.2.Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Chất lượng nói chung không thể lượng hóa thành một chỉ tiêu đo lường trực
tiếp mà được phản ánh thông qua hệ thống các chỉ tiêu đo lường mức độ thỏa mãn
của khách hàng và các bên liên quan. Trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại, chất lượng thẩm định tài chính DAĐT được đo lường thông qua các chỉ
21
tiêu phản ánh mức độ thỏa mãn các yêu cầu đặt ra của ngân hàng, đó có thể là các
chỉ tiêu định tính như chất lượng báo cáo thẩm định, chất lượng quyết định cho vay,
tuy nhiên, để có thể xác định và so sánh chất lượng thẩm định thì cần thiết phải
phản ánh nó thông qua các chỉ tiêu định lượng, bao gồm:
- Tỷ lệ nợ quá hạn và số dự án phải điều chỉnh lại thời hạn trả nợ: mục tiêu
đặt ra đối với ngân hàng khi thẩm định tài chính DAĐT là việc xem xét toàn diện
các khía cạnh tài chính của dự án để đảm bảo xác định chính xác nhất dòng tiền
tương lai của dự án, tức là dòng tiền thực của dự án khi triển khai càng sát với dòng
tiền dự tính càng tốt. Bởi lẽ, khi dòng tiền của dự án được dự báo chính xác, tức là
các nguồn thu dự kiến đủ trả nợ cho ngân hàng đầy đủ, đúng hạn theo kế hoạch ban
đầu, không phát sinh nợ quá hạn và nhu cầu điều chỉnh dự án, Do đó, tỷ lệ nợ quá
hạn thấp và số dự án xin điều chỉnh ít chính là kết quả của hoạt động thẩm định tài
chính có chất lượng tốt.
- Thời gian thẩm định: là khoảng thời gian cần thiết cho quá trình thu thập xử
lý thông tin, phân tích và ra quyết định. Thời gian thẩm định nếu quá ngắn sẽ không
bảo đảm có thể thẩm định đầy đủ các nội dung liên quan, ngược lại, nếu quá dài sẽ
làm mất cơ hội đầu tư của khách hàng, cũng như cơ hội tài trợ vốn của ngân hàng

nhất là trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay. Các khách hàng khi đến vay vốn tại
ngân hàng bao giờ cũng mong muốn ngân hàng có câu trả lời sớm nhất dù là cho
vay hay không cho vay. Vì vậy, thời gian thẩm định là một yếu tố thể hiện thế mạnh
trong cạnh tranh giữa các ngân hàng, đặt ra cho ngân hàng yêu cầu phải rút ngắn
thời gian thẩm định ở mức hợp lý để vừa đảm bảo điều kiện cho kết quả thẩm định
chính xác, vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
- Chi phí thẩm định: là các chi phí cần thiết mà ngân hàng phải chi trả cho
việc tiến hành thẩm định tài chính dự án, bao gồm các chi phí mua thông tin, công
tác phí của cán bộ đi thẩm định và các chi phí khác, kể cả chi phí cơ hội đối với việc
xem xét cho vay dự án khác cùng thời điểm. Để đảm bảo mục tiêu lợi nhuận, ngân
hàng cần cân đối giữa thu nhập có được từ dự án với các chi phí phải bỏ ra, bao
gồm cả chi phí thẩm định, chi phí huy động vốn, chi phí cho việc giám sát, quản lý
quá trình sử dụng vốn. Vì vậy, ngân hàng cần xây dựng hệ thống định mức chi phí
22
một cách khoa học, bao gồm cả định mức đối với chi phí thẩm định, vì đây là các
chi phí ban đầu mà ngân hàng có thể kiểm soát được tốt hơn so với chi phí huy
động vốn, hay chi phí giám sát, quản lý sử dụng vốn. Kiểm soát tốt khoản chi phí
này là tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng thẩm định của ngân hàng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính DAĐT
trong hoạt động cho vay của NHTM
Thẩm định tài chính dự án là một quá trình thu thập thông tin, phân tích đánh
giá về hiệu quả tài chính của DAĐT, do đó, chất lượng thẩm định tài chính dự án sẽ
chịu ảnh hưởng từ các nhân tố tác động tới quá trình thẩm định dự án, bao gồm:
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
Đây là các nhân tố thuộc về phía ngân hàng, ngân hàng có thể chủ động kiểm
soát, điều chỉnh để công tác thẩm định tài chính dự án đạt hiệu quả cao nhất.
1.3.1.1. Quan điểm của lãnh đạo ngân hàng về công tác thẩm định
Đây là nhân tố đầu tiên, quan trọng và ảnh hưởng lớn tới chất lượng thẩm
định của ngân hàng. Vì lãnh đạo ngân hàng là người quyết định định hướng phát
triển chung của ngân hàng, định hướng phát triển hoạt động tín dụng và quản trị rủi

