Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đề tài: Làm thế nào để dạy truyện ngụ ngôn đạt hiệu quả cao?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.94 KB, 19 trang )

A. Phần mở đầu
I. Lí do chọn đề tài
Thiên chức của văn chơng là hớng thiện con ngời. Điều này thì ai cũng biết.
Cũng thế, khả năng của văn chơng là định hình những ý tởng mơ hồ, bồng bềnh
trong tâm trí, ám ảnh suốt bao năm mà ta cha thể cắt nghĩa hoặc khuôn nó thành
một diện mạo cụ thể. Điều này thì ai cũng biết. Lại nữa, hình thể của văn chơng
không phải bất biến, sẽ luôn thay hình đổi dạng, sẽ luôn tái sinh. Nhà văn khai
sinh ra tác phẩm, ban cho nó hình hài, khả năng tồn tại còn ngơì đọc thì giúp nó
hình thành, bộc lộ tính cách. Khả năng tồn tại của văn chơng muôn đời vẫn là
niềm tri âm, tri kỉ ấy. Điều này thì ai cũng biết.
Nhng dẫu mọi quan điểm, lí thuyết văn học đã trở nên dễ hiểu với tất thảy mọi
ngời thì tác phẩm trở nên nhàm chán, không đọc cũng biết nó nói gì. Quan niệm
nh thế thật là sai lạc. Văn chơng đích thực sẽ mãi mẫi luôn mới, tựa khóm hồng
kia chỉ bấy nhiêu sắc màu hơng vị, nhng hàng ngày, hàng giờ vẫn lay động lòng
ta, khiến ta bồi hồi day dứt. Trái đất muôn đời vẫn chỉ bấy nhiêu đất đá, sông
biển nhng diện mạo của nó huy hoàng hơn bởi các kĩ s biết biến các vật liệu vô
tri kia thành những chất liệu kết dính để dựng lên những kim tự tháp, những đền
đài miếu mạo, những toà cao ốc sừng sững vơn trời xanh. Thái độ của chúng ta
với văn bản văn chơng cần giống với thái độ của các kĩ s kia: Phải sáng tạo, phải
xử lí chất liệu văn chơng , xâm nhập vào cõi huyền diệu, dựng nên những hình
hài nghệ thuật mới của riêng mình.
Tác phẩm văn chơng, một khi đã khẳng định đợc sự tồn tại thì bao giờ cũng
phải chuẩn bị cho mình một khả năng độc đáo, một phơng diện khác biệt không
thể lẫn vào đâu đợc. Thông thờng ngời ta gọi đó là nét đặc trng hay sự cá biệt
của tác phẩm. Có tác phẩm cốt truyện rất hay, có tác phẩm thì lời kể điêu luyện,
có tác phẩm thì nhân vật độc đáo. Nhiệm vụ của chúng ta là phải phát hiện ra
đặc trng của từng thể loại, điểm sáng của từng văn bản để sau khi học xong tác
phẩm học sinh phải trả lời đợc câu hỏi: Cái còn đọng lại trong tâm hồn là gì?
Nếu học xong một kiệt tác mà chẳng thấy hay ho, chẳng nhớ đợc gì thì coi nh
việc học đã thất bại. Điều đó không chỉ dành riêng cho những văn bản hiện đại
với nhiều tình tiết hấp dẫn mà ngay cả với văn học dân gian cũng vậy. Mỗi cảnh


vật, mỗi con ngời trong truyện cổ dân gian đều gần gũi, thân thiết với đời sống
tâm hồn của ngời dân Việt Nam. Mỗi truyện đều có sắc thái. ý vị riêng của nó.
Đọc hàng trăm truyện cổ tích của bất cứ dân tộc nào trên thế giới, ta cũng nhận
thấy một ý tởng cuối cùng là cái xấu phải bị trừng trị, cái đẹp phải lên ngôi. Đọc
những câu chuyện cời thì phải có yếu tố gây cời, có khi thì hả hê, sảng khoái, khi
thì đả kích, chua cay. Gấp trang sách về truyện ngụ ngôn lại, bao giờ cũng là
những suy ngẫm về những bài học luân lí ở đời. Nh vậy dạy truyện ngụ cũng nh
1
dạy các loại truyện khác, cần phải bám vào đặc trng thể loại, cần phải hiểu
đằng sau mỗi câu chữ ấy là một thái độ gì. Vậy dạy truyện ngụ ngôn nh thế nào
để đạt hiệu quả cao, đó chính là vấn đề tôi muốn đề cập đến trong đề tài này.
IV. Đóng góp mới về lí luận và thực tiễn
Khi dạy văn trong nhà trờng, giáo viên thờng dạygiảng thơ hơn giảng văn bởi
nhiều yếu tố: Giọng giảng, vốn hiểu biết, sự kết hợp giữa các yếu tố nghệ thuật
làm toát lên nội dung. Muốn giảng một bài thơ hay giáo viên cần chọn từ ngữ,
hình ảnh, các điểm sáng về nghệ thuật trong bài thơ. Nói nh thế không có nghĩa
là dạy văn dễ hơn. Dạy văn cũng cần chú ý đến ngôn từ, hình ảnh, nhân vật, cốt
truyện ở những tác phẩm văn học dân gian ( Ví dụ nh truyện ngụ ngôn) thì cốt
truyện có phần đơn giản hơn, tính cách nhân vật ít phức tạp hơn song cái đích
cuối cùng mà ngời ta muốn hớng tới là một bài học luân lí, một kinh nghiệm
sống. Chúng ta có thể dễ dàng tìm ra đợc bài học ấy song để nó thấm nhuần vào
con tim, khối óc của mỗi con ngời thì lại là một vấn đề không dễ một chút nào.
Vì sao? Vì nếu nh ngời giáo viên dạy sử quan tâm đến những sự kiện, ngời dạy
toán quan tâm đến những con số lạnh lùng thì dạy văn không chỉ cần đến kiến
thức mà thêm vào đó là những cảm xúc, là sự rung động của con tim, là sự cảm
nhận của tâm hồn. Dạy văn cần đến không khí chất văn trong lớp học, trong mỗi
ngời thầy và trò. Ngời dạy văn cần phải biết gợi mở ra những điều bí ẩn đằng sau
mỗi câu chữ lặng yên trên trang giấy, để chúng lên tiếng, đối thoại với từng học
sinh. Ngời giáo viên dạy văn phải làm sao cho học sinh cảm thụ đợc cái đẹp của
văn chơng và cái chất văn ấy thấm nhuần vào cuộc đời mỗi học sinh để các em

biết phô diễn cái đẹp ấy trên những trang giấy và trong lời nói hàng ngày.
Muốn vậy, ngời giáo viên phải đam mê đi tìm đáp số cho mỗi bài giảng và phải
tổ chức đợc lớp học, tạo đợc không khí văn chơng, hớng cho các em tự tìm đến
bến bờ của sự khám phá và sáng tạo. Nhng thực hiện nhiệm vụ này không hề đơn
giản vì thầy sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Thời gian có hạn, số lợng học sinh đông,
sự chuẩn bị của học sinh không phải lúc nào cũng chu đáo. Để giải quyết khó
khăn này, ngời thầy phải đổi mới cách soạn, cách dạy làm sao cho hiệu quả.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi xin trình bày một vài suy nghĩ của mình: Làm thế
nào để dạy truyện ngụ ngôn đạt hiệu quả cao.
B. Phần nội dung
I. Chơng I. Tổng quan
Truyện cổ tích là một thể loại tự sự tiêu biểu trong văn học dân gian. Truyện
ngụ ngôn cũng có hình thức tự sự nh truyện cổ tích, nhng mục đích chủ yếu lại
không phải là tự sự. Ngụ ngôn có nghĩa là lời nói có hàm ý. Dụng ý của ngời đặt
truyện ngụ ngôn cũng nh của ngời sử dụng là mợn câu chuyện kể để nói điều
2
muốn nói một cách bóng bẩy, kín đáo, để điều muốn nói thêm sâu sắc, thuyết
phục. Ngời ta gọi đó là cách nói bằng ngụ ngôn. Nói đến truyện ngụ ngôn, ngời
ta thờng hay nghĩ ngay đến tác giả Ê dốp, La Phông Ten ở phơng Tây hoặc Trang
Tử, Liệt Tử ở phơng Đông. Điều đó có cơ sở thực tế. Các nhà t tởng đã từ lâu
hay dùng thể văn ngụ ngôn để diễn đạt t tởng của mình. Với thể văn ấy, các ý
niệm trừu tợng có thể diễn đạt một cách cụ thể hơn và do đó dễ phổ cập hơn. La
Phông Ten cũng đã nêu rõ lí do khiến cho thể ngụ ngôn có tác dụng đặc biệt
trong việc diễn đạt t tởng nh sau: Một thứ luân lí trần trụi làm ngời ta chán nản,
truyện kể làm cho điều luân lí lọt tai cùng với nó. Vì vậy truyện ngụ ngôn đã đ-
ợc các triết gia, các nhà văn hoá đem dùng từ lâu. Nhng nguồn gốc của nó vốn từ
nhân dân mà ra và nó đã xuất hiện từ thời cha có chữ viết.
Truyện ngụ ngôn là loại truyện chứa đựng trong đó những bài học, những
kinh nghiệm sống. Và nh vậy truyện ngụ ngôn có hai phần: Phần cụ thể là truyện
kể, phần trừu tợng là phần bài học rút ra từ câu chuyện ấy. Rất nhiều truyện ngụ

