HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
______________________
BÁO CÁO
TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ NĂM 2010
Mã số: B.10-18
Tên đề tài:
QUYỀN TIẾP CẬN VĂN HOÁ
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Cơ quan chủ trì: Viện Nghiên cứu Quyền con người
Chủ nhiệm đề tài: TS, Hoàng Văn Nghĩa
Thư ký đề tài: CN Trần Thị Hồng Hạnh
8544
Hà Nội – 11/2010
i
DANH SÁCH CÁC CỘNG TÁC VIÊN THAM GIA
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Chủ nhiệm đề tài: TS, Hoàng Văn Nghĩa
Thư ký đề tài: CN Trần Thị Hồng Hạnh
Cộng tác viên:
1. TS, Nguyễn Thị Báo
2. TS, Đặng Dũng Chí
3. PGS, TS, Phạm Duy Đức
4. Ths, Chu Thị Thuý Hằng
5. TS, Lương Thu Hiền
6. Ths, Trần Thị Hoè
7. Ths, Hoàng Mai Hương
8. GS, TS, Đặng Cảnh Khanh
9. Ths, Đỗ Thị Thơ
m
10. TS, Nguyễn Đức Thuỳ
11. TS, Đỗ Thị Minh Thuý
12. TS, Nguyễn Văn Tình
ii
MỤC LỤC
Trang
MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT v
MỞ ĐẦU 1
Chương I. Lý luận chung về văn hóa và phát triển, quyền con
ngươi và quyền tiếp cận văn hoá
16
1.1. Khái luận chung về văn hóa, phát triển và quyền con người 16
1.2. Quyền văn hóa và quyền tiếp cận văn hóa
1.3. Quyền tiếp cận văn hoá trong xã hội hiện đại
18
27
1.4. Tiếp cậ
n văn hóa với tư cách là một quyền cơ bản của con người
1.5. Văn hóa trong phát triển và phát triển bền vững
1.6. Mối quan hệ giữa quyền tiếp cận văn hóa với phát triển
30
32
Chương II. Quyền tiếp cận văn hoá trong hệ thống pháp luật quốc
tế và bối cảnh hiện nay
47
2.1. Quyền tiếp cận văn hoá trong hệ thống pháp luật quốc t
ế
2.1.1. Sự phát triển của khái niệm quyền tiếp cận văn hóa
2.1.2. Nội dung của khái niệm quyền tiếp cận văn hóa
2.2. Một số quy định quốc tế và khu vực về quyền tiếp cận văn hóa
2.2.1. Một số quy định mang tính toàn cầu
2.2.2. Các quy định mang tính khu vực về quyền văn hoá
2.3. Cơ chế quốc tế và khu vực bảo vệ và thúc đẩy quyền vă
n hoá
2.3.1. Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên hợp quốc
2.3.2. Hội đồng Nhân quyền
2.3.3. Uỷ ban về quyền kinh tế, xã hội và văn hoá của Liên hợp quốc
2.3.3. Một số tổ chức khu vực
2.4. Quyền tiếp cận văn hóa trong bối cảnh hiện nay
2.4.1. Không gian mở, tự do thông tin với việc hiện thực hóa quyền
tiếp cận văn hóa
2.4.2. Internet và không gian mở với quyền ti
ếp cận văn hóa
2.4.3. Ảnh hưởng của Internet đối với sự phát triển khoa học và quyền
tiếp cận văn hóa
47
47
48
50
50
51
51
52
52
53
53
54
54
57
63
Chương III. Quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước về văn hóa và quyền tiếp cận văn hóa
3.1. Một số quan điểm và chính sách cơ bản của Đảng ta về văn hóa và
68
69
iii
quyền tiếp cận văn hóa
3.1.1. Chính sách văn hoá
3.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về văn hóa
3.1.3. Chính sách phát triển văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập quốc tế
3.2. Quyền tiếp cận văn hóa trong hệ thống pháp luật Việt Nam
3.2.1. quyền tiếp cận văn hóa trong Hiến pháp
3.2.2. quyền tiếp cận văn hóa trong các Bộ Luật và Luật cơ bản
3.3. Quyề
n tiếp cận thông tin trong hệ thống pháp luật Việt Nam
73
73
77
87
87
88
89
Chương IV. Thực tiễn, thành tựu và thách thức của việc bảo đảm
quyền tiếp cận văn hóa trong quá trình phát triển ở nước ta
4.1. Thực trạng khung khổ pháp luật về quyền tiếp cận văn hóa ở nước
ta hiện nay
94
94
4.2. Thực tiễn phát triển chính sách văn hóa nhằm bảo đảm quyền tiếp
cận văn hóa ở nước ta
4.2.1. Chính sách đầu tư cho các phương tiện văn hoá ở Việt Nam
4.2.2. Chính sách tăng nguồn lực cho hoạt động văn hoá
4.2.3. Chính sách xã hội hoá văn hoá và hợp tác quốc tế
4.3. Thực tiễn bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa nhằm bảo đảm
QTCVH ở nước ta trong quá trình phát triển
4.3.1. Thực tiễn bảo tồn các di sản văn hóa Việt Nam
4.3.2 Thực tiễn thực hi
ện chính sách trong lĩnh vực điện ảnh
4.3.3 Thực tiễn thực hiện chính sách trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
4.3.4. Thực tiễn trong lĩnh vực giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
của đồng bào dân tộc ít người
4.4. Thực tiễn bảo đảm quyền tiếp cận thông tin nhằm thúc đẩy
QTCVH ở nước ta
4.4.1. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin và Internet và việc thúc đẩy
QTCVH ở nước ta
4.4.2. Ảnh hưởng của mạng Internet đối với đời sống văn hóa nghệ
thuật ở nước ta hiện nay
4.4.3. Tự do thông tin và sự phát triển đời sống văn hóa ở Việt Nam
4.5. Thành tựu và thách thức của việc bảo đảm quyền tiếp cận văn hoá
trong quá trình phát triển ở nước ta hiện nay
4.5.1. Thành tựu bảo đảm QTCVH trong thời kỳ đổi mới ở nước ta
100
100
102
103
105
106
108
109
111
113
113
116
118
122
122
iv
4.5.2. Một số khó khăn, thách thức trong việc thực hiện quyền tiếp cận
văn hóa
131
Chương V. Một số giải pháp nhằm tăng cường việc bảo đảm và
hiện thực hóa quyền tiếp cận văn hóa trong quá trình phát triển ở
nước ta hiện nay
138
KẾT LUẬN
148
TÀI LIỆU THAM KHẢO
151
v
MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT
ACHR: Ủy ban Liên chính phủ (ASEAN) về quyền con người
ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam châu Á
BĐVHX: Bưu điện văn hóa xã
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa và hiện đại hóa
ĐHĐ LHQ: Đại hội đồng Liên hợp quốc
EU: Liên minh châu Âu
AU: Liên minh châu Phi
HĐND: Hội đồng Nhân dân
ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự-chính trị
(ĐHĐ LHQ thông qua năm 1966)
ICESCR: Công ước quố
c tế về các quyền kinh tế-xã hội và văn hóa
(ĐHĐ LHQ thông qua năm 1966)
ICT: Công nghệ thông tin và truyền thông
KGM: Không gian mở
KT-XH, VH: Kinh tế, xã hội và văn hóa
KTTT: Kinh tế thị trường
KHCN : Khoa học Công nghệ
LHQ: Liên hợp quốc
PT: phát triển
PTBT: Phát triển bền vững
QCN: Quyền con người
QCD: Quyền công dân
QTCVH: Quyền tiếp cận văn hóa
QVH: Quyền văn hóa
QSHTT: Quyền sở hữu trí tuệ
TCVH: Tiếp cận văn hóa
UBND :
Ủy ban Nhân dân
UDHR: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
(ĐHĐ LHQ thông qua 1948)
UNESCO: Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của LHQ
VH: Văn hóa
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người sáng tạo ra văn hoá, là chủ thể văn hoá, đồng thời cũng là sản
phẩm của văn hoá. Văn hoá vừa là khách thể, vừa là chủ thể của con người, vừa là
phương tiện và vừa là mục đích của sự phát triển xã hội. Điều này đặc biệt có ý
nghĩa trong sự phát triển bền vững lấ
y vốn con người là trung tâm. Thông qua văn
hoá có thể đánh giá được nhân cách của mỗi cá nhân, của mỗi cộng đồng và của cả
một dân tộc. Đồng thời thông qua mỗi cá nhân, cộng đồng và dân tộc có thể hiểu
được trình độ sáng tạo và hưởng thụ giá trị văn hoá của chính họ. Vì vậy, đảm bảo
cho mỗi cá nhân quyền tiếp cận văn hoá, tức là cung cấp cho họ khả năng sáng tạo
và hưởng th
ụ đời sống văn hoá, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển.
