LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi
đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên, hướng dẫn và đóng góp ý kiến
của các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp và gia đình trong suốt khóa cao học
và trong thời gian nghiên cứu đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới TS. Cao Thị Ý Nhi, người
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Ngân hàng - Tài
chính về những lời nhận xét quý báu, đóng góp đối với bản luận văn.
Do hạn chế về thời gian và trình độ nên bản luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý chân
tình của các thầy cô, bạn bè và các cá nhân, tổ chức quan tâm đến đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên
Lê Quang Vinh
danh môc c¸c ch÷ viÕt t¾t
NHTW : Ngân hàng Trung ương
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng Thương mại
NHTM CP : Ngân hàng Thương mại Cổ phần
TCTD : Tổ chức tín dụng
QTDND : Quỹ tín dụng nhân dân
QTDND TW : Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
KBNN : Kho bạc Nhà nước
GSTX : Giám sát từ xa
KT - XH : Kinh tế - xã hội
KTNN : Kinh tế Nhà nước
QPPL : Quy phạm pháp luật
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
BẢNG
LỜI NÓI ĐẦU
1/ Tính cấp thiết của đề tài:
Hiện nay, lĩnh vực hoạt động Ngân hàng trở nên sôi động và nhạy cảm
hơn bao giờ hết. Hoạt động Ngân hàng có nhiều tác động trực tiếp và hết sức
to lớn đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, đến sự ổn định và tăng
trưởng của nền kinh tế đất nước. Mặc dù trong những năm qua, hệ thống
Ngân hàng đã phát triển khá nhanh cả về loại hình và nghiệp vụ kinh doanh,
góp phần đắc lực cho công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế và đòi hỏi của
hội nhập khu vực, quốc tế. Nhưng bên cạnh những thành tựu đạt được thì
hoạt động Ngân hàng trong thời gian gần đây còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu
kém và rủi ro. Những tồn tại, yếu kém và rủi ro đó, bên cạnh những nguyên
nhân từ bản thân các NHTM, còn có những nguyên nhân thuộc về vai trò
quản lý của Ngân hàng Nhà nước, trong đó tổ chức Thanh tra Ngân hàng
Nhà nước - một thiết chế quan trọng, thực hiện chức năng thanh tra giám sát
hoạt động của Ngân hàng thương mại - vẫn còn nhiều tồn tại yếu kém và bất
cập.
Nghệ An đang phát triển trở thành trung tâm kinh tế xã hội của khu vực
Bắc trung bộ nên số lượng ngân hàng trên địa bàn Nghệ An đang tăng lên
nhanh chóng , với 42 Chi nhánh NHTM, 43 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và
hàng trăm phòng giao dịch. Lực lượng thanh tra chi nhánh với 16 cán bộ
đang phải hết sức vất vả để có thể hoàn thành nhiệm vụ thanh tra giám sát
của mình. Tuy nhiên, với tình hình nợ xấu vẫn gia tăng nhanh chóng, hoạt
động cạnh tranh, lôi kéo khách hàng hàng giữa các NHTM diễn ra gay gắt
dẫn đến nhiều tiêu cực, vi phạm và tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro. Những hạn
chế như số lượng cán bộ thanh tra ít, chất lượng công tác GSTX và thanh tra
tại chỗ thấp và nhiều hạn chế khác đang đòi hỏi tổ chức thanh tra giám sát
của Chi nhánh NHNN Nghệ An phải khắc phục và đổi mới để hoạt động có
1
hiệu quả hơn. Việc tăng cường công tác thanh tra giám sát của NHNN trên
địa bàn để đảm bảo an toàn cho hệ thống NHTM trên địa bàn đang là vấn đề
hết sức cấp thiết và quan trọng.
Với ý nghĩa đó, đề tài “Tăng cường công tác thanh tra giám sát của
Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh
Nghệ An ” đã được lựa chọn để nghiên cứu.
2/ Mục đích nghiên cứu:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về thanh tra giám sát của
NHTW đối với các NHTM.
- Nghiên cứu thực trạng công tác thanh tra giám sát của NHNN đối với
các NHTM trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác thanh tra giám sát của
NHNN đối với các NHTM trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động thanh tra giám sát
của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động thanh tra giám sát của NHNN Chi
nhánh Nghệ An đối với các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Nghệ
An giai đoạn 2004-2008.
4/ Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
suy luận logic kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, phân tích,
đánh giá để đạt được mục đích nghiên cứu.
5/ Những đóng góp của luận văn:
- Làm rõ chức năng quản lý nhà nước của thanh tra Ngân hàng Trung
ương đối với các Ngân hàng thương mại.
- Đánh giá những thành công và những hạn chế trong công tác thanh
tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Nghệ An đối với các
2
Ngân hàng thương mại trên địa bàn. Tìm ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp
để nâng cao hiệu lực công tác thanh tra giám sát của NHNN chi nhánh Nghệ
An đối với các Ngân hàng thương mại trên địa bàn.
6/ Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thanh tra giám sát của Ngân hàng
Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác thanh tra giám sát của NHNN đối với
các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác thanh tra giám sát của NHNN
đối với các NHTM trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TRA GIÁM SÁT
CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ĐỐI VỚI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1- Khái quát về Ngân hàng Trung ương
1.1.1- Khái niệm Ngân hàng Trung ương
Will Rogers đã tổng kết các phát minh lớn nhất của loài người như sau: “từ
khi thời gian bắt đầu cho đến nay đã có ba phát minh lớn: Lửa, Bánh xe và
Ngân hàng Trung ương”. Điều này cho ta thấy tầm quan trọng của Ngân hàng
Trung ương trong tiến trình phát triển kinh tế của thế giới. Ngân hàng Trung
ương ra đời chính do yêu cầu của sự phát triển hệ thống ngân hàng trong lịch
sử, là tất yếu khách quan khi hoạt động kinh doanh tiền tệ phát triển.
