Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Hoàn thiện nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.51 KB, 76 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta luôn đạt
mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế đang dần chuyển dịch theo hướng hiện
đại, đời sống nhân dân đã từng bước được nâng lên, nền kinh tế ngày càng
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới tạo ra nhiều cơ hội mới cho Việt
Nam trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, mở rộng hoạt động
thương mại với các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, ngày càng có nhiều các
doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư sản xuất kinh doanh trên mọi lĩnh
vực, ngành nghề vào nước ta. Do vậy, nhu cầu vốn đầu tư cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng tăng lên đã và đang đặt ra
cho các Ngân hàng thương mại nhiều cơ hội và thách thức trong hoạt động
cho vay. Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,
một lĩnh vực luôn ẩn chứa nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt
cho vay đối với các dự án đầu tư có nhu cầu vốn lớn và thời gian vay vốn
dài. Vì vậy, cho vay theo dự án là hoạt đông chứa đựng rất nhiều rủi ro cho
ngân hàng. Chính vì lẽ, ngân hàng cần thẩm định dự án trước khi ra quyết
định cho vay. Hiện nay, công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư ở các
Ngân hàng thương mại còn chưa cao, nhiều dự án không phát huy được hiệu
quả khi vào hoạt động, ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế của đất
nước.
Trong suốt quá trình thực tập tại NHNo & PTNT Hà Nội, em nhận thấy
rằng vai trò quan trọng của việc thẩm định tài chính dự án đầu tư trước khi
ra quyết định cho vay. Vì vậy, em đã đi vào tìm hiểu và nghiên cứu sâu về
đề tài: “Hoàn thiện nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt
động cho vay vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội” và lựa chọn làm chuyên đề
thực tập tốt nghiệp.
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:


Chương 1: Cơ sở lý luận về dự án và thẩm định tài chính dự án đầu tư trong
hoạt động cho vay vốn của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong
hoạt động cho vay vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư
trong hoạt động cho vay vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn PGS.TS. Mai Văn Bưu
và toàn thể các cô chú, anh chị cán bộ NHNo & PTNT Hà Nội đã giúp đỡ
em hoàn thành bài viết này.
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỰ ÁN VÀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN
ĐẦU TƯ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY VỐN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1- Khái niệm chung về dự án dầu tư
1.1.1-Khái niệm dự án
Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau do vậy khái
niệm dự án đầu tư cũng khác nhau.
- Xét về hình thức: Dự án đầu tư là một hồ sơ tài liệu được trình bày một
cách chi tiết và có hệ thống, cho biết mục tiêu các nguồn lực của đầu tư, thời
hạn của đầu tư cũng như các hoạt động của dự án đầu tư.
- Xét về nội dung: Dự án đầu tư là tổng thể các hoạt động và chi phí cần
thiết, được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch thời gian và địa điểm
xác định để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định
nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai.
- Xét trên góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng
vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế- xã hội trong
một thời gian dài.

- Xét trên góc độ kế hoạch hoá: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế
hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh
tế- xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ.
1.1.2. Phân loại dự án đầu tư
Có thể phân loại các dự án đầu tư theo các tiêu thức sau:
- Theo cơ cấu tái sản xuất: có dự án đầu tư theo chiều rộng và dự án theo
chiều sâu
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội: gồm dự án phát triển sản xuất kinh
doanh, dự án đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật, dự án đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng,…
- Theo thời gian thực hiện: gồm các dự án đầu tư ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn
- Theo sự phân cấp quản lý dự án: gồm các dự án quan trọng cấp quốc
gia(do Quốc hội quyết định đầu tư), dự án nhóm A, nhóm B, nhóm C
- Theo nguồn vốn: gồm các dự án đầu tư bằng nguồn ngân sách Nhà
Nước, bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn tín
dụng do Nhà nước bảo lãnh, bằng nguồn vốn huy động của doanh nghiệp và
các nguồn vốn khác, bằng nguồn vốn hỗn hợp.
1.1.3.Các giai đoạn của dự án đầu tư
Thông thường một dự án đầu tư gồm có 4 bước sau: Nghiên cứu, phát hiện
và đánh giá cơ hội đầu tư; Nghiên cứu tiền khả thu; Nghiên cứu khả thi;
Thẩm định và phê duyệt dự án. Các giai đoạn này gắn kết một cách chặt chẽ
với nhau, đan xen nhau theo một tiến trình logic.
• Nghiên cứu , phát hiện và đánh giá các cơ hội đầu tư
Mục đích của bước này là phát hiện các cơ hội đầu tư và xác định sơ bộ khả
năng khai thác từng cơ hội, làm cơ sở lựa chọn những cơ hội có triển vọng
và phù hợp để tiến hành các bước nghiên cứu xây dựng dự án tiếp theo. Để

phát hiện và đánh giá các cơ hội đầu tư cần dựa vào căn cứ sau:
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, vùng , ngành hay
chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp
- Nhu cầu của thị trường về sản phẩm, dịch vụ
- Tình hình sản xuất và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ở trong nước,
trong vùng hay trên thị trường thế giới.
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Những kết quả về tài chính, kinh tế, xã hội sẽ đạt được nếu thực hiện
hoạt động đầu tư.
Sau khi nghiên cứu phát hiện và đánh giá các cơ hội đầu tư, những thông tin
cơ bản về từng cơ hội đầu tư được hệ thống hóa trong báo cáo kinh tế kỹ
thuật về cơ hội đầu tư.
• Nghiên cứu tiền khả thi
Doanh nghiệp nghiên cứu sơ bộ ban đầu về nhu cầu, khả năng tiến hành
dự án và kết quả của dự án. Trong đó, doanh nghiệp nghiên cứu sự cần thiết,
điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn của doanh nghiệp khi thực hiện dự án
có thể gặp phải. Bên cạnh đó doanh nghiệp dự kiến quy mô đầu tư( tổng
mức vốn đầu tư), hình thức đầu tư, khả năng tự tài trợ, các phương án huy
động vốn và phương án trả nợ của doanh nghiệp. Phân tích lựa chọn sơ bộ
công nghệ, kỹ thuật, nguồn cung nguyên vật liệu, năng lượng cần thiết cho
dự án cũng được tiến hành trong giai đoạn này.
• Nghiên cứu khả thi
Đây là bước nghiên cứu chi tiết và sâu sắc nhằm sàng lọc lần cuối cùng để
xác định phương án tối ưu. Nội dung nghiên cứu ở bước này cũng bao gồm
những vấn đề như ở bước nghiên cứu tiền khả thi nhưng các nội dung nay
được nghiên cứu trong trạng thái động. Đồng thời các nội dung trên được
nghiên cứu một cách chi tiết kỹ lưỡng. Đối với những cơ hội đầu tư quan
trọng, quy mô đầu tư lớn, giải pháp đầu tư phức tạp, các bước nghiên cứu

