Lời mở đầu
L
ãi suất không chỉ là một phạm trù kinh tế mang tính chất tổng hợp,
đa dạng và phức tạp mà đây cịn là một trong những cơng của chính
sách tiền tệ, rất nhạy cảm và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển và ổn
định kinh tế của một quốc gia. Lãi suất hợp lý sẽ là địn bẩy quan trọng
thúc đẩy sản xuất và lưu thơng hàng hoá phát triển và ngược lại.
Sau hơn mười năm đổi mới, chính sách lãi suất của Việt Nam đã góp
phần thực hiện tốt các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia đồng thời
được đổi mới mạnh mẽ, thận trọng và từng bước phù hợp với từng giai
đoạn. Tuy nhiên, vẫn cịn có những tồn tại, hạn chế trong chính sách lãi
suất.
Thực tiễn khách quan địi hỏi phải có một sự đổi mới sâu rộng trong
việc sử dụng công cụ lãi suất cho phù hợp với thông lệ quốc tế và điều
kiện thực hiện của thị trường tiền tệ trong nước. Vì thế, xây dựng một
chính sách lãi suất hiệu quả trên cơ sở phù hợp với tiến trình hội nhập của
đất nước vừa đảm bảo sự định hướng của Nhà nước đang là bài toán đặt ra
cho các nhà hoạch định chính sách. Do đó có thể thấy, nghiên cứu về chính
sách lãi suất và định hướng đổi mới và hồn thiện lãi suất có ý nghĩa thực
tiễn cao.
Trong khn khổ một đề án, em xin trình bày những vấn đề chung
nhất về lãi suất và chính sách lãi suất đồng thời phân tích chính sách lãi
suất Việt Nam thời gian qua ,nhận rõ xu thế phát triển của chính sách lãi
suất, từ đó đưa ra đề xuất góp phần hồn thiện chính sách lãi suất.
Do cịn hạn chế về trình độ cũng như về kiến thức thực tế nên đề án
của em cịn nhiều sai sót. Em rất mong sẽ nhận được sự chỉ bảo, góp ý của
các thày cô giáo, đặc biệt là thày giáo Đàm Viết Huệ để bài viết này hoàn
chỉnh hơn.
1
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ
LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
1. Lãi suất trong cơ chế thị trường.
1.1. Lãi suất và một số loại lãi suất.
1.1.1. Khái niệm.
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất là một trong những biến số kinh
tế vĩ mô được quan tâm và theo dõi chặt chẽ. Trong kinh doanh, hiện tượng
thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra đối với các chủ thể kinh tế.
Với tư cách trung gian tài chính, hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín
dụng ra đời thu hút mọi khoản tiền nhàn rỗi, cung ứng cho nền kinh tế dưới
nhiều hình thức, đẩy mạnh quá trình vận động, ln chuyển của đồng tiền,
góp phần điều hồ và phân bổ hợp lý nguồn vốn trong nền kinh tế.
Khi nghiên cứu về tư bản, Mác đã kết luận: lãi suất cũng là phần giá
trị thặng dư được tạo ra do kết quả bóc lột lao động làm thuê và bị bọn tư
bản - chủ ngân hàng chiếm đoạt. Vì thế, lãi suất là giá cả của một số tiền
vay.
Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ của Keynes lại cho
rằng: lãi suất chính là sự trả cơng cho số tiền vay, là phần thưởng cho "sở
thích chi tiêu tư bản ". Lãi suất do đó cịn được gọi là công trả cho sự chia
li với của cải tiền tệ.
Còn Samuelson, đại diện cho trường phái trọng tiền đứng trên giác độ
chi phí, coi lãi suất là chi phí cơ hội của việc giữ tiền.
Cho dù lãi suất được hiểu theo khái niệm nào thì về bản chất, lãi suất
là tỷ lệ % của phần tăng thêm so với phần vốn vay ban đầu, là giá cả của
quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử
dụng trả cho người sở hữu nó.
1.1.2. Phânloại lãi suất.
1.1.2.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng: có 3 loại.
- Lãi suất tín dụng ngắn hạn: áp dụng đối với các khoản tín dụng có
thời hạn dưới 1 năm.
2
- Lãi suất tín dụng trung hạn: áp dụng với các khoản tín dụng có thời
hạn từ 1 năm tới 3 hoặc 5 năm, tuỳ theo quy định của từng nước.
- Lãi suất tín dụng dài hạn: áp dụng với các khoản tín dụng dài hạn,
thời hạn trên 5 năm.
1.1.2.2. Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất.
- Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền
tệ tại thời điểm nghiên cứu.
- Lãi suất thực: là lãi suất đã được điều chỉnh theo những biến đổi
của lạm phát.
ir = in - e
Vì được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi vì lạm phát nên
lãi suất thực phản ánh một cách chính xác chi phí của quan hệ tín dụng.
1.1.2.3. Căn cứ vào sự ổn định của lãi suất.
- Lãi suất cố định: là lãi suất được áp dụng cố định trong suốt thời
hạn vay.
- Lãi suất thả nổi là lãi suất có thể thay đổi lên xuống, có thể báo
trước hoặc khơng báo trước.
1.1.2.4. Căn cứ vào phương pháp tính.
- Lãi suất đơn: là lãi suất tính một lần trên số vốn gốc cho suốt kỳ
hạn vay.
I = n *i *Co
Trong đó :
I: Số tiền lãi.
n : số thời kỳ gửi vốn.
i : lãi suất
Co: vốn gốc
Hình thức lãi suất này thường áp dụng cho các khoản tín dụng ngắn
hạn và việc trả nợ được thực hiện một lần khi đến hạn.