Cuối thế kỷ 18, khi mà hệ thống ngân hàng thương mại phát triển
mạnh mẽ, với nhiều ngân hàng phát hành nhiều loại giấy bạc khác nhau đã
gây ra cản trở đối với quá trình phát triển kinh tế, Nhà nước đã can thiệp
bằng cách ban hành các đạo luật để hạn chế số lượng ngân hàng được phép
phát hành. Lúc này, hệ thống ngân hàng được tách thành hai nhóm là các
ngân hàng được phép phát hành tiền (gọi là ngân hàng phát hành) và nhóm
các ngân hàng không được phép phát hành tiền (gọi là ngân hàng trung gian).
Đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, để thống nhất việc phát hành, các nước
ban hành đạo luật chỉ cho phép một ngân hàng lớn nhất, uy tín nhất được
phép phát hành còn các ngân hàng khác chuyển thành ngân hàng thương
mại. Mặc dù vậy Ngân hàng phát hành vẫn thuộc sở hữu tư nhân nên Nhà
nước không can thiệp một cách thường xuyên các hoạt động tiền tệ được. Bài
học đắt giá từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã cho thấy Chính
phủ phải điều hành được chính sách tiền tệ, phải nắm trong tay ngân hàng phát
hành. Do vậy các nước đã lần lượt quốc hữu hoá ngân hàng phát hành, trở
4
thành ngân hàng phát hành tiền duy nhất của Chính phủ. Ngân hàng Trung
ương ra đời từ đó.
NHTW là định chế duy nhất trong nền kinh tế vừa thực hiện chức
năng quản lý nhà nước vừa làm thực hiện chức năng kinh doanh. Mặc dù
vậy, hoạt động kinh doanh của NHTW cũng nhằm mục tiêu quản lý chứ
không vì mục đích lợi nhuận. NHTW là ngân hàng duy nhất được phép phát
hành tiền của mỗi quốc gia, là một định chế công cộng chịu trách nhiệm
trong việc quản lý và điều tiết các vấn đề liên quan đến tiền tệ, nhằm phục vụ
cho sự tồn tại và phát triển của cộng đồng.
Mặc dù được tổ chức theo các mô hình khác nhau, nhưng nhìn chung,
mục tiêu của NHTW đều là ổn định giá trị đồng tiền cả về đối nội và đối
ngoại, tạo điều kiện phát triển kinh tế, kiểm soát hệ thống ngân hàng, đảm
bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động theo trật tự pháp chế, ổn định, an toàn
và hiệu quả.
Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là NHTW của nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam (quy định trong Luật Ngân hàng Nhà nước). Như
các NHTW của các quốc gia khác, NHNN Việt Nam thực hiện tất cả các
chức năng của một NHTW. Tất nhiên, NHNN Việt Nam được tổ chức theo
quan điểm của Việt Nam, phù hợp với điều kiện của nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, dù cách gọi khác nhau, mô hình tổ chức có thể khác nhau, nhưng
bản chất thì vẫn giống nhau, vì vậy để thống nhất, trong chương này chỉ
dùng thuật ngữ Ngân hàng Trung ương để nghiên cứu, viết tắt là NHTW.
1.1.2- Chức năng của NHTW
NHTW có các chức năng sau:
* Phát hành tiền: Từ khi NHTW ra đời và hoạt động thì nó đã trở thành
trung tâm phát hành tiền duy nhất của mỗi quốc gia. Toàn bộ tiền mặt pháp
định đều do NHTW phát hành theo chế độ độc quyền phát hành tiền của Nhà
nước. Thông qua chức năng phát hành tiền, NHTW sẽ tác động một cách trực
5
tiếp đến mức tăng, giảm của tổng cung tiền tệ trong nền kinh tế, qua đó ảnh
hưởng đến cả sản xuất và tiêu dùng.
* Ngân hàng của các ngân hàng trung gian: thể hiện qua việc NHTW
thực hiện các công việc quan trọng cho các ngân hàng trung gian như: có
quyền cấp giấy phép kinh doanh tiền tệ cho các ngân hàng trung gian, đồng
thời chế tài các vụ vi phạm luật lệ ngân hàng; có quyền quy định, thay đổi tỷ
lệ dự trữ bắt buộc mà các ngân hàng trung gian phải thi hành; NHTW tiến
hành kiểm soát các ngân hàng trung gian nhằm giúp cho hệ thống ngân hàng
hoạt động lành mạnh, trên cơ sở đó, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và
lợi ích chung của nền kinh tế; NHTW ấn định các lãi suất, lệ phí, hoa hồng
áo dụng cho các ngân hàng trung gian, quy định những thể lệ điều hành các
nghiệp vụ; mở tài khoản giao dịch và tổ chức thanh toán bù trừ cho các ngân
hàng trung gian; Là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân
hàng, NHTW chịu trách nhiệm ban hành các hình thức thanh toán, các chế
độ, quy trình kế toán cho toàn bộ hệ thống ngân hàng áp dụng; NHTW là
người cho vay cuối cùng đối với ngân hàng trung gian thông qua nghiệp vụ
tái cấp vốn dưới các hình thức cho vay thế chấp hoặc ứng trước, chiết khấu,
tái chiết khấu các giấy tờ có giá; NHTW cung cấp các thiết bị ngân hàng cho
ngân hàng trung gian
* Ngân hàng của Chính phủ: là một định chế Tài chính công, ngay khi
ra đời NHTW được xác định là ngân hàng của Chính phủ. Các giao dịch tiền
tệ của Chính phủ trong và ngoài nước thường phải thông qua NHTW. Đồng
thời, NHTW phải thực hiện rất nhiều công việc cho Chính phủ như: Mở tài
khoản và đại lý tài chính cho Chính phủ; Thanh toán cho Kho Bạc nhà nước;
Thay mặt Chính phủ quản lý các hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng;
Cố vấn cho Chính phủ về các chính sách kinh tế tài chính, chính sách tiền tệ
và đại diện cho Nhà nước tại các tổ chức Tài chính quốc tế; Quản lý dự trữ
quốc gia về ngoại tệ, vàng bạc, kim khí, đá quý; Tạm ứng cho Ngân sách Nhà
6
nước trong những trường hợp cần thiết.