trên phải được tiến hành theo trình tự: Nghiên cứu cơ hội đầu tư- Nghiên
cứu tiền khả thi – nghiên cứu khả thi, nhằm từng bước đi sâu nghiên cứu chi
tiết, đầy đử và kỹ lưỡng, loại bỏ những sai sót có thể ở các bước nghiên cứu
cơ hội đầu tư và nghiên cứu tiền khả thi. Trong một số trường hợp còn có
thể gộp bước nghiên cứu cơ hội đầu tư và bước nghiên cứu khả thi làm một
bước nghiên cứu.
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
• Thẩm định và phê duyệt dự án
Đây là bước do cơ quan quản lý chức năng thực hiện. Nội dung của bước
này là thẩm tra, giám định dự án để quyết định có phê duyệt dự án hay
không. Một dự án đầu tư chỉ thực sự hình thành khi nó được cơ quan quản lý
có đủ thẩm quyền thẩm định và phê duyệt. Việc đưa ra quyết định này chủ
yếu dựa vào những kết luận đã được tổng hợp từ các giai đoạn trước. Nếu dự
án được khẳng định là có hiệu quả và khả thi thì doanh nghiệp sẽ quyết định
đầu tư. Đối với những dự án mang tính cộng đồng, có thể dự án không có
tính khả thi nhưng nó mang lại lợi ích xã hội lớn có thể vẫn được đầu tư.
Chủ đầu tư vào những dự án này thường là Nhà nước.
1.2-Thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay vốn tại
các Ngân hàng Thương mại
1.2.1-Hoạt động cho vay theo dự án của NHTM
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng để tạo ra lợi
nhuận. Lãi suất thu được từ cho vay là khoản thu lớn nhất bảo đảm bù đắp
chi phí huy động vốn, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và chi phí quản lý.
Khả năng cho vay đối với khách hàng chính là lý do cơ bản để ngân hàng
được cấp phép hoạt động. Mọi người đều mong muốn các ngân hàng hỗ trợ
cho sự phát triển của địa phương, đất nước thông qua việc cung cấp tín
dụng, đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và của người tiêu dùng
với một mức lãi suất hợp lý. Hiện nay, trong hoạt động của NHTM, cho vay

theo dự án đầu tư là một loại hình cho vay đem lại cho ngân hàng lợi nhuận
cao nhất nhưng cũng có mức độ rủi ro cao nhất. Sự thất bại của một khoản
cho vay đầu tư có tác động rất tiêu cực. Nó không đơn thuần làm giảm lợi
nhuận của ngân hàng mà còn làm giảm khả năng thanh khoản của ngân
hàng.
Quy trình cho vay của ngân hàng thường gồm 5 bước:
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bước 1: Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng
Bước 2: Phân tích tín dụng ( Tổ chức thẩm định)
Bước 3: Quyết định tín dụng
Bước 4: Giải ngân
Bước 5: Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng
Trong đó, NHTM thường xem giai đoạn trước khi cho vay- giai đoạn phân
tích tín dụng là quan trọng nhất. Kết quả của khâu này sẽ mang tính quyết
định chất lượng đối với một khoản cho vay. Trong hoạt động thẩm định dự
án đầu tư, thẩm định tài chính dự án đầu tư là một trong những nội dung
quan trọng và phức tạp nhất vì nó đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp các kết quả
của quá trình thẩm định trên nhiều phương diện khác thẩm định khả năng tài
chính của chủ đầu tư, thẩm định thị trường, thẩm định kỹ thuật,…Như vậy,
là một nội dung của quy trình cho vay, kết quả thẩm định tài chính dự án là
cơ sở để Ngân hàng ra quyết định tài trợ vốn. Nói cách khác, thẩm định tài
chính dự án là khâu mà ngân hàng phải quan tâm hàng đầu để đảm bảo tránh
được rủi ro cho các khoản vay, tạo sự an toàn và lành mạnh trong hoạt động
tín dụng.
1.2.2- Khái niệm và sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án đầu tư
trong hoạt động cho vay vốn
• Khái niệm về thẩm định tài chính dự án đầu tư:
Thẩm định tài chính dự án là việc rà soát, đánh giá một cách khoa học và

toàn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà tài trợ,
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá nhân, nghĩa là thẩm định tài chính dự
án là việc xem xét dự án sẽ tạo ra được những lợi ích tài chính gì trong tương
lai những nguồn lực tài chính đã đầu tư cho dự án.
• Sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay
vốn tại các NHTM
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hoạt động cho vay theo dự án là hoạt động mang lại nguồn thu nhập
chính cho ngân hàng đồng thời nó cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro
lớn. Sở dĩ như vậy vì các dự án đầu tư thường có thời hạn dài, vốn đầu tư
lớn và được lập trên cơ sở ý tưởng kinh doanh và ý muốn chủ quan của chủ
dự án. Họ luôn muốn được ngân hàng chấp thuận cho vay vốn, do đó, dự án
bao giờ cũng có tính khả thi và thường không xem xét đánh giá hết được tất
cả các khía cạnh liên quan của dự án. Do vậy, khi xảy ra rủi ro có thể làm
giảm lợi nhuận của ngân hàng, thậm chí có thể làm giảm khả năng thanh
khoản dẫn tới nguy cơ phá sản. Điều này đã thôi thúc các NHTM phải thận
trọng và kiểm soát tốt các khoản cho vay theo dự án. Muốn vậy trong tất cả
các khâu của quy trình nghiệp vụ cho vay, đặc biệt là trong khâu phân tích
đánh giá dự án ngân hàng phải thực hiện công tác thẩm định tài chính dự án
thật tốt và có hiệu quả thì mới đảm bảo được mục tiêu trong hoạt động cho
vay. Vì vậy việc thẩm định dự án đầu tư nói chung và thẩm định tài chính dự
án nói riêng trong hoạt động cho vay vốn của ngân hàng là rất cần thiết.
• Thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng phân tích, rà soát, đánh giá
lại một cách khoa học, cụ thể, chính xác và toàn diện về khía cạnh tài chính
của dự án. Với tư cách là nhà tài trợ vốn cho dự án thì ngân hàng thường
quan tâm tới hiệu quả tài chính của dự án qua đó thể hiện khả năng hoàn trả
nợ cả gốc lẫn lãi của dự án cho ngân hàng.Vì vậy ngân hàng cần tiến hành
thẩm định tài chính dự án trước khi ra quyết định cho vay để kiểm tra tính