Văn hoá là một trong 4 thành tố cơ bản của sự phát triển bền vững
1
. Phát triển
suy đến cùng chính là nhằm giải phóng mọi năng lực vốn có của các cá nhân, nhờ
đó giải phóng triệt để sức sản xuất của xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội, đảm bảo và
hiện thực hoá các quyền và tự do cơ bản của tất cả mọi người. Theo ý nghĩa đó,
phát triển đích thực là phát triển là định hướng vào sự phát triển tự do, hoàn thiện
nhân cách v
ăn hoá của mỗi cá nhân con người. Quyền và tự do cơ bản của con
người do đó vừa là động lực trực tiếp và vừa là mục tiêu của quá trình phát triển.
Trong các quyền con người, quyền tiếp cận văn hoá là một trong những quyền cơ
bản và đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển và hoàn thiện nhân
cách cá nhân của mỗi người, cũng như trong việc xác lập và sáng tạo giá trị văn
hoá c
ủa cộng đồng người và của dân tộc, quốc gia dân tộc.
Quá trình phát triển của xã hội, đặc biệt là ở những thời kỳ quá độ, luôn vừa
tạo ra những thời cơ và những thách thức đối với cá nhân trong việc thụ hưởng các
thành quả phát triển. Những nhóm người dễ bị tổn thương, người nghèo thường là
những đối tượng khó tiếp cận được các giá trị văn hoá trong quá trình phát triể
n.
Quy luật vận động của nền kinh tế thị trường luôn có xu hướng lấy lợi nhuận và sự
phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu, do đó nó gạt bên lề những giá trị cơ bản
vốn là nền tảng phát triển bền vững của xã hội như văn hoá, quyền của những
nhóm dễ bị tổn thương, của người nghèo,…
Quyền con người là bản chất củ
a chế độ xã hội chủ nghĩa. Tôn trọng và bảo
đảm quyền con người luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đại hội
IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh đến chính sách của Nhà nước ta đó
là ‘Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn
1
Phát triển bền vững bao gồm 4 thành tố đó là kinh tế, xã hội, môi trường và văn hoá.
2
trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết
hoặc tham gia’
2
. Thành tựu đổi mới đất nước trong hơn hai mươi năm qua đã đánh
dấu những bước tiến tiến vượt bậc về sự thụ hưởng các giá trị và thành quả của quá
trình phát triển mà người dân được hưởng, trong đó đặc biệt đáng chú ý là sự cải
thiện và ngày câng nâng cao mức độ thụ hưởng các quyền về kinh tế, xã hội và văn
hoá. Bao gồm, quyền thoát khỏi đói nghèo, quy
ền có nhà ở, quyền có việc làm,
quyền được giáo dục, quyền được thụ hưởng các giá trị văn hoá,…Tuy nhiên, quá
trình phát triển của xã hội dựa trên nền kinh tế thị trường cũng tạo ra những thách
thức ghê ghớm đối với sự hưởng thụ các quyền con người cơ bản nói chung, cũng
như các quyền về văn hoá nói riêng, của những nhóm người yếu thế, dễ bị tổn
th
ương, như người nghèo, người dân tộc thiểu số, phụ nữ, trẻ em, người khuyết
tật,…
Quyền tham gia vào đời sống văn hoá đòi hỏi cần phải quyền tiếp cận đối với
đời sống văn hoá. Hơn thế nữa, nó chỉ ra nghĩa vụ hàng đầu của Nhà nước trong
việc thực thi tất cả những biện pháp cần thiết, bao gồm lập pháp, hành pháp, tư
pháp, cũng như các biện pháp khác, để đảm bảo quyền này cho mọi công dân. Vì
vậy, quyền tiếp cận văn hoá là điều kiện tiên quyết để đảm bảo quyền hưởng thụ và
sáng tạo các giá trị văn hoá. Quyền này càng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
phát triển xã hội nói chung cũng như phát triển văn hoá và phát triển của mỗi cá
nhân nói riêng.
Bảo đảm quyền tiếp cận văn hoá liên hệ mật thiết vớ
i việc bảo đảm các quyền
và tự do cơ bản khác, đặc biệt là quyền tiếp cận thông tin, quyền được giáo dục và
quyền tự do biểu đạt. Trọng tâm của quyền con người nói chung và của quyền tiếp
cận văn hoá nói riêng đó là nguyên tắc bình đẳng. Bình đẳng không chỉ đơn thuần
là sự đối xử một cách như nhau, mà điều quan trọng hơn là tôn trọng và thừa nhận
sự
khác biệt và đa dạng. Điều này đặc biệt vô cùng ý nghĩa đối với quyền tiếp cận
văn hoá. Tôn trọng và thừa nhận sự đa dạng của các nền văn hoá và các giá trị văn
hoá của các cộng đồng người hay nhân cách đặc thù của mỗi cá nhân chính là đặc
trưng cơ bản của nguyên tắc bình đẳng và bảo đảm quyền con người. Nó chỉ ra
rằng các quốc gia thành viên của các công ước qu
ốc tế về quyền con người cần
phải có nghĩa vụ thực thi tất cả những biện pháp cần thiết, bao gồm xây dựng, ban
hành và thực thi chính sách, luật có liên quan nhằm đảm bảo quyền tiếp cận văn
hoá của tất cả các cộng đồng người với những nhu cầu tiếp cận các giá trị văn hoá
đặc thù văn hoá đặc thù cũng như giá trị văn hoá chung của một dân t
ộc, quốc gia
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG H., 2001
3
dân tộc và cộng đồng nhân loại. Đồng thời, nó cũng chỉ ra sự cần thiết và thẩm
quyền của quốc gia thành viên trong việc ban hành những chính sách đặc thù cho
những nhóm người khác nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu về văn hoá đặc thù
của họ. Thực tiễn cho thấy điều này không dễ dàng trong quá trình phát triển xã hội
dựa trên sự thống nhất chung của đa dạng các giá trị và nền văn hoá khác bi
ệt.
Quyền tiếp cận văn hoá là một quyền cơ bản của con người được được ghi
nhận và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc tế và quốc gia. Chẳng hạn, trong
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (điều 27) và trong Công ước quốc tế về
các quyền kinh tế-xã hội và văn hoá (điều 15 (1)). Đặc biệt là, Tuyên ngôn Thế
giới về Đa d
ạng Văn hoá (2001)
3
và Công ước về Bảo vệ và Thúc đẩy sự Đa dạng
các Hình thức Văn hoá
4
của Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của LHQ
(UNESCO), Công ước của UNESCO về Bảo vệ Di sản Văn hoá và Thiên nhiên
Thế giới
5
và Công ước Bảo vệ Bảo vệ Di sản Văn hoá Phi vật thể
6
, và Công ước
Châu Âu về Giá trị của Di sản Văn hoá đối với Xã hội
7
, đều đề cập đến các
quyền về tiếp cận văn hoá, đều nhấn manh đến tầm quan trọng của việc phải tăng
cường công tác giáo dục và phổ biên các giá trị và di sản văn hoá và bảo đảm
quyền được tiếp cận các giá trị này của tất cả mọi người, đặc biệt của những cộng
đồng người chịu sự thiệt thòi của quá trình phát triển kinh tế
thị trường, toàn cầu
hoá văn hoá đã và đang diễn ra với quy mô và phạm vi hết sức sâu rộng. Bên cạnh
đó còn có các văn kiện quốc tế ghi nhận quyền về văn hoá của các cộng đồng
người nhất định mà khả năng tiếp cận văn hoá của họ dường như bị bỏ quên của
quá trình phát triển của lịch sử quốc gia-dân tộc và lịch sử xã hộ
i loài người,
chẳng hạn Tuyên ngôn của LHQ về Bảo vệ Những nhóm Thiểu số về Ngôn ngữ,
Tôn giáo, Sắc tộc và Dân tộc
8
cũng như Tuyên ngôn của LHQ về quyền của các
dân tộc bản địa,
3
UNESCO, Universal Declaration on Cultural Diversity, adopted on 20 November 2001. See www.unesco.org,
legal instruments.