NHNN Việt Nam cũng bao gồm các chức năng trên, được quy định cụ
thể trong Luật ngân hàng nhà nước và được cụ thể hoá trong các Nghị định
của Chính phủ, đó là:
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và
hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ
chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ
.
Hoạt động của
NHNN Việt Nam nhằm mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm an toàn
hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự vận hành
an toàn, hiệu quả của các hệ thống thanh toán; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội theo định hướng XHCN.
1.2- Hoạt động thanh tra của NHTW đối với các NHTM
1.2.1- Khái niệm thanh tra NHTW
1.2.1.1- Khái niệm thanh tra
Hoạt động thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà
Nước, là một trong ba yếu tố cấu thành nên sự lãnh đạo, quản lý đó là: ban
hành quyết định; tổ chức quyết định và thanh tra, kiểm tra việc thực hiện
quyết định. Có thể nói rằng ở đâu có sự lãnh đạo, quản lý thì ở đó có hoạt
động thanh tra , giám sát. Thực chất thanh tra là việc xem xét, tình hình thực
tế để đánh giá, nhận xét và kết luận nhằm phát huy nhân tố tích cực, phòng
ngừa xử lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thiện
cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế Nhà nước, bảo vệ lợi ích quốc gia.
Theo luật Thanh tra năm 2004, khái niệm thanh tra nhà nước được hiểu
là “…việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật
này và các quy định khác của pháp luật…”. Thanh tra nhà nước bao gồm
thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
7
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà
nước theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm
vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà
nước theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp
hành pháp luật, những quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý
của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý.
Như vậy thanh tra là một khái niệm bao trùm lên các mặt kiểm tra, giám
sát các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm đưa các hoạt động đó theo định
hướng và các quy trình, quy phạm đã được xác định trên các văn bản quản lý
Nhà nước và nghiệp vụ quản lý kinh tế.
Trong thực tiễn công tác quản lý, những khái niệm và thuật ngữ: thanh
tra, kiểm tra, kiểm soát và giám sát được sử dụng hàng ngày. Tuy nhiên, giữa
chúng cũng có những điểm giống và khác nhau cần phân biệt rõ:
Thanh tra là đến tận nơi xem xét sự việc, là thực hiện kiểm tra các hoạt
động kinh tế-xã hội nhằm đưa các hoạt động đó theo định hướng và các quy
trình, quy phạm đã được xác định trên các văn bản quản lý nhà nước và
nghiệp vụ quản lý kinh tế. Thanh tra luôn mang tư cách nhà nước.
Kiểm tra, kiểm soát là việc xem xét để phát hiện và ngăn chặn kịp thời
những hành vi, hoạt động trái quy định.
Giám sát là việc trông nom, theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng
những điều quy định hay không.
Qua những khái niệm trên, có thể thấy những đặc thù chung của các
hoạt động này là việc xem xét quá trình chấp hành, thực hiện các chỉ thị,
nghị quyết, quy chế và quyết định quản lý có nghiêm túc, kịp thời, hay có
vướng mắc gì không. Tuy nhiên, các loại hình hoạt động vẫn có sự khác
biệt, chẳng hạn:
Thanh tra là việc tổ chức kiểm tra từ bên ngoài của đối tượng bị thanh
tra, là hoạt động của cơ quan quản lý cấp trên đối với đối tượng, còn kiểm tra
8
có thể do bản thân đơn vị thực hiện.
Hoạt động kiểm tra của một cơ quan bên ngoài thường kết thúc bằng
những nhận xét, lời khuyên còn thanh tra kết thúc bằng văn bản kết luận,
trong đó đánh giá đúng thực trạng, xác định nguyên nhân, quy rõ trách nhiệm
và có kiến nghị xử lý. Kết luận đánh giá của thanh tra là kết luận chính thức
của người đại diện cho nhà nước.
Người thực hiện thanh tra phải có "tư cách pháp lý" khác với những
người thực hiện kiểm tra, kiểm soát nhằm đảm bảo cho công tác thanh tra
thực thi đúng và tuân thủ pháp luật, để người cán bộ tiến hành thanh tra có
thể phát huy hết các quyền của mình với đối tượng bị thanh tra khi cần thiết.
1.2.1.2- Khái niệm thanh tra NHTW
Thanh tra NHTW là thanh tra chuyên ngành về ngân hàng do NHTW
tiến hành đối với các ngân hàng trung gian. Hoạt động thanh tra ngân hàng
nhằm mục đích góp phần đảm bảo an toàn cho các ngân hàng trung gian, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, thông qua đó bảo vệ lợi ích
của nền kinh tế, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật của các ngân hàng trung
gian và việc thực thi các chính sách tài chính, tiền tệ của một quốc gia.
Khoản 1, Điều 50, Luật NHNN Việt Nam quy định: Thanh tra ngân hàng
là thanh tra Nhà nước chuyên ngành về ngân hàng, được tổ chức thành hệ
thống thuộc bộ máy NHNN. Mục đích của thanh tra ngân hàng là nhằm góp
phần đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
Đối tượng của thanh tra ngân hàng là các tổ chức tín dụng; hoạt động
ngân hàng của các tổ chức không phải TCTD được NHNN cấp giấy phép;
các cơ quan Nhà nước, các tổ chức KTXH và cá nhân trong việc thực hiện
các quy định của pháp luật về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng.