- Lãi suất kép : là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư lại của lợi
tức thu được trong khoảng thời gian sử dụng tiền vay
C = Co (1 + i )n
Trong đó : C: Số tiền thu được theo lãi gộp sau n kỳ
3
Co: Số vốn gốc
i: Lãi suất
n: Số thời kỳ gửi vốn
- Lãi suất hoàn vốn: là lãi suất cân bằng giá trị hiện tại của tiền thu
nhập nhận được trong tương lai theo một công cụ nợ với giá trị hơm này
của cơng cụ đó.
1.1.2.5. Căn cứ vào loại hình tín dụng : Lãi suất được chia làm 4
loại.
- Lãi suất tín dụng thương mại: áp dụng trong quan hệ mua bán chịu
giữa các doanh nghiệp
Giá của hàng hoá bán chịu – giá cả hàng hoá bán trả ngay
Lstdtm = 100%
____________________________________________________________________________
Giá cả hàng hố bán chịu
- Lãi suất tín dụng ngân hàng : áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng
với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay
trong hoạt động tái cấp vốn của NHTW đối với các NHTM và trong quan
hệ giữa các ngân hàng với nhau trên thị trường liên ngân hàng.
Trong khái niệm lãi suất tín dụng ngân hàng người ta phân biệt:
+ Lãi suất tiền gửi
+ Lãi suất chiết khấu
+ Lãi suất tái chiết khấu
+ Lãi suất liên ngân hàng
+ Lãi suất cơ bản
-Lãi suất tín dụng nhà nước: áp dụng khi Nhà nước đi vay của các
chủ thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái
phiếu. Loại lãi suất này có thể do Nhà nước ấn định căn cứ vào lãi suất tiền
gửi tiết kiệm ngân hàng, và các yếu tố khác như sự biến động của lạm phát,
nhu cầu cấp thiết về vốn của Nhà nước… hoặc được hình thành thơng qua
hoạt động đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Nhà nước.
-Lãi suất tín dụng tiêu dùng: áp dụng khi doanh nghiệp cho người
tiêu dùng vay phục vụ cho nhu cầu cá nhân. Mức lãi suất tín dụng tiêu dùng
4
này thường cao hơn lãi suất tín dụng ngân hàng và lãi suất tín dụng Nhà
nước.
1.2. Vai trị của lãi suất trong cơ chế thị trường.
Lãi suất có vai trị và ảnh hưởng to lớn tới sự phát triển và ổn định
kinh tế của một quốc gia. Lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy
sản xuất và lưu thơng hàng hố phát triển và ngược lại. Vì thế, việc hoạch
định chính sách lãi suất phải tn thủ những nguyên tắc nhất định, đảm bảo
lãi suất thoả mãn các yêu cầu mà nền kinh tế đặt ra.
Trong nền kinh tế thị trường, người đi vay cũng như người cho vay
có thể là các doanh nghiệp, các cá nhân, hộ gia đình, chính phủ hoặc người
nước ngồi. Đối với người đi vay, lãi suất tạo nên chi phí, làm giảm lợi
nhuận của người vay. Còn với người cho vay, lãi suất chính là thu nhập của
họ. Vì thế lãi suất đóng vai trị to lớn trong các quyết định của các chủ thể
kinh tế. Thông qua những quyết định của các chủ thể kinh tế, lãi suất ảnh
hưởng đến sự phát triển cũng như cơ cấu kinh tế của một quốc gia.
Trước hết, lãi suất là công cụ được sử dụng nhằm phân phối hiệu quả
và hợp lý các nguồn lực trong nền kinh tế. Bởi lãi suất chính là phần thu
nhập cho những khoản tiền tiết kiệm hoặc cho vay để đáp ứng vốn cho nền
kinh tế. Khi đầu tư vào một ngành hoặc một dự án nào đó, chúng ta đều
phải quan tâm đến lợi tức thu được so với chi phí ban đầu , làm sao để thu
được lợi nhuận . Có thể nói lãi suất là tín hiệu, là căn cứ cho sự phân bố
hiệu quả các nguồn lực khan hiếm trong xã hội. Thông qua lãi suất, các
doanh nghiệp và các cá nhân, các tác nhân trong nền kinh tế có thể đưa ra
những phương án đầu tư tối ưu nhất.
Ở góc độ vĩ mô, lãi suất trở thành công cụ điều tiết nền kinh tế. Lãi
suất thị trường do quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ ấn định. Đến lượt
nó, lãi suất tác động trở lại đối với hành vi tiêu dùng, đầu tư, từ đó tác động
lên tổng cầu.
Khi cung tiền tệ tăng lên, lãi suất cân bằng trong vĩ mô giảm xuống,
giá trái phiếu tăng lên do giá trị hiện tại của thu nhập tương lai có giá trị
hơn gây ra hiệu ứng của cải và làm dịch chuyển hàm tiêu dùng lên trên.
5
Tiêu dùng sẽ tăng ở mỗi mức thu nhập. Tín dụng tiêu dùng tăng lên do khả
năng tín dụng và khả năng trả nợ vay tín dụng tăng lên.
Đầu tư, kể cả đầu tư bản và vốn cố định vốn luân chuyển hàng tồn
kho đều có mối liên hệ mật thiết tới lãi suất. Khi giá của tư liệu sản xuất
cho một dự án tăng, nghĩa là lợi nhuận dự tính giảm xuống, đầu tư giảm
xuống và ngược lại.
Như vậy có thể nói một sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động tới các
yếu tố của tổng cầu, thông qua đó động tổng cầu và các biến số kinh tế vĩ
mô quan trọng khác. Trong giai đoạn đang phát triển của nền kinh tế lãi
suất có xu hướng tăng do cung cầu quỹ cho vay tăng. Ngược lại, giai đoạn
suy thối, lãi suất có xu hướng giảm xuống.