4
UNESCO, Convention on the Protection and Promotion of the Diversity of Cultural Expressions, adopted on 20
October, 2005 and entry into force on 18 March 2007. See www.unesco.org, legal instruments.
5
UNESCO, Convention on the Protection of the World Cultural and Natural Heritage, adopted on 16 November
1972 and entry into force on 17 December 1975. See www.unesco.org, legal instruments.
6
UNESCO, Convention for the Safeguarding of the Intangible Cultural Heritage, adopted on 27 October 2003, entry
into force 20 April 2006. See www.unesco.org, legal instruments.
7
Council of Europe treaty series, no. 199, Framework Convention on the Value of Cultural Heritage for Society,
Faro, 27 October 2005, not yet in force (7 ratifications, 10 needed). See
/>
8
United Nations, Declaration on the Rights of Persons Belonging to National or Ethnic, Religious and Linguistic
Minorities, 92
nd
plenary meeting, 18 December 1992, A/RES/47/135. See
4
Năm 2008, Uỷ ban Châu Âu đã đề xuất và phát động sáng kiến về quyền tiếp
cận văn hoá (access to culture)
9
theo đó nhấn mạnh đến sự tham gia của người dân
vào quá trình sáng tạo và hưởng thụ kết quả của quá trình sáng tạo cũng như vào
quá trình giáo dục và học tập với tính cách vừa là phương tiện của quá trình hưởng
thụ và sáng tạo văn hoá.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác chỉ ra rằng, văn hoá là sản phẩm trực tiếp của
đời sống vật chất, là một quá trình sản xuất liên t
ục ra đời sống vật chất của con
người và xã hội loài người. Thông qua quá trình ấy, con người sản sinh ra chính
bản thân mình với tư cách là ‘cái xã hội’ (‘giới tự nhiên thứ hai’) hay nhân cách
văn hoá. Văn hoá và phát triển có mối quan hệ biên chứng với nhau. Văn hoá là
nền tảng của sự phát triển, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá
mạnh mẽ trong xã hội thông tin và xã hội tri thức ngày nay, văn hoá vừa là ph
ương
tiện vừa là thước đo của sự phát triển và phát triển bền vững. Đồng thời phát triển
sẽ mở rộng các cơ hội thụ hưởng và sáng tạo giá trị văn hoá mà nhờ đó chất và
lượng của quá trình sản xuất ra đời sống xã hội và đời sống văn hoá được nâng lên.
Việt Nam là một quốc gia tham gia tích cực và thực thi tương đối đầy đủ các
Công ước qu
ốc tế về quyền con người, bao gồm Công ước quốc tế về quyền kinh
tế-xã hội và văn hoá
10
. Các quy định quốc tế về quyền con người đã được nội luật
hoá vào trong hệ thống pháp luật Việt Nam, được thông qua các chính sách,
chương trình quốc gia và bảo đảm trong thực tiễn. Điều 50 của Hiến pháp năm
1992 quy định, ‘ở nước CHXHCN Việt Nam, tất cả các quyền con người về dân sự,
chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá đều được tôn trọng và bảo đảm’. Bộ Luật dân
s
ự (1995), Luật Di sản Văn hoá (2001), Luật Điện ảnh (2006), Luật Xuất bản
(2004), Luật Khoa học và Công nghệ (2000),…đã cụ thể hoá những nguyên tắc
hiến định về quyền tiếp cận văn hoá. Nhà nước cũng đã thông qua rất nhiều các
chính sách và chương trình quốc gia nhằm thúc đẩy hoạt động sáng tạo và thụ
hưởng các giá trị văn hoá. Mặc dù thực tế triển khai và thực thi chính sách và luật
có liên quan c
ũng như việc hiện thực hoá các quyền về văn hoá trong những năm
qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, tuy nhiên vẫn còn có những bật cập nhất
định đòi hỏi cần có sự điều chỉnh, hoàn thiện.
9
European Commission, The Platforms of Access to Culture, www.efa-aef.eu/en/activities/european-house-for-
culture/ (accessed 10.09.09)
10
Cho đến nay Việt Nam đã gia nhập hơn 10 CƯQT, bao gồm Công ước quốc tế về quyền dân sự-chính trị, CƯ về
quyền kinh tế xã hội và văn hoá, CƯ Quyền trẻ em, CƯ Xoá bỏ Mọi hình thức phân biệt đối xử với Phụ nữ, CƯ
Quyền của Người Khuyết Tật, CƯ Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, CƯ Xoá bỏ và Trừng tr
ị tội Apác-
thai, CƯ Không hạn chế các Luật định đối với tội phạm chíên tranh và chống nhân loại,
5
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, nền văn hoá Việt Nam là sự kết tinh và
tổng hoà của sự đa dạng văn hoá gữa các dân tộc anh em trải qua hàng ngàn năm
hấp thụ và tiếp biến các giá trị văn hoá nội sinh và ngoại sinh. Việt Nam cũng là
một quốc gia giàu bản sắc văn hoá và sở hữu những di sản văn hoá độc đáo của
nhân loại, bao gồm những di sản văn hoá v
ật thể và phi vật thể, cùng với đó là
hàng loạt các di sản văn hoá quốc gia. Quá trình đổi mới và phát triển trong suốt
hơn hai thập kỷ qua đã góp phần to lớn vào việc hiện thực hoá các quyền con
người nói chung và quyền tiếp cận văn hoá nói riêng. Tuy nhiên, việc tiếp cận của
người dân, đặc biệt là của những cộng đồng người nhất định như người dân tộc
thiểu số, ng
ười nghèo và người có thu nhập thấp, người khuyết tật, vẫn còn nhiều
hạn chế. Thực tế vần còn có những hạn chế là rào cản mang tính khung khổ chính
sách, pháp luật, nhưng cũng có những rào cản mang tính thực thi (như trình độ
nhận thức và năng lực của cán bộ làm công tác hoạch định và thực thi chính sách,
điều kiện kinh tế, nguồn nhân lực, ). Cùng với những mặt trái của nền kinh tế thị
trường ở nước ta, những rào cản này đã làm gia tăng việc hạn chế khả năng tiếp
cận các giá trị văn hoá của những nhóm và cộng đồng nhất định vốn luôn được
xem là đối tượng dễ bị tổn thương của quá trình phát triển. Đó là người nghèo, phụ
nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số,…
Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh việ
c đặt con người là trung tâm của sự
phát triển. Bảo đảm quyền con người nhằm giải phóng mọi năng lực vốn có của cá
nhân là mục đích tự thân và sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển và hội nhập
quốc tế. Thành tựu hơn 20 năm đổi mới đã chỉ rõ cho thấy những bước tiến vượt
bậc về mức độ thụ hưởng các quyền cơ b
ản của công dân, bao gồm các quyền về
văn hoá. Hiển nhiên, sự mở rộng mức độ thụ hưởng các quyền con người ở Việt
Nam có mối quan hệ chặt chẽ với quá trình phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội và
trình độ dân trí của người dân. Mặc dù vậy, thực tiễn cho thấy mức độ thụ hưởng
và sáng tạo giá trị văn hoá, đời sống văn hoá của các bộ phậ
n tầng lớp nhân dân
còn hạn chế đặt ra cho công tác hoạch định chính sách, quản lý và thực thi, và công
tác giáo dục, phổ biến, tuyên truyền cần có sự điều chỉnh và không ngừng cải
thiện.