Các tổ chức tín dụng bao gồm: các TCTD nhà nước (NHTM Nhà
nước, Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách và
9
tổ chức tín dụng phi ngân hàng); Các TCTD cổ phần (NHTM cổ phần, và
các tổ chức tín dụng cổ phần phi ngân hàng); Các TCTD nước ngoài
(TCTD liên doanh, TCTD phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi
nhánh của Ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước
ngoài); Các TCTD hợp tác (Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương, Quỹ tín
dụng nhân dân cơ sở, Hợp tác xã tín dụng).
1.2.2- Sự cần thiết của hoạt động thanh tra của NHTW đối với các
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một ngành kinh doanh đặc thù trong nền kinh tế hàng hoá,
hoạt động của Ngân hàng có tính dây chuyền và ảnh hưởng đến tất cả các
lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Ngân hàng là trung gian, là cầu
nối giữa người gửi tiền và người cần vay tiền. Một khi Ngân hàng mất tính
ổn định sẽ ảnh hưởng đến các khâu khác và làm cho toàn bộ hệ thống tài
chính bị ảnh hưởng theo. Hoạt động ngân hàng luôn gắn liền với rủi ro. Rủi
ro sụp đổ ngân hàng có tính dây chuyền, khi một NHTM bị vỡ nợ thì sẽ dễ
dàng kéo theo sự đổ vỡ của các NHTM khác. Bên cạnh đó, có một bộ phận
cán bộ ngân hàng ý thức chấp hành luật pháp còn yếu, hoặc tìm cách vận
dụng những kẽ hở, những điểm còn chưa chặt chẽ của pháp luật và chính
sách để mưu lợi cho cá nhân, làm tăng rủi ro trong hoạt động ngân hàng, gây
ảnh hưởng xấu đến lợi ích và uy tín của nhà nước, của ngành.
Chính vì vậy, để đảm bảo an toàn, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật của
các NHTM, hoạt động thanh tra của NHTW đối với các NHTM là hết sức
cần thiết. Một mặt, thanh tra NHTW kiểm soát việc tuân thủ pháp luật của
NHTM, mặt khác thanh tra NHTW cũng giúp cho NHTM hoạt động có hiệu
quả hơn, giảm bớt rủi ro, giúp NHTM phát triển lành mạnh. Thanh tra
NHTW cũng đảm bảo sân chơi bình đẳng cho các NHTM, giữ ổn định trong
hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM.
10
Thông qua việc thanh tra NHTM, NHTW tìm ra những điểm bất hợp lý,
những sai phạm trong hoạt động nghiệp vụ, từ đó đề ra các giải pháp và kiến
nghị kịp thời nhằm phục vụ cho mục tiêu quản lý, góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các NHTM.
1.2.2- Nội dung hoạt động thanh tra của NHTW đối với các NHTM
Ngân hàng Trung ương giám sát thường xuyên việc thực hiện quy
chế an toàn trong hoạt động của các TCTD. Đây là một nội dung quan
trọng trong hoạt động thanh tra của NHTW đối với các NHTM, được
thực hiện bằng cách thanh tra NHTW ở tại cơ quan NHTW nhưng thường
xuyên thu thập thông tin về hoạt động của các TCTD từ nhiều kênh thông
tin khác nhau, thông qua đó phân tích đánh giá tình hình hoạt động của
các TCTD để giám sát sự an toàn trong hoạt động của các TCTD. Nội
dung này gọi là giám sát từ xa.
Thanh tra NHTW thực hiện thanh tra NHTM trong việc chấp hành pháp
luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, việc thực hiện các quy định trong giấy
phép thành lập và hoạt động, giấy phép hoạt động ngân hàng của đối tượng
thanh tra ngân hàng. Công việc này thực hiện bằng cách thanh tra NHTW
thành lập các đoàn thanh tra tới trực tiếp tại các NHTM để tiến hành thanh tra,
kiểm tra các hoạt động cụ thể tại NHTM. Nội dung này gọi là thanh tra tại
chỗ.
Thông qua giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, Thanh tra NHTW sẽ xem
xét, đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro và tình hình tài chính của
đối tượng thanh tra ngân hàng. Việc phân tích, đánh giá dựa trên những tiêu
chí được quy định cụ thể và có thể thay đổi theo từng thời kỳ để phù hợp với
trình độ phát triển của các NHTM và phù hợp với các thông lệ quốc tế trong
quá trình hội nhập kinh tế.
11
Sau khi phân tích, đánh giá và đưa ra được các kết luận thanh tra, Thanh
tra NHTW sẽ yêu cầu đối tượng thanh tra ngân hàng có biện pháp hạn chế,
giảm thiểu và xử lý rủi ro để bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và phòng
ngừa, ngăn chặn hành động dẫn đến vi phạm pháp luật.
Thanh tra NHTW sử dụng quyền lực, chức năng của mình để chế tài
các vi phạm của đối tượng thanh tra. Thanh tra NHTW thực hiện các biện
pháp ngăn chặn và xử lý vi phạm theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng.
Bên cạnh việc chấn chỉnh đối với các đối tượng thanh tra, Thanh tra
NHTW còn kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để sửa đổi, bổ
sung, huỷ bỏ hoặc ban hành các văn bản QPPL phù hợp với quy định của pháp
luật và yêu cầu quản lý của nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân
hàng. Nội dung này của hoạt động thanh tra sẽ giúp cho hệ thống pháp luật về
tiền tệ và hoạt động ngân hàng được hoàn thiện, áp dụng phù hợp trong thực
tế.