Rõ ràng chính sách lãi suất phù hợp là cần thiết cho sự phát triển lành
mạnh của nền kinh tế.
2. NGUYÊN TẮC HÌNH THÀNH LÃI SUẤT.
2.1. Ngun tắc bảo tồn vốn.
Lãi suất được coi là giá cả của quyền sử dụng vốn trong một thời
hạn nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Nếu như lãi suất
đối với người đi vay là một khoản chi phí thì lãi suất tạo nên thu nhập đối
với người cho vay. Tuy nhiên, trong nền kinh tế, người vay. Lợi ích thực tế
mà người cho vay được hưởng là lãi suất thực. Nghiên cứu và tìm hiểu về
lãi suất, nhà Kinh tế học I.Fisher đã chỉ ra được mối quan hệ giữa lãi suất
và lạm phát.
ln = ir + e
Trong đó:
ln : lãi suất thực tế
in : lãi suất danh nghĩa
e : lạm phát dự tính
Vì thế bảo tồn vốn là ngun tắc đầu tiên khi hình thành lãi suất
nhằm bảo đảm quyền lợi của người cho vay. Có nghĩa lãi suất danh nghĩa
phải ít nhất bằng tỷ lệ lạm phát dự tính(i n e). Sự bảo đảm này cho phép
6
người cho vay có thể bù đắp được sự biến động rủi ro về giá mà lạm phát
gây ra, bảo toàn vốn kinh doanh cho vay.
2.2. Nguyên tắc bảo đảm tỷ lệ khuyến khích về thu nhập hợp lý cho
người gửi tiền và các tổ chức tín dụng.
Khi đem tiền cho vay, người cho vay không chỉ kỳ vọng khoản vốn
của mình được bảo tồn mà cịn phải sinh lời. Phần thực tế mà người cho
vay được hưởng này là lãi suất thực. Nguyên tắc này đòi hỏi i r > 0. Điều
này chính là lãi suất danh nghĩa mà người cho vay nhận được phải lớn hơn
tỷ lệ lạm phát. Việc đảm bảo có lãi là hợp lý vì nó phù hợp lợi ích người
gửi tiền. Đối với người gửi tiền lãi suất thực là thu nhập, là sự trả công cho
họ cho sự tạm xa rời của cải của họ. Đối với các tổ chức tín dụng cho vay,
lãi suất thực này đảm bảo lợi tích cho người gửi tiền, trang trải các chi phí
nghiệp vụ, bù đắp những rủi ro trong hoạt động tín dụng thương mại và lợi
nhuận ngân hàng. Do đó:Lạm phát < lãi suất tiền gửi < lãi suất cho vay.
2.3. Lãi suất phải đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Nguyên tắc này hình thành trên cơ sở coi lãi suất là địn bẩykinh tế. Điều
kiện của nguyên tắc này là : tỷ lệ lạm phát < lãi suất tiền gửi < lãi suất cho
vay < tỷ suất lợi nhuân bình quân của nền kinh tế
Điều kiện lãi suất cho vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân chỉ ra lãi
suất cho vay của ngân hàng phải nhỏ hơn mức lợi nhuận bình quân của các
ngành sản xuất vật chất trong nền kinh tế. Có như vậy mới bảo đảm các tổ
chức kinh tế sau khi thu được lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh, ngồi việc
trả nợ ngân hàng sẽ cịn lại một khoản lợi nhuận đảm bảo cho tái mở rộng
sản xuất.
Ngồi ra, lãi suất có thời hạn vay mượn càng dài thì càng cao do có
mức độ rủi ro cao hơn.
Đây là những nguyên tắc cơ bản để xác định mức lãi suất hợp lý. vai
3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT.
3.1. Quan điểm của trường phải cổ điển.
Có nhiều quan điểm khác về chính sách lãi suất. Trường phái cổ điển
với các đại biểu là NW Senior, Bond, Baweck, Masshall cho rằng lãi suất
là yếu tố tự động bình quân theo quy luật cung cầu vốn - tiền tệ trên thị
trường thông qua cơ chế điều chỉnh của NHTW và hệ thống NHTM .
7
Trên cơ sở này, mức cầu tiền tệ trong nền kinh tế trong các thời kỳ
khác nhau sẽ được thoả mãn một cách tự nhiên. Khi nền kinh tế tăng
trưởng cao, dự trữ của NHTM đã được huy động hết cho đầu tư trong khi
nền kinh tế vẫn còn cầu về tín dụng cao, NHTW sẽ cung cấp tiền cho hệ
thống NHTM một lượng tiền cung ứng cần thiết cho nền kinh tế theo sự
vận hành của quy luật tối đa hoá lợi nhuận. Các chủ thể kinh tế thoát khỏi
tình trạng kẹt vốn cho đầu tư. Sự gia tăng của mức cần tiền được nguồn
tiền tự nhiên đáp ứng sẽ khơng gây sức ép đối với lãi suất tín dụng vì ngân
hàng sẽ khơng phải q hao tổn sức lự c cho việc huy động tiền gửi cho đầu
tư trung và dài hạn.
Hạn chế của lý thuyết cổ điển là đã coi lãi suất như là nhân tố tạo ra
sự cân bằng giữa nhu cầu đầu tư và tiết kiệm, là giá cả đơn thuần của đầu
tư và coi nhẹ vai trò điều tiết của Nhà nước.
Lý thuyết lãi suất có xu hướng bình qn tự nhiên của trường phái tự
do cổ điển có ảnh hưởng tới nhiều nước phương Tây vào thế kỷ 19.
3.2. Quan điểm của trường phái Keynes.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 M.Keynes đã phê
phán quan điểm của trường phái “lãi suất tự động bình quân” và chủ trương
Nhà nước phải tham gia điều tiết lãi suất và tăng chi tiêu chính phủ khi cần
thiết vào các chương trình mà nền kinh tế tư nhân khơng thể đảm nhận để
kích thích sự tăng trưởng một cách liên tục.