Nền kinh tế thị trường luôn có xu hướng đặt lợi nhuận và lợi ích kinh tế lên
hàng đầu và quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã và đang đặt ra những thách thức đối
với việc đảm bảo quyền tiếp cận v
ăn hoá của những những cộng đồng người nhất
định và các quốc gia đang phát triển. Vấn đề bản quyền tác giả, quyền sở hữu trí
tuệ và việc thực thi những chính sách bảo hộ ngặt nghèo một mặt là cơ sở để bảo
vệ lợi ích kinh tế và thúc đẩy quá trình sáng tạo và sản xuất, nhưng mặt khác nó có
6
những tác động tiêu cực đến mức độ thụ hưởng giá trị văn hoá và thành tựu khoa
học kỹ thuật của những quốc gia đang phát triển cũng như những nhóm người có
thu nhập thấp, người nghèo và những nhóm dễ bị tổn thương khác. Là một quốc
gia thành viên của Tổ chức Thương Mại thế giới (WTO), Việt Nam cũng phải tuân
thủ những nguyên tắc và quy định của t
ổ chức này và của pháp luật quốc tế nói
chung, trong đó chịu sự ràng buộc pháp lý chặt chẽ của TRIPS (Hiệp định về Các
Quyền sở hữu Trí tuệ Liên quan đến Thương Mại). Việc bảo hộ quyền tác giả,
quyền sở hữu trí tuệ đã vô hình chung có tác động tiêu cực tới quyền được tiếp cận
các giá trị văn hoá, thành tựu của khoa học và công nghệ của người dân. Hiể
n
nhiên điều này đã là một rào cản ghê ghớm đối với việc tiếp cận và hưởng thụ các
giá trị văn hoá và thành tựu khoa học, công nghệ của những nhóm người nhất định.
Quyền tiếp cận văn hoá chỉ ra nghĩa vụ của Nhà nước phải đảm bảo quyền này cho
mọi cá nhân và các cộng đồng người, đồng thời chỉ ra khả năng có thể tiếp cận
được các giá trị và đời sống văn hoá với điều kiện có thể chi trả được hoặc hoàn
toàn miễn phí. Tuy nhiên, các sản phẩm văn hoá nói riêng và mọi hoạt động của
đời sống văn hoá nói chung không dễ dàng đến được với tất cả mọi người vì những
rào cản về thể chế (như khung khổ pháp luật, chính sách) cũng như khả năng thực
thi trên thực tế (như đi
ều kiện vật chất cần thiết, trình độ năng lực của đội ngũ cán
bộ quản lý và thực thi, ).
Quyền tiếp cận văn hoá đặc biệt đối với những cộng đồng dân tộc thiểu số nơi
mà quá trình toàn cầu hoá văn hoá và nền kinh tế thị trường đang có nguy cơ làm
mai một bản sắc văn hoá dân tộc, cũng như những trở ngại mà quá trình phát triể
n
đã tạo ra cho những nhóm người thiểu số trong việc tiếp cận các giá trị về văn hoá,
thành tựu khoa học kỹ thuật. Quá trình toàn cầu hoá văn hoá đã và đang thách thức
đến sự sống còn của bản sắc văn hoá và giá trị truyền thống, cùng với đó là sự bảo
hộ quyền tác giả, sở hữu trí tuệ do rào cản khung khổ pháp luật quốc tế và quốc gia
đưa lại
đã làm gia tăng đặc biệt là của những cộng đồng người hạn chế về nguồn
lực và khả năng tiếp cận đời sống văn hoá.
Cho đến nay ở Việt Nam, vấn đề quyền tiếp cận văn hoá là gì và vai trò, ý
nghĩa của nó đối với phát triển và phát triển bền vững như thế nào chưa thực sự
được nghiên cứu sâu rộng từ nhiều giác độ khoa h
ọc khác nhau cũng như chưa
được tiếp cận từ góc độ liên ngành và đa ngành. Vì vậy, đây là những vấn đề lý
luận cần được làm sáng tỏ.
3.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
3.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước:
7
Vấn đề quyền con người nói chung, cũng như quyền tiếp cận văn hoá nói
riêng, đã từ rất lâu được nghiên cứu trên phạm vi quốc tế, đặc biệt là từ khi ra đời
của Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người và hàng loạt các Công ước quốc tế
về quyền con người trong những năm 60 và 70 của thế kỷ XX. Quyền tiếp cận văn
hoá trở thành đối tượng nghiên cứu c
ủa các khoa học chuyên ngành như triết học,
luật học, xã hội học, văn hoá và khoa học phát triển,…
Ngay từ những năm 60 và 70 các nhóm nghiên cứu về người bản địa, các dân
tộc thiểu số cũng như các nhóm xã hội khác đã xây dựng những luận cứ khoa học
về tình trạng đáng báo động của những nền văn hoá và giá trị văn hoá truyền thống
của nhiều dân tộc và cộ
ng đồng người trên thế giới. Đồng thời chỉ rõ cho thấy khả
năng tiếp cận quyền về văn hoá của những cộng đồng người này bị hạn chế do
những mặt trái của quá trình phát triển kinh tế thị trường và toàn cầu hoá. Các
nhóm nghiên cứu của LHQ về từng chủ đề cụ thể liên quan đến quyền của người
bản địa và văn hoá đã giúp LHQ xây dựng hàng lo
ạt các văn kiện quốc tế đã ra đời
nhằm tạo khung khổ pháp lý cho việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tiếp cận văn hoá
của mọi cồng đồng. Chẳng hạn, Công ước của UNESCO về Di sản Văn hoá và
Thiên nhiên (thông qua năm 1972); Tuyên ngôn của LHQ về Bảo vệ Những nhóm
Thiểu số về Ngôn ngữ, Tôn giáo, Sắc tộc và Dân tộc và Tuyên ngôn của LHQ về
quyền của các dân tộc bản
địa,
Tư tưởng về phát triển bền vững sớm xuất hiện trong xã hội loài người ;
nhưng phải đến thế kỷ XX, tư tưởng này mới phát triển, chuyển hoá thành phong
trào xã hội – văn hoá, trước tiên ở châu Âu và Bắc Mỹ. Trên thế giới thuật ngữ
"phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm "Chiến
lược bảo tồn thế giới" do "Hi
ệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên
quốc tế" – IUCN, công bố. Tiếp đó, từ cuối thập niên 1980, nó được phổ biến rộng
rãi thông qua các báo cáo về môi trường của "Ủy ban môi trường và phát triển thế
giới" – WCED
11
. Từ năm 1992, sau Hội nghị thượng đỉnh về môi trường và phát
triển của Liên hợp quốc (LHQ) tai Rio de Janeiro (Braxin), và đặc biệt từ Hội nghị
thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững hay Hội nghị thượng đỉnh
Johannesburg, tại Johannesburg (Nam Phi) vào năm 2002, nội dung khái niệm
"phát triển bền vững” được làm rõ hơn, là : bảo đảm và thực hiện sự hài hoà giữa
phát triển kinh tế hiệu quả
, xã hội công bằng và sự đa dạng của môi trường sinh
thái được gìn giữ và bảo vệ.
11
Ủy ban này còn được gọi là "Uỷ ban Brundtland" – gọi theo tên bà G. Harlem
Brundland, nguyên Thủ tướng Na Uy và là chủ tịch đầu tiên Ủy ban này.
8
Tác giả R. Stivers của Hoa Kỳ vào năm 1976 đã xuất bản công trình nghiên
cứu ‘Xã hội bền vững: Đạo đức và tăng trưởng kinh tế (The Sustainable Society:
Ethics and Economic Growth, Nxb Philadelphia: Westminster Press), theo đó nhấn
mạnh đến sự sói mòn của các giá trị văn hoá và đạo đức trong quá trình kinh tế thị
trường (với tính cách là ngòi nổ của sự phát triển), đồng thời kêu gọi việc định
hướng phát triển dựa trên những giá trị cốt lõi của con ngườ
i đó là văn hoá và đạo
đức.