ngôn nói lên những kinh nghiệm mà nhân dân rút ra trong cuộc sống. Những
kinh nghiệm này có thể cha vơn lên thành một ý niệm triết học thực sự, nhng
cũng đã đợc đúc kết thành những bài học thực sự.
Nhân vật trong truyện ngụ ngôn có thể là ngời hoặc bộ phận cơ thể con ngời
(Thầy bói xem voi; Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng), cũng có thể là các loài động vật
cỏ cây Nhân vật có thể là rất gần với con ngời nh đồ đạc, dụng cụ cũng có thể
rất xa với con ngời nh thần phật, ma quỷ. Tóm lại truyện ngụ ngôn là một vở
kịch nhỏ trong đó nhân vật có thể là bất cứ vật gì trong vũ trụ và sân khấu là bất
cứ đâu.
Trong truyện cổ tích, trên cơ cở những sự kiện có thực trong cuộc đời, yếu tố
kì diệu thờng chỉ đợc thêm vào với ý nghĩa bổ trợ, giúp cho việc phát triển tình
tiết. Trong truyện ngụ ngôn, cốt truyện hoàn toàn có tính chất tởng tợng. Ngời ta
có thể tự do- tất nhiên là tự do trong những điều kiện nhất định- đặt bày những
sự việc, sắp xếp những tình tiết, miễn là phục vụ cho việc diễn đạt cái ý mà
mình muốn ngụ ở trong sự tích.
ở một đất nớc có truyền thống thơ ca nh Việt Nam, ngời nông dân có thói
quen biểu hiện t duy và cảm xúc thẩm mĩ bằng hình thức thơ ca. Khi nói đến
truyện ngụ ngôn không kể đến những truyện ngụ ngôn thực sự mà sâu sắc nữa
là khác đợc diễn đạt bằng hình thức ca dao. Ví dụ bài ca dao sau:
- Cái Cò chết rũ trên cây
Cò con mở sách xem ngày làm ma
Cà Cuống uống rợu la đà
Chim ri ríu rít bò ra lấy phần.
3
Tóm lại, truyện ngụ ngôn là một bộ phận không thể thiếu của văn học dân
gian. Với trí tởng tợng bay bổng , với những bài học sâu sắc, truyện ngụ ngôn
góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học dân tộc.
II. Chơng II: Nội dung vấn đề nghiên cứu
II.1. Từ lối nói hình tợng đến truyện ngụ ngôn
Truyện ngụ ngôn chỉ có thể đợc hình thành với một trình độ phát triển tơng

đối cao của t duy loài ngời. Lúc đầu, chắc chắn nhân loại không thể sáng tác đ-
ợc truyện ngụ ngôn gồm hai phần tách bạch: sự tích cụ thể và ý niệm trừu tợng.
Phân biệt đợc phần trừu tợng với phần cụ thể là một việc mà ngời nguyên thuỷ
không làm đợc.
Con ngời nguyên thuỷ sống gần thiên nhiên hơn chúng ta ngày nay. Hơn nữa
họ cha hoàn toàn tách mình ra khỏi thiên nhiên. Vì công cụ sản xuất còn thô sơ,
trình độ sản xuất con thấp kém nên kết quả lao động còn rất ít ỏi. Con ngời phải
vận dụng toàn thể giác quan để kiếm ăn hàng ngày, cũng nh để tự vệ. Ngời ta
chăm chú quan sát hình dạng, màu sắc, hơi tiếng, cũng nh tập quán sinh hoạt
của từng con dã thú. Có thế mới săn bắt đợc nó hoặc tự vệ trớc sự tấn công của
nó. Từ sự quan sát đó, ngời ta đem gắn cho con vật những đặc tính của con ngời.
Ngời ta tởng tợng ra thế giới loài vật cũng nh thế giới loài ngời. Thần thoại phát
sinh cũng vì lí do ấy một phần.
Bên cạnh thần thoại, dần dần các truyện động vật cũng xuất hiện. Truyện kể
về các hoạt động của các con vật, những cuộc phiêu lu của chúng, những cuộc
tranh chấp của chúng. Khi xây dựng truyện nh vậy, ngời ta gán cho con vật
những suy nghĩ, cảm xúc nh con ngời và vì thế yếu tố tởng tợng đã đợc đa vào
nội dung của truyện. Song mặc dù ở những truyện này, các con vật mang tính
cách nh con ngời nhng ngời ta không có ý định xã hội hoá loài vật để nói về
loài ngời. Vì vậy truyện vẫn cha có tính chất ngụ ngôn.
Truyện ngụ ngôn là cách nói theo tỉ dụ của nhân dân. Đặc điểm của ngôn ngữ
nhân dân là cụ thể và hình tợng. Điều này không những đúng với nhân dân thời
nguyên thuỷ mà còn đúng với nhân dân thời sau. Trong ngôn ngữ hình tợng, ngời
ta hay dùng những sự vật cụ thể có đờng nét, màu sắc để diễn đạt những ý
niệm trừu tợng. So sánh, ví von là cách nói của nhân dân lao động. Trong ngôn
ngữ của nhân dân có biết bao thành ngữ có tính chất ví von nh vậy: cao nh sếu,
nhanh nh cắt, thân lừa a nặng Dần dần cách nói ví von bằng hình tợng ấy kết
hợp với truyện động vật phát triển thành truyện ngụ ngôn. Ví dụ thành ngữ
Cáo mợn oai hùm kết hợp với những truyện động vật về con cáo giảo hoạt, về
con hùm dũng mãnh mà ngu ngốc, là cơ sở sản sinh truyện ngụ ngôn cáo mợn

oai hùm. Truyện này mợn truyện loài vật để nói về con ngời.
4
Nh vậy, truyện ngụ ngôn là loại truyện dân gian sản sinh trong quá trình phát
triển tất yếu của trí tuệ nhân loại . Lúc đầu nó chỉ có ý nghĩa giáo dục là chủ yếu,
đến khi xã hội có giai cấp thì truyện ngụ ngôn đợc xem nh là một vũ khí để
chiến đấu của nhân dân lao động.
II.2. Đặc trng của thể loại truyện ngụ ngôn
Truyện ngụ ngôn là loại truyện ngụ ý, nói bóng gió, mỗi truyện có thể coi là
một ẩn dụ. Truyện thờng mợn một nhân vật có thể là con vật, đồ vật, cây cối ( có
khi là con ngời), để ám chỉ con ngời, nhằm nêu lên một bài học luân lí, một kinh
nghiệm sống.
Vậy truyện ngụ ngôn có những đặc trng gì?
a. .Truyện ngụ ngôn là loại truyện mợn chuyện này để nói chuyện kia, mợn
truyện loài vật, đồ vật để nói chuyện con ngời.
Có thể nói, những truyện vay mợn nhân vật là con vật xuất hiện sớm hơn cả.
Chúng thể hiện sự kế thừa giữa các thể loại sáng tác dân gian ở đây là sự kế
thừa giữa truyện ngụ ngôn và thần thoại về các con vật. Tuy nhiên giữa hai thể
loại có sự khác biệt sâu sắc : thần thoại thì nhằm giải thích, suy tôn nguồn gốc
các loài, những đặc điểm tự nhiên trong cấu tạo hình thể, màu sắc của các loài,
trái lại truyện ngụ ngôn không cần quan tâm lắm đến những đặc điểm giống
loài càng không đặt vấn đề suy ngẫm về chúng mà chỉ mợn con vật để ám chỉ
con ngời. Sở dĩ nh vậy vì Nói ngay hay trái tai , trò đời xa nay vẫn thế ! Cứ
đem một sự thực chần chẫn ra mà dạy đời, dạy ngời có phần hơi ép uổng và
không đợc dễ dàng. Những lời giáo huấn ai chẳng quý hoá, chẳng khâm phục
song nó vẫn nh còn treo cao, còn để xa, không đợc thíêt tha gần nhân tâm cho
lắm. Nghiêm trang dạy đạo đức là một cách khác, vui cời hể hả mà dạy đạo đức
lại là một cách khác, và cách sau đem so với cách trớc, có phần hiệu qủa hơn.
Viên thuốc để chữa bệnh còn phải bọc vỏ ngoài nh viên kẹo cho đẹp thì mới dễ
khiến ngời ta nuốt, hỏi rằng chân lí, bài học muốn cho dễ thấm thía vào tâm linh
ngời ta sao không lựa chọn một con đờng nào dễ đi nhất?