Trường phái này cho rằng, hạ lãi suất tín dụng ln là địn bẩy cho sự
phát triển. Keynes lập luận : thay vì gia tăng huy động vốn bằng biện pháp
thu hút ký thác, NHTW có thể làm gia tăng khối lượng tiền tệ để cung ứng
cho đầu tư trong những thời kỳ mà mức cầu tiền tệ tăng cao bằng cách phát
hành thêm giấy bạc hoặc giảm dự trữ bắt buộc đối với NHTM. Tổng khối
lượng tiền tệ gia tăng sẽ làm giảm sức ép của mức cầu tiền tệ cho đầu tư và
làm giảm lãi suất tín dụng. Lãi suất hạ làm “hiệu quả của tư bản” sẽ được
nâng cao kích thích các doanh nghiệp, mở rộng đầu tư (trung và dài hạn)
tạo sức bật cho tăng trưởng kinh tế.
Tư tưởng của Keynes ảnh hưởng tới nền kinh tế Châu Âu và Bắc Mỹ
cho đến thập niên 80. Những năm 80 đến đầu những năm 90 là thời kỳ
thoái bộ của học thuyết hạ lãi suất của Keynes. Lượng cung tiền tệ dư thừa
8
đã dẫn tới tình trạng lạm phát giá cả. Lúc đó lãi suất thấp khơng cịn ý
nghĩa trong huy động tiết kiệm và kích thích đầu tư. Tư tưởng này đã quá
đề cao vai trò của Nhà nước mà coi nhẹ tính thị trường của lãi suất khiến
cho lãi suất chưa thật sự linh hoạt.
3.3. Quan điểm trường phái chính hiện đại.
Những năm 60-70 của thế kỷ 20, hình thành nên “kinh tế học truờng
phái chính hiện đại” và giữ vai trò thống trị ở Mỹ và Tây Âu đến nay. Đại
diện tiêu biểu cho trường phái này là Samuelson.
Trong nền kinh tế hỗn hợp, một mức lãi suất tín dụng thực (sau khi đã
trừ đi tỉ lệ lạm phát) thấp là đầu mốc của quá trình tăng trưởng kinh tế, kích
thích đầu tư, vai trị địn bẩy kinh tế của lãi suất được đề cao. Tuy nhiên
Nhà nước phải kiểm tra lượng cung tiền tệ thông qua ấn định dự trữ và phát
hành để tạo thành một hỗ trợ vững chắc cho chính sách lãi suất thấp có hiệu
quả.
4. Vấn đề tự do hoá lãi suất.
4.1. Tự do hoá lãi suất là gì?
Tự do hố lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hố tài chính. Ở
đây, lãi suất được tự do biến động, phản ứng theo các lực lượng cung – cầu
vốn trên thị trường, mức tiết kiệm thu nhập, chi tiêu cá nhân và những nhân
tố khác, loại bỏ những áp đặt hành chính lên sự hình thành lãi suất, cho
phép các ngân hàng tự chủ trong ấn định các mức lãi suất của mình.
Khi đó NHTW tác động vào lãi suất chủ yếu dựa trên các cơng cụ
kiểm sốt tiền tệ gián tiếp ảnh hưởng như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết
khấu, hợp đồng mua lại và một phần dựa vào áp đặt tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
4.2. Tính tất yếu của tự do hoá lãi suất.
. Tự do hoá tài chính mà hạt nhân là tự do hố lãi suất đang ngày
càng tỏ rõ những ưu điểm của nó.
Trước hết, khi lãi suất được tự do hoá theo cung cầu về vốn, nó làm cho
nguồn vốn trong nền kinh tế được phân bố hợp lý và hiệu quả. Tự do hoá
lãi suất đem lại khả năng phân bổ nguồn vốn tín dụng khan hiếm cho hàng
ngàn người vay cạnh tranh nhau, đáp ứng đúng thị hiếu của họ, đồng thời
đảm bảo thu hút tiền gửi của hàng triệu người gửi với chi phí hợp lý, phù
9
hợp với mục tiêu của cả ngân hàng và khách hàng gửi tiền. Điều này sẽ
khơng thể có được trong điều kiện lãi suất bị kiểm soát trực tiếp. Bởi cũng
giống như nhiều hình thức kiểm sốt kinh tế khác trong hệ thống XHCN,
kiểm sốt lãi suất khơng có lợi cho cạnh tranh. Các tổ chức tín dụng kém
hiệu quả có thể được bảo vệ từ sức ép tự do cạnh tranh. Mặc khác, lựa chọn
đối nghịch và rủi ro đạo đức là khó khăn lớn gắn với kiểm sốt lãi suất. Cả
hai loại rủi ro này đều có xu hướng nâng lãi suất lên và tăng rủi ro tín dụng.
Lựa chọn đối nghịch chỉ ra khả năng kiểm soát lãi suất sẽ hấp dẫn nhiều
doanh nghiệp chấp nhận rủi ro; nhiều doanh nghiệp lành mạnh sẽ bị loại ra
khỏi thị trường tín dụng do khơng sẵn sàng trả mức lãi suất cao như các
doanh nghiệp đang khó khăn rủi ro đạo đức phát sinh khi cơ chế kiểm tra
giám sát yếu các hoạt động cho vay của ngân hàng, trong trường hợp
người vay ngận được sự bảo trợ ngầm từ Chính phủ. Do đó, lãi suất tự do
sẽ kích thích cho tăng trưởng tài chính, cải tiến và thay đổi cơ cấu mà
Chính Phủ hoặc khơng thể quản lý hoặc chậm thu kết quả.