Cùng thời gian này xuất hiện tư tưởng "phát triển bền vững xã hội" trong các
công trình của Barry Commner "Vòng tròn khép kín" (1971); của Herman Daily
"Kinh tế học nhà nước mạnh" (1973) ; của Amry Lovins "Những con đường sử
dụng năng lượng mềm: về một nền hoà bình lâu dài " (1977) ; và của Laster Brown
"Xây dựng một xã hội bền vững" (1981),v.v Có thể coi nhà chính trị học Mỹ
W.Ophuls là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "steady state society"- xã h
ội bền
vững, trong công trình "Sinh thái học và chính sách thiếu hụt". Tiếp đó thuật ngữ
"sustainable development"- phát triển bền vững, được hình thành bằng cách hợp
nhất các thuật ngữ "phát triển" và "bền vững". Đến thập niên 1980, thuật ngữ
"Phát triển bền vững" được sử dụng chính thức trong các báo cáo và chương trình
của các tổ chức LHQ, như UNESCO, FAO, Thuật ngữ này được Uỷ ban
Brundtland định nghĩa là : "Sự phát triển thoả mãn nh
ững nhu cầu của hiện tại và
không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Đó là
quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo tôn trọng những
quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự nhiên
đối với cuộc sống con người, động vật và thực vật". Khái niệm này có nội hàm
rộ
ng, không chỉ dừng lại ở nhân tố sinh thái, mà còn gồm cả nhân tố xã hội, con
người. Nó bao hàm cả sự bình đẳng giữa các nước giàu và nghèo, giữa các thế hệ,
thậm chí cả sự cần thiết giải trừ quân bị như là điều kiện tiên quyết nhằm giải
phóng nguồn tài chính để thực hiện phát triển bền vững.
Trong thập niên 1990, nhiều nhà khoa học phương Tây tiếp tục làm rõ nguồn
lự
c và cách tiếp cận đối với phát triển bền vững. Nhà xã hội học người Mỹ James
Coleman (1926 – 1995) phân biệt ba loại vốn cho phát triển bền vững là : vốn vật
thể (chủ yếu là vốn tài chính), vốn con người, vốn xã hội. Đi xa hơn J. Coleman,
Francis Fukuyama (tác giả công trình nổi tiếng ‘Sự tận cùng của lịch sử’ (the End
of History) cho rằng, vốn con người và vốn xã hội liên quan với nhau; và không
phải loại vố
n nào cũng đều tốt. Vấn đề ở chỗ: cách thức sử dụng và phối hợp
chúng như thế nào.
9
Từ mối liên hệ lẫn nhau giữa các loại vốn, một số nhà khoa học đã hướng
đến cách tiếp cận văn hoá đối với phát triển bền vững. Thực tế là "phát triển bền
vững" có nội hàm rất rộng; do đó không nên thiên về thành tố này, cách tiếp cận
này mà xem nhẹ thành tố kia, cách tiếp cận kia. Vì thế chỉ có cách tiếp cận văn hoá
mới có thể bao quát và hướng vào những xu hướng cơ
bản của nội hàm vốn rất
rộng của phát triển bền vững. Pierre Bourdieu (1930 – 2002), một nhà nghiên cứu
người Pháp, cho rằng, nên coi văn hoá như một loại vốn – tương tự như ba loại vốn
khác (vốn vật thể, vốn con người, vốn thiên nhiên); và vốn văn hoá gồm hai loại:
vật thể và phi vật thể.
Vào năm 2007, trong công trình "Quan niệm phát triển bền vững trong bối
cảnh toàn cầu hóa", tập th
ể các nhà khoa học Nga đứng đầu là tiến sĩ V.G.Khoros,
Giám đốc Trung tâm các vấn đề phát triển và hiện đại hóa, nhấn mạnh rằng, phát
triển bền vững phải thỏa mãn 4 nguyên tắc : 1) Thỏa mãn những nhu cầu cơ bản
của tất cả mọi người hiện đang sống ; 2) Các tiêu chuẩn ngang nhau trong sự thỏa
mãn này cho toàn thể cư dân trên hành tinh ; 3) Sử dụng tiết kiệm, có cân nhắc các
nguồn lực thiên nhiên ; 4) Duy trì các khả năng
để các thế hệ tương lai có thể thực
hiện các nhu cầu cơ bản.
Nhà triết học và kinh tế học người Ấn-Độ Amartya Sen (đoạt giải Nobel
kinh tế học vào năm 1998), trong tác phẩm Phát triển là quyền tự do (Development
as Freedom)
12
, đã khẳng định rằng, văn hóa vừa là phương tiện, vừa là mục đích
của sự phát triển. Theo ý nghĩa này thì tiếp cận văn hóa là cách thức bảo đảm và
thực hiện quyền phát triển bền vững của mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng. Nhiều học
giả trên thế giới cho rằng, văn hóa là "trụ cột thứ tư" trong " tứ trụ" kinh tế - văn
hóa - xã hội - môi tr
ường, của phát triển bền vững ; và cách tiếp cận văn hóa là
cách tiếp cận liên ngành kinh tế - xã hội - môi trường, đồng thời thể hiện tính tích
cực của con người với tư cách là chủ thể phát triển .
Vào cuối thập niên 80 và 90 của thế kỷ 20, cũng như đầu thế kỷ XXI, hơn bao
giờ hết vấn đề thách thức toàn cầu đối với sự phát triển bền vững đượ
c nhấn mạnh
trong các công trình nghiên cứu và diễn đàn chính trị-quốc tế. Các công trình
nghiên cứu nổi bật liên quan đến quyền tiếp cận văn hoá trong quá tình phát triển
bao gồm:
- Kay Mathiesen, Các quyền tiếp cận văn hoá của các dân tộc bản xứ và
quyền tiếp cận của cá nhân (Indigenous Peoples’ Rights to Culture and Individual
12
Sen, Amartya (2001), Phát triển là quyền tự do- Development as Freedom (Oxford: Oxford University Press)
10
Rights to Access), School of Information Resources and Library Science,
University of Arizona.
- Avishai Margalit and Moshe Halbertal (2004), Chủ nghĩa tự do và quyền
văn hoá (Liberalism and the Right to Culture), Social Research, 71, pp. 529-48.
- Robert Winthrop, Định nghĩa Quyền về Văn hoá và Một vài Cách tiếp cận
(Defining a Right to Culture, and Some Alternatives), Cultural Dynamics, Vol. 14,
No. 2, 161-183 (2002)
- Yvonne Donders & Vladimir Volodin, Quyền con người về Giáo dục, Khoa
học và Văn hoá: Thành tựu và Thác thức về mặt luật pháp (Human Rights in
Education, Science and Culture: Legal Developments and Challenges). Ashgate
Publishing Group.
- Antony Hooper (2007), Văn hoá và Phát triển bền vững ở Thái Bình Dương
(Culture and Sustainable Development in the Pacific), Nxb Đại học Quốc gia Ôt-
xtrây-lia, (ANU E-Press & Asia Pacific Press),
- Hawkes, Jon (2006), Trụ cộ
t thứ 4 của Sự bền vững: Vai trò đặc biệt của
văn hoá trong việc lập kế hoạch công: lược khảo- (The Fourth Pillar of
Sustainability: Culture’s Essential Role in Public Planning: Summary.
- Leach, Melissa (1998), Văn hoá và sự bền vững- “Culture and
Sustainability”. In World Culture Report (1998), specially edited by Louis
Emmerji and Paul Streeton, 93-104. Paris: United Nations Educational, Scientific
and Cultural Organisation.
- World Commission on Culture and Development (1995), Sự đa dạng sáng
tạo của chúng ta (Our creative diversity) Paris: UNESCO;
Uỷ ban Châu Âu đặc biệt nhấn mạnh tiếp cận văn hoá là một quyền cơ bản
của con người cầ
n được bảo vệ và thúc đẩy, đặc biệt trong bổi cảnh quốc tế hoá và
toàn cầu hoá sâu sắc mà mặt trái của nó đã và đang đe doạ những giá trị văn hoá
của người bản địa hay những nhóm yếu thế.
Nhìn chung cho đến nay, các công trình nghiên cứu quốc tế quan niệm nội
hàm của khái niệm phát triển bền vững rất rộng; và làm rõ các loại vốn của phát
triển bền vững. Vấ
n đề đặt ra là, tiếp cận văn hoá không thể chỉ được nhìn nhận từ
giác độ con người là đối tượng thụ hưởng sự phát triển, mà còn từ giác độ là chủ
thể của quyền, đặc biệt là quyền tiếp cận văn hoá. Trong thời đại ngày nay, phát
triển phải luôn xuất phát từ con người và hướng đích vào việc hiện thực hoá các
quyền cơ bản của mỗi cá nhân, mỗi c
ộng đồng; phát triển phải dựa trên nguyên tắc
nền tảng trao cơ hội bình đẳng cho tất cả các cá nhân và nhóm người, đặc biệt là
11
những nhóm yếu thế, được tiếp cận và thụ hưởng các giá trị và thành tựu của quá
trình ấy.