1.2.3- Các phương thức thanh tra của NHTW đối với NHTM
1.2.3.1- Phương thức giám sát từ xa
a, Khái niệm
Giám sát từ xa là việc gián tiếp kiểm tra thông qua tổng hợp và phân
tích các báo cáo để đánh giá các nội dung hoạt động của tổ chức tín dụng. Về
cơ bản, hệ thống giám sát từ xa là một hệ thống thông tin. Đó là việc sử dụng
phương pháp phân tích bảng cân đối kế toán và các chỉ tiêu thống kê định kì
của NHTM để những nhà làm công tác quản lý vĩ mô nắm được một cách
thường xuyên tình hình, báo động cho NHTM những vấn đề cần thiết, kiến
nghị những biện pháp khắc phục thích hợp, kịp thời và "chỉ điểm" cho thanh
tra tại chỗ những vấn đề trọng tâm, trọng điểm đỡ tốn thời gian và công sức.
12
Xuất xứ của phương thức này từ hệ thống ngân hàng Mỹ vào những
năm 70, là thời kì có nhiều ngân hàng lớn của Mỹ rơi vào tình trạng khó
khăn, khủng hoảng, mặc dù ở Mỹ có hệ thống thanh tra của NHTW và cơ
quan Bảo hiểm tiền gửi rất mạnh. Qua nghiên cứu, các nhà quản lý ngân
hàng phát hiện những "rắc rối" và hiện tượng trên phần lớn đều phát sinh
trong thời gian "khoảng trống" giữa hai thời kì thanh tra tại chỗ. Để khắc
phục điều này họ đã đưa ra phương pháp giám sát từ xa nhằm giám sát
thường xuyên hoạt động của các NHTM. Phương pháp này sau đó được
nhiều nước nghiên cứu và dần dần được áp dụng phổ biến đối với hoạt động
thanh tra của ngân hàng trung ương các nước, cuối cùng trở thành một biện
pháp nghiệp vụ hữu hiệu không thể thiếu được trong quá trình giám sát hoạt
động các NHTM.
Như vậy, phương thức giám sát từ xa nhằm kiểm soát thường xuyên ở
tầm vĩ mô hoạt động của NHTM và các trung gian tài chính khác, là phương
pháp bổ sung cho phương pháp thanh tra tại chỗ. Mục tiêu giám sát từ xa
hoạt động của các NHTM là:
Giám sát việc các NHTM có đảm bảo an toàn trong hoạt động hay
không, từ đó giúp các Ngân hàng giữ uy tín với khách hàng, đây là tài sản
quý giá nhất trong kinh doanh ngân hàng.
Giám sát việc NHTM có tuân thủ nghiêm túc luật pháp và quy chế ngân
hàng hay không, trong đó quan trọng nhất là các quy chế quản lý vĩ mô và
các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ.
Giám sát việc các NHTM kinh doanh có hiệu quả hay không, bởi vì đã
kinh doanh là phải có lãi. Nếu bị thua lỗ thì dẫn đến việc cổ đông không
những không được hưởng quyền lợi mà còn bị hụt vốn, ảnh hưởng đến quá
trình kinh doanh. Nếu lỗ nặng và kéo dài, sẽ dẫn đến sự sụp đổ ngân hàng.
b, Nội dung phương thức giám sát từ xa.
Phương thức giám sát từ xa của NHTW đối với các NHTM bao gồm các
13
nội dung sau:
- Thu thập, tổng hợp và xử lý các tài liệu, thông tin, dữ liệu theo yêu cầu
giám sát ngân hàng.
- Xem xét, theo dõi tình hình chấp hành các quy định về an toàn hoạt
động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật về tiền tệ và hoạt động
ngân hàng, việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh
tra, giám sát ngân hàng.
- Phân tích, đánh giá tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành
và mức độ rủi ro của tổ chức tín dụng.
- Phát hiện, cảnh báo các rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng và
nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
- Kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý rủi ro, vi
phạm pháp luật.
Để thực hiện các nội dung đó, NHTW ở các quốc gia khác nhau có thể
dựa vào các tiêu chí khác nhau, nhưng việc thu thập thông tin, phân tích và
đánh giá thường được tập trung vào sáu yếu tố mà theo các nhà kinh tế thì đó
là sáu yếu tố có vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của một ngân
hàng (gọi là lý thuyết CAMELS), đó là:
+ Vốn của ngân hàng: Capital.
+ Chất lượng tài sản có: Asset quality.
+ Khả năng quản lý: Management ability.
+ Khả năng sinh lời: Earning.
+ Khả năng thanh toán: Liquidity.
+ Tính nhạy cảm: Sensitivity.
* Giám sát vốn của ngân hàng (Capital):
Vốn của ngân hàng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng nhưng có vai trò hết sức quan trọng trong việc chống phá sản
ngân hàng, quyết định quy mô kinh doanh và phạm vi kinh doanh của
14
NHTM. Do đó giám sát vốn tự có là một nội dung giám sát của thanh tra
ngân hàng. Vốn của ngân hàng bao gồm vốn pháp định, các quỹ dự trữ, lợi
nhuận không chia, chênh lệch đánh giá lại tài sản.
Các tỷ lệ giám sát vốn của ngân hàng bao gồm: Tỷ lệ đầu tư cổ phần
hoặc liên doanh so với vốn tự có; Tỷ lệ cho vay các đối tượng ưu đãi so với
vốn tự có; Mức huy động tiền gửi so với vốn tự có.