Nhiều khi cha không đủ làm gơng cho con, anh không thể dạy nổi em, thầy
không tận từ giáo hoá đợc học trò. Cách trực tiếp dùng đã không xong, ngời làm
cha, làm anh, làm thầy mới phải dùng đến cách gián tiếp, nghĩa là đem cái ý này
gửi vào lời kia, đem cái t tởng của mình mà mợn ngời khác, mợn loài vật, cây
cối dẫn ra cho đắc lực.
Vì thế mới nói: Ngụ ngôn chính là mợn chuyện này để nói chuyện khác. Và
đây cũng chính là tiêu chí để phân biệt truyện ngụ ngôn với các truyện khác. Bởi
trong thực tế, có những truyện khiến chúng ta khó phân loại: không biết xếp nó
vào đâu trong ba thể loại truyện ngụ ngôn, truyện cời, truyện cổ tích.
5
+Ví dụ nh truyện Thầy bói xem voi nhiều ngời cho đó là một câu chuyện cời
vì cách xem voi của năm ông thầy bói, mỗi thầy chỉ sờ một bộ phận của cơ thể
con voi nhng lại cho rằng đó là hình thể của cả con voi. Mâu thuẫn chính là ở
chỗ đó: mỗi anh đều nói đúng sự thật nhng đồng thời đều nói sai sự thật. Tiếng c-
ời càng giòn giã khi các ông thầy bói xoay ra đánh nhau toác đầu chảy máu. Tuy
vậy, nghĩ cho kĩ thì câu chuyện này nhằm phê phán những kẻ chỉ biết căn cứ vào
nhận xét chủ quan của mình mà nhận xét sự vật đồng thời đa ra bài học là khi
xem xét sự vật cần xem xét một cách toàn diện, tránh cái nhìn phiến diện, chủ
quan.
Nh vậy trong câu chuyện trên, tuy nhân vật là con ngời nhng tác giả đã mợn
chuyện này để nói chuyện kia, mợn hệ thống sự kiện tạo thành cốt truyện, nhng
mục đích là hớng đến một bài học kinh nghiệm sống. Đây là đặc trng rất riêng
của truyện ngụ ngôn. Điều này khác hẳn với các loại truyện khác.
b. Mục đích cao nhất mà truyện ngụ ngôn phải đạt đến, nh trên đã nói, là đa
ra một bài học triết lí về xã hội và loài ngời.
Truyện cổ tích kể về bản thân những mâu thuẫn của xã hội và con ngời.
Truyện ngụ ngôn không nhằm dựng lại những bức tranh về xã hội và con ngời
nh thế. Cốt truyện ngụ ngôn chỉ gồm một số sự kiện nghệ thuật đợc lựa chọn
nhằm làm sáng tỏ một bài học triết lí đã đợc định sẵn từ trớc. Chính do cả truyện
là một ẩn dụ nên bài học triết lí đợc thể hiện không phải bằng những lời lẽ khô

khan mà bằng hình tợng nghệ thuật. Có nh thế bài học mới dễ đi vào lòng ngơì
hơn:
Cứ nói thuần luân lí thì dễ sinh lòng chán nản
Có mợn truyện kể ra thì luân lí mới trôi chảy
Việc nhằm đa ra một kinh nghiệm sống là một mục đích rất riêng của truyện ngụ
ngôn. Điều này khắc hẳn với mục đích của truyện cời hay truyện cổ tích. ở
truyện cổ tích mục đích của nó là thể hiện ớc mơ, niềm tin của nhân dân về chiến
thắng cuối cùng của cái thiện với cái ác, cái tốt với cái xấu, sự bất công cvới sự
công bằng. Truyện ngụ ngôn có thể gây cời, có thể không song truyện cời thì
nhất thiết phải gây cời, đây vừa là phơng tiện vừa là mục đích của truyện cời.
Ví dụ: Truyện Thạch Sanh là truyện cổ tích kể về ngời dũng sĩ diệt chằn tinh,
diệt đại bàng cứu ngời bị hại, vạch mặt kẻ vong ân bội nghĩa và chống quân xâm
lợc. Truyện thể hiện ớc mơ, niềm tin về đạo đức công lí xã hội và lí tởng nhân
đạo, yêu hoà bình của nhân dân ta. Còn truyện Treo biển lại khác, ngời đọc
không thể không bật cơì khi mục đích của anh chủ cửa hàng là treo biển lên để
quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và tiếp thị khách hàng. Nhng cuối cùng kết quả
là gì? Từng chữ, từng chữ bị bớt đi, cuối cùng tấm biển cũng cất nốt. Mợn câu
chuyện nhà hàng bán cá nghe ai góp ý về cái tên biển cũng làm theo, truyện
6
nhằm tạo nên tiếng cời vui vẻ, có ý nghĩa phê phán nhẹ nhàng những ngời thiếu
chủ kiến khi làm việc, không suy xét kĩ khi nghe ý kiến ngời khác. Riêng truyện
ngụ ngôn ếch ngồi đáy giếng lại có ý nghĩa khác. Mợn chuyện một con ếch sống
lâu ngày trong một cái giếng, xung quanh chỉ toàn những con vật bé nhỏ, mỗi
khi nó cất tiếng kêu làm các con vật kia hoảng sợ , vì thế nó nghĩ mình là chúa
tể muôn loài và bầu trời chỉ bé bằng cái vung. Một ngày kia nó đợc ra ngoài,
theo thói cũ, nó nghênh ngang đi lại khắp nơi và cuối cùng bị một con trâu giẫm
bẹp. Mợn truyện con ếch để ám chỉ một cách kín đáo tế nhị một bộ phận
những ngời có hiểu biết nông cạn mà vẫn huyênh hoang, kiêu ngạo. Từ câu
chuyện con ếch, nhân dân muốn khuyên chúng ta không nên chủ quan, kiêu
ngạo, hợm mình. Đồng thời khi môi trờng sống thay đổi thì góc nhìn, tầm nhìn