Ở các nước XHCN như Trung Quốc,Việt Nam , quan niệm về quyền phát
triển càng được thực tế chấp nhận hơn, khi con người được coi là gốc của sự phát
triển nhanh (phát triển rút ngắn) theo con đường XHCN. Cùng với vốn con người,
vốn văn hoá là giá trị nền tảng của sự phát triển bề
n vững. Bởi vậy, quyền tiếp cận
văn hoá là một trong dạng thức của việc hiện thực hoá quyền phát triển, và là chỉ
dấu của phát triển lấy con người là trung tâm và định hướng vào các giá trị nhân
văn của con người và xã hội, đồng thời nó cũng là một thước đo của sự phát triển
bền vững. Thực tế cho thấy, việc thiếu quan tâm, chăm lo, bảo vệ các quy
ền và lợi
ích chính đáng của tẩt cả mọi cá nhân, mọi cộng đồng trong quá trình hoạch định
chính sách cũng như việc thực thi chính sách, tất yếu sẽ dẫn đến hậu quả phát triển
thiếu bền vững, như: gia tăng bất bình đẳng xã hội, tàn phá môi trường, sự suy
thoái về các giá trị đạo đức và nhân văn, ) điều này cho thấy tầm quan trọng đặc
biệt của văn hoá, và quy
ền tiếp cận văn hoá đối với sự phát triển bền vững.
3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước:
Tiếp cận văn hoá nói chung và quyền tiếp cận văn hoá nói riêng đã bắt đầu
được nghiên cứu từ nhiều góc độ và chuyên ngành khác nhau, bao gồm triết học,
văn hoá, chủ nghĩa xã hội khoa học, xã hội học và đặc biệt là pháp luật và quyền
con người. Quyền về văn hoá đã bắt đầu đượ
c đề cập đến như là một nội dung của
nhóm quyền kinh tế-xã hội và văn hoá (trong Công ước quốc tế về các quyền kinh
tế-xã hội và văn hoá của LHQ năm 1966) trong các công trình nghiên cứu về lý
luận và thực tiễn về quyền con người, quyền công dân thuộc Học viện Cao cấp
Nguyễn Ái Quốc năm 1991 (nay là Học viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh); chương trình KH&CN cấp Nhà nước KX07-16 ‘Các điều ki
ện bảo đảm
quyền con người, quyền công dân trong công cuộc đổi mới’ do GS TS Hoàng Văn
Hảo làm chủ nhiệm (1991-1996), Đề tài KHCN cấp Nhà nước, ‘Quyền con người
trong thời kỳ đổi mới: thành tựu, vấn đề và phương hướng giải quyết’ do TS Cao
Đức Thái làm chủ nhiệm, thực hiện trong giai đoạn 2001-2005; Đề tài KHCN cấp
Bộ, ‘Quyền kinh tế-xã hội và văn hoá và có chế bảo đảm các quyề
n này trong thời
kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta’, do GS TS Hoàng Văn Hảo
làm chủ nhiệm, thực hiện trong giai đoạn 1995-1996; Đề tài KHCN cấp Bộ, ‘Sự
phát triển các quyền kinh tế-xã hội và văn hoá trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam’,
do Viện NC Quyền con người thuộc Học viện thực hiện trong giai đoạn 2001-
2003; và một số công trình nghiên cứu
được đăng tải trên các tạp chí khoa học
chuyên ngành liên quan đến các quyền về văn hoá, ‘Tự do văn hoá và Phát triển’
12
của tác giả Phan Công Khanh đăng trên tạp chí Triết học (năm 2007); ‘Giao lưu
văn hoá trong thời hội nhập’ của tác giả Hồ Sĩ Vịnh đăng trên tạp chí Văn Hiến
Việt Nam; ‘Một số vấn đề văn hoá và phát triển’ của tác giả Ngô Thế Phúc (Niên
giám thống kê 2007); ‘Văn hoá và mô hình phát triển phổ biến’ của tác giả Khuất
Duy Dũng (tạp chí Triết học 2009), ‘Tự do và trách nhi
ệm trong hoạt động của
con người’ của tác giả Nguyễn Văn Phúc (T/c Triết học, 2008); …
Bên cạnh đó còn có những công trình trực tiếp liên quan đến văn hoá và phát
triển, quyền về văn hoá, phát triển bền vững, bao gồm: như ‘Bàn về văn hiến Việt
Nam’ (KHXH 1996) của GS Vũ Khiêu, ‘Văn hóa và Phát triển’ (CTQG 1998) của
GS Phạm Xuân Nam; ‘Văn hoá là mục tiêu và là động lực của sự phát triển’
(CTQG 2006) của GS Nguy
ễn Văn Huyên; ‘Tăng trưởng kinh tế và những bảo
đảm cần có nhằm duy trì môi trường cho sự phát triển lâu bền’ của GS Nguyễn
Trọng Chuẩn (T/c Triết học, số 4.1992); ‘Bảo vệ môi trường để phát triển bền
vững’ của GS Võ Quý (T/c Thông tin môi trường,số 3.1993); ‘Văn hoá trong phát
triển của xã hội Việt Nam’ của Thành Duy (KHXH 1996), tác giả nhấn mạnh tính
hài hoà trong phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ di sả
n văn hoá và môi trường ở Việt
Nam; ‘Đổi mới chính sách xã hội – Luận cứ và giải pháp’ (KHXH 1997) của GS
Phạm Xuân Nam; ‘Về phát triển văn hoá và xây dựng con người thời kỳ CNH,
HĐH’ (CTQG 2003) của Phạm Minh Hạc của Nguyễn Khoa Điềm; ‘Phát triển bền
vững : Tiền đề lịch sử và nội dung khái niệm’ (www.chungta.com, 2008) của Trần
Hữu Dũng,…Các công trình này đã làm rõ khái niệm, lý luận và thực tiễ
n về văn
hóa, phát triển và phát triển bền vững, đặc biệt đều nhấn mạnh đến các thành tố và
trụ cột của phát triển bền vững (phát triển kinh tế, phát triển xã hội, bảo vệ môi
trường và phát triển văn hóa). Trong diễn văn khai mạc Hội nghị châu Á - Thái
bình dương về đối thoại giữa các nền văn hoá và văn minh vì hoà bình và phát
triển bền vững, Chính phủ Việt Nam và UNESCO đồng tổ
chức tại Hà Nội,
12/2008, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm nhấn mạnh giáo dục và văn hoá là hai
động lực của hoà bình và phát triển, là hai vec-tơ chủ đạo của đối thoại và phát
triển bền vững.
Khái niệm phát triển bền vững được đề cập nhiều ở Việt Nam từ khoảng đầu
thập niên 1990. Văn kiện Đại hội lần thứ VII của Đảng (1992) lần đầu tiên xác
định t
ư tưởng chính của "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm
2000" là: Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải
quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời
sống nhân dân. Tư tưởng này tiếp tục được khẳng định trong "Chiến lược phát
triển kinh tế – xã hộ
i 10 năm 2001 – 2010" và được khái quát là: Phát triển nhanh,
13
có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện công bằng xã hội
và bảo vệ môi trường. Tư tưởng phát triển bền vững còn được thể hiện trong kết
luận của Hội nghị Trung ương 10, khoá IX, về việc gắn nhiệm vụ trung tâm phát
triển kinh tế, nhiệm vụ then chốt chỉnh đốn Đảng với nhiệm vụ xây dựng nề
n tảng
tinh thần văn hoá.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trong nước, một mặt chuyển hoá quan
điểm phát triển bền vững của "Uỷ ban Brundtland" vào thực tiễn Việt Nam; mặt
khác cũng đã phát triển nội hàm của tiếp cận văn hoá đối với phát triển bền vững
với tính cách là tiếp cận tổng hợp kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và môi trường,
đồng thời cũng là cách tiếp cận quyền phát tri
ển nhằm vào giá trị phát triển của con
người và cộng đồng. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu này chưa đề cập sâu
rộng đến vấn đề văn hoá và phát triển dưới góc độ quyền con người, cũng như
quyền tiếp cận văn hoá.