khả thi và tính hiệu quả của dự án.
• Bên cạnh đó, thẩm định tài chính cũng giúp ngân hàng lường trước
các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình triển khai thực hiện dự án như các
yếu tố công nghệ, sự biến động thị trường nguyên vật liệu, doanh số bán
hàng, giá bán dự kiến, các chi phí sản xuất,…Từ đó, ngân hàng cũng có thể
đưa ra các giải pháp đối với chủ đầu tư, kiến nghị đối với cơ quan quản lý
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhà nước nhằm nâng cao tính khả thi trong việc thực hiện dự án và hạn chế
các rủi ro.
• Thông qua thẩm định tài chính dự án ngân hàng có những căn cứ
chính xác để đưa ra quyết định đồng ý hay từ chối cho vay. Xuất phát từ việc
thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.
• Mặt khác, quá trình thẩm định tài chính dự án còn giúp cho ngân hàng
tích luỹ được những kinh nghiệm và rút ra những bài học quý báu để hoàn
thiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động
của ngân hàng.
Như vậy, thẩm định tài chính dự án là hoạt động hết sức cần thiết đối với
NHTM. Thực hiện tốt thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng đưa ra
quyết định tài trợ đúng đắn, mang lại lợi nhuận cao và hạn chế rủi ro. Ngược
lại, việc thực hiện thẩm định tài chính dự án không tốt có thể làm ngân hàng
mất vốn, thời gian thu hồi vốn kéo dài, mất cơ hội đầu tư vào các dự án hiệu
quả… làm ảnh hưởng đến kế hoạch nguồn vốn cũng như việc bảo đảm an
toàn và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của ngân hàng. Chính vì vậy, thực
hiện tốt thẩm định tài chính dự án là một yêu cầu quan trọng trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng. Muốn làm được điều đó, trước hết ngân hàng cần
phải nắm rõ các nội dung trong thẩm định tài chính dự án.
1.2.3- Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho
vay vốn tại các NHTM

Thẩm định tài chính dự án bao gồm nhiều nội dung liên quan chặt chẽ với
nhau. Những nội dung chủ yếu được ngân hàng chú trọng khi thẩm định là:
1.2.3.1- Thẩm định tổng mức vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư của dự án
• Tổng mức vốn đầu tư
Tổng mức vốn đầu tư là mức vốn được dự kiến để chi phí cho toàn bộ
quá trình đầu tư vào dự án nhằm đạt được mục tiêu đầu tư dựa vào khai thác,
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sử dụng theo yêu cầu của dự án ( bao gồm cả yếu tố trượt giá), được phân
tích tính toán và xác định trong dự án. Việc thẩm định tổng vốn đầu tư có vai
trò quan trọng vì nếu tính toán vốn đầu tư hợp lý và sát thực sẽ tránh tình
trạng đầu tư tràn lan gây lãng phí vốn hoặc khi thực hiện tổng vốn đầu tư
tăng hoặc giảm đi quá lớn so với dự tính ban đầu dẫn đến việc không cân đối
được nguồn vốn, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ và hiệu quả dự án.Thông
qua thẩm định tổng mức vốn đàu tư ngân hàng sẽ xác định lại xem nhu cầu
vốn đầu tư của dự án đưa ra có phù hợp và đảm bảo được các điều kiện kỹ
thuật, tính năng công nghệ của máy móc, cơ sở hạ tầng,…để dự án đi vào
hoạt động đúng như đã dự kiến.
• Thẩm định cơ cấu vốn đầu tư của dự án
Tổng mức vốn đầu tư cần thiết cho dự án bao gồm: vốn cố định và vốn
lưu động (bao gồm cả vốn dự phòng)
+ Vốn cố định : bao gồm toàn bộ chi phí cho quá trình đầu tư của dự án,
từ giai đoạn chuẩn bị đến giai đoạn thực hiện đầu tư và kết thúc xây dựng
đưa dự án đưa vào sử dụng như giá trị mua đất, hoặc thuê đất đã được trả
trước ( nếu có), chi phí xây dựng cơ bản, máy móc thiết bị và công nghệ, lãi
phải trả trong thời gian xây dựng cơ bản, gồm cả thuế nhập khẩu và các chi
phí khác có liên quan đến máy móc thiết bị. Ngoài ra, còn có chi phí dự
phòng được xác định bằng một tỷ lệ % tính trên toàn bộ giá trị dự án. Chi
phí dự phòng chỉ dùng để dự trữ vốn, không dùng để thanh toán, khi phát

sinh chi phải có dự toán, dự toán này phải trình cấp quyết định đầu tư giải
quyết.
+ Vốn lưu động: bao gồm vốn sản xuất( chi phí nguyên, nhiên vật liệu,
điện nước, tiền lương,…) và vốn lưu thông ( thành phẩm tồn kho, sản phẩm
dở dang, hành hóa bán chịu, vốn bằng tiền,…). Vốn lưu động cần thiết cho
hoạt động của dự án được xác định cho từng năm dựa vào các nhân tố sau:
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ hàng năm, định mức vốn lưu
động, dự trù vốn lưu động và vòng quay vốn lưu động.
1.2.3.2- Thẩm định nguồn vốn của dự án
Một dự án có thể được tài trợ bằng nhiều nguồn khác nhau như: ngân
sách Nhà nước cấp, ngân hàng cho vay, vốn góp cổ phần, vốn liên doanh do
các bên liên doanh góp, hoặc vốn huy động từ các nguồn khác. Ngân hàng
cần thẩm định tính khả thi của từng nguồn vốn đó để làm căn cứ xác định
mức cho vay của ngân hàng
Số tiền cho
vay
=
Tổng vốn đầu tư của
dự án
-
Các nguồn tài trợ
cho dự án
Trong đó, các nguồn tài trợ cho dự án có thể bao gồm:
- Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp: được lấy từ phần khấu hao, lợi nhuận
để lại, quỹ thặng dư,… mà khách hàng có thể dùng để tài trợ cho dự án.
Ngân hàng cần phải kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, từ đó xác định phần nguồn vốn chủ sở hữu trên