cũng có sự thay đổi, vì thế chúng ta luôn học tập để mở mang tầm hiểu biết của
mình.
Nh vậy, mỗi truyện ngụ ngôn đều có hai phần: Phần cốt truyện và phần bài
học rút ra. Phần cốt truyện chỉ là phơng tiện, phần bài học ra mới là mục đích
cuối cùng. Khi dạy truyện ngụ ngôn, cả ngời dạy và ngời học nhất định phải làm
đợc điều ấy.
c. Ngoài hai đặc trng trên, ta thấy truyện ngụ ngôn còn là sản phẩm của trí t-
ởng tợng.
Hơn cả truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn cũng có yếu tố tởng tợng. Nhng
không giống nh truyện cổ tích, sự tởng tợng phải chịu sự hớng dẫn của lí trí. Ng-
ời ta cũng để cho trí tởng tợng tha hồ bay bổng: cho chim biết nói, cho cây biết
đau, cho vật biết suy nghĩ. Song sự tởng tợng này cũng phải dựa trên sự quan sát
thực tế. Cái khó của truyện ngụ ngôn chính là ở chỗ này. Làm sao cho từng con
vật tiêu biểu cho một hạng ngơì nhất định. Trong ngụ ngôn của ta, con Dơi đợc
xem là tiêu biểu cho hạng ngời hai mặt, phải cũng đợc, trái cũng đợc, lợi dụng
sự nhập nhằng để trốn tránh trách nhiệm tuỳ theo từng trờng hợp. Sở dĩ nh vậy vì
con Dơi cứ bề ngoài mà xét thì là loài nửa chim, nửa thú, nhập vào loài có cánh
cũng đợc, nhập vào loài có vú cũng đợc. Hay trong truyện Thầy bói xem voi, dựa
trên thực tế những ngời mù không nhìn thấy sự việc, thờng hay dùng tay để cảm
nhận thay cho dùng mắt để quan sát. Chính vì thế cả năm thầy bói, không ai nói
đúng hình thù của con voi. Nh vậy sự tởng tợng trong truyện ngụ ngôn vẫn phải
phục tùng những điều kiện nhất định. Sự tô vẽ của óc tởng tợng chỉ làm cho bài
học, sâu sắc hơn, thấm thía hơn. Ngời nghe truyện ngụ ngôn không mong đợi
phải là một kết thúc có hậu nh truyện cổ tích mà ngời ta chờ đợi một bài học nào
đó sẽ rút ra.
Còn trong truyện cổ tích, sự tởng tợng nhiều khi có tính chất lãng mạn. Trong
cổ tích, yếu tố tởng tợng đợc thêm vào với ý nghĩa bổ trợ, bổ sung vào chỗ cuộc
7
đời không thể tiến triển theo ớc vọng của nhân dân Ví dụ nh trong truyện Tấm
Cám, nhân dân muốn kẻ ác phải bị trừng trị, ngời hiền lành sẽ đợc hởng hạnh

phúc song trong thực tế xã hội cũ, một ngời nh Tấm khó có thể thắng hai mẹ con
Cám. Thế là nhân dân tởng tởng ra cảnh Bụt xuất hiện, trợ giúp Tấm. Có thế cái
thiện mới chiến thắng cái ác, ở hiền thì mới gặp lành. Điều đó thể hiện đúng ớc
vọng của nhân dân.
II.3. Nội dung, ý nghĩa của truyện ngụ ngôn.
a. Truyện ngụ ngôn phản ánh cuộc đấu tranh xã hội
Truyện cổ tích cũng phản ánh cuộc đấu tranh xã hội. Song mâu thuẫn ấy đợc
thể hiện rõ ràng hơn, rộng lớn hơn, từ những mối quan hệ trong gia đình nh anh
em, chị em, dì ghẻ với con chồng, giữa những ngời lao động hiền lành với những
kẻ độc ác Trong chủ đề phản ánh mâu thuẫn và cuộc đấu tranh xã hội của
truyện cổ tích, ta thấy một cái nhìn đầy thơng cảm, nâng đỡ và tin cậy của nhân
dân với những con ngời nhỏ bé có cảnh ngộ trớ trêu. Đằng sau cái nhìn đó là tinh
thần phản kháng, là tấm lòng nhân đạo của nhân dân. Truyện cổ tích cho ta
thấy , trong cuộc đấu tranh cho cuộc đời tốt đẹp, có đau khổ mà không buông
xuôi, có thất bại mà không đầu hàng, thực trạng có đen tối nhng ánh sáng của
niềm tin vẫn muốn xua tan màu sắc ảm đạm của một cái gì tận thế và trong ánh
sáng đó, con ngời vẫn cố vơn lên.
Mặc dù cùng là phản ánh cuộc đấu tranh xã hội nhng truyện cổ tích thờng giải
quyết những mâu thuẫn đó bằng các lực lợng siêu phàm: tiên, bụt. Và trong
truyện cổ tích cuộc đấu tranh xã hội đó không phải thông qua một hình ảnh ẩn
dụ, tợng trng nào, ở đây có những con ngời cụ thể nh Tấm Cám, nh ngời anh
trong Cây khế. Còn thế giới nghệ thuật của truyện ngụ ngôn là thế giới loài vật.
Mối quan hệ giữa các con vật thực ra lại là mối quan hệ giữa những con ngời.
Khi xã hội có giai cấp, có kẻ thống trị và bị trị thì ngụ ngôn bèn đợc sử dụng nh
một vũ khí đấu tranh giai cấp. Những câu nói bóng gió, kín đáo, những câu
chuyện lí thú giữa ngời và vật, giữa vật và vật có thể là cái màn che đạy những l-
ỡi dao, những nhát búa muốn chém phập vào kẻ thù. Điều đó đợc thể hiện ở rất
nhiều truyện. Một con Cọp chỉ giả vờ hối hận về tội sát sinh nên đã tự nguyện ăn
chay. Nhờ màn kịch khéo kéo này nó đã chén không biết bao nhiêu con vật hiền
lành, cả tin xán gần đến nó. Truyện Con Hổ ăn chay là bức chân dung biếm hoạ

vạch trần bản chất giả dối, tính không thay đổi của giai cấp thống trị. Tác giả dân
gian đã khôn khéo khuyên ngời lao động hãy cảnh giác với bọn cầm quyền giả
nhân, giả nghĩa, quen thói lừa bịp nhân dân. Truyện Chèo bẻo và ác đa ra một
thái độ sống mạnh mẽ tích cực hơn: Cần tránh xa bọn thống trị gian xảo, độc ác
và khi cần, hãy đoàn kết, đánh lại chúng, đó là cách tự vệ tốt nhất của ngời dân
bị áp bức.
8
Còn về truyện cời, không phải là loại truyện đợc đặt ra để giải trí đơn thuần,
càng không phải những viên thuốc an thần khiến con ngời có khổ, quên khổ, có
thù, quên thù. Đằng sau tiếng cời là những suy nghĩa hết sức nghiêm túc, có ý
nghĩa sâu sắc. Không cần dùng lí luận đao to búa lớn, chỉ bằng những tiếng cời
đủ cung bậc, truyện cời cũng là tiếng nói khuyến khích ngời ta dám coi thờng
nền thống trị phong kiến hiện hành. Cái cời một khi đi vào quần chúng sẽ biến
thành sức mạnh vật chất thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh.
Nh vậy, nếu nói về việc phản ánh cuộc đấu tranh xã hội thì cả ba loại truyện:
truyện cổ tích, truyện cơì, truyện ngụ ngôn đều thể hiện nội dung trên. Song ở
mỗi thể loại có cách thể hiện riêng của mình.
b. Truyện ngụ ngôn nêu ra những bài học triết lí, những kinh nghiệm sống.
Nh trên đã nói, đây là mục đích cuối cùng của truyện ngụ ngôn. Những bài
học mà truyện ngụ ngôn nêu ra có liên quan đến lĩnh vực nhận thức. Truyện ngụ
ngôn thờng dẫn ngời ta đến nhận thức đúng đắn bằng cách nêu ra những tai hại
do nhận thức sai lầm gây nên. Đó là cách chứng minh bằng cách phản chứng
rất độc đáo, giúp bài học đến với ngời nghe một cách tự nhiên, ngời nghe không
có cảm giác bị áp đặt mà tự rút ra bài học cho mình.
Truyện Phù du và đom đóm đã phê phán cách nhìn sự đời một cách chủ quan,
chật hẹp, kinh nghiệm chủ nghĩa của con Phù du: Kiếp sống của nó quá ngắn, từ
lúc nở ra cho đến lúc chết cha hết một ngày, bởi vậy nó cha hề thấy Mặt Trời lặn
và bóng đêm ập xuống. Nhng nó lại lấy kinh nghiệm hạn hẹp và chủ quan ấy
thay thế chân lí khách quan và vĩnh cửu là có ngày và đêm. Con Đom Đóm bị
mắng mà cam chịu bỏ đi vì nó hiểu rằng đối với hạng ngời nhận thức hạn hẹp,