Vì vậy, đề tài "Quyền tiếp cân văn hoá trong quá trình phát triển ở nước ta
hiện na" nhằm luận giải về khái niệm, bản chất và nội dung của quyề
n tiếp cận văn
hoá, cũng như việc bảo đảm và hiện thực hóa quyền này trong quá trình phát triển
ở nước ta. Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu trước đó về quyền con
người, phát triển và văn hoá, đề tài sẽ đưa ra những sự khái quát hoá, phân tích và
tổng hợp về vai trò của quyền tiếp cận văn hoá đối với sự phát triển của xã hội nói
chung và của văn hoá c
ũng như của mỗi cá nhân nói riêng.
4. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu của đề tài là nhằm làm rõ cơ sở lý luận - thực tiễn của quyền tiếp cận
văn hoá trong quá trình phát triển ở nước ta hiện nay, về vai trò và tầm quan trọng
của quyền tiếp cận văn hoá đối với sự phát triển bền vững. Thông qua đánh giá
thành tựu và hạn chế của quyền tiếp cận văn hoá trong quá trình phát triển
ở nước
ta, đề tài đề xuất những giải pháp về chính sách và thể chế nhằm tăng cường việc
bảo đảm quyền tiếp cận văn hoá của người dân trong quá trình phát triển. Đề tài
cũng sẽ góp phần xây dựng những luận cứ khoa học cho việc xây dựng và ban
hành các chính sách và pháp luật liên quan đến phát triển bền vững, văn hoá và
quyền con người ở cấp quốc gia và cấp địa phương,
đặc biệt trong bối cảnh đất
nước ta đang định hướng phát triển nhanh và mạnh mẽ về kinh tế nhưng bền vững
về xã hội và phát triển định hướng XHCN vì mục tiêu dân giàu nước mạnh,xã hội
dân chủ, công bằng và văn minh.
Để thực hiện mục tiêu này, hệ thống các chuyên đề của đề tài tập trung vào
giải quyết các nhiệm vụ sau:
14
- Làm sáng tỏ khái niệm và nội hàm của quyền tiếp cận văn hoá và
phát triển;
- Làm sáng tỏ vai trò và tầm quan trọng của văn hoá cũng như
quyền tiếp cận văn hoá đối với sự phát triển bền vững;
- Phân tích những nội dung cơ bản của quyền tiếp cận văn hoá trong
hệ thống quan điểm, chính sách và pháp luật.
- Đánh giá về thực trạng, thành tựu và hạn chế, của việc bảo đảm
quyền tiếp cận văn hoá trong quá trình phát triển ở Việt Nam, đặc biệt kể từ
khi đổi mới đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và
thực thi chính sách, công tác quản lý văn hoá, phát triển và quyền con
người ở nước ta.
5. Nội dung nghiên cứu:
Để thực hiện được m
ục tiêu trên, đề tài tập trung vào luận giải những nội
dung cơ bản sau đây:
1) Thứ nhất, khái luận chung về văn hóa, phát triển và phát triển bền vững,
quyền văn hoá và quyền tiếp cận văn hoá trong quá trình phát triển ở nước ta hiện
nay;
2) Thứ hai, những nội dung cơ bản về quyền tiếp cận văn hoá từ giác độ pháp
luật quốc tế và quốc gia, chính sách vă
n hoá và các điều kiện bảo đảm quyền tiếp
cận văn hoá ở phạm vi quốc gia và địa phương;
3) Thứ ba, thành tựu và thách thức của việc đảm bảo quyền tiếp cận văn hoá ở
Việt Nam hiện nay;
4) Thứ tư, một số kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường việc bảo đảm và hiện
thực hoá quyền về tiế
p cận văn hoá trong quá trình phát triển ở nước ta nước ta
hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu:
- Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng ta về quyền con người, về văn hoá, phát triển, và phát triển bền
vững để phân tích, đánh giá và luận giải các vấn đề liên quan đến quyền tiếp cận
văn hoá trong quá trình phát triển ở nước ta hiện nay.
- Sử dụng các phươ
ng pháp khoa học chuyên ngành và liên ngành: triết học,
luật, văn hoá và xã hội học. Đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp phân
tích - tổng hợp, lôgíc - lịch sử, hệ thống-cấu trúc;
- Phương pháp khảo cứu tài liệu trong và ngoài nước kết hợp với phương
pháp chuyên gia: bằng bài viết và ý kiến tham gia hội thảo.
15
7. Kết cấu của Báo cáo tổng quan kết quả nghiên cứu đề tài
- Báo cáo gồm phần Mở đầu, khái niệm công cụ, kết luận và 4 chương, 17 mục
cùng với phần tài liệu tham khảo.
16
CHƯƠNG I.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN, QUYỀN CON
NGƯỜI VÀ QUYỀN TIẾP CẬN VĂN HÓA
1.1. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA, PHÁT TRIỂN VÀ QUYỀN
CON NGƯỜI
1.1.1. VĂN HOÁ
Văn hóa là một phạm trù rộng lớn, có hàng trăm định nghĩa khác nhau và
cộng đồng quốc tế vẫn chưa có một cách hiểu chung về văn hóa. Tuy nhiên, có một
điểm tương đối đồng nhất giữa các cách định nghĩa khác nhau về
văn hóa đó chính
là việc xem văn hóa như là một sản phẩm đặc biệt và duy nhất của giới tự nhiên
thông qua hoạt động sống của con người. Theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ
những gì không thuộc về giới tự nhiên—với tính cách là thân thể vô cơ của con
người; trái lại nó là toàn bộ những gì do chính con người, và chỉ có ở con người, do
con người và bởi con người, sáng tạo ra. Văn hoá, với ý nghĩa ấ
y, là toàn bộ những
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong suốt quá trình lịch sử
của chính con người và xã hội loài người. Hiểu một cách phổ quát, văn hóa là một
hệ thống các giá trị phản ánh bước tiến, mức độ và trình độ nhân tính hóa và ý thức
về tự do, sự sáng tạo và hoàn thiện nhân cách của con người. Văn hóa là sự tổng
hòa của những đặc trưng về đời sống tâm hồ
n, lý trí, cảm xúc và khát vọng của con
người thông qua hoạt động sản xuất ra đời sống vật chất và tinh thần của của mình.
Hình thức biểu hiện của văn hóa vô cùng đa dạng—phản ánh sự đa dạng của các
phương thức hoạt động sống của các cá nhân và xã hội loài người, từ văn học, nghệ
thuật, lối sống, phong cách, hệ giá trị, niềm tin, tín ngưỡng, tôn giáo,… cho đến
phươ
ng thức mà ở đó các cá nhân đối xử với nhau, với xã hội và với giới tự nhiên.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa là thuộc tính thuộc về bản chất nhân tính của con người,
là hệ thống các giá trị thuộc lĩnh vực tinh thần của con người.
Văn hóa không chỉ là hệ thống các giá trị khẳng định nhân tính và tự do của
mỗi cá nhân mà còn xác lập bản sắc của một dân tộc. Theo ý nghĩa đó, m
ột dân tộc
sẽ chẳng thể hiện tồn với tính cách là một dân tộc nếu cái bản sắc—nền văn hóa—
của nó bị mai một, bị xâm lăng và đồng hóa. Văn hóa đóng vai trò như là ‘gen’ của
một cơ thể sống; là bản thể của các dân tộc trong cộng đồng nhân loại. Sự đa dạng
của văn hóa là di sản của nhân loại và xã hội loài người. Cũng giống như
sự đa
dạng của sinh học quyết định đến sự sống còn của thiên nhiên, sự đa dạng văn hóa
quyết định đến sự sống còn của loài người nói chung. Tôn trọng và bảo vệ sự đa
17
dạng văn hóa là tôn trọng và bảo vệ chính con người và xã hội loài người. Sự tôn
trọng ấy chỉ ra việc thừa nhận và khẳng định các giá trị nền tảng của các cá nhân
và nhóm xã hội, bao gồm tự do và các quyền cơ bản của họ. Chính vì vậy, Federico
Mayor, Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO, đã khẳng định văn hóa ‘là một hệ
thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó t
ừng dân tộc tự
khẳng định bản sắc riêng của mình’.
