Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận môn lý thuyết tài chính tiền tệ Tóm tắt lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.08 KB, 22 trang )

Trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh
Khoa Thương mại – Du lịch - Marketing
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
Đề tài:
Tóm tắt lý thuyết về mối quan hệ giữa tỷ giá hối
đoái và lạm phát
Giáo viên hướng dẫn: Thầy Trương Minh Tuấn
Nhóm thực hiện:
1. Nguyễn Phương Nga
2. Hoàng Châu Hà
3. Trần Thị Huyền Chi
4. Lê Xuân Quỳnh (VB2NT03K12)
5. Nguyễn Trần Định
MỤC LỤC
TIỂU LUẬN MÔN HỌC 1
MỤC LỤC 2
1.1 Khái niệm lạm phát 3
1.2 Phân loại và đo lường lạm phát 3
a) Phân loại lạm phát 3
b) Đo lường lạm phát 5
1.3 Nguyên nhân lạm phát 7
1.4 Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế 9
2.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái 14
2.2 Khái quát về tỷ giá hối đoái 14
2.3 Các loại tỷ giá hối đoái 15
a) Tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái song song 15
b) Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực tế 16
c) Tỷ giá hối đoái song phương và Tỷ giá hối đoái hiệu lực 16
3.1 Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát 17
Chương 1
LẠM PHÁT


1.1 Khái niệm lạm phát
Trong kinh tế học, lạm phát là hiện tượng giảm mãi lực của đồng tiền. Điều
này cũng đồng nghĩa với “vật giá leo thang”, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao khiến
với cùng một số lượng tiền, người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn hoặc phải trả
một giá cao hơn để hưởng cùng một dịch vụ. Một khái niệm khác về lạm phát là khối
lượng tiền được lưu hành trong dân chúng tăng lên do nhà nước in và phát hành thêm
tiền vì những nhu cầu cấp thiết (chiến tranh, nội chiến, thâm thủng ngân sách v.v ).
Trong khi đó, số lượng hàng hoá không tăng khiến dân chúng cầm trong tay nhiều
tiền quá sẽ tranh mua khiến giá cả tăng vọt có khi đưa đến siêu lạm phát. Những ví dụ
cùng cực nhất của siêu lạm phát đã xảy ra tại Đức trong những năm đầu thập niên
1920 khi tỉ lệ lạm phát lên tới 3.25 x 106 mỗi tháng, có nghĩa là giá cả tăng gấp đôi
mỗi 49 tiếng đồng hồ hoặc tại Hungary sau Thế chiến thứ hai với tỉ lệ lạm phát 4.19 x
1016 (giá cả tăng gấp đôi mỗi 15 giờ đồng hồ).
Khi giá trị của hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đồng nghĩa với sức mua của đồng
tiền giảm đi, và với cùng một số tiền nhất định, người ta chỉ có thể mua được số lượng
hàng hoá ít hơn so với năm trước.
1.2 Phân loại và đo lường lạm phát
a) Phân loại lạm phát
 Lạm phát thấp (lạm phát một con số- single-digit inflation)
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 0.3 đến dưới 10 phần trăm một
năm.
 Lạm phát cao (Lạm phát phi mã – lạm phát hai con số - double-digit
inflation)
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm vi hai chữ số một năm
thường được gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Việt Nam và
hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách.
Nhìn chung thì lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra
những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá
nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng

ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử
dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch
có giá trị lớn và tích lũy của cải.
 Siêu lạm phát (hyper inflation) hay lạm phát phi mã (galloping inflation)
Do hậu quả của chính sách Giá - lương - tiền, Việt Nam đã phải hứng chịu siêu
lạm phát trong các năm 1986-1989.
Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh
chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được
chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do nhà kinh tế ngưười
Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31
ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo định nghĩa này thì cho đến nay thế giới mới trải
qua 15 cuộc siêu lạm phát. Một trường hợp được ghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là
nước Đức sau Thế chiến thứ nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mark vào tháng 1
năm 1922 lên đến 70.000.000 mark chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả của các
thứ khác cũng tăng tương tự. Từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá
đã tăng từ 1 lên 10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới
nền kinh tế Đức đến mức nó thường được coi là một trong những nguyên nhân làm
nảy sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và Thế chiến thứ hai.
Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này
chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm
phát có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến hoặc cách mạng,
do sự căng thẳng về ngân sách chính phủ. Vào thập niên 1980, các cú sốc bên ngoài
và cuộc khủng hoảng nợ của Thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc
gây ra siêu lạm phát ở một số nước Mỹ La-tinh.
Theo Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm
phát, đó là: (1) người dân không muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; (2) giá cả
hàng hóa trong nước không còn tính bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định;
(3) các khoản tín dụng sẽ tính cả mức mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn; và
(4) lãi suất, tiền công và giá cả được gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn
trong ba năm lên tới 100 phần trăm