Mặt khác, một vấn đề đặt ra là hiện nay các doanh nghiệp đòi hỏi hạ
lãi suất trong khi ngân hàng muốn duy trì lãi suất hiện tại.Tự do hoá lãi suất
sẽ làm lãi suất sẽ biến động linh hoạt theo sự phản ứng của thị trường tạo ra
sự cạnh tranh lành mạnh. Giảm thiểu những tranh luận xã hội trong giới tài
chính khi xem xét tính hợp lý hay bất hợp lý của lãi suất áp đặt đồng thời
buộc NHTW thay đổi tư duy làm việc chuyển sang sử dụng các công cụ
điều hành gián tiếp.
Hơn nữa, trong xu thế phát triển chung Toàn cầu hố và Quốc tế hố
của nhân loại, Việt Nam khơng thể đặt mình ngồi cuộc. Trong q trình
này hội nhập và phát triển kinh tế mà điển hình là tồn cầu hố tài chính,
chiếm vai trị chủ đạo. Sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ hiện
đại, sự nỗ lực hết mình của các quốc gia trẻ trong cạnh tranh và thu hút vốn
tăng làm cho luồng vốn quốc tế vận động mạnh mẽ linh hoạt từ nước này
qua nước khác tự do hơn. Điều này cho phép nhiều quốc gia trẻ có thể tận
dụng được nguồn vốn quốc tế, trình độ tiên tiến của các nước đi trước cho
quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mình. Đây là cơ hội lớn cho mỗi
quốc gia nhưng đồng thời tự do hố tài chính đem lại nhiều vấn đề đáng
quan tâm khác như : khả năng xói mịn và suy giảm hiệu quả của việc thực
thi Chính sách tiền tệ thơng qua các cơng cụ điều hành trực tiếp.Vì thế sử
10
dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp đã và đang được Chính phủ các nước sử
dụng như là cơng cụ định hướng thị trường và tiến tới tự do hố tài chính.
Bên cạnh đó, tự do hố cho phép hệ thống ngân hàng tự chủ hơn, dẫn
tới lãi suất tiền gửi và tiền vay cao hơn. Những thay đổi do tự do hố tài
chính tác động tới các doanh nghiệp và hộ gia đình khiến họ thay đổi hành
vi tiết kiệm và đầu tư của mình theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Tăng lãi suất tiền gửi sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiệm nội địa, thay thế cho nguồn
vốn vay nước ngoài tài trợ cho đầu tư. Nguồn tiết kiệm nội địa này được
truyền tải thông qua hệ thống Tài chính – Ngân hàng chính thức. Tiết kiệm
trong nước tăng lên và mức lãi suất cao hơn dẫn tới mở rộng đầu tư và tăng
hiệu quả đầu tư.
Như vậy, tự do hố khơng chỉ là vấn đề mang tính thời đại mà cịn là
tất yếu. Tự do hoá lãi suất là cần thiết cho bất cứ quốc gia nào mong muốn
phát triển nền kinh tế của nước mình một cách lành mạnh.
4.3. Các loại hình tự do hoá lãi suất.
Trong cơ chế tự do hoá lãi suất, nếu Nhà nước hồn tồn khơng can
thiệp đến hệ thống lãi suất thị trường thì đó là cơ chế lãi suất tự do hố
hồn tồn( thả nổi hồn tồn).
Nếu Nhà nước có tham gia can thiệp gián tiếp theo một định hướng
xác định thì đó được coi là cơ chế tự do hố có sự điều tiết.
4.4. Kinh nghiệm một số nước đi trước và một số tác động tiêu cực
của Tự do hoá lãi suất.
Từ thập niên 70, xu hướng chung của thế giới là bãi bỏ lãi suất ấn
định có tính chất hành chính để chuyển sang lãi suất thả nổi. Nhiều nước
phát triển và đang phát triển đã từng bước thực hiện các bước để Tự do hố
lãi suất hệ thống tài chính.
Thực thế cho thấy kiểm sốt lãi suất đã làm giảm vai trị trung gian
tài chính, hình thành và phát triển nhanh các thị trường tài chính phi chính
thức và các tổ chức phi ngân hàng làm cho các nguồn t chính khơng được
chuyển tải tới các hoạt động có hiệu quả nhất. Tự do hố tài chính, đặc biệt
là tự do hố lãi suất là bước đi quan trọng góp phần huy động nguồn lực
thơng qua hệ thống tài chính chính thức, nâng cao hiệu quả của hệ thống tài
chính, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Quá trình này chịu tác động
11
bởi nhiều yếu tố, phụ thuộc vào điểm xuất phát và hoàn cảnh quốc tế của
mỗi nước trong từng giai đoạn.
Xem xét quá trình này ở Malaysia, từ 1981 nước này đã cho phép các
ngân hàng thương mại tự xác định mức lãi suất cơ bản của mình dựa trên
cơ sở chi phí thực tế. Nhưng ngay sau đó NHTW Malaysia đã nhận thấy
trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa thực sự phát triển quyết định trên có
thể dẫn tới khả năng cạnh tranh quá mức giữa các ngân hàng, đe doạ sự an
toàn của hệ thống ngân hàng thương mại. Năm 1987, Malaysia đã chuyển
sang điều hành lãi suất theo hướng vừa đảm bảo sự phối hợp chỉ đạo của
NHTW, vừa đảm bảo quyền tự chủ trong một khuôn khổ nhất định cho các
ngân hàng thương mại. Nhờ đó lãi suất được quản lý theo sự biến động linh
hoạt của thị trường, vừa đảm bảo an toàn cho sự hoạt động của hệ thống
ngân hàng.