chủ quan, bảo thủ với kinh nghiệm nghèo nàn của bản thân nh thế thì không có
khả năng tiếp nhận chân lí khách quan. Trong mỗi chúng ta, trên bớc đờng trởng
thành về nhận thức đều phải cảnh giác với một con phù du nh thế ẩn sâu trong
mình.
Còn trong truyện Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng, xuất phát từ nhận thức sai lầm
về sự thống nhất giữa các bộ phận trong cơ thể con ngời, các thành viên đó đã
ganh tị lẫn nhau dẫn đến ai cũng mệt mỏi và hậu quả không ai khác là mình phải
gánh chịu. Truyện nhằm nêu ra một bài học: trong tập thể mỗi thành viên không
thể sống tách biệt mà phải nơng tựa vào nhau, gắn bó với nhau để cùng tồn tại,
do đó phải biết hợp tác với nhau, tôn trọng công sức của nhau.
Cũng chính vì đặc trng của truyện ngụ ngôn là đa ra một bài học, một kinh
nghiệm sống cho nên khi dạy truyện ngụ ngôn, một điều quan trọng là phải gắn
với giáo dục thực tiễn. Sau khi tìm hiểu các sự việc, giáo viên cho các em liên hệ
với thực tế đời sống và rút ra bài học cho bản thân.
9
Ví dụ khi dạy Bài Chân, tay, tai, Mắt, Miệng, học sinh liên hệ với thực tế
trong lớp mình xem có những hiện tợng đó không, nếu có thì phải làm thế nào,
từ đó em rút ra bài học gì về tinh thần đoàn kết trong tập thể. Hay trong truyện
ếch ngồi đáy giếng, khi dạy bài này, giáo viên phải cho học sinh liên hệ với trờng
mình, lớp mình, bản thân mình, phải thấy đợc mình luôn luôn phải mở mang
tầm hiểu biết của mình, không nên chủ quan kiêu ngạo vì đi một ngày đàng học
một sàng khôn, hơn nữa kẻ thù lớn nhất của mình là chính mình
II.4. Nghệ thuật trong truyện ngụ ngôn
- Truyện ngụ ngôn biểu hiện t tởng bằng cách nói ẩn dụ. ẩn dụ ở đây có khi
là cả một câu chuyện chứ không phải một hình ảnh. Những con ngời, sự việc, sự
vật trong câu chuyện đều có ngụ ý riêng của nó.
+ Ví dụ trong truyện Đeo nhạc cho Mèo, câu chuyện làng chuột họp bàn
chuyện chống lại Mèo chẳng qua là chuyện họp làng ở nông thôn ngày trớc với
những nét tiêu biểu:
+ Quyền ăn, quyền nói thuộc về các vị chức sắc

+ Các vị chức sắc đã phán thì dân chỉ có việc phục là chí lí đồng thanh ng
thuận
+ Việc nặng nhọc, khó khăn nguy hiểm nhất, đùn đẩy thế nào thì cuối cùng
vẫn rơi vào anh thấp cổ bé họng.
+ Sáng kiến đeo nhạc cho Mèo chỉ là thứ ý tởng viển vông, về lí thuyết thì có
vẻ hay ho nhng trên thực tế thì không áp dụng đợc. Nó cũng ám chỉ cả những ng-
ời chỉ có mớ lí thuyết suông, vào thực tế thì không đợc việc gì.
- Nghệ thuật nhân hoá: trong truyện ngụ ngôn, không ít các con vật, loài vật
đợc nhân hoá. Chúng có suy nghĩ, nói năng, hành động nh con ngời.
+ Ví dụ trong truyện Hơu và Rùa, thành công của nghệ thuật nhân hoá ở đây
là chọn hai con vật có những nét đối lập nhau: Hơu cao, to, khoẻ, chạy nhanh. lại
sống trên cạn; Rùa nhỏ bé, chận chạp, lại sống dới nớc. Để cho hai con vật có
những nét tơng phản ấy kết bạn với nhau thì bài học giáo dục tình ngời mới thấm
thía.
Hay trong truyện ếch ngồi đáy giếng, ếch cũng có những suy nghĩ, cảm nhận,
hành động thái độ nh con ngời. Đó còn là một hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, thái độ
nghênh ngang, kiêu ngạo của ếch chỉ có thể là thái độ của con ngời, của một kẻ
chủ quan, kiêu ngạo. Nghệ thuật nhân hoá, ẩn dụ ở đây có tác dụng làm cho câu
chuyện thêm sinh động và bài học triết lí về cuộc sống càng thêm sâu sắc, thấm
thía.
- Ngoài nhân hoá ra, truyện ngụ ngôn cũng sử dụng nhiều hình ảnh so sánh:
Khi bắt gặp những hình ảnh so sánh này, giáo viên nên cho học sinh phát hiện
10
và chỉ ra sự độc đáo của những hình ảnh so sánh đó, từ đó mới thấy đợc trí tởng
tợng của nhân dân ta phong phú đến nhờng nào.
+Ví dụ: Truyện Thầy bói xem voi, những hình ảnh so sánh nh :
+ sun sun nh con đỉa
+ chần chần nh cái đòn càn
+ bè bè nh cái quạt thóc
+sừng sững nh cái cột đình

+ tun tủn nh cái chổi sẻ cùn
- Vì là chủ yếu mợn truyện cây cối, đồ vật để nói chuyện con ngời cho nên
truyện sử dụng nhiều yếu tố tởng tợng. Nhng nh trên đã nói, óc tởng tợng tuy có
một phạm vi rộng lớn song vẫn phải phục tùng một số điều kiện nhất định.
- Truyện ngụ ngôn thờng làm tăng sức thuyết phục ngời đọc bằng cách sử
dụng thủ pháp châm biếm, cụ thể là các vai có hành vi trái ngợc với điều ngời ta
muốn răn dạy. Nhng dạy truyện ngụ ngôn, không nên quên rằng mục đích của
thể loại này không nhằm gây cời. Chẳng hạn nh truyện Thầy bói xem voi, học
sinh tất nhiên cời cả năm ông thầy bói nhng giáo viên cần gợi ý tiếp để học sinh
từ cái cời đó nhận ra với niềm thích thú điều mà năm ông thầy bói phản diện
này dạy cho mình.
- Trong truyện ngụ ngôn, thiên nhiên đợc miêu tả một cách đơn giản và súc tích.
Trong truyện ngụ ngôn, vạn vật đều có linh hồn. Tác giả dân gian khi sáng tác
trutyện ngụ ngôn không bị ảnh hởng của quan niệm vạn vật hữu linh, nhng từ
những vật vô tri, vô giác đến những loài chim, loài thú, một mặt tuy vẫn giữ đợc
đặc tính của chúng, một mặt lại đợc gắn thêm tính cách nhân laọi. Truyện ngụ
ngôn kết hợp lối cảm nghĩ ngây thơ của trẻ con với lối nhìn nhận tinh vi sâu sắc
của ngời lớn. Tất cả những điều đó làm cho truyện ngụ ngôn có tính chất hấp dẫn
với mọi lứa tuổi.
- Trong nghệ thuật truyện ngụ ngôn, không thể không nói đến tính kịch. Th-
ờng mỗi truyện ngụ ngôn là một vở kịch nhỏ. Trong vở kịch ấy, mâu thuẫn giữa
những hoàn cảnh, sự việc, tính cách nhân vật thờng đợc thể hiện rõ nét. Tình tiết
truyện ngụ ngôn thờng đơn giản nhng không thể thiếu những sự chuyển biến đầy
kịch tính.
+ Ví dụ nh truyện Thầy bói xem voi tính kịch chính là ở chỗ các thầy bói
đánh nhau toác đầu chảy máu. Nhờ tính kịch này mà câu chuyện trởt hành điển
hình cho cách nhìn nhận việc một cách chủ quan, phiến diện. Từ đó mới có
thành ngữ Thầy bói xem voi
II.5. Các bớc phân tích truyện ngụ ngôn
Trong khi phân tích truyện ngụ ngôn, giáo viên cần hớng dẫn học sinh thực