Một ví dụ điển hình của siêu lạm phát là vào năm 1913, tức là ngay trước khi
chiến tranh thế giới nổ ra, một USD có giá trị tương đương với 4 mark Đức, nhưng
chỉ 10 năm sau, một USD đổi được tới 4 tỉ mark. Vào thời đó, báo chí đã đăng tải
những tranh ảnh biếm họa về vấn đề này: người ta vẽ cảnh một người đẩy một xe tiền
đến chợ chỉ để mua một chai sữa, hay một bức tranh khác cho thấy ngày đó đồng
mark Đức được dùng làm giấy dán tường hoặc dùng như một loại nhiên liệu.
b) Đo lường lạm phát
Lạm phát 1 được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một
lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ
liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các
tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được
tổ hợp với nhau để đưa ra một "mức giá cả trung bình", gọi là mức giá trung bình của
một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện
tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm
phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình
hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức
giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước
của nó.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của
chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số,
cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo
phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
 Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI)
Là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập,
trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh
tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn
so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI
có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong
giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất
lớn từ giá cả thế giới nói chung).

 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Đây là chỉ số đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông
thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi
theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay
được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do
những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng
hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều
chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự
tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng
chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
 Chỉ số giá sản xuất (PPI)
Chỉ số này đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ
sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và
thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng
với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình
giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều
người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm
phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của
các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các
dịch vụ.
 Chỉ số giá bán buôn
Đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi
bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.
 Chỉ số giá hàng hóa
Đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn. Trong
trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử
dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
 Chỉ số giảm phát GDP
Dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị
GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác

định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). Nó là phép đo mức giá
cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần
của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển
sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính
toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình.
 Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI).
1.3 Nguyên nhân lạm phát
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó "lạm phát do
cầu kéo" và "lạm phát do chi phí đẩy" được coi là hai thủ phạm chính.
 Lạm phát do cầu kéo
Nhiều người có trong tay một khoản tiền lớn và họ sẵn sàng chi trả cho một
hàng hoá hay dịch vụ với mức giá cao hơn bình thường. Khi nhu cầu về một mặt hàng
tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng
khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hoá trên
thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu được gọi là “lạm phát do cầu kéo”, nghĩa
là cầu về một hàng hoá hay dịch vụ ngày càng kéo giá cả của hàng hoá hay dịch vụ đó
lên mức cao hơn. Các nhà khoa học mô tả tình trạng lạm phát này là “quá nhiều tiền
đuổi theo quá ít hàng hoá”.
 Lạm phát do chi phí đẩy
Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào,
máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố
này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên. Các
xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức
giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.
 Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động.
Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người
lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh
kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh từ đó.
 Lạm phát do cầu thay đổi

Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt
hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính
chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng
cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng
giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
 Lạm phát do xuất khẩu
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được
huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm
khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất
cân bằng.
 Lạm phát do nhập khẩu
Khi giá hàng hoá nhập khẩu tăng thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng
tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
 Lạm phát tiền tệ
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ
cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay chẳng hạn do ngân hàng
trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu
thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Ai là nạn nhân của lạm phát?
Khi lạm phát xảy ra thì hầu hết mọi thành phần của nền kinh tế đều trở thành
nạn nhân của lạm phát, bởi nhìn một cách tổng thể thì mỗi người đều là người tiêu
dùng. Tuy nhiên, 3 thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất là:
- Người về hưu: Lương hưu là một trong những “hàng hoá” ổn định nhất về
giá cả, thường chỉ được điều chỉnh tăng lên đôi chút sau khi giá cả hàng hoá đã tăng
lên gấp nhiều lần.
- Những người gửi tiền tiết kiệm: Hẳn nhiên sự mất giá của đồng tiền khiến
cho những người tích trữ tiền mặt nói chung và những người gửi tiền tiết kiệm đánh
mất của cải nhanh nhất.
- Những người cho vay nợ: Khoản nợ trước đây có thể mua được một món
hàng nhất định thì nay chỉ có thể mua được những món hàng có giá trị thấp hơn. Vậy