Nhật Bản, bên cạnh lãi suất có tính chất định hướng là lãi suất chiết
khấu, NHTW Nhật đã áp dụng một số lãi suất có sự điều tiết được xây
dựng trên cơ sở lãi suất chiết khấu và lãi suất cơ bản trở thành sàn lãi suất
cho vay nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống. Ngoài ra, một số loại lãi suất
khác như lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở được xác
định tự do tuỳ thuộc cung cầu về vốn trên thị trường.
Một số nước khác như Anh, Mỹ lãi suất được điều hành theo cơ chế
tự do hố hồn tồn. Lãi suất cơng bố hồn tồn dựa trên cung cầu về vốn
trên thị trường tiền tệ, đặc biệt là chú trọng lãi suất chào hàng trên thị
trường tiền tệ liên ngân hàng như LIBOR, SIBOR, PIBOR... Những nước
này, thị trường tài chính tiền tệ rất phát triển. Một sự biến động nào trên thị
trường tài chính tiền tệ cũng có thể đưa NHTW can thiệp với đầy đủ các
công cụ và chế tài sắc bén
Bên cạnh những khả năng tích cực do tự do hố lãi suất mang lại,
một số quốc gia bên con đường tự do hố tài chính gặp phải một số nguy
cơ. Chẳng hạn như ở Argentina, Chi Lê, Urugoay lãi suất thực đã tăng lên
ở mức rất cao. Sự tăng lên này không những khơng khuyến khích đầu tư,
làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn dẫn tới sự phá sản hàng loạt
doanh nghiệp, khủng hoảng hệ thống tài chính và bất ổn vĩ mơ. Trong điều
kiện thị trường tài chính cịn kém phát triển, tự do hố lãi suất có thể
khuyến khích NHTM, đặc biệt là các NHTM CP chấp nhận những khoản
cho vay có rủi ro cao. Đồng thời loại bỏ kiểm soát đối với cán cân vốn
trong bối cảnh kinh tế bất ổn làm cho lãi suất tăng lên và gây ra khả năng
phá giá đồng bản tệ, từ đó làm các luồng vốn quốc tế đổ vào nhiều làm tăng
áp lực lạm phát, giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Tóm lại, những tác động bên trong và bên ngồi địi hỏi tự do hố lãi
suất phải thận trọng. Tự do hoá lãi suất phải được tiến hành từng bước, gắn
12
liền với đổi mới toàn bộ nền kinh tế và tự do trong các lĩnh vực khác, đồng
thời củng cố hành lang pháp lý, nâng cao trình độ quản lý nền kinh tế.
13
PHẦN II.
THỰC TRẠNG VỀ LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng thị trường vốn – tiền tệ.
Việt Nam với số dân gần 80 triệu hứa hẹn một tiềm lực vốn lớn. Tuy
nhiên, mặc dù tiềm lực vốn trong dân có nhiều nhưng vốn huy động cho
phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam, đặc biệt là vốn cho đầu tư trung và
dài hạn còn là một vấn đề lớn.
Theo báo cáo của tổng cục thống kê và Bộ kế hoạch và đầu tư, tỷ lệ
người gửi tiền ở nước ta năm 1998 chiếm 17% dân số. Vẫn còn bộ phận lớn
vốn còn nằm lại trong dân cư tồn tại dưới các hình thức phi kinh tế dưới
dạng vàng, ngoại tệ dự trữ: 44%, đất đai và nhà ở: 20%. Chỉ có khoảng
19% tổng nguồn vốn trong dân cư được đầu tư và mang tính tự phát kinh tế
hộ gia đình. Điều này cho thấy sức hút của các NHTM và các TCTD chưa
đủ mạnh.
Những năm gần đây, yêu cầu của q trình CNH – HĐH địi hỏi một
nguồn vốn lớn. Xuất phát từ nhu cầu đó, Nhà nước đã mở rộng các hình
thức huy động vốn trong dân cư thơng qua hàng loạt các hình thức tiết kiệm
ngắn hạn và dài hạn với lãi suất tương đối phù hợp với sự biến động của thị
trường cùng với sự tăng cường hoạt động của các thị trường tiền tệ. Nhờ đó
tốc độ dù mức độ huy động vốn thơng qua hoạt động của hệ thống NH &
TCTD có tăng lên. Tuy nhiên nhìn chung, vốn vẫn cịn ứ đọng trong dân cư
với số lượng lớn dưới hình thức phi kinh tế.
Thị trường tài chính tiền tệ cịn thật sự chưa phát triển. Thị trường liên
ngân hàng ra đời từ 1993 nhưng hoạt động một cách yếu ớt và thiếu hiệu
quả. Đặc biệt kể từ 1996 đến nay, tình trạng sử dụng vốn tín dụng lẫn nhau
giữa các TCTD hầu như không đáng kể. Mặt khác, các giao dịch phần lớn
mang tính một chiều và hình thành nên hai nhóm khách hàng chủ yếu: các
ngân hàng cho vay là các NHTMQD và các ngân hàng đi vay là các ngân
hàng nước ngồi và các NHTMCP. Kèm theo đó lãi suất cũng chỉ được
cơng bố một chiều nên thị trường thiếu tính chuyên nghiệp. Kinh doanh
vốn ở một số NHTM chưa mang tính thị trường, độ nhạy của lãi suất đối
với thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn rất thấp. Thị trường mở và thị
14
trường chứng khoán mới chỉ đi vào hoạt động được hơn một năm. Nhìn
chung trên thị trường mở, các TCTD vẫn chưa tham gia thường xuyên vào
các phiên giao dịch mà chủ yếu là các NHTMQD do có nhiều lợi thế hơn
nhờ vay được với giá rẻ so với các NHTMCP. Hàng hố trên thị trường mở
vẫn cịn chưa phong phú, chỉ dừng lại tập trung ở tín phiếu NHTW và tín
phiếu KBNN. Giao dịch trên thị trường chứng khốn mặc đã có những biểu
hiện sơi động hơn kể từ phiên giao dịch đầu tiên song nhìn chung khối
lượng giao dịch vẫn nhỏ.