thực tế có thể tham gia tài trợ dự án của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn ngân sách cấp: một số dự án được nhà nước cấp vốn để triển
khai và doanh nghiệp chỉ được dùng số vốn này để thực hiện dự án. Khi đó,
ngân hàng cần xem xét bảo đảm của cấp có thẩm quyền đối với nguồn vốn
ngân sách.
- Nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác: Một số dự án có nhu cầu
vay vốn lớn đòi hỏi sự đồng tài trợ của nhiều ngân hàng, các tổ chức tài
chính khác. Trong trường hợp đó ngân hàng phải kiểm tra độ tin cậy về khả
năng cho vay, số lượng, điều kiện và thời hạn cho vay của các nguồn tài trợ
dự án từ các tổ chức tín dụng khác dựa trên các cam kết bằng văn bản của
chủ thể cho vay.
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bên cạnh việc thẩm định tính khả thi, ngân hàng còn xem xét thời điểm
mà doanh nghiệp nhận được khoản tài trợ đó, để có kế hoạch giải ngân vốn
phù hợp với tiến trình của dự án. Để hạn chế rủi ro từ phía ngân hàng và
nâng cao trách nhiệm của chủ dự án, ngân hàng thường đòi hỏi doanh nghiệp
phải có vốn tự có ít nhất là 30% trên tổng mức vốn đầu tư. Từ đó đánh giá
khả năng tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm vay vốn.
Thẩm định nguồn tài trợ của dự án tránh cho ngân hàng rơi vào thế bị động
khi cho vay khi các nguồn tài trợ khác không khả thi, giúp ngân hàng đưa ra
mức tài trợ hợp lý cũng như kế hoạch đầu tư của mình đối với dự án, nhằm
đảm bảo cho dự án không bị thiếu vốn và nguồn vốn của ngân hàng cũng
được sử dụng một cách có hiệu quả hơn.
1.2.3.3-Thẩm định các bảng dự trù tài chính: doanh thu, chi phí, lợi
nhuận hàng năm từ hoạt động của dự án
Về bản chất, việc thẩm định doanh thu, chi phí và kết quả sản xuất kinh
doanh của dự án là một phần trong thẩm định dòng tiền của dự án nhưng các
ngân hàng thường tách công việc này thành một bước riêng để tiện cho việc

đánh giá và tính toán. Vì vậy bước này có trách nhiệm đảm bảo đầu vào để
việc thẩm định dòng tiền được chính xác.
• Doanh thu của dự án bao gồm các khoản lợi ích thu được từ việc vận
hành tài sản cố định được đầu tư bởi dự án, gồm doanh thu từ sản phẩm
chính, doanh thu từ sản phẩm phụ, doanh thu từ dịch vụ cung cấp cho bên
ngoài.
• Chi phí của dự án bao gồm: chi phí cố định và chi phí biến đổi.
- Chi phí cố định gồm chi phí bảo dưỡng máy móc, thiết bị, khấu hao
máy móc thiết bị, lãi vay…thường được tính theo phần trăm trên doanh thu
- Chi phí biến đổi gồm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, lương…
được tính toán dựa trên sản lượng sản xuất và định mức tiêu hao.
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vì doanh thu và chi phí ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh, mà
doanh thu lại phụ thuộc vào giá bán, trong khi giá bán phải dựa trên cơ sở
chi phí thực tế và giá của các sản phẩm thay thế. Như vậy, một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp, chi phí đều ảnh hưởng đến doanh thu và kết quả sản xuất
kinh doanh. Do vậy, ngân hàng cần thẩm định tính chính xác và hợp lý của
các yếu tố chi phí.
1.2.3.4- Thẩm định dòng tiền ròng của dự án
Dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản thu và chi được kỳ vọng
xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Lấy
khoản tiền thu được trừ đi khoản chi ra thì chênh lệch này được doanh
nghiệp gọi là dòng tiền của dự án tại các mốc thời gian khác nhau. Chu kỳ
của dự án là toàn bộ khoảng thời gian tính từ khi dự án bắt đầu được triển
khai, dự án sinh lãi và kết thúc dự án.
Ta có:
COF - IFCNCF
=

Trong đó:
-
NCF
: là dòng tiền ròng của dự án
-
IFC
là dòng tiền vào của dự án
-
COF
là dòng tiền ra của dự án
Do tiền có giá trị về thời gian nên chúng ta không thể so sánh các dòng tiền
xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau mà phải quy chúng về một mốc
thời gian để so sánh. Nếu quy các dòng tiền xuất hiện tại các mốc khác nhau
về hiện tại người ta gọi là dòng tiền hiện tại, nếu quy về thời điểm tương lai
ta có khái niệm dòng tiền tương lai.
Như vậy, để xác định được dòng tiền tại các thời điểm khác nhau của dự
án ta phải tính toán được dòng tiền vào, ra của dự án tại các thời điểm đó.
Dòng tiền vào của dự án thường xuất hiện khi dự án trong giai đoạn sinh lãi.
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đó thường là các khoản thu từ dự án. Dòng tiền ra của dự án đó là những
khoản chi phí phát sinh do việc thực hiện dự án tạo ra
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu phương pháp xác định dòng tiền của dự án
với những phương thức tài trợ khác nhau.
 Khi dự án được tài trợ hoàn toàn bằng vốn chủ sở hữu:
Theo phương pháp từ trên xuống
NCF = Lợi nhuận sau thuế + Khấu hao
NPV = ∑NCF được hiện tại hóa – VCSH(
0