ai là người được hưởng lợi? Có lẽ khi đồng tiền mất giá dần thì người sung sướng
nhất chính là những con nợ vì nay khoản nợ họ phải trả có vẻ nhẹ gánh hơn.
1.4 Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế
Đối với các quốc gia đang phát triển, tác hại dễ thấy nhất là lạm phát phủ định
(negate) tăng trưởng kinh tế nếu bằng hay cao hơn tăng trưởng kinh tế. Ví dụ theo
World Factbook, nếu một nền kinh tế tăng trưởng kinh tế ở mức 8.4% nhưng tỉ lệ lạm
phát lên tới 8.3%. Như vậy, trung bình người dân có thu nhập cao hơn 8.4% nhưng
đời sống sinh hoạt mắc hơn 8.3% cùng thời kỳ thì coi như cũng không tích lũy được
gì. Tiêu chuẩn đời sống không được cải thiện bao nhiêu. Nếu không có biện pháp
ngăn chận, lạm phát sẽ làm tê liệt dần bộ máy kinh tế vì doanh nhân sẽ không thiết tha
hoạt động sản xuất nữa vì không có lợi nhuận. Tâm lý chung sẽ chỉ mua bán “chụp
giựt” và chuyển tài sản thành kim loại quý hay ngoại tệ mạnh để tránh lạm phát. Điều
này rõ ràng không có lợi cho sự xoay vòng của đồng tiền để phát triển nền kinh tế.
Đối với các quốc gia công nghiệp (industrialized countries) mà xã hội đã
chuyển qua dạng xã hội tiêu thụ rồi thì lạm phát tác hại theo một qui trình 3 bước:
- Lạm phát (inflation)
- Giảm phát (deflation)
– Suy thoái kinh tế (economic recession).
Lạm phát không kiểm soát nổi sẽ đưa đến tình trạng giá thành các mặt hàng
tăng cao. Giá hàng hóa lên cao sẽ làm giảm nhu cầu tiêu thụ. Hàng hoá trở nên dư
thừa và ế ẩm. Để sống còn, công ty sản xuất phải chịu lỗ, hạ giá bán và thu nhỏ hoạt
động lại. Một số hãng xưởng sẽ phải đóng cửa và công nhân bị sa thải ra làm nhu cầu
chung về tiêu thụ lại càng giảm nữa. Đến đây bắt đầu giai đoạn giảm phát. Hàng hoá
sẽ xuống giá cho đến khi nào tìm được một sự quân bình mới giữa cung cầu. Lúc đó
kinh tế đi vào giai đoạn suy thoái và tiêu chuẩn sống (standards of livings) của người
dân bị giảm sút. Sự tác hại của lạm phát đối với kinh tế sau một thời gian âm ỉ có tính
cách bùng nổ như một cơn bệnh cấp tính. Điển hình nhất là cơn đại khủng hoảng kinh
tế 1929 tại Mỹ. Chỉ trong một một ngày, giá trị thị trường chứng khoán Mỹ bị mất đi
gần một nửa và kinh tế Mỹ bước vào một giai đoạn suy thoái thảm não kéo dài gần
hai thập niên sau đó.

Nhìn chung, lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên cạnh những
tác hại không đáng kể; còn lạm phát cao và siêu lạm phát gây ra những tác hại nghiêm
trọng đối với kinh tế và đời sống. Tác động của lạm phát còn tùy thuộc vào lạm phát
đó có dự đoán trước được hay không, nghĩa là công chúng và các thể chế có tiên tri
được mức độ lạm phát hay sự thay đổi mức độ lạm phát là một điều bất ngờ. Nếu như
lạm phát hoàn toàn có thể dự đoán trước được thì lạm phát không gây nên gánh nặng
kinh tế lớn bởi người ta có thể có những giải pháp để thích nghi với nó. Lạm phát
không dự đoán trước được sẽ dẫn đến những đầu tư sai lầm và phân phối lại thu nhập
một cách ngẫu nhiên làm mất tinh thần và sinh lực của nền kinh tế.
Tác động phân phối lại thu nhập và của cải
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối phát sinh từ những loại khác
nhau trong các loại tài sản và nợ nần của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra, những ngươi
có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả của các loại tài sản nói chung
đều tăng lên, con giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những người làm công
ăn lương, những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt hại.
Để tránh thiệt hại, một số nhà kinh tế đưa ra cách thức giải quyết đơn giản là
lãi suất cần được điều chỉnh cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát. Ví dụ, lãi suất thực là
3%, tỷ lệ tăng giá là 9%, thì lãi suất danh nghĩa là 12%. Tuy nhiên, một sự điều chỉnh
cho lãi suất phù hợp tỷ lệ lạm phát chỉ có thể thực hiện được trong điều lạm phát ở
mức độ thấp.
Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm
Trong điều kiện nền kinh tế chưa dạt đến mức toàn dụng, lạm phát vừa phải
thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông,
cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản suất kinh doanh, kích thích sự tiêu dùng của
chính phủ và nhân dân.
Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến: khi lạm phát tăng
lên thì thất nghiệp giảm xuống và ngược lại khi thất nghiệp giảm xuống thì lạm phát
tăng lên. Nhà linh tế học A.W. Phillips đã đưa ra “Lý thuyết đánh đổi giữa lạm phát
và việc làm”, theo đó một nước có thể mua một mức độ thất nghiệp tháp hơn nếu sẵn
sàng trả giá bằng một tỷ lệ lạm phát cao hơn.