Hệ số an toàn vốn tự có (H) =
Trong đó:
Tài sản có rủi ro quy đổi =
Hệ số H còn gọi là hệ số Cooke. Hệ số Cooke là thước đo độ bền của
mỗi ngân hàng. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, đối với một ngân
hàng, sẽ đạt mức an toàn cao khi duy trì hệ số H ≥ 8%. Mặc dù thời gian gần
đây có nhiều bàn cãi xung quanh vấn đề này nhưng việc tham khảo và vận
dụng hệ số Cooke đã hỗ trợ rất nhiều cho công tác quản trị ngân hàng tại
nhiều quốc gia trên thế giới.
* Giám sát chất lượng tài sản có (Asset quality):
Tài sản có của một NHTM là kết quả của việc sử dụng vốn của ngân
hàng đó, nó bao gồm tất cả các khoản mục bên phải của bảng cân đối tài sản
của NHTM, đó là: Tài sản ngân quỹ, tài sản cho vay, tài sản đầu tư và tài sản
cố định. Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững
về mặt tài chính, khả năng sinh lời, năng lực quản lý và phần lớn rủi ro trong
hoạt động kinh doanh tiền tệ. Tài sản có được phân thành 2 nhóm: tài sản có
có khả năng sinh lời và tài sản có không có khả năng sinh lời, trong đó quan
trọng nhất là tài sản có có khả năng sinh lời vì nó quyết định hiệu quả kinh
doanh của một ngân hàng. Vì vậy, chất lượng tài sản có là một chỉ tiêu quan
trọng mà thanh tra ngân hàng phải tập trung phân tích.
Giám sát tài sản có là việc đánh giá các nhóm tài sản có từng loại cho
15
vay, từng loại dịch vụ theo một chuẩn mực nhất định sau đó tổng hợp các
tiêu chí này để đưa ra đánh giá cuối cùng về chất lượng tài sản có. Thông
thường, phân tích chất lượng tài sản có trước hết phải xem xét tính hợp lý
trong cơ cấu của nó nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu nâng cao mức doanh lợi,
đồng thời đảm bảo khả năng thanh toán với khách hàng. Để đánh giá tính
hợp lý trong cơ cấu tài sản có của một NHTM có thể sử dụng 2 chỉ số sau:
+ Chỉ số cơ cấu tỷ lệ của 4 nhóm tài sản có: ngân quỹ, cho vay, đầu tư
và tài sản cố định. Ngân hàng nào có tỷ trọng tài sản cho vay và tài sản đầu
tư càng lớn với điều kiện đảm bảo những tỷ lệ thích đáng cho tài sản ngân
quỹ và tài sản cố định thì cơ cấu tài sản có của ngân hàng đó càng hợp lý.
+ Chỉ số cơ cấu tỷ lệ của 2 nhóm tài sản có sinh lời và không sinh lời.
Chỉ số này cho thấy mức độ tận dụng các nguồn vốn của một ngân hàng để tối
đa hoá lợi nhuận. Tài sản có không sinh lời như tiền mặt, tiền gửi dự trữ, tài
sản cố định là quan trọng không thể thiếu nhằm đảm bảo khả năng thanh toán,
phòng tránh rủi ro cho NHTM. Nhưng chỉ có tài sản có có khả năng sinh lời
cho NHTM, đảm bảo cho NHTM tồn tại và phát triển. Do đó tài sản có có khả
năng sinh lời phải chiếm tỷ trọng áp đảo so với nhóm không sinh lời.
Mặt khác, chất lượng tài sản có còn thể hiện ở chỉ tiêu chất lượng tín
dụng và tác động của nó đối với tình hình tài chính của NHTM. Chỉ tiêu cơ
bản để đánh giá chất lượng tín dụng là chỉ số tài sản đọng:
Chỉ số tài sản đọng =
Với chỉ tiêu này, người ta có thể nhận xét mức độ của tài sản có đọng
nói chung trong một thời kỳ nhất định của một ngân hàng. Khi chỉ tiêu này
bằng hoặc lớn hơn 50% thì có thể khẳng định khả năng thanh toán và khả
năng sinh lời của ngân hàng này đang bị suy yếu, nếu không có giải pháp
thích hợp có thể dẫn tới sự phá sản.
Giám sát chất lượng tài sản có còn được đánh giá trên góc độ tài sản
16
đảm bảo của khoản vay. Vì tài sản đảm bảo góp phần làm nhẹ mức độ
nghiêm trọng của nợ xấu hay tài sản đọng. Và tình trạng ngoại hối thể hiện
giá trị tài sản có đánh giá bằng ngoại tệ ở trạng thái thường thế hay đoản thế,
để biết được nguy cơ rủi ro có thể gặp trong kinh doanh ngoại hối.
* Giám sát khả năng quản lý (Management ability):
Lý thuyết CAMELS cho rằng khả năng quản lý của mỗi ngân hàng là
yếu tố năng động nhất. Nếu khả năng quản lý tốt có thể biến một ngân hàng
hoạt động yếu kém thành một ngân hàng hoạt động tốt và ngược lại. Nói đến
khả năng quản lý là nói đến yếu tố con người, yếu tố tổ chức và chính sách.
Việc đánh giá khả năng quản lý thể hiện qua các nội dung sau:
+ Năng lực đề ra sách lược kinh doanh để ngân hàng đủ sức cạnh tranh
và đứng vững trong thị trường.
+ Kế hoạch triển khai công việc một cách hợp lý.
+ Phương thức quản lý nghiệp vụ, quy trình thực hiện nghiệp vụ đảm
bảo tuân thủ các quy định.
+ Cơ cấu tổ chức hợp lý, phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn
giữa nhân viên và người điều hành của các bộ phận.
+ Chính sách nhân sự hợp lý, khuyến khích các thành viên tích cực làm
tốt công việc được giao, tuân thủ kỷ luật lao động tốt.