Một vấn đề không thể bỏ qua khi nhắc tới đặc điểm thị trường tài
chính Việt Nam chính là tính khơng đồng nhất. Lãi suất có sự phân biệt khá
rõ xuất phát từ tình trạng nhu cầu tín dụng khác nhau giữa các vùng khác
nhau.
Những đặc điểm trên đây có vai trị khá quan trọng đối với NHNN
trong q trình thực hiện vai trị quản lý vĩ mơ, thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia, trong đó có chính sách lãi suất.
2. Chính sách lãi suất ở Việt Nam.
2.1. Chính sách lãi suất Việt Nam từ sau đổi mới đến nửa đầu năm
2000.
Việt Nam hiện nay đang trên con đường thị trường hoá và hướng
ngoại nền kinh tế. Tốc độ và sự thành cơng trong các chính sách kinh tế
phục vụ tăng trưởng phụ thuộc quan trọng vào sự điều tiết và cân đối vĩ mơ
của chính phủ. Để điều tiết và định hướng nền kinh tế, Nhà nước không thể
không nắm lâý công cụ lãi suất và kiểm sốt lượng cung tiền tệ. Những
chính sách khác nhau được đưa ra vào những thời điểm khác nhau đã có
những tác động to lớn tới nền kinh tế.
Chính sách lãi suất của Nhà nước ta mười năm qua đã được đổi mới
mạnh mẽ, thận trọng và từng bước phù hợp với từng giai đoạn. Đánh giá lại
quá trình đổi mới chính sách lãi suất thời gian qua là để giúp chúng ta hình
dung rõ nét những thành cơng và hạn chế, từ đó rút ra được những kinh
nghiệm cho một chính sách lãi suất mới thích hợp hơn trong tương lai.
Có thể nói, trước 1986, nước ta thực sự chưa tồn tại một chính sách
lãi suất theo đúng nghĩa. Một biểu lãi suất đư ợc quy định rất chi tiết theo
15
quyết định 85/QĐ-NH(10.1982) được cố định trong nhiều năm là kết quả
của việc áp dụng gần như nguyên mẫu mô hình cũ của Liên Xơ. Thậm chí,
có nhiều loại cho vay với mức lãi suất giống hệt Liên Xô. Điều này dường
như hết sức vô lý song lại rất logic trong điều kiện kinh tế Việt Nam lúc
bấy giờ.
Giai đoạn 1986-1989, chính sách lãi suất có những bước đột phá đầu
tiên với quyết định 125/QĐ- NH trên cơ sở sửa đổi và thay thế một số mức
lãi suất đã tạo ra sự thay đổi căn bản trong tư tưởng chỉ đạo điều hành
chính sách lãi suất của Việt Nam. Lãi suất được công nhận như là một công
cụ điều tiết vĩ mơ và kiểm sốt lạm phát. Tuy nhiên, ngun tắc hình thành
lãi suất bị vi phạm nghiêm trọng, đẩy lãi suất thời kỳ này luôn trong trạng
thái âm. Biểu lãi suất được quy định quá chi tiết, tỷ mỉ, gây khó khăn phức
tạp cho việc thực hiện. Thực tế, chính sách lãi suất trong giai đoạn này ở
tình trạng chung là: cả người gửi tiền, ngân hàng và doanh nghiệp đều lỗ.
Những khoản lỗ này được Nhà nước bù đắp cho ngành Ngân hàng và các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh bằng hai hình thức : phát hành tiền và vay
nợ nước ngồi càng làm cho tình trạng khó khăn hơn.
Từ tháng 10.1986 đến tháng 7.1987, mặc dù NHTW đã ba lần điều
chỉnh lãi suất nhưng chính sách lãi suất vẫn chưa thực sự là một công cụ
hữu hiệu của chính sách tiền tệ.
Tháng 3.1989, quyết định số 39/HĐBT đã cơng nhận những ngun
tắc hình thành lãi suất, chủ động chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương. Để
thu hút tiền thừa trong lưu thông, kiềm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi
suất ngân hàng, NHTW đã nâng lãi suất huy động lên mức rất cao trong
một thời gian ngắn( lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn là 9%/ tháng,kỳ 3 tháng
là 12%/ tháng).
Từ 1992 trở đi, lãi suất thực sự bước sang giai đoạn mới. Quyết định
ngày 1.6.1992 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành đã đảm bảo
cho lãi suất thực tế dương, lãi suất cho vay khơng thấp hơn lãi suất tiền gửi.
Có thể nói, việc chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương có tác dụng
quan trọng, xố bỏ tình trạng bao cấp tín dụng trước đây, tạo điều kiện cho
các ngân hàng thương mại thực sự chuyển sang kinh doanh có hiệu quả, có
chiến lược huy động vốn mạnh mẽ với phương châm ‘ ngân hàng đi vay để
16
cho vay’ , đa dạng hố các hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư
và các tổ chức kinh tế.
Năm 1994, NHNN chủ trương hạ lãi suất nhưng không thực hiện
được. Giai đoạn này, NHNN vừa áp dụng lãi suất trần ( cho vay) vừa áp
dụng lãi suất thoả thuận.
Trần lãi suất cho vay đối doanh nghiệp nhà nước là 1,8%/ tháng, đối
với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 2,1%/ tháng. Trường hợp ngân
hàng không huy động đủ vốn cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành
kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận. Lãi suất
huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/ tháng và cho
vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng.