Các tác động khác
Trong điều kiện lạm phát cao và không dự đoán được, cơ cấu nền kinh tế dễ bị
mất cân đối vì khi đó các nhà kinh doanh thường hướng đầu tư vào những khu vực
hàng hóa có giá cả tăng lên cao, nhưng ngành sản suất có chu kỳ ngắn, thời gian thu
hồi vốn nhanh, hạn chế đầu tư vào những ngành sản suất có chu kỳ dài, thời gian thu
hồi vốn chậm vì có nguy cơ gặp phải nhiều rủi ro. Trong lĩnh vực lưu thông, khi vật
giá tăng quá nhanh thì tình trạng đầu cơ, tích trữ hàng hóa thường là hiện tượng phổ
biến, gây nên mất cân đối giả tạo làm cho lưu thông càng thêm rối loạn. Trong điều
kiện các nhân tố khác không đổi, lạm phát xảy ra làm tăng tỷ giá hối đoái. Sự mất giá
của tiền trong nước so với ngoại tệ tạo điều kiện tăng cường tính cạnh tranh của hàng
xuất khẩu, tuy nhiên nó gây bất lợi cho hoạt động nhập khẩu. Lạm phát cao và siêu
lạm phát làm cho hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Nguồn tiền trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng,nhiều ngân hàng bị phá sản vì mất
khả năng thanh toán, lam phát phát triển nhanh, biểu giá thường xuyên thay đổi làm
cho lượng thông tin được bao hàm trong giá cả bị phá hủy, các tính toán kinh tế bị sai
lệch nhiều theo thời gian, từ đó gây khó khăn cho các hoạt động đầu tư. Lạm phát gây
thiệt hại cho ngân sách nhà nước bằng việc bào mòn giá trị thực của những khoản
công phí. Ngoài ra lạm phát cao kéo dài và không dự đoán trước được làm cho nguồn
thu ngân sách nhà nước bị giảm do sản xuất bị suy thoái. Tuy nhiên, lạm phát cũng có
tác động làm gia tăng số thuế nhà nước thu được trong những trường hợp nhất định.
Nếu hệ thống thuế tăng dần (thuế suất lũy tiến) thì tỷ lệ lạm phát cao hơn sẽ đẩy
người ta nhanh hơn sang nhóm phải đóng thuế cao hơn, và như vậy chính phủ có thể
thu được nhiều thuế hơn mà không phải thông qua luật. Trong thời kỳ lạm phát giá cả
hàng hóa – dịch vụ tăng lên một cách vững chắc, bên cạnh đó tiền lương danh nghĩa
cũng theo xu hướng tăng lên, vì vậy thu nhập thực tế của người lao động nói chung có
thể vững hoặc tăng lên, hoặc giảm đi chứ không phải bao giờ cũng suy giảm.
Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế - xã hội và
nhà nước phải áp dụng những biện pháp thích hợp để kiềm chế, kiểm soát lạm phát.
Cách chống đỡ lạm phát theo kiểu Mỹ
• Giao quyền hạn cho Cục Dự trữ Liên Bang (Federal Reserves) còn gọi là

Ngân Hàng Alan Greenspan - Cái tên gắn liên với FED
• Ngân hàng Trung Ương (Central Bank) nhiệm vụ theo dõi tình hình phát triển
kinh tế và lạm phát để kịp thời đề ra những biện pháp thích nghi. Vũ khí chính của
Cục Dự trữ Liên Bang (FED) là lãi suất cho vay. Khi nào muốn kích thích kinh tế thì
giảm lãi xuất xuống. Ngược lại khi thấy có dấu hiệu lạm phát thì tăng lãi xuất, kềm
hãm sản xuất lại, không để lạm phát có cơ hội phát triển. Một biện pháp khác của
FED là tăng hay giảm lưu lượng (liquidity) đồng dollar đang lưu hành trong dân
chúng. Khi cần rút bớt lưu lượng tiền, FED sẽ bán đấu giá trái phiếu kho bạc (bonds)
của chính phủ nhiều hơn. Khuynh hướng tự nhiên là sẽ giảm hoạt động kinh tế vì các
nhà đầu tư giữ công khố phiếu để lấy lời, không sẵn tiền để hoạt động sản xuất nữa.
Ngược lại khi muốn kích thích kinh tế, FED có thể thu mua trái phiếu và tung thêm
tiền vào lưu lượng sẵn có.
• Mở rộng thị trường lao động bằng cách đưa ra nước ngoài (outsource) một số
kỹ nghệ không có tính cách quốc phòng.
• Thỏa hiệp giữa các nghiệp đoàn chủ nhân và thợ thuyền về lương để đôi bên
cùng có lợi, phần nào ổn định mặt chi phí về lương (cộng thêm phúc lợi có thể chiếm
đến ¾ giá thành sản phẩm tại Mỹ).
• Ổn định các khu vực nóng để kiểm soát các nguồn nguyên liệu tối cần thiết
như dầu hỏa, than mỏ.
• Giữ gìn trật tự toàn cầu, không để những đột biến chính trị và khủng bố làm
mất ổn định khu vực.
Chương 2
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
2.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là sự so sánh về mặt giá cả giữa
hai đồng tiền của hai nước khác nhau. Cũng có thể gọi tỷ giá hối đoái là giá của một
đồng tiền này tính bằng giá của một đồng tiền khác
2.2 Khái quát về tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái, tức tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền cao hay thấp đựơc quyết
định bởi các lực lượng thị trường, cung và cầu. Cung ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị

trường muốn bán ra để thu về nội tệ. Cầu ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà thị trường
muốn mua vào bằng các đồng nội tệ. Giá cả ngoại tệ, tỷ giá hối đoái cũng được xác
định theo quy luật cung cầu như đối với các hàng hoá thông thường. Khi cung ngoại
tệ lớn hơn cầu ngoại tệ sẽ làm cho giá ngoại tệ giảm, tức tỷ giá hối đoái tăng. Ngược
lại, khi cầu ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ giá ngoại tệ sẽ tăng, tức tỷ giá giảm. ở vị trí
cung ngoại tệ bằng cầu ngoại tệ xác định trạng thái cân bằng, không có áp lực làm cho
tỷ giá thay đổi. Ta có thể hình dung cơ chế hình thành tỷ giá được hiểu thị rừ khi cú
sự khỏc nhau về cung và cầu ngoại tệ. Khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, lượng
ngoại tệ mà thị trường cần bán ra nhiều hơn lượng ngoại tệ cần mua vào, khi đó có
một số người không bán được sẽ sẵn sàng bán với mức giá thấp hơn và làm cho giá
ngoại tệ trên thị trường giảm. Tư duy tương tự, khi cầu lớn hơn cung, một số người
không mua được ngoại tệ sẵn sàng trả giá cao hơn và gây sức ép làm giá ngoại tệ trên
thị trường tăng. Khi cung ngoại tệ bằng cầu ngoại tệ, lượng ngoại tệ mà thị trường cần
mua đúng bằng lượng ngoại tệ cần bán làm cho giá ngoại tệ không đổi, thị trường cân
bằng. Chúng ta có thể thấy, tỷ giá hối đoái trên thị trường luôn thay đổi. Có rất nhiều
nhân tố tác động gây ra sự biến động của tỷ giá hối đoái với những mức độ và cơ chế
khác nhau.
Thông thường tỷ giá hối đoái được biểu diễn thông qua tỷ lệ bao nhiêu đơn vị
đồng tiền nước này (nhiều hơn một đơn vị) bằng một đơn vị đồng tiền của nước kia.
Ví dụ: tỷ giá hối đoái giữa Đồng Việt Nam và Dollar Mỹ là 16045 VND/USD hay
giữa Yen Nhật và Dollar Mỹ là 116,729 JPY/USD hay giữa Dollar Mỹ và Euro là
1,28262 USD/Euro. Đồng tiền để ở số lượng một đơn vị trong các tỷ lệ như những ví
dụ trên gọi là đồng tiền định danh hay đồng tiền cơ sở. Vì thế, khi cần thể hiện một
cách nghiêm ngặt và chính xác, người ta thường nói: "Tỷ giá hối đoái giữa Đồng Việt
Nam và Dollar Mỹ trên thị trường ngoại hối định danh bằng Dollar Mỹ là 16015
Đồng bằng 1 Dollar" hoặc "Tỷ giá hối đoái giữa Đồng Việt Nam và Dollar Mỹ trên
thị trường ngoại hối định danh bằng Đồng Việt Nam là 0,0000624 Dollar bằng 1
Đồng".
2.3 Các loại tỷ giá hối đoái
a) Tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái song song