hiện đúng trình tự các thao tác sau:
11
a.Tìm hiểu nghĩa đen của truyện
b. Tìm hiểu nghĩa bóng của truyện
c.Suy ngẫm về bài học ngụ trong câu chuyện
d. Nhận xét về nghệ thuật câu chuyện
Ngay trong tiết đầu của phần truyện ngụ ngôn, giáo viên cần giải thích cho
học sinh về nghĩa đen và nghĩa bóng của truyện: Nghĩa đen là nghĩa bề ngoài,
nghĩa bóng là nghĩa sâu kín. Nghĩa đen của truyện ngụ ngôn là nghĩa của chính
câu chuyện kể, đợc coi là phần xác, của truyện, nghĩa bóng là ý tứ sâu kín gửi
gắm trong đó, đợc coi là phần hồn của nó.
- ở truyện ngụ ngôn, câu chuyện kể không nhằm thuật lại cuộc đời của một
nhân vật nào đó ( nh trong cổ tích). Câu chuyện kể ở truyện ngụ ngôn chỉ gói
gọn trong một cảnh đại khái nh một màn kịch, ở đó diễn ra hoạt động ở một số
vai trong một tình huống cụ thể. Tìm hiểu nghĩa đen của câu chuyện thì học sinh
tự tìm đợc, không khó khăn gì. Giáo viên chỉ cần lu ý các em phân tích hành
động các vai trong tình huống cụ thể và kết cục câu chuyện. Nhng đến bớc tìm
hiểu nghĩa bóng thì học sing cần đợc gợi ý sát hơn. Trớc hết, cần giúp học sinh
xác định các vai trong truyện ám chỉ những hạng ngời nào trong xã hội. Từ đó
hiểu nghĩa ám chỉ của cả câu chuyện và rút ra ý tứ gửi gắm trong đó. Việc này
cũng không mấy khó khăn vì cách nói bằng ngụ ngôn chẳng qua là cách nói
bằng ẩn dụ. Có điều ở đây ẩn dụ là cả một câu chuyện, không phải là một hình
ảnh. Thêm nữa nói bằng ngụ ngôn cốt để thuyết phục ngời nghe về điều mình
muốn nói qua câu chuyện chứ không nhằm đánh đố họ.
- Tuy vậy, bài học trong truyện ngụ ngôn có thể có nhiều lớp nghĩa. Giáo viên
chỉ nên chọn lớp nghĩa dễ tiếp nhận đối với học sinh và có nghĩa thiết thực đối
với việc giáo dục t tởng và rèn luyện t duy cho các em. Cùng với việc đánh giá
bài học rút ra , giáo viên nên chú ý loại bài tập đòi hỏi học sinh nghĩ ra một vài
trờng hợp ứng dụng truyện ngụ ngôn vừa học. Đó là cách trắc nghiệm chính xác
nhất về mức độ tiếp nhận bài học về truyện ngụ ngôn của các em.

- Bài học rút ra từ truyện ngụ ngôn thờng đợc đúc kết thành tục ngữ. Bài học
ấy có khi nêu ở ngay đầu câu chuyện, có khi dùng để kết thúc câu chuyện kể.
Thờng thì tên truyện đã nói đợc ngụ ý của truyện một cách cô đúc. Điều này
chứng tỏ thao tác tìm hiểu nghĩa bóng của truyện nhiều khi rất dễ dàng. Khâu
quan trọng nhất của truyện ngụ ngôn chính là tìm hiểu ý nghĩa của bài học, đánh
giá suy ngẫm về bài học. Vì ý nghĩa của bài học thể hiện một cách sinh động ở
chính câu chuyện kể , cho nên tìm hiểu ý nghĩa của bài học không phải phân tích
bài học khô khan trần trụi mà phân tích câu chuyện kể với nghĩa bóng của nó.
Qua lần phân tích này học sinh mới thực sự đợc thởng thức tính chất thú vị của
truyện ngụ ngôn.
12
* Ví dụ: Truyện Chân, tay, Tai, Mắt, Miệng
a, Tìm hiểu nghĩa đen của truyện
- Các vai trong truyện và hành động của chúng: Các vai trong truyện này là các
bộ phận cơ thể con ngời:Mắt, Chân, Tay, Miệng.
- Tình huống cụ thể là: Họ vốn mỗi ngời một việc, sống với nhau thân thiết,
bỗng nhiên một ngày học phát hiện ra lão Miệng chỉ ăn không ngồi rồi trong
khi họ phải làm việc mệt nhọc quanh năm. Thế là bốn ngời bảo nhau không làm
gì nữa.
Kết quả là: Mắt, Chân, Tay, Tai, Miệng đều bị tê liệt; bốn ngời trên nhận ra chỗ
sai của họ, lại làm việc và tất cả lại phục hồi. Từ đó, mỗi ngời một việc, không
ai tị ai nữa.
- Nghĩa đen của truyện: mỗi bộ phận của cơ thể ngời đều có một chức năng
riêng. Nếu nó không hoạt động có thể làm tê liệt các bộ phận khác.
b, Tìm hiểu nghĩa bóng của truyện
- Câu chuyện kể về việc tị nạnh giữa các bộ phận trong cơ thể con ngời nhằm
ám chỉ một khía cạnh của mối quan hệ giữa ngời với ngời trong xã hội- đó là sự
nơng tựa vào nhau để cùng tồn tại. ở đây, thân thể ngời đợc ví nh một cộng đồng
( gia đình, đoàn thể, xã hội) trong đó Chân, Tay, Tai đợc ví nh những cá nhân
( Hoặc đơn vị nhỏ) có quan hệ nơng tựa vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Bài học

ở đây chính là cá nhân không thể tồn tại nếu tách rời cộng đồng; trong một cộng
đồng, mỗi cá nhân đều có vai trò riêng và sự hoạt động tốt hay xấu đều có ảnh
hởng đến những cá nhân khác cũng nh toàn thể cộng đồng.
- Bài học rút ra từ câu chuyện này có ý nghĩa triết lí. Giáo viên cần diễn đạt bài
học này một cách dễ hiểu. Tốt nhất là diễn giải bằng ví dụ ( chẳng hạn có thể nói
về mối quan hệ giữa cá nhân mỗi học sinh với nhau trong lớp)
c, Suy nghĩ về bài học rút ra trong truyện
Về lí chung,bài học này là đúng đắn. Bài học này cũng gần với t tởng mỗi
ngời vì mọi ngời, mọi ngời vì mỗi ngời. Hiểu thật đơn giản, nó là lời khuyên ta
không nên tị nạnh, chỉ tính đến công lao của mình mà không đánh giá đúng đến
đóng góp của ngời khác, nhất là khi đóng góp đó âm thầm khó thấy
( Tuy nhiên , nếu suy diễn, chẳng hạn, lão Miệng ví nh ông chủ, cô Mắt, cậu
Chân, cậu Tay ví nh ngời làm, thì bài học sẽ bị hiểu sai. Giáo viên nên dự phòng
trờng hợp này để giải thích, nhng không cần đặt ra cho vấn đề phức tạp.
d, Nhận xét về câu chuyện kể
Cách chọn vai, dựng truyện tơng đối khéo. Quan hệ giữa các bộ phận đợc chọn
để dựng thành các vai khá hợp lí: Chân, Tay, Tai, Mắt ngừng làm việc thì Miệng
cũng nghỉ ăn. Miệng nghỉ ăn thì các bộ phận kia cũng liệt. Cách gọi tên (cô
Mắt, cậu chân, cậu tay ) nhất là cách tả các vai khi ngừng làm việc , bị hết
13
hơi khá phù hợp. Nhờ vậy, câu chuyện hấp dẫn đợc ngời nghe và đa ra bài học
nhẹ nhàng vào tai họ.
II.6. Minh hoạ tiết dạy: Tiết 39- Văn bản ếch ngồi đáy giếng
Trên cơ sở đã tìm hiểu về nội dung, ý nghĩa, mục đích của truyện ngụ ngôn,
sau đây tôi xin minh hoạ bằng một tiết dạy cụ thể: ếch ngồi đáy giếng
**************************
Ngày soạn:
Ngày giảng: Tiết 39
ếch ngồi đáy giếng