13
Do đặc tính phong phú và đa dạng của nó, văn hóa không dễ dàng được định
nghĩa một cách chính xác và được thống nhất trong cách hiểu đơn nhất của cộng
đồng quốc tế. Một số học giả quan niệm rằng “văn hóa là tổng thể các hành vi và ý
thức của một nhóm người có chung truyền thống, thứ mà được chuyển giao và
củng cố bởi các thành viên trong nhóm người đó”, hoặc là “những ho
ạt động nghệ
thuật và xã hội, sự bày tỏ và các giá trị được thưởng thức bởi xã hội hoặc giai cấp,
qua những tác phẩm nghệ thuật, phong tục hay trang phục…”.
14
Do đó, việc bảo
vệ văn hóa trong luật nhân quyền bao hàm hai nội dung: trước hết là quyền của con
người được thực hiện và tiếp tục thực hiện các hoạt động truyền thống của dân tộc,
cộng đồng mình. Thứ hai, việc bảo vệ văn hóa trong hệ thống pháp luật quốc tế
bao gồm cả bảo vệ các hoạt động khoa học, văn học và nghệ thu
ật của xã hội.
15
Một số học giả khác lại cho rằng văn hóa là một khái niệm “ẩn”, nó có thể có rất
nhiều định nghĩa. Lý do là bởi vì nó bao hàm rất nhiều yếu tố không chỉ như lòng
tin, sự hiểu biết, tình cảm, văn học nghệ thuật mà còn là cả ngôn ngữ và hệ thống
các biểu tượng khác, những thứ được coi như phương tiện để thể hiện. Ngoài ra, nó
cũng có thể bao hàm cả
các nội dung khác nữa, như các mối quan hệ thân thuộc,
phương pháp giáo dục, tập tục trong quan hệ xã hội, tập tục trong gia đình, các
hoạt động sáng tạo nghệ thuật…Văn hóa có thể được xem như một dạng đặc biệt
của đạo đức và sự giao tiếp trong một cộng đồng nhất định.
16
Điều này có thể được
thấy trong cả hai phạm trù: cá nhân và tập thể. Từng cá nhân đơn lẻ sẽ là người đại
diện trong việc bày tỏ văn hóa, ví dụ: là một nhân tố để đưa văn hóa vào đời sống
thực tế. Do vậy, văn hóa không thể tồn tại một cách trừu tượng, nó tồn tại thông
qua hoạt động của các cá nhân tham dự. Hơn nữa, các hoạt động này sẽ t
ạo ra một
13
Nguyễn Trần Bạt, “Khái niệm và bản chất của văn hóa”, .Sách Văn hóa và Con người,
< trích ngày
28/6/2010.
14
Từ điển Collins English Dictionary
15
“Right to culture”, bài viết đăng trên website của Tổ chức Human rights education associates ngày 20/10/2009.
16
Bài giảng « Cultural Rights » của Tổ chức UNESCO tại Ấn Độ, ngày 8/11/2006.
18
hệ thống các giá trị và biểu tượng- những thứ có thể được xác định là thuộc về nền
văn hóa của chính những người đó.
17
Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra trong quá trình lịch sử bằng lao động của mình và được nhân lên trong đời sống
và lao động. Văn hoá là tài sản chung của nhân loại và nó có một vị trí, vai trò cực
kỳ to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi con người, mỗi cộng đồng, mỗi
quốc gia. Chúng ta đều biết rằng, các dân tộc khác nhau thì có sự phát triển và sở
hữu các nền văn hoá khác nhau, do đó, việc bảo vệ và phát triển văn hoá chính là
tiêu chí để xác định sự bình đẳng và phát triển giữa các dân tộc, là thước đo quan
trọng để đánh giá việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền con người. Với
những ý nghĩa trên, quyền văn hoá là một nội dung cơ bản, quan trọng của quyền
con người và trở thành mối quan tâm của nhiều tổ chứ
c quốc tế, trở thành vấn đề
thu hút sự chú ý và gây nhiều tranh luận trên nhiều diễn đàn trong nước, khu vực
và quốc tế.
Văn hóa, hiểu một cách phổ quát, là một tập hợp của những đặc trưng về tâm
hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội
và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thứ
c chung
sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin.
18
Dưới góc độ lịch sử, văn hóa là những gì còn lại sau những chu trình lịch sử
khác nhau, qua đó người ta có thể phân biệt được các dân tộc với nhau. Cựu Tổng
Giám đốc UNESCO Federico Mayor đã từng khẳng định: "văn hóa phản ánh và
thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân
và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng như
đang diễn ra trong hiện tại,
qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ thông các giá trị, truyền thống thẩm
mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của
mình".
19
Như vậy, khái niệm văn hóa được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng
nhất, văn hóa là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra
nhằm mục đích phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của con người. Theo nghĩa
này, văn hóa có mặt trong toàn bộ hoạt động sống của con người, từ hoạt động
sản xuất vật chất, tổ chức xã hộ
i đến sản xuất tinh thần. Văn hóa là phẩm chất trí
tuệ và năng lực sáng tạo hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp để nhân đạo hóa xã
17
Như trên.
18
Như trên.
19
Nguyễn Trần Bạt, “Khái niệm và bản chất của văn hóa”. Sách Văn hóa và Con người,
< trích ngày
28/6/2010.
19
hội và hoàn thiện nhân cách con người. Theo nghĩa hẹp hơn, văn hóa liên quan
toàn bộ hoạt động tinh thần của xã hội. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn xây dựng
và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) đã giới hạn khái
niệm văn hóa trong các lĩnh vực chủ yếu là xây dựng con người, xây dựng môi
trường văn hóa; phát tri
ển văn học, nghệ thuật; thông tin đại chúng; giáo dục
đào tạo và khoa học công nghệ; bảo vệ di sản văn hóa, bảo tồn và phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu số; chính sách văn hóa trong tôn giáo Đây là những lĩnh
vực liên quan mật thiết tới việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội.
1.1.2. TIẾP CẬN VĂN HÓA
Tiếp cận văn hóa (TCVH, cultural approach) hay tiến cận dựa trên văn hóa
(culture-based approach) là m
ột phương pháp, công cụ trong hoạch định chính
sách và chương trình dựa trên văn hóa, lấy văn hóa là hạt nhân và trọng tâm.
Văn hóa là một trong những thành tố và trụ cột quan trọng vào bậc nhất của đời
sống xã hội và phát triển bền vững. Vì vậy, nó là một trong những công cụ thiết
yếu trong lập chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế-xã hội; là
điểm xuất phát và đích hướng đến của mọ
i chính sách và chương trình phát
triển. TCVH, ngày nay, là một phương pháp được áp dụng phổ biến trong cộng
đồng quốc tế và đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển và trong bối cảnh thế
giới toàn cầu hóa sâu sắc. TCVH là một đòi hỏi bức thiết của quá trình phát
triển lấy con người làm mục đích, là công cụ đóng vai trò làm ‘nhân bản hóa’
các quan hệ sản xuất hiện đại vốn dựa trên sự toàn cầu hóa của ph
ương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Trong xu thế thịnh hành của nền kinh tế thị trường và sự
phát triển nóng đang diễn ra mạnh mẽ ở các quốc gia đang phát triển (trong đó
có Việt Nam), TCVH được xem như là một công cụ mạnh mẽ để tạo lập sự cân
bằng giữa tăng trưởng kinh tế với hệ thống an sinh xã hội hiệu quả và bả
o vệ
môi trường hướng tới sự phát triển bền vững.
TCVH có mối liên hệ mật thiết với quyền tiếp cận văn hóa. Nó chỉ ra rằng,
TCVH không chỉ là một nhu cầu hay ý muốn chủ quan của các nhà chính trị,
hoạch định và thực thi chính sách, mà quan trọng hơn đó còn là một quyền cơ
bản của con người. TCVH một mặt khẳng định các cá nhân, nhóm xã hội (đặc
biệt những nhóm dễ
bị tổn thương như người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ
em, phụ nữ,…) là chủ thể của quyền TCVH; mặt khác chỉ ra trách nhiệm và