Tỷ giá hối đoái có thể được quy định bởi thị trường trong chế độ tỷ giá hối đoái
thả nổi, và được gọi là tỷ giá thị trường. Tỷ giá hối đoái cũng có thể được quy định
bởi các cơ quan hữu trách trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Ở nhiều nước, cả thị
trường lẫn cơ quan hữu trách cùng tham gia quy định tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái
khi đổi tại ngân hàng thương mại và quầy giao dịch ngoại hối phục vụ khách hàng lẻ
thường chênh lệch so với tỷ giá công bố có thể vì một trong hai lý do sau: (1) đã được
tính gộp cả phí dịch vụ; (2) có hai tỷ giá đồng thời, một tỷ giá hối đoái chính thức (có
thể do cơ quan hữu trách qui định, hoặc do cả thị trường lẫn cơ quan hữu trách quy
đinh) và một tỷ giá không chính thức (còn gọi là tỷ giá hối đoái song song hay tỷ giá
chợ đen) do thị trường quyết định.
Ở Việt Nam, ngay cả tỷ giá hối đoái chính thức cũng có vài loại: tỷ giá bình
quân liên ngân hàng, tỷ giá tính thuế xuất nhập khẩu, tỷ giá giao dịch của ngân hàng
thương mại, và tỷ giá hạch toán. Tỷ giá mua vào và bán ra ngoại tệ niêm yết tại một
số ngân hàng để phục vụ khách đổi tiền là tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại
có tính thêm phí dịch vụ. Còn tỷ giá đổi tiền tại các cửa hàng kinh doanh vàng bạc
ngoại tệ của tư nhân hay khi đổi tiền trong nhân dân chính là tỷ giá hối đoái song
song.
b) Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực tế
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá hối đoái không xét đến tương quan giá cả
hay tương quan lạm phát giữa hai nước
Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá hối đoái có xét đến tương quan giá cả giữa hai
nước hoặc tương quan tỷ lệ lạm phát giữa hai nước.
Quan hệ giữa hai loại tỷ giá này được thể hiện qua cách tính sau:
Tỷ giá hối đoái thực tế = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Giá nước ngoài / Giá nội
địa = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Tỷ lệ lạm phát nước ngoài / Tỷ lệ lạm phát trong
nước.
c) Tỷ giá hối đoái song phương và Tỷ giá hối đoái hiệu lực
Tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền được gọi là tỷ giá hối đoái song phương.
Còn tỷ giá hối đoái hiệu lực là tỷ lệ trao đổi giữa một đồng tiền X với nhiều đồng tiền
khác cùng lúc (thông thường là đồng tiền của các bạn hàng thương mại lớn). Tỷ giá

này được tính dựa trên giá trị bình quân gia quyền của các tỷ giá song phương giữa
đồng tiền X với từng đồng tiền kia. Tỷ giá hối đoái hiệu lực cũng có loại danh nghĩa
và loại thực tế.
Lên giá và Xuống giá
Khi đồng tiền X lên giá so với đồng tiền Y (cũng tức là Y mất giá so với X) thì
tỷ giá hối đoái giữa X và Y trên thị trường ngoại hối định danh bằng Y sẽ giảm đi,
nhưng tỷ giá hối đoái giữa X và Y trên thị trường ngoại hối định danh bằng X lại tăng
lên.
Chương 3
MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
3.1 Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát
Một số chuyên gia tiền tệ đồng ý với quan điểm cũ của các học giả phương
Tây về mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát. Các nhà nghiên cứu cho rằng: Khi mức
độ phá giá của tiền tệ lớn hơn sự mất giá của hàng hóa, lạm phát sẽ gia tăng. Khi mức
độ mất giá của tiền tệ thấp hơn sự mất giá của hàng hóa, lạm phát sẽ được hạn chế.
Bởi vậy khi lạm phát trầm trọng, tăng tỷ giá có thể hạn chế được lạm phát.
Tuy nhiên, lý luận về mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát nói trên đến nay
không còn phù hợp với thực tế. Việc tăng tỷ giá không những không giảm được lạm
phát, ngược lại, khi tăng tỷ giá lên một mức nhất định có thể gây ra khủng hoảng tiền
tệ. Việc tăng tỷ giá quá mức cũng có thể làm cho nền kinh tế bị rối loạn, lạm phát sẽ
chuyển thành giảm phát. Bởi vậy, việc sử dụng chính sách tỷ giá để ổn định tiền tệ
hoặc hạn chế lạm phát cần thận trọng.
Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát không phải là quan hệ một chiều mà
là quan hệ vòng, tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi cái này là nguyên nhân và
cái kia là kết quả.
Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong chính sách tiền
tệ, nó là mục tiêu của chính sách tiền tệ mà mọi quốc gia đều hướng tới.
Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ tạo điều kiện cho việc duy trì,
mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế trong nước và quốc tế, giúp cho nền
kinh tế trong nước có điều kiện hội nhập khu vực và thế giới ngày càng mạnh mẽ hơn.