1. Mục tiêu cần đạt:Bài học giúp HS
1.1. Kiến thức:
- Hiểu thế nào là truyện ngụ ngôn.
- Hiểu đựơc nội dung, ý nghĩa và một số nét nghệ thuật đặc sắc của truyện.
Biết liên hệ truyện với những tình huống thực tế phù hợp.
1.2 .Kĩ năng: Rèn kĩ năng kể chuyện ngụ ngôn, có kĩ năng phân tích tổng hợp.
1.3. Thái độ: Giáo dục HS có ý thức liên hệ so sánh, vận dụng các truyện trên
với những tình huống, hoàn cảnh phù hợp.
2. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
- Gv: Đọc,tham khảo và nghiên cứu tài liệu:Thiết kế bài giảng,hệ thống câu
hỏi, hớng dẫn tự học Ngữ văn 6 +Soạn giáo án+sgk,sgv, ,tranh ảnh.
- Hs: Đọc bài,chuẩn bị bài chu đáo theo hệ thống câu hỏi sgk
3 Ph ơng pháp:
Đọc, phân tích, bình giảng, đàm thoại.
4 Tiến trình bài dạy:
4.1 ổ n định lớp:
Kiểm tra sĩ số:
4.2 Kiểm tra bài cũ:
? Nêu ý nghĩa của hình tợng cá Vàng?
? Em có suy nghĩ gì về nhân vật mụ vợ trong truyện Ông lão đánh cá
và con cá vàng ?Từ đó em rút ra bài học gì?
Gợi ý trả lời: HS phải nêu đợc:
- Cá vàng tợng trng cho lòng biết ơn,đại diện cho cái thiện, cái tốt.
- Tợng trng cho công lí: trừng phạt kẻ tham lam, bội bạc.
- ý nghĩa: Lên án thói tham lam bội bạc của con ngời, ca ngợi lòng nhân
hậu, lòng biết ơn của con ngời.
4.3.Giảng bài mới:
Nhân dân ta đã sáng tạo ra các truyền thuyết để giải thích về các hiện tợng
thiên nhiên và xã hội, sáng tạo ra truyện cổ tích để nói về những ớc mơ của con
ngời. Ngoài ra nhân dân còn sáng tạo ra những câu chuyện nhằm khuyên răn

cách đối nhân xử thế cho mọi ngời. Đó chính là truyện ngụ ngôn- một loại
truyện dân gian tiêu biểu của chúng ta.
Hoạt động của thầy và trò
? Dựa vào kiến thức sgk, hãy nêu khái
quát về tác giả, tác phẩm?
?Truyện ếch ngồi đáy giếng thuộc loại
truyện nào?Em hãy nêu hiểu biết của
mình về truyện ấy?
-Đó là những truyện mợn truyện của loài
vật, đồ vật hoặc chính con ngời để nói
bóng gió kín đáo chuyện con ngời, nhằm
khuyên nhủ, răn dạy ngời ta một bài học
Nội dung
I. Giới thiệu tác giả,tác phẩm .
1. Tác giả: Nhân dân
2. Tác phẩm: Thuộc thể loại truyện
ngụ ngôn.
14
nào đó.
- Truyện bao gồm cả nghĩa đen và nghĩa
bóng. Nghĩa đen là nghĩa bề ngoài. nghĩa
bóng là ý sâu kín gửi gắm trong câu
chuyện.
? Theo em nên đọc văn bản này với một
giọng điệu nh thế nào? ( Đọc theo giọng
kể, nhấn mạnh vào các chi tiết tả hành
động,cử chỉ, lời nói của nhân vật.)
-GV đọc một lần.
- Gọi một HS đọc, nhận xét.
- Yêu cầu HS kể laị truyện-> nhận xét.

?Hãy nêu hiểu biết của em về các từ: chúa
tể, nhâng nháo?
? Văn bản ếch ngồi đáy giếng là một
truyện ngụ ngôn tuy ngắn nhng vẫn có
hai phần kể về hai sự việc liên quan đến
con ếch. Em hãy chỉ ra ranh giới và nội
dung của hai phần đó?
? Với nội dung là kể về cuộc sống của
con ếch khi ở trong và ngoài giếng thì
PTBĐ của văn bản là gì?
? Truyện đợc kể theo ngôi kể thứ mấy?
Thứ tự kể là gì?
-GV đọc câu mở dầu.
? Những câu văn mở đầu cho ta biết điều
gì về hoàn cảnh sống của ếch?
- GV gợi ý cho HS phân tích các từ chỉ
thời gian, không gian, đối tợng: lâu ngày,
cái giếng, chỉ vài bé nhỏ, hoảng sợ.( VD:
Theo em giếng là một nơi nh thế nào? )
? Em có suy nghĩ gì về môi trờng sống
của ếch?
? Sống ở trong môi trờng nh thế, ếch có
cách nhìn nhận nh thế nào?
?Với không gian là một cái giếng, em
thấy cách nhìn nhận của ếch đúng hay
sai?Vì sao?(Đúng.Sở dĩ ếch nghĩ bầu trời
chỉ bé bằng cái vung vì miệng giếng tròn,
đáy giếng sâu, từ dới nhìn lên, không gian
trên miệng giếng thật là bé )
? Thế nhng trong thực tế có phải nh vậy

không? Vì sao?(Bầu trời, mặt đất bao la
Sở dĩ ếch có cách nhìn nhận sai nh vậy vì
ếch cha bao giờ đựơc ra khỏi giếng )
?Trong không gian ấy, ếch cảm thấy
mình nh thế nào? Theo em vì sao ếch lại
có cảm nhận nh vậy?(xung quanh ếch chỉ
3. Đọc,hiểu chú thích.
a. Đọc và kể:
b. Chú thích:sgk
II. Phân tích văn bản.
1.Kết cấu,bố cục:
-Bố cục:+ ếch khi ở trong giếng.
+ ếch khi ra khỏi giếng.
- Phơng thức biểu đạt: Tự sự
-Ngôi kể thứ 3, kể theo thứ tự tự
nhiên.
2. Phân tích.
a. ếch khi ở trong giếng.
* Hoàn cảnh sống:
- Sống lâu ngày trong một cái
giếng.
- Xung quanh chỉ có vài con vật bé
nhỏ.
- Hàng ngày, ếch cất tiếng kêu ồm
ộp khiến các con vật khác hoảng
sợ.
-> Môi trờng sống chật hẹp,đơn
giản, trì trệ.
* Suy nghĩ, cảm nhận
- Tởng bầu trời chỉ bé bằng cái

vung.
- Còn nó thì oai nh một vị chúa tể.
15
có các loài vật bé nhỏ, đặc biệt mỗi khi ếch
cất tiếng kêu là các loài vật kia hoảng sợ->
Chính thái độ của các c dân trong giếng đã
khiến cho ếch ngộ nhận về mình.)
?Từ suy nghĩ trên, em cảm nhận đợc điều
gì trong tính cách của ếch?
? Từ câu chuyện của ếch, tác giả muốn
ám chỉ một bộ phận ngời nào trong xã
hội? ( Không có hiểu biết nhng lúc nào
cũng ra vẻ ta đây, kiêu ngạo, coi thờng ng-
ời khác Đây chính là một trong đặc trng
của truyện ngụ ngôn- mợn chuyện loài vật
để nói chuyện con ngời)
? Trong cuộc sống, em đã gặp những tr-
ờng hợp nh thế này cha? Theo em, họ có
thành công trong cuộc sống đợc hay
không nếu nh họ vẫn giữ tính cách ấy?
HS tự bộc lộ
? Từ cách nhìn nhận của ếch, em có suy
nghĩ gì về mối quan hệ giữa môi trờng
sống với sự hiểu biết của con ngời?( Môi
trờng có ảnh hởng lớn đến sự hiểu biết của
con ngời. Sống trong một môi trờng chật
hẹp dễ khiến cho ngời ta bị hạn chế trong
tầm suy nghĩ. Thế nên nhân dân ta mới có
câu đi mộtkhôn. Sự kém hiểu biết của
con ếch chính là do nó cha đợc đi đâu bao

giờ )
-GV: ếch đã ru ngủ mình trong vơng quốc
đáy giếngkhông phải một ngày, hai ngày
mà là một thời gian dài. Rồi đến một ngày
ếch có cơ hội đợc ra khỏi giếng, ở không
gian mới ếch có thay đổi đợc cách nhìn
nhận của mình không->chuyển phần b.
?Nguyên nhân nào khiến ếch ra khỏi
giếng?
?Vậy việc ếch ra ngoài là do nguyên
nhân chủ quan hay khách quan?
?Lúc này môi trờng sống của ếch có gì
thay đổi?
? Thế nhng ếch có nhận ra điều đó
không? Vì sao?( không nhận ra vì ếch vẫn
có thái độ đó)
? Em đánh giá nh thế nào về thái độ của
ếch? Tại sao ếch lại có thái độ nh vậy?(vì
ếch tởng bầu trời vẫn là cái giếng của
mình, mọi vật xung quanh vẫn là những
thần dân nhỏ bé của mình. Và mình vẫn cứ
là một vị chúa tể=>nh vậy môi trờng đã
thay đổi nhng tầm nhìn của ếch vẫn không
hề thay đổi )
? Kết quả của sự chủ quan kiêu ngạo ấy
là gì?
? Em có suy nghĩ gì về kết cục trên?
? Theo em, vì sao ếch lại có kết cục nh
vậy?(coi thờng thế giới xung quanh, sống
lâu ngày trong giếng nên không có kiến