ro trong từng thời kỳ, là người đưa ra quyết định cuối cùng về việc cho vay hay
không cho vay đối với dự án.
Quan điểm của lãnh đạo ngân hàng về công tác thẩm định được thể hiện qua
việc nhận thức đúng đắn và coi trọng vai trò của công tác thẩm định. Khi lãnh đạo
ngân hàng nhận thức đúng vai trò và coi trọng công tác thẩm định, lãnh đạo ngân
hàng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định như có chính sách
tuyển dụng, đạo tạo và đãi ngộ phù hợp, tạo điều kiện hỗ trợ về cơ sở vật chất kỹ
thuật, xây dựng cơ chế đánh giá và kiểm soát chất lượng thẩm định, coi trọng kết
quả thẩm định và coi đó làm căn cứ cho việc ra quyết định cho vay hay không cho
vay. Đây là những điều kiện cần thiết bảo đảm cho chất lượng hoạt động thẩm định
nói chung và chất lượng thẩm định tài chính DAĐT nói riêng. Và ngược lại, nến
23
lãnh đạo ngân hàng không coi trọng công tác thẩm định, không có những chính sách
hỗ trợ, kiểm soát chất lượng thẩm định, không coi kết quả thẩm định là căn cứ để ra
quyết định tài trợ dự án, thì công tác thẩm định của ngân hàng không thể có chất
lượng tốt, không thể đạt được mục tiêu của ngân hàng và khách hàng.
1.3.1.2. Đội ngũ cán bộ thẩm định dự án
Thẩm định dự án có những yêu cầu khắt khe hơn về trình độ, kỹ năng của
cán bộ thẩm định so với việc thẩm định các khoản vay ngắn hạn, kết quả thẩm định
dự án dù dựa trên các căn cứ khách quan, khoa học thì vẫn thể hiện ý kiến chủ quan
của cá nhân người đánh giá. Do đó, chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ thẩm
định sẽ quyết định tới chất lượng thẩm định tài chính dự án của ngân hàng.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ thẩm định thể hiện ở trình độ kiến thức, kinh
nghiệm, năng lực, tính kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp. Kiến thức ở đây không chỉ
là những hiểu biết về nghiệp vụ chuyên môn đơn thuần mà bao gồm cả những hiểu
biết tổng hợp về kinh tế, xã hội, khoa học. Kinh nghiệm là cái được tích luỹ theo
thời gian hoạt động thực tế. Năng lực là khả năng nắm bắt xử lý công việc rất phức
tạp không đơn thuần chỉ là tính toán trên những bảng biểu có sẵn, nên ngoài việc
cần có kiến thức tốt, cán bộ thẩm định cần phải có quá trình tích lũy kinh nghiệm
thực tế và lòng say mê công việc. Năng lực của cán bộ thẩm định hạn chế thì không

thể có kết quả thẩm định đáng tin cậy, tuy nhiên, nhiều dự án thất bại không phải do
yếu tố năng lực mà do tư cách, đạo đức của cán bộ thẩm định. Vì vậy, ý thức kỷ luật
cao và đạo đức nghề nghiệp tốt là điều kiện để có được chất lượng thẩm định tài
chính tốt. Chất lượng cán bộ thẩm định tốt là nhân tố quan trọng bảo đảm cho chất
lượng thẩm định của ngân hàng.
Bên cạnh chất lượng, số lượng của đội ngũ cán bộ thẩm định cũng là một
nhân tố cần xem xét. Quá trình thẩm định đòi hỏi phải có một thời nhất định đủ để
cho cán bộ thẩm định có thể xem xét, đánh giá và đưa ra kết luận. Một cán bộ thẩm
định dù có trình độ, năng lực tốt đến đâu cũng chỉ xử lý được một số lượng giới hạn
24
các công việc trong một khoảng thời gian nhất định, nếu sức ép về thời gian và khối
lượng công việc xử lý quá lớn sẽ làm giảm chất lượng của công tác thẩm định.
1.3.1.3. Thông tin và cơ sở vật chất kỹ thuật
- Thông tin là những gì đem lại cho con người sự hiểu biết, nhận thức tốt hơn
về một thực thể nào đó, có thể thu thập, lưu trữ và xử lý được. Thông tin đóng vai
trò quan trọng trong công tác thẩm định tài chính dự án của ngân hàng, vì thẩm định
tài chính dự án được tiến hành trên cơ sở phân tích các thông tin trực tiếp và gián
tiếp liên quan đến dự án. Do đó, để đảm bảo chất lượng thẩm định tài chính dự án,
ngân hàng rất cần những thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về khách hàng, về dự
án vay vốn và yếu tố liên quan tới dự án. Nguồn cung cấp thông tin cho ngân hàng
trước hết là từ hồ sơ do khách hàng cung cấp. Tuy nhiên nguồn thông tin này
thường mang tính chủ quan của chủ đầu tư nên sẽ có những hạn chế nhất định do lỗi
cố ý hoặc giới hạn về khả năng của chủ đầu tư gây ra. Do đó, để đảm bảo chất
lượng thẩm định, ngân hàng không thể chỉ căn cứ vào thông tin do khách hàng cung
cấp mà cần thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, như Ngân hàng Nhà nước, các bộ
ngành, các công ty chuyên cung cấp thông tin, các chuyên gia trong các lĩnh vực
v.v. và từ chính nguồn kinh nghiệm tích lũy của ngân hàng trong quá trình cho vay
các dự án đầu tư.
Thông tin không đầy đủ, chính xác, kịp thời sẽ gây khó khăn cho công tác
thẩm định, dẫn tới những nhận định mang tính phiến diện, không khách quan,