t
)
 Khi dự án được tài trợ bằng nợ và Vốn chủ sở hữu
- Nếu phương thức trả nợ là trả gốc và lãi hàng năm:
NCF = Lợi nhuận sau thuế + Khấu hao - Trả vốn vay
NPV = ∑NCF được hiện tại hóa – VCSH(
o
t
)
- Nếu phương thức trả nợ là trả lãi hàng năm, trả gốc vào cuối năm
NCF = Lợi nhuận sau thuế + Khấu hao
NPV = ∑NCF được hiện tại hóa – VCSH(
o
t
)
 Khi TSCĐ của dự án được hình thành thông qua thuế:
NCF = Lợi nhuận sau thuế
NPV = ∑NCF
1.2.3.5-Thẩm định về lãi suất chiết khấu
Trước khi nghiên cứu về lãi suất chiết khấu chúng ta hãy tìm hiểu về giá
trị thời gian của tiền. Theo nguyên tắc giá trị thời gian của tiền, một đồng
hôm nay sẽ có giá trị khác một đồng hôm qua, khác với một đồng ngày mai.
Nguyên nhân cơ bản của sự thay đổi về giá trị của tiền đó là do tác động
của lạm phát và chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Nếu nền kinh tế có lạm phát
thì một đồng hôm nay có giá trị cao hơn một đồng ngày mai. Tương tự chi
phí cơ hội cũng làm cho tiền tại các thời điểm khác nhau có giá trị khác
nhau.
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Do tiền xuất hiện tại các thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau, nên để
có thể so sánh các dòng tiền xuất hiện tại các thời điểm khác nhau với nhau,
người ta sử dụng lãi suất chiết khấu để qui đổi các dòng tiền đó về cùng một
mốc để so sánh. Khi quy đổi các dòng tiền về thời điểm hiện tại, gọi là dòng
tiền hiện tại. Khi quy đổi vể thời điểm tương lai gọi là dòng tiền tương lai.
Khi thực hiện một dự án, nhà đầu tư sẽ bỏ qua lợi tức kỳ vọng của các dự án
hay tài sản khác có cùng mức rủi ro. Chính vì vậy, nhà đầu tư sẽ đòi hỏi một
tỷ lệ sinh lời cần thiết đối với dự án đó. Đó chính là lãi suất chiết khấu.Vậy,
lãi suất chiết khấu là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu cầu đối với
một dự án, là cơ sở để chiết khấu các dòng tiền trong việc xác định giá trị
hiện tại ròng và thời gian hoàn vốn của dự án.Vấn đề đặt ra cho các Ngân
hàng thương mại khi thực hiện thẩm định tài chính dự án đầu tư là phải xác
định được một hệ số chiết khấu hợp lý với từng dự án để đưa ra kết luận
đánh giá hiệu quả tài chính chính xác nhất đối với mỗi dự án đầu tư.
Về bản chất lãi suất chiết khấu của một dự án chính là chi phí vốn của dự
án đó. Với mỗi dự án có phương thức tài trợ khác nhau, chi phí vốn của các
dự án đó cũng khác nhau do đó mà lãi suất chiết khấu được sử dụng để chiết
khấu dòng tiền cũng khác nhau.
 Nguyên tắc dự tính lãi suất chiết khấu:
- Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi tức kỳ vọng:
Lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Để thuận lợi trong việc xác định
lãi suất chiết khấu của dự án, người ta so sánh mức độ rủi ro của dự án này
với các dự án mà công ty thực hiện trước đây. Tùy vào kết quả so sánh mà
sẽ lựa chọn lãi suất chiết khấu của dự án hiện tại bằng cách giữ nguyên hay
điều chỉnh lãi suất chiết khấu của các dự án trước.
- Nguyên tắc nhất quán:
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo nguyên tắc này dòng tiền thuộc về chủ thể nào thì việc xác định

lãi suất chiết khấu không thể biệt lập với chủ thể đó.
Qua phân tích cho thấy lãi suất chiết khấu phụ thuộc chủ yếu vào ba yếu
tố là: khả năng sinh lời của dự án, mức độ rủi ro của dự án, cơ cấu vốn tài
trợ cho dự án. Khi xác định lãi suất chiết khấu cán bộ thẩm định phải phân
tích rõ tầm ảnh hưởng của các yếu tố này để xác định lãi suất chiết khấu cho
phù hợp.
Một cách tổng quát:
Lãi suất chiết khấu = Lợi tức phi rủi ro + Phần bổ rủi ro
- Khi vốn đầu tư là nợ thì lãi suất chiết khấu của dự án thường được coi là
lãi suất vốn vay.
- Khi vốn đầu tư là vốn chủ sở hữu thì lãi suất chiết khấu của dự án chính là
chi phí cơ hội của việc sử dụng đồng vốn đó hay còn gọi là tỷ lệ sinh lời tốt
nhất bị bỏ qua.
- Khi sử dụng kết hợp cả vốn chủ sở hữu và nợ thì lãi suất chiết khấu chính
là chi phí vốn trung bình(WACC)
1.2.3.6- Thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác thẩm định tài chính dự
án chính là việc tính toán các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án và đưa ra kết
luận cuối cùng có nên thực hiện dự án hay không. Dưới đây chúng ta sẽ
nghiên cứu một vài chỉ tiêu quan trọng.
 Giá trị hiện tại ròng( NPV)
Phương pháp hiện giá thuần( NPV) là phương pháp phân tích hiệu quả
vốn đầu tư trên cơ sở sử dụng chi tiêu hiệu quả giá trị hiện tại thuần. NPV-
giá trị hiện tại ròng là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền
thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được đưa về
hiện tại ở mốc thời gian t
0
. NPV có thể mang giá trị dương, âm hoặc bằng
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
16

Website: Email : Tel : 0918.775.368
không. NPV > 0 có nghĩa là việc thực hiện dự án sẽ tạo ra giá trị tăng thêm
cho chủ đầu tư. Nếu NPV < 0, dự án không đủ bù đắp vốn đầu tư ban đầu,
đem lại thua lỗ cho chủ đầu tư.
Công thức xác định:
n
tt
n
n
t
t
tt
tt
i
Đ
i
INNPV
)1()1(
1
)(
0
+
+
+
−=

=

Trong đó:
• NPV : Giá trị hiện tại ròng của dự án.