->Hiểu biết nông cạn nhng lại
huyênh hoang, kiêu ngạo.
b. ếch khi ra khỏi giếng.
- Nguyên nhân:Ma to, nớc tràn
giếng đa ếch ra ngoài.
-Môi trờng sống rộng lớn hơn.
- Thái độ:+nghêng ngang đi lại
+nhâng nháo nhìn lên
+chẳng thèm để ý
->Huyênh hoang, kiêu ngạo, chủ
quan.
-Kết cục:ếch bị con trâu giẫm bẹp.
->Kết cục bi thảm.
16
thức về thế giới bên ngoài )
GV: Cái chết của ếch là một điều không
tránh khỏi. Đó là kết quả của lối sống kiêu
ngạo, chủ quan, không có hiểu biết gì. Đến
tận lúc nằm bẹp dới chân trâu, ếch vẫn
không thể hiểu tai họa ấy từ đâu ra và vì
sao lại giáng xuống đầu mình.
? Em hình dung nếu thoát nạn, ếch sẽ
suy nghĩ nh thế nào? Theo em, liệu ếch
có thay đổi cách sống không? Vì sao?
- HS tự bộc lộ
? Từ câu chuyện của ếch, dân gian muốn
khuyên chúng ta điều gì?
- GV: Nh vậy, mục đích của truyện ngụ
ngôn chính là rút ra cho ngời ta đến một
kinh nghiệm sống. ở câu chuyện này là

một bài học về nhân sinh quan
? Em có suy nghĩ gì về bài học ấy?
- HS tự bộc lộ: Là bài học sâu sắc với tất cả
mọi ngời, nhất là những kẻ có tính chủ
quan, kiêu ngạo
? Em hãy nêu giá trị nội dung, t tởng của
truyện?
?Truyện thành công bởi những yếu tố
nghệ thuật nào?
_ HS đọc ghi nhớ sgk.
? Em hãy tìm câu thành ngữ có liên
quan đến câu chuyện này?
- GV treo bức tranh vẽ minh hoạ cảnh ếch
khi ở trong giếng và ếch khi ra khỏi giếng-
> HS nhìn tranh kể lại câu chuyện-> Nêu
bài học cho bản thân
-> Không nhận thức rõ giới hạn của
mình sẽ thất bại thảm hại.
->Không nên kiêu ngạo, chủ quan,
coi thờng ngời khác.
->Chịu khó học hỏi để mở mang
tầm hiểu biết của mình.
III. Tổng kết.
1. Nội dung: Từ câu chuyện con
ếch, nhân dân muốn khuyên chúng
ta không kiêu ngạo,chủ quan, nên
cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của
mình.
2. Nghệ thuật:
- Trí tởng tợng phong phú.

- Mợn truyện loài vật để nói về
truyện con ngời
3. Ghi nhớ: sgk
IV.Luyện tập:
- Thành ngữ : ếch ngồi đáy
4.4 Củng cố
- Nội dung t tởng,chủ đề của văn bản.
4.5 H ớng dẫn HS học ở nhà và chuẩn bị cho bài sau.
- Nắm đợc nội dung, t tởng, chủ đề của truyện.
- Soạn:Thầy bói xem voi.
III. Chơng III. Phơng pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu
1.Phơng pháp nghiên cứu
- Phơng pháp điều tra:
+ Nguyên tắc: Mang tính khách quan, không báo trớc, không gợi ý, bàn tán
+ Nội dung, cách thức tiến hành: Viết phiếu điều tra với những nội dung sau:
+ Cảm nhận của các em về truyện ngụ ngôn ( thích hay không thích,
vì sao)
+ Trong truyện ngụ ngôn, em thích nhất truyện nào, vì sao?
17
+ Khi học về truyện ngụ ngôn, em thấy có khó khăn gì? ( về phân
tích nghĩa đen, nghĩa bóng, bài học liên hệ, tìm những tình huống tơng tự )
Sau khi thu thập thông tin, tôi so sánh, đối chiếu cùng với quá trình nhận thức
của mình để rút ra kinh nghiệm chung.
- Phơng pháp nghiên cứu tài liệu
+ Nghiên cứu chơng trình SGK
+ Nghiên cứu tài liệu: sách giáo viên, sách thiết kế, bình giảng
+ Su tầm những câu chuyện ngụ ngôn có dạng tơng tự ( nếu có)
- Ngoài những phơng pháp trên, tôi còn sử dụng những phơngpháp nh phân tích
tổng hợp, tổng kết kinh nghiệm.
2. Kết quả nghiên cứu

Trong những năm công tác, đặc bịêt khi đợc nhà trờng phân công giảng dạy
bộ môn Ngữ văn 6- lớp đầu tiên của khối THCS - tôi đã cố gắng hết mình, suy
nghĩ trăn trở để tìm ra cách đi, cách khai thác một tác phẩm sao cho học sinh dễ
cảm nhận . Với những cố gắng đó tôi thấy rằng học sinh của tôi có phần hứng
thú với môn Văn hơn. Những gìơ dạy của tôi học sinh rất sôi nổi, hào hứng. Đặc
biệt các em đã phát huy đợc tính tích cực, chủ động của mình. Có những em có
những phát hiện rất mới mẻ, những những suy nghĩ rất sáng tạo, nhiều khi ngoài
cả dự kiến của giáo viên. Có thể các em cha phải là giỏi hoặc số học sinh giỏi rất
ít song ít nhất tôi nhận thấy các em đã bắt đầu yêu thích bộ môn này. Đặc biệt rất
thích những câu chuyện ngụ ngôn thấm đợm triết lí nhân gian. Chính sự yêu
thích của các em là nguồn động viên, khích lệ để tôi cố gắng hơn, say mê với
nghề hơn. Cũng từ đó mà chất lợng giảng dạy của tôi đợc nâng lên. Cụ thể là:
Lớp Giỏi Khá TB Yếu
Mặc dù đây còn là một kết quả rất khiêm tốn song đó cũng là một cố gắng rất
lớn của một giáo viên vùng sâu, vùng xa nh chúng tôi.
C. Kết luận
Nh vậy, truyện ngụ ngôn không những chứa đựng t tởng triết lí mà còn phản
ánh cả những quan niệm sống và đấu tranh của nhân dân ta. Nếu nh truyện cổ
tích nặng về nặng về phản ánh cuộc sống, truyện cời nặng về vạch trần mặt lạc
hậu, sai trái của cuộc sống, thì truyện ngụ ngôn nặng về khuyên ngời ta nên làm
gì trong cuộc sống ấy. Tất nhiên không thể phân định ranh giới tuyệt đối giữa nội
dung của ba truyện đợc, vì cả ba truyện đều phản ánh thế giới quan, nhân sinh
quan của nhân dấn, đều phản ánh cuộc sống lao động và đấu tranh giai cấp của
nhân dân. Khi nhận định về nội dung truyện ngụ ngôn có lẽ cần nhấn mạnh vào
18
đặc điểm của truyện là thiên về mặt giáo dục hơn là phản ánh hiện thực. Và đó là
chỗ khá nhau giữa truyện ngụ ngôn và truyện cổ tích.
Tóm lại, đối với nhân dân thì truyện ngụ ngôn có tác dụng nhẹ nhàng mà
thấm thía. Truyện càng duyên dáng, đậm đà càng có nhiều thi vị. Vì vậy, khi
dạy truyện ngụ ngôn chúng ta không chỉ chú ý đến câu chữ, đấy chỉ là phần nổi

trên bề mặt của truyện, ngời ta gọi đó là phần xác của nó. Phần quan trọng là
phần hồn- là cái mà ngời ta muốn thể hiện một cách bóng gió. Ta phải cho học
sinh xác định đợc con ngời, sự vật, hình ảnh trong truyện tợng trng cho ai, cho
lớp ngời nào trong xã hội, sáng tác truyện ngụ ngôn này, ngời xa có dựa vào
thực tế không, nghệ thuật tiêu biểu của truyện là gì? Nhng cái quan trọng nhất
vẫn là rút ra đợc bài học từ câu chuyện ấy. Nếu dạy xong một câu chuyện ngụ
ngôn mà cả ngời dạy lẫn ngời học không hiểu đợc ngụ ý câu chuyện thì coi nh
giờ học thất bại.

19

×