Trong quá trình hoạt động, tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng quản lý
của ban lãnh đạo ngân hàng, bao gồm: Hiệu quả kinh doanh; Sự tuân thủ
pháp luật, chính sách, chế độ trong kinh doanh; Độ tín nhiệm trong môi
trường kinh doanh với khách hàng và ngân hàng khác.
* Giám sát khả năng sinh lời (Earning):
Lý thuyết CAMELS cho rằng kinh doanh có lãi mới tạo được sinh lực
cho ngân hàng tồn tại và phát triển. Khả năng sinh lời được thể hiện ở các
khía cạnh sau:
+ Các hoạt động kinh doanh phải tạo ra thu nhập, tránh rủi ro và phải bù
17
đắp được khi có rủi ro.
+ Chi phí hoạt động của ngân hàng kể cả những khoản lỗ của năm
trước.
+ Những khoản tổn thất trong năm kế toán, đặc biệt là những khoản tổn
thất cho vay.
+ Đảm bảo một tỷ lệ tài sản có sinh lời trên tổng tài sản có.
+ Thu nhập tính theo bình quân tài sản có cao.
+ Chi phí cho huy động vốn thấp.
+ Chi phí cho những khoản tổn thất tring năm thấp.
+ Chi phí cho sản xuất kinh doanh hợp lý.
Khả năng sinh lời còn được đánh giá qua các chỉ tiêu:
Hệ số hiệu quả vốn tự có=
Hệ số này nhằm theo dõi vốn tự có tăng sẽ dấn đến thu nhập tăng như thế nào.
Hệ số hiệu quả vốn tự có=
Hệ số này cho biết khả năng sinh ra lợi nhuận.
Hệ số thu và chi =
Hệ số này phản ánh tương quan thu và chi.
Giám sát khả năng thanh toán (Liquidity):
Khả năng thanh toán là một tiêu chí hoạt động quan trọng của NHTM.
Đây là một yếu tố hết sức nhạy cảm đối với hoạt động của một ngân hàng.
Thực tiễn, đã cho thấy răng có nhiều ngân hàng mặc dù có chất lượng tài sản
có tốt nhưng khi có một dòng tiền rút ra mà ngân hàng không đảm bảo được
khả năng chi trả dẫn đến mất tín nhiệm với khách hàng thì có thể đưa ngân
hàng đến chỗ phá sản. Việc thanh tra giám sát khả năng thanh toán dựa trên
hai chỉ số cơ bản sau:
+ Các NHTM phải thường xuyên duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa tài sản có
động so với tổng số tiền gửi, đồng thời phải chú ý tới thành phần tiền gửi dễ
biến động, mối quan hệ giữa tài sản có động và tài sản nợ động, nhằm đảm
bảo khả năng thanh toán của ngân hàng.
18
+ Các NHTM phải thường xuyên duy trì nguồn tiền mặt và nguồn tiền
gửi không kỳ hạn hoặc các tài sản tài chính có thể chuyển đối ngay thành
tiền mặt ở mức hợp lý.
Có thể dùng các chỉ số sau để đánh giá:
Khả năng thanh toán =
Vì tài sản nợ có khả năng biến động là dùng để chỉ các khoản tiền gửi
dễ bị rút ra hoặc không giữ đúng kỳ hạn, do vậy hệ số này càng nhỏ càng tốt,
tức là khả năng thanh toán của ngân hàng sẽ được nâng lên.
Khả năng thanh toán =
Hệ số này càng nhỏ càng tốt tức là khả năng thanh toán của NHTM sẽ
chắc chắn hơn.
* Giám sát độ nhạy cảm đối với rủi ro thị trường (Sensitivity):
Hoạt động kinh doanh tiền tệ là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm, chịu tác
động của nhiều mối quan hệ đan xen trên thị trường. Một trong những yếu tố
có thể giúp ngân hàng tránh được rủi ro do thị trường mang lại hoặc không
bỏ lỡ cơ hội kinh doanh đó là tính nhạy cảm. Vì vậy, tính nhạy cảm đối với
rủi ro của thị trường cũng là một mục tiêu của GSTX. Đối với vấn đề này,
cần đánh giá các yếu tố sau:
+ Khả năng của ban giám đốc trong việc phát hiện, đo lường, giám sát,
kiểm soát việc đương đầu với các rủi ro về lãi suất và hối đoái
+ Mức độ nhạy cảm của lợi nhuận tài chính ròng hoặc giá trị kinh tế
vốn của ngân hàng đối với thay đổi về lãi suất trong các phương án và trong
các môi trường căng thẳng.
+ Khối lượng, cơ cấu và mức độ biến động của ngoại tệ hoặc các hợp
đồng thương mại khác do ngân hàng thực hiện.
+ Mức độ biến động thực tế hoặc tiềm tàng của lợi nhuận hoặc vốn do
các thay đổi trong thị trường của các danh mục thương mại hoặc các công
cụ tài chính.
19
Sau khi đánh giá các tiêu chí nêu trên, thanh tra NHTW sẽ tiến hành xếp
loại các NHTM.Trên cơ sở đó, đề ra các giải pháp thích ứng đối với từng
ngân hàng được thanh tra. Các NHTM có thể được xếp thành 5 loại (hay 5
bậc) sau:
Bậc 1: Mạnh. Là những ngân hàng đảm bảo tính hợp lý ở tất cả các khía
cạnh, chỉ tìm thấy một vài điểm yếu không đáng kể, không cần đến sự phản
ứng của thanh tra.
Bậc 2: Thoả mãn. Là những ngân hàng về cơ bản là hợp lý với một số
điểm yếu không đáng kể có thể khắc phục được. Phản ứng của thanh tra là
không đáng kể.