• N
t:
Thu hồi gộp tại năm t
• N
t
= Khấu hao tại năm t + Lợi nhuận tại năm t + Lãi vay tại năm t
=( F
t
+ P
t
+ L
t
)
• I
t
: Vốn đầu tư tại năm t ( Luồng tiền mặt chi tại năm t)
• n: Số năm hoạt động hoặc số năm trong thời ký phân tích
• ( N
t
- I
t
): thu hồi thuần tại năm t
• Đ
n
: Giá trị thanh lý vào cuối kỳ sử dụng
• I
tt
: Mức lãi suất tính toán

:

)1(
1
t
tt
i
+
Hệ số chiết khấu tại năm t. Hệ số này được tính sẵn phụ
thuộc vào mức lãi suất tính toán (i
tt
) và thời gian t
Nguyên tắc sử dụng tiêu chuẩn giá trị hiện tại thuần trong đánh giá và so
sánh hiệu quả các dự án đầu tư.
Những dự án có NPV ≥0 là những dự án đáng giá về mặt hiệu quả kinh tế.
Khi lựa chọn một trong số nhiều phương án loại bỏ nhau thì phương án có
NPV lớn nhất sẽ có lợi nhất.
• Ưu điểm của chỉ tiêu NPV:
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Phương pháp NPV có ưu điểm là cho biết quy mô số tiền lãi có thể thu
được từ dự án. Phương pháp NPV khắc phục được nhược điểm của các
phương pháp thời gian hoàn vốn cũng như phương pháp tỷ suất lợi nhuận.
- NPV là một tiêu chuẩn hiệu quả tuyệt đối tính đầy đủ đến giá trị theo thời
gian của tiền, tính đầy đủ mọi khoản thu và chi của cả thòi kỳ hoạt động và
phân tích dự án.
- NPV cho phép đo lường trực tiếp giá trị tăng thêm do vốn đầu tư tạo ra từ
đó giúp cho việc đánh giá và lựa chọn dự án phù hợp với mục tiêu tối đa hóa
lợi nhuận của các bên liên quan
• Hạn chế của chỉ tiêu NPV:
- NPV phụ thuộc vào tỷ suất chiết khấu i

tt
được lựa chọn. Tỷ suất này càng
nhỏ thì NPV càng lớn và ngược lại. Việc xác định tỷ suất chiết khấu chính
xác là rất khó, nhất là khi thị trường vốn có nhiều biến động.
- Khi sử dụng phương pháp NPV đòi hỏi dòng tiền mặt của dự án phải được
dự báo độc lập cho đến hết năm cuối cùng của dự án và các thời điểm phát
sinh chúng. Hơn nữa dùng phương pháp NPV trong việc so sánh các phương
án có thời kỳ hoạt động không giống nhau sẽ gặp khó khăn. Vì vậy, người ra
sử dụng phương pháp giá trị hàng năm để thay thế khi phương pháp NPV
gặp khó khăn.
- NPV là chỉ tiêu tuyệt đối nên dùng NPV mới chỉ dừng lại ở mức độ xác
định lãi, lỗ thực của dự án mà chưa cho biết tỷ lệ lãi đó trên vốn đầu tu như
thế nào? Điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng khi so sánh phương án có
vốn đầu tư khác nhau. Để khắc phục hạn chế này người ta dùng phương
pháp hệ số hoàn vốn đã được chiết khấu.
 Tỷ suất hoàn vốn nội bộ(IRR)
Tỷ lệ nội hoàn(còn gọi là tỷ lệ hoàn vốn nội bộ) là mức lãi suất nếu dùng
nó để chiết khấu các dòng tiền của dự án về hiện tại thì sẽ cho giá trị NPV =
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
0. IRR phản ánh tỷ suất hoàn vốn của dự án, dựa trên giả định các dòng tiền
thu được trong các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi suất chiết khấu.
0
)1()1(
1
)(
0
=
+

×
+
×−=

=
n
n
n
t
t
tt
IRR
Đ
IRR
INNPV
Như vậy, với phương pháp hiện giá thuần ( NPV), tỷ suất chiết khấu( i
tt
) cần
được xác định trước. Còn trong phương pháp này cho NPV = 0 để tính ra tỷ
suất hoàn vốn IRR.
Chúng ta biết rằng tỷ suất chiết khấu i
tt
ảnh hưởng quyết định đến chỉ tiêu
NPV , i
tt
càng bé thì NPV càng lớn và ngược lại. Độ chính xác của NPV chịu
ảnh hưởng quyết định bởi việc lựa chọn lãi suất chiết khấu. Để khắc phục
nhược điểm đó ngân hàng thường sử dụng chỉ tiêu IRR. Khi NPV= 0 có
nghĩa là toàn bộ số tiền vốn bỏ ra đã được hiện tại hóa bằng toàn bộ số tiền
thu nhập hoàn vốn hàng năm đã được hiện tại hóa của dự án trong toàn bộ

thời gian hoạt động. Chỉ tiêu IRR cho phép các nhà phân tích nhìn thấy với
tỷ suất chiết khấu bằng bao nhiêu thì dự án hoàn vốn.
Thông thường cách tính IRR theo phương pháp nội suy. Với hai mức lãi suất
chiết khấu i
1
và i
2
, theo giả sử i
1
< i
2
ta có hai giá trị hiện tại thuần tương
ứng là NPV
1
và NPV
2
sao cho NPV
1
> 0, NPV < 0. Khi đó IRR cần tính
tương ứng với NPV = 0 sẽ nằm giữa hai mức lãi suất i
1
và i
2
:
Công thức xác định:

)()(
)(
)(IRR
21

1
121
iNPViNPV
iNPV
iii
+
−+=
Trong đó:
i
1
: tỷ suất chiết khấu thấp hơn. NPV(i
1
) > 0
i
2
: tỷ suất chiết khấu cao hơn. NPV(i
2
) < 0
Nguyên tắc sử dụng IRR trong phân tích hiệu quả:
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Dự án đầu tư có lợi khi lãi suất tính toán ( i
tt
) nhỏ hơn mức lãi suất nội tại
( IRR).
I
tt
< IRR
Trong số những dự án đầu tư độc lập, dự án nào có IRR cao hơn sẽ có vị trí

cao hơn về khả năng sinh lợi.
• Ưu điểm khi dùng chỉ tiêu IRR:
- IRR chỉ rõ mức độ lãi suất mà dự án có thể đạt được. Qua đó cho phép
xác định được mức lãi suất tính toán ( i
tt
) tối đa mà dự án có thể chịu đựng
được.
• Hạn chế của chi tiêu IRR
- Việc áp dụng nó có thể không chắc chắn nếu tồn tại các khoản cân bằng
thu chi thực âm đáng kể trong giai đoạn vận hành dự án, tức là đầu tư thay
thế lớn. Trường hợp này có thể xảy ra NPV đổi dấu nhiều lần khi chiết khấu
theo những tỷ suất chiết khấu khác nhau. Khi đó tồn tại nhiều IRR và khó
xác định được chính xác IRR nào làm chỉ tiêu đánh giá.
- Việc áp dụng IRR có thể dẫn đến các quyết định không chính xác khi lựa
chọn dự án loại trừ lẫn nhau. Những dự án có IRR cao nhưng quy mô nhỏ có
thể có NPV nhỏ hơn một dự án khác có IRR thấp nhưng NPV lại cao hơn.
Bởi vậy, khi lựa chọn một dự án có IRR cao rất có thể đã bỏ qua cơ hội thu
một giá trị hiện tại lớn hơn.
- Việc tính toán tỷ suất IRR là một công việc phức tạp
 Chỉ số doanh lợi ( Profit Index – PI )
Chỉ số doanh lợi là chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi của dự án, tính
bằng tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền trong tương lai chia cho vốn đầu
tư bỏ ra ban đầu. PI cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu
đồng thu nhập. Thu nhập này chưa tính đến chi phí vốn đầu tư đã bỏ ra.
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cách xác định:

0

1
)1(
CF
i
CF
PI
n
t
t
t

=
+
=
Tiêu chuẩn lựa chọn dự án là PI càng cao càng dễ chấp nhận, nhưng tối
thiểu phải bằng lãi suất chiết khấu. Nếu không, chi phí cơ hội đã bỏ qua khi
thực hiện dự án không được bù đắp bởi tỷ suất sinh lợi của dự án.
Tiêu chuẩn này khắc phục được những nhược điểm của NPV. Nó có thể sử
dụng trong việc so sánh các dự án có thời hạn khác nhau và vốn đầu tư khác
nhau. Song vì là một chỉ tiêu tương đối nên nó không phản ánh được quy mô
gia tăng giá trị cho chủ đầu tư.
 Thời gian hoàn vốn (T)
Thời gian hoàn vốn là thời gian cần thiết để dự án hoàn lại tổng vốn đầu
tư đã bỏ ra bằng các khoản lãi tiền mặt. Đó là số năm trong đó dự án sẽ tích
lũy các khoản tiền mặt để bù đắp tổng mức vốn đầu tư đã bỏ ra.
• Ưu điểm của chỉ tiêu (T):
- PP giúp nhà đầu tư có được cái nhìn chính xác về mức độ rủi ro của dự
án. Chỉ tiêu này được ngân hàng ưu thích vì thời gian thu hồi vốn đầu tư
càng dài thì ngân hàng càng phải đối đầu với rủi ro trong khi thu hồi vốn, do
vậy ngân hàng thường ưu thích những dự án có thời gian thu hồi vốn ngắn,

khả năng quay vòng nhanh và mức độ rủi ro thấp.
 Điểm hòa vốn( BP)
Điểm hòa vốn là điểm mà tại đó mức doanh thu vừa đủ trang trải phí
tổn ( không lãi). Phân tích điểm hòa vốn sẽ cung cấp nhũng thông tin cần
thiết về lượng sản phẩm cần tiêu thụ, doanh thu cần đạt khi biết sản lượng và
doanh thu hòa vốn. Phân tích điểm hòa vốn còn chỉ ra ngưỡng doanh nghiệp
không bị lỗ, để xác định quy mô đầu tư, quy mô sản xuất nhằm đạt được lợi
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhuận mong muốn. Ngoài ra, phân tích hòa vốn còn giúp cho việc xem xét
mức giá cả mà dự án có thể chấp nhận được. Để xác định điểm hòa vốn cần
chia chi phí thành 2 loại: chí phí cố định và chi phí biến đổi.
- Chi phí cố định là chi phí không thay đổi hoặc thay đổi không đáng kể khi
sản lượng thay đổi.Thuộc loại chi phí này bao gồm: khấu hao TSCĐ, tiền
thuê, lãi vay, chi phí quản lý…
- Chi phí biến đổi là loại chi phí thay đổi tỷ lệ thuận với sự thay đổi của sản
lượng: thuộc loại chi phí này gồm: chi phí vật tư, chi phí nhân công trực
tiếp…
Cách xác định:

AVCP
FC
Q
hv

=
Trong đó:

hv

Q
: Sản lượng hoàn vốn

FC
: Tổng chi phí cố định
AVC
: Chi phí biến đổi tính trên một đơn vị sản phẩm

P
: Giá bán một đơn vị sản phẩm
Các dự án có điểm hòa vốn càng thấp càng tốt vì điểm hòa vốn càng thấp thì
khả năng thu lợi nhuận càng cao, rủi ro thua lỗ càng thấp.Tiêu chuẩn lựa
chọn dự án là mức sản lượng tiêu thụ dự tính lớn hơn sản lượng hòa vốn của
dự án.
1.2.3.7- Thẩm định về rủi ro của dự án
Rủi ro của dự án được hiểu một cách chung nhất là khả năng mà một sự kiện
không có lợi nào đó xuất hiện. Để tiến hành đánh giá rủi ro của dự án, người
ta thường sử dụng các phương pháp sau:
 Phân tích độ nhạy
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong phân tích độ nhạy, người ta dự kiến một số tình huống rủi ro xảy ra
trong tương lai làm các yếu tố đầu vào hay đầu ra thay đổi theo chiều hướng
xấu cho dự án như: giá nguyên, nhiên vật liệu tăng, giá thuê nhân công tăng
làm chi phí tăng, sản lượng tiêu thụ giảm, giá bán giảm làm doanh thu giảm,
…Những rủi ro đó có thể dẫn đến các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính
như : NPV, IRR, PI, PP,…thay đổi. Nếu các chỉ tiêu đó sau khi tính lại cho
kết quả không đạt yêu cầu thì dự án được coi là kém ổn định ( tức độ nhạy
cao), buộc ngân hàng phải xem xét, tính toán lại và thận trọng trước khí ra