không phản ánh đúng lợi ích và rủi ro của dự án, làm ảnh hưởng tới lợi ích của nhà
đầu tư, của ngân hàng và gây thiệt hại cho nền kinh tế. Để đảm bảo và nâng cao
chất lượng công tác thẩm định, ngân hàng cần thiết lập một hệ thống thông tin có
chất lượng.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác thẩm định: đây là nhân tố ảnh hưởng
tới thời gian thẩm định và độ chính xác của kết quả thẩm định tài chính dự án. Cùng
với sự phát triển hội nhập kinh tế, sự tiến bộ của khoa học, công nghệ và sự gia tăng
các nhu cầu của con người, các dự án đầu tư ngày càng đa dạng, mở rộng về quy
mô, có tính chất phức tạp và khó dự báo hơn. Vì vậy, việc phân tích các chỉ tiêu
25
hiệu quả dự án cũng trở lên phức tạp và khó khăn hơn, để đảm bảo chất lượng thẩm
định, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của hệ thống máy tính điện tử và các phần mềm ứng
dụng chuyên dùng. Yếu tố cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng ngày
càng gay gắt, đặt ra yêu cầu đối với ngân hàng phải tăng cường cơ sở vật chất kỹ
thuật cho công tác thẩm định, trang bị các thiết bị hiện đại, các phần mềm ứng dụng
hữu ích trong việc thu thập xử lý thông tin nhanh chóng, tính toán các chỉ tiêu hiệu
quả và dự báo, phân tích rủi ro dự án, hạn chế những sai lầm phát sinh do việc xử lý
thông tin bằng tay, từ đó, nâng cao chất lượng thẩm định.
1.3.1.4. Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư
Quy trình thẩm định tài chính DAĐT là một loạt những quy định, hướng dẫn
chi tiết về cách thực hiện thẩm định tài chính dự án theo một trình tự từng bước với
những nội dung công việc cụ thể, người thực hiện, cách thực hiện, thời gian hoàn
thành… giúp cán bộ ngân hàng hoàn thành việc thẩm định tài chính DAĐT theo
một trình tự thống nhất, lặp đi lặp lại. Thông qua quy trình, ngân hàng có thể kiểm
soát được chất lượng công tác thẩm định, đảm bảo sự ổn định và nâng cao chất
lượng thẩm định tài chính dự án. Với kinh nghiệm và thời gian, ngân hàng có thể
cải tiến quy trình bằng cách quan sát quy trình để giảm bớt các công đoạn thừa, đổi
mới cải tiến những công đoạn chưa tốt, phát hiện và loại trừ những việc sử dụng tài
nguyên nhân lãng phí, từ đó, nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Một quy trình thẩm định tài chính DAĐT cơ bản gồm các bước sau:

Sơ đồ 1.01: Quy trình thẩm định tài chính dự án
- Thu thập và xử lý thông tin: Cán bộ thẩm định tiến hành thu thập thông tin
dự án trước hết từ hồ sơ vay vốn của khách hàng (đề nghị vay vốn, hồ sơ tài chính,
hồ sơ dự án, lịch sử quan hệ tín dụng…), thu thập các thông tin liên quan khác từ cơ
sở dữ liệu thông tin của ngân hàng về các dự án tương tự, các thông tin về thị
trường, về quy định chính sách hiện hành của Nhà nước, của địa phương. Trên cơ
sở các thông tin thu thập được, Cán bộ thẩm định cần so sánh, loại trừ các yếu tố bất

×