Bậc 3: Trung bình (đối với hạng này cần phải theo dõi). Là những ngân
hàng đã thể hiện một số điểm yếu nếu không chấn chỉnh sẽ trở nên trầm
trọng. Trường hợp này cần phải thanh tra cao hơn mức bình thường. Thanh
tra ngân hàng có thể tiến hành các cuộc viếng thăm để kiểm tra việc chấp
hành biên bản thanh tra.
Bậc 4: Tới hạn (có thể rui ro về khả năng thanh toán). Là những ngân
hàng có các điểm yếu hơn mức bình thường, nếu không được đề cập đúng
đắn thì có thể làm phương hại đến sự sống còn của ngân hàng trong tương
lai. Đối với những ngân hàng này cần phải tiến hành thanh tra chặt chẽ.
Bậc 5: Không thoả mãn (thể hiện rõ ràng về khả năng không thanh toán
được nợ). Là những ngân hàng đã thể hiện mức độ rủi ro cao, có thể áp dụng
lệnh đóng cửa hoặc ngừng hoạt động. Đối với loại này phải thanh tra liên tục
(có thể cử 1 thanh tra viên có mặt liên tục tại ngân hàng).
Quy định về các tiêu chí giám sát từ xa của Việt Nam, việc giám sát từ
xa thực hiện các tiêu chí sau: Diễn biến về cơ cấu tài sản nợ - tài sản có; Chất
lượng tài sản có; Vốn tự có; Tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh
doanh; Việc thực hiện quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động
của TCTD và các quy định khác của pháp luật; Và các vấn đề liên quan
20
khác Sau khi thực hiện GSTX, thanh tra sẽ thông báo những vấn đề cần lưu
ý tới đối tượng giám sát, đề xuất các kiến nghị về biện pháp khắc phục và
hình thức xử phạt, đồng thời báo cáo kết quả cho Ban lãnh đạo, gửi cho cán
bộ chuyên quản hoạt động các NHTM để khai thác và theo dõi.
1.2.3.2- Phương thức thanh tra tại chỗ
a, Khái niệm.
Thanh tra tại chỗ là phương pháp thanh tra truyền thống, là việc thanh
tra được tổ chức tại nơi làm việc của đối tượng thanh tra và tại các tổ chức
kinh tế, cá nhân là khách hàng của ngân hàng trên cơ sở kiểm tra, xem xét
các văn bản, thông tư chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện cơ chế, quy chế của
ngành; xem xét các báo cáo kế toán - thống kê, các chứng từ, tài liệu, sổ sách,
hợp đồng có liên quan đến hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn và công
tác kế toán - tài chính của đố tượng được thanh tra.
Lợi thế của thanh tra tại chỗ là thanh tra ngân hàng có thể có được các
căn cứ cụ thể, những chứng cứ pháp lý để đánh giá và xử lý vi phạm của
TCTD. Tuy nhiên thực hiện thanh tra tại chỗ là tốn kém cả về chi phí và nhân
lực, không thực hiện được thường xuyên và toàn diện. Do đó để hoạt động
thanh tra ngân hàng đạt hiệu quả cao cần kết hợp cả hai phương pháp GSTX
và thanh tra tại chỗ.
Thanh tra tại chỗ có các nhiệm vụ chính là:
- Đánh giá tình hình chấp hành pháp luật và các quy định trong
hoạt động kinh doanh và tài chính của đối tượng thanh tra trong một
thời kì nhất định.
- Xem xét việc thực hiện các quy định của cấp trên.
- Giúp cho các NHTM thấy được những mặt tích cực, những khuyết
điểm và tồn tại; kiến nghị những biện pháp chấn chỉnh để đưa hoạt động
ngân hàng đúng pháp luật, ổn định và phát triển.
- Qua thực tiễn kiểm tra phát hiện những vấn đề mới, những vấn đề
21
chưa hợp lý để kiến nghị xây dựng mới, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, quy
chế hoạt động của nhà nước, của ngành.
Phương pháp thanh tra tại chỗ thường được tổ chức thành đoàn thanh
tra cho mỗi cuộc thanh tra tại một đơn vị trong một thời gian nhất định. Đoàn
thanh tra thường được tổ chức từ 3-5 người, có một trưởng đoàn và có thể có
phó đoàn thanh tra. Trưởng đoàn thanh tra là chánh, phó thanh tra hoặc
thanh tra viên. Đoàn thanh tra được sử dụng cộng tác viên trong giới hạn quy
định.
b, Nội dung thanh tra tại chỗ:
Thanh tra có thể được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất. Nội dung của
cuộc thanh tra định kỳ bao gồm một số hay toàn bộ các mặt nghiệp vụ sau:
- Thanh tra quản trị điều hành.
- Thanh tra nguồn vốn.
- Thanh tra chất lượng tín dụng.
- Thanh tra nghiệp vụ bảo lãnh.
- Thanh tra hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
- Thanh tra hùn vốn liên doanh.
- Thanh tra nghiệp vụ tài chính - kế toán.
Nội dung của thanh tra đột xuất có thể giống nội dung thanh tra định kì
hoặc có thể chỉ là một trong những nội dung cụ thể, nghĩa là tuỳ nhu cầu
thực tế phát sinh vụ việc để xác định nội dung thanh tra.
Các nội dung cụ thể cần thực hiện khi tiến hành thanh tra tại chỗ bao gồm:
+ Xem xét công tác kiểm toán nội bộ.
+ Kiểm kê tồn quỹ tiền mặt, kim khí, đá quý và các loại tài sản có giá
trị khác.
+ Xác định tính chính xác của báo cáo cân đối và các báo cáo biểu
thống kê khác gửi thanh tra.
+ Kiểm tra các khoản thu lãi và trả lãi.
22