quyết đinh cho vay.
Trong phân tích độ nhạy có thể phân tích một nhân tố thay đổi hoặc nhiều
nhân tố cùng thay đổi đồng thời. Khi phân tích độ nhạy theo một nhân tố
thay đổi cần chọn biến có khả năng thay đổi nhiều nhất, cho biến đó thay đổi
trong một giới hạn nhất định còn những biến khác được giữ nguyên để đánh
giá tác động của biến đó đến các chỉ tiêu hiệu quả tài chính đặc biệt là chỉ
tiêu NPV và IRR. Tuy nhiên trên thực tế nhiều biến có thể thay đổi đồng
thời, do vậy cần phải tính toán sự thay đổi và tác động đồng thời của nhiều
yếu tố đến các chỉ tiêu hiệu quả tài chính, từ đó đánh giá sự ổn định, an toàn
của dự án trước khi ra quyết định đầu tư.
Phương pháp phân tích độ nhạy cũng có một số nhược điểm sau:
- Phân tích độ nhạy không tính đến xác suất xảy ra sự kiện
- Phân tích độ nhạy không tính đến mối quan hệ tương quan giữa các
biến số.
- Việc thay đổi giá trị của các biến số nhạy cảm theo một tỷ lệ phần trăm
nhất định không phải lúc nào cũng có mối liên hệ với sự biến thiên của các
biến số hiệu quả quan sát được.
 Phân tích tình huống
Phân tích độ nhậy được dùng phổ biến tuy nhiên chưa dựa trên sự phân
bố xác suất nên khó có thể lượng hoá được cơ bản các chỉ tiêu hiệu quả tài
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chính trong trường hợp xấu nhất và tốt nhất so với cơ sở. Vì vậy, trong thẩm
định tài chính dự án đầu tư, các ngân hàng còn sử dụng phương pháp tình
huống hay phân tích xác suất. Theo phương pháp này, những giá trị khác
nhau của đầu ra hoặc đầu vào của dự án tương ứng với những xác suất nhất
định. Những xác suất này cần được tính đến trong thẩm định dự án. Để thực
hiện phân tích tình huống cần thực hiện qua 4 bước sau:
 Bước 1: Xác định những nhân tố đầu vào không an toàn cùng những

biến cố có thể của nó.
 Bước 2: Xác định những xác suất cho những biến cố của những đầu vào
không an toàn
 Bước 3: Tính giá trị của các nhân tố đầu vào theo phương pháp bình
quân gia quyền.
 Bước 4: Tính toán lại các chỉ tiêu đầu ra theo giá trị của những nhân tố
đầu vào đã tính đến xác suất của chúng.
Phương pháp phân tích tinh huống cũng có những ưu điểm và tồn tại những
hạn chế nhất định như: phương pháp phân tích tình huống cho phép xem xét
một cách toàn diện hơn những nhân tố đầu vào bất định của dự án, kết quả
nhận được của thẩm định tài chính dự án như là kết quả tổng hợp của những
nhân tố đó trong điều kiện trung bình vì vậy giúp các nhà đầu tư nhanh
chóng ra quyết định. Nhưng kết quả của sự phân tích chịu ảnh hưởng rất lớn
của việc xác định xác suất cho những biến cố có thể có những giá trị đầu vào
không an toàn.
• Phân tích mô phỏng
Phương pháp này tuy phức tạp nhưng có ưu việt hơn phương pháp phân
tích tình huống. Nó đề cập đến một phạm vi các kết cục có khả năng xảy ra
chứ không chỉ một vài kết cục rời rạc. Trong phạm vi đó, đường biểu diễn
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàm mật độ xác suất là một đường liên tục nên việc tính toán các hệ số đo
lường rủi ro sẽ chính xác hơn.
Mặc dù vậy, do tính chất phức tạp trong áp dụng và đòi hỏi phương tiện kỹ
thuật hỗ trợ nên các ngân hàng hầu như chưa áp dụng phương pháp này
trong phân tích rủi ro dự án.
1.2.3.8-Thẩm định về tài sản đảm bảo tiền vay
Để đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay, đặc biệt là cho vay theo dự
án, các NHTM rất quân đến tài sản đảm bảo nhằm hướng tới mục tiêu an

toàn và sinh lợi trong kinh doanh.
Tài trợ dựa trên đảm bảo bằng tài sản( tài sản có đảm bảo), tức ngân hàng
yêu cầu khách hàng phải có nguồn trả nợ thứ 2 bên cạnh nguồn trả nợ thứ
nhất là thu nhập từ hoạt động kinh doanh của khách hàng, khi cần thiết ngân
hàng có thể bán tài sản đảm bảo để thu nợ. Vì vậy có thể nói đảm bảo tín
dụng là phương tiện cho ngân hàng có thêm một nguồn vốn khác để thu hồi
nợ nếu mục đích cho vay bị phá sản. Tài sản đảm bảo tiền vay tồn tại dưới
các hình thức như: tài sản thế chấp, cầm cố hay người bảo lãnh thứ ba.
Tuy nhiên, không phải tài sản nào cũng được ngân hàng chấp nhận là tài
sản đảm bảo cho khoản vay vì đây là cơ sở để ngân hàng ra quyết định cho
vay phù hợp, tránh tổn thất ở mức thấp nhất khi có rủi ro xảy ra đối với các
khoản cho vay theo dự án. Chỉ những tài sản đã được ngân hàng thẩm định,
đáp ứng đủ yêu cầu về mặt pháp lý và giá trị kinh tế mới được ngân hàng
chấp nhận là tài sản đảm bảo như: giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng, hồ sơ về tính năng kỹ thuật và thực trạng công nghệ, giá trị
thị trường, giá trị sử dụng,…của các tài sản đó. Việc thẩm định giá trị giá trị
sử dụng của tài sản đảm bảo là nội dung hết sức phức tạp đòi hỏi ngân hàng
phải căn cứ vào giá trị thị trường của các tài sản tương tự về công dụng và
SV: Lý Văn Dụng Lớp Quản lý Kinh tế 46B
25

×