Tỷ giá hối đoái chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó hai nhân tố quan
trọng nhất là sức mua của đồng tiền và tương quan cung cầu ngoại tệ. Khi lạm phát
tăng, sức mua đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ, làm cho tỷ giá hối đoái của đồng
ngoại tệ so với nội tệ tăng (hay tỷ giá đồng nội tệ so với ngoại tệ giảm) và ngược lại.
Nếu đồng nội tệ giảm, tỷ giá hối đoái cao có tác dụng:
- Kích thích các hoạt động xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp phần tăng thu
ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán.
- Với tỷ giá hối đoái cao sẽ khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối, hạn chế các
hoạt động chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, kết quả là làm cho sức mua của đồng nội tệ
tăng lên.
Tỷ giá hối đoái cao cũng khuyến khích các hoạt động du lịch vào trong nước,
làm cho quan hệ cung cầu về ngoại tệ bớt căng thẳng.
Tỷ giá bị mất giá là kết quả của việc lạm phát gia tăng, Tỷ giá tăng là kết quả
của việc kéo lạm phát xuống thấp. Tỷ giá bị mất giá hay lên giá không phải là nguyên
nhân gây nên tình trạng lạm phát cao hay thấp. Do đó sử dụng biện pháp tăng tỷ giá
để chống lạm phát không phải là liều thuốc hay, nếu uống nhầm thuốc, có khi bệnh
còn bị nặng hơn.
Những tác động tích cực trên đây chỉ có thể có được khi tỷ lệ lạm phát được
kiềm chế ở mức hợp lý. Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước đã và đang thực hiện chế
độ tỷ giá linh hoạt (thả nổi có kiểm soát), không cố định tỷ giá VND vào USD mà trên
cơ sở rổ tiền tệ và cũng không thả nổi tỷ giá theo quan hệ cung cầu. Bởi trong điều
kiện môi trường vĩ mô chưa ổn định, nếu tỷ giá hối đoái biến động mạnh theo xu
hướng đồng nội tệ giảm giá, thì tâm lý người dân và tổ chức kinh tế lo sợ sự quay trở
lại của lạm phát cao, họ dễ dàng chuyển tiền sang đầu tư vàng, ngoại tệ và các tài sản
có giá khác. Vì vậy khi cần thiết ngân hàng Nhà nước phải can thiệp bằng cả công cụ
hành chính và công cụ gián tiếp để sức mua đối ngoại của VND không bị biến động
lớn.
Xét về mặt lý thuyết, nếu các yếu tố khác như nhau, khi tỷ lệ lạm phát của một
nước tăng tương đối so với lạm phát của một nước khác, mức cầu đồng tiền nước đó
giảm do xuất khẩu giảm vì giá cao hơn so với nước kia. Ngoài ra, người tiêu dùng và

các doanh nghiệp trong nước có lạm phát cao có xu hướng tăng nhập khẩu. Cả hai yếu
tố này tạo áp lực giảm giá đồng tiền của nước có lạm phát cao. Tỷ lệ lạm phát thường
khác nhau giữa các quốc gia, tạo nên các kiểu mậu dịch quốc tế để điều chỉnh thích
hợp ảnh hưởng của lạm phát đến tỷ giá hối đoái.
Bởi vì tỷ giá hối đoái cân bằng sẽ thay đổi theo thời gian khi cung-cầu các đồng tiền
thay đổi. Sự thay đổi trong tỷ lệ lạm phát tương đối sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động
thương mại, từ đó tác động đến cung-cầu tiền, và vì thế tác động đến tỷ giá hối đoái.
Ví dụ: Trong năm 2008 tỷ lệ lạm phát của Việt Nam rất cao so với các năm
trước đó trong khi tỷ lệ lạm phát của Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan… và một số nước
vẫn ở mức bình thường, do đó trong năm 2008 nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam tăng
cao dẫn tới nhu cầu USD tăng làm cho tỷ giá USD/VND tăng cao.
Sự tác động của lạm phát đến tỷ giá là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tình
hình của cán cân thương mại, cán cân thanh toán, cơ cấu nợ nước ngoài… lý thuyết
về ngang giá sức mua sẽ phân tích rõ những tác động này.
Lý thuyết ngang giá sức mua tập trung vào mối quan hệ giữa lạm phát-tỷ giá
hối đoái. Có nhiều hình thức khác nhau của lý thuyết này. Theo hình thức tuyệt đối
còn được gọi là luật một giá cho rằng giá cả của các sản phẫm giống nhau của các
quốc gia khác nhau sẽ bằng nhau khi được tính bằng một đồng tiền chung.
Lạm phát ảnh hưỏng đến tỷ giá hối đoái. Khi một nước có lạm phát, sức mua
đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không đổi, hàng hoá dịch vụ trong nước đắt hơn
trên thị trường nứơc ngoài trong khi hàng hoá dịch vụ nước ngoài rẻ hơn trên thị
trường trong nứơc. Theo quy luật cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng
hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái
tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt
động xuất khẩu giảm sút, cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái tăng. Như
vậy lạm phát ảnh hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác
động cộng gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị trưòng tiền tệ, lạm
phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ các tài sản nước ngoài
nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường hợp các quốc
gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối

giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ
mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối đoái tăng.
Nhân tố cuối cùng và cũng là nhân tố quan trọng nhất tác động đến tỷ giá hối
đoái đó là tâm lý số đông. Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức
kinh doanh ngoại tệ là các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt
động mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại
bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều
này giải thích tại sao, giá ngoại tệ hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng của dân chúng
trong tương lai. Nếu mọi ngưòi kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai,
mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá
ngoại tệ rất nhậy cảm với thông tin cũng như các chính sách của chính phủ. Nếu có tin
đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt thương
mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giảm nhanh chóng.
Trong thực tế, tỷ giá hối đoái bị chi phối đồng thời bởi tất cả các yếu tố trên
với mức độ mạnh yếu khác nhau của từng nhân tố, tuỳ vào thời gian và hoàn cảnh
nhất định. Việc tách rời và lượng hoá ảnh hưởng của từng nhân tố là việc làm không
thể. Các nhân tố trên không tách rời mà tác động tổng hợp, có thể tăng cường hay át
chế lẫn nhau, đến tỷ giá hối đoái làm cho tỷ giá hối đoái luôn biến động không ngừng.
Chế độ tỷ giá hối đoái của nền kinh tế
Một nhóm các nhà kinh tế thuộc Quỹ tiền tệ quốc tế gồm: Atish R.
Ghosh; Jonathan D. Ostry; Anne-Marie Gulde và Holger C. Wolf thuộc đại học Tổng
hợp New York đã nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ tỷ giá hối đoái đối với lạm phát
và tăng trưởng của các nền kinh tế. Kết quả nghiên cứu đã đi đến kết luận: các nước
áp dụng tỷ giá hối đoái cố định có lạm phát thấp và lạm phát ít có khả năng biến động,
các nhà kinh tế cũng tìm thấy mối quan hệ nhân - quả giữa chế độ tỷ giá hối đoái với
lạm phát. Như một sự đánh đổi, các nền kinh tế áp dụng tỷ giá hối đoái cố định có
năng suất và tăng trưởng thấp. Qua khảo sát các nền kinh tế có chế độ tỷ giá hối đoái
khác nhau trong cùng một thời kỳ cho thấy: những nước áp dụng tỷ giá hối đoái cố
định có lạm phát bình quân 8% một năm; 14% và 16% một năm tương ứng với các
nước áp dụng tỷ giá hối đoái trôi nổi trong một khoảng cho phép và các nước hoàn

toàn thả nổi tỷ giá. Một số ưu điểm của chế độ tỷ giá hối đoái cố định được đưa ra để
giải thích cho tỷ lệ lạm phát thấp khi áp dụng chế độ tỷ giá này:
1. Tỷ giá hối đoái cố định tạo cho nền kinh tế một chế độ trật tự khi áp dụng
các chính sách kinh tế vĩ mô. Dưới chế độ tỷ giá này, các nhà chức trách không thể
tùy tiện áp dụng các chính sách dễ gây nên biến động mức giá chung của nền kinh tế.
2. Tỷ giá hối đoái cố định loại trừ sự đầu cơ tiền tệ gây ra tỷ giá hối đoái sai
lệch so với tỷ giá do thị trường quy định. Tỷ giá hối đoái biến động, trực tiếp gây biến
động về mức giá của nền kinh tế, mối quan hệ này thể hiện qua công thức sau:
PI = aP + ( 1- a ) S. P* (3)
Ở đây:
a là tỷ lệ phần trăm chi tiêu hàng hóa sản xuất trong nước;
(1 - a) là tỷ lệ phần trăm chi tiêu hàng hóa nhập khẩu;
PI là mức giá chung của nền kinh tế;
P là giá bình quân của hàng hóa sản xuất trong nước:
P* là giá của hàng nhập khẩu theo ngoại tệ;
S là tỷ giá hối đoái được định nghĩa bằng số nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ.
Công thức (3) cho thấy tỷ giá hối đoái (S) tăng làm cho mức giá chung (PI)
tăng.
Ngoài những nguyên nhân nêu ở trên gây tăng giá và dẫn tới lạm phát, một loạt
các chính sách kinh tế nếu không thận trọng trong việc áp dụng cũng làm tăng mức
giá chung của nền kinh tế và gây nên lạm phát. Chẳng hạn, chính sách phá giá đồng
tiền để cải thiện tình trạng của tài khoản vãng lai trong bảng cán cân thanh toán quốc
tế - công cụ chính sách trung tâm thường được Quỹ tiền tệ quốc tế khuyên các nước
áp dụng, đặc biệt những nước chậm phát triển đang gặp phải vấn đề về cán cân thanh
toán. Chủ nghĩa cơ cấu Mỹ latinh phản đối quan điểm của Quỹ tiền tệ quốc tế, họ cho
rằng phá giá đồng tiền làm tăng giá hàng nhập khẩu và ảnh hưởng tới lạm phát cũng
giống như cầu vượt quá cung về hàng nhập khẩu. Các nhà kinh tế theo chủ nghĩa cơ
cấu nhấn mạnh phá giá đồng tiền không có khả năng cải thiện cán cân thanh toán vì
những nước chậm phát triển bị hạn chế về khả năng xuất khẩu đồng thời lệ thuộc
nhiều vào hàng nhập khẩu.

Để phát triển kinh tế, hạn chế lạm phát và ổn định xã hội, các nhà chức trách
khi áp dụng bất kỳ chính sách kinh tế vĩ mô nào cần phải hiểu thực trạng và những
đặc trưng của nền kinh tế để nâng cao hiệu quả của chính sách và tránh những ảnh
hưởng đi kèm của nó.





×