Trên thực tế, có khoảng 30% đến 60% tổng dư nợ lúc bấy giờ từ các
khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận, mà phần lớn là cho vay đối với
doanh nghiệp ngồi quốc doanh và hộ nơng dân với lãi suất phổ biến là
2,3% đến 3,5% / tháng. Với cơ chế này, lãi suất đã được tự do hoá một
phần. Tuy nhiên, lãi suất thoả thuận này có mức chênh lệch giữa lãi suất
cho vay và lãi suất huy động từ 0,1% đến 0,7 % tạo cho các ngân hàng
thương mại lợi nhuận khá cao. Nguồn vốn của các ngân hàng thương mại
tuy có tăng nhưng chủ yếu là tăng vốn ngắn hạn làm cho một số ngân hàng
thương mại quốc doanh thừa vốn ngắn hạn trong khi nhu cầu vốn trung và
dài hạn của nền kinh tế còn thiếu nghiêm trọng. Đặc biệt, việc giảm lãi suất
cho vay ngắn hạn xuống 1,25% / tháng và khống chế chênh lệch tối đa
(0,35%) khiến nhiều ngân hàng thương mại, đặc biệt là ngân hàng nông
nghiệp, doanh nghiệp và nông dân cịn gặp nhiều khó khăn.
Từ thực tế này, quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28.12.1995 đã chấm
dứt việc định ra các mức lãi suất cụ thể để, tạo điều kiện cho các ngân hàng
chủ động, linh hoạt hơn trong xác định lãi suất.
Năm 1996, NHNN tiếp tục điều chỉnh lãi suất ba lần và hai lần sau
đó vào 1998.
17
(Đơn vị : % / tháng)
Quyết định
điều chỉnh
Thời điểm
Trần lãi suất cho
vay ngắn hạn
Trần lãi suất cho
vay trung và dài hạn
191/QĐ-NH1
15/07/1996
1.6
1,65
255/QĐ-NH1
27/08/1996
1,50
1,55
266/QĐ-NH1
27/09/1996
1,25
1,35
197/QĐ-NH1
28/06/1997
1,00
1,25
39/QĐ-NH1
17/01/1998
1,20
1,25
Lãi suất cho vay năm 1996 đã được điều chỉnh theo hướng giảm
mạnh đã giúp cho các doanh nghiệp giảm được chi phí và giá thành trong
việc vay vốn cho sản xuất kinh doanh, đồng thời mạnh dạn hơn trong thực
hiện các dự án cho vay, đầu tư phát triển và đổi mới cơng nghệ.
Tuy nhiên, trước khi NHNN chính thức công bố lãi suất trần, các
ngân hàng thương mại đã tiến hành điều chỉnh hạ thấp lãi suất cho vay để
tăng cường thu hút khách hàng. Hiện tượng này diễn ra âm thầm, tự phát
nhưng không kém phần quyết liệt và tập trung ở các thành phố, đô thị lớn,
nơi hệ thống ngân hàng phát triển mạnh. Điều này đã dẫn tới tình trạng lãi
suất ở khu vực nơng thôn, nơi cần nhiều sự giúp đỡ, lại cao hơn. Đây chính
là một trong những bất cập địi hỏi chính sách lãi suất cần phải được xem
xét.
Năm 1997, NHNN tiếp tục điều chỉnh lãi suất theo hướng giảm dần và
đạt mức thấp nhất vào tháng 7.1997 với mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn
là 1%/ tháng nhằm tiếp tục khuyến khích sản xuất. Tuy nhiên, các ngân
hàng lúc này lại khơng tán thành mức lãi suất này vì trong điều kiện khủng
hoảng tiền tệ cần phải nâng lãi suất tiền gửi lên cao hơn các nước công
nghiệp phát triển để chống lại làn sóng rút tiền gửi để mua ngoại tệ
mạnh(USD). Đồng thời, nhằm phòng ngừa khủng hoảng trong toàn bộ hệ
thống ngân hàng, các ngân hàng trong nước đã phải giữ ngun lãi suất.
Thậm chí, đã có lúc lãi suất tiền gửi có kỳ hạn và lãi suất cho vay chỉ chênh
lệch nhau từ 0,05%/ tháng tới 0,1%/ tháng gây ra tình trạng lỗ về tín dụng.
Năm 1998, hệ thống ngân hàng thực sự phải đối mặt với những hệ
quả nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Áp lực làm giảm
18
giá của đồng Việt Nam không chỉ biểu hiện ở những tác động hữu hình,
như tình trạng xấu đi nhanh chóng của hoạt động đối ngoại, mà cịn biểu
hiện ở tâm lý lo sợ về sự phá giá của đồng Việt Nam nối tiếp theo làn sóng
phá giá mạnh đang diễn ra đối với nhiều đồng tiền châu Á tạo ra những bất
ổn trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng luôn ở
mức trần trong khi thị trường tự do luôn biến động cao hơn cả trần. Hơn
nữa, những tác động xấu của sự sụp đổ tập đồn Epco- Minh Phụng đã tạo
ra một dịng rút tiền mạnh mẽ gây ra một sự rối loạn buộc các ngân hàng
phải nhanh chóng tìm các nguồn vay nóng. Kết quả là đã làm cho chi phí
tăng lên.
Vì thế, duy trì kiểm sốt chính sách lãi suất là cần thiết trong điều
kiện khi mà NHNN vẫn chưa có đủ các công cụ cần thiết và hữu hiệu để có
thể kịp thời điều chỉnh. Với việc thực hiện kiểm sốt lãi suất, NHNN đã
hạn chế phần nào dịng dịch chuyển của nguồn tiền thông qua các hoạt
động tăng lãi suất tín dụng ngắn hạn cho vay bằng VNĐ từ 1%/ tháng lên
1,2%/ tháng, cho vay trung và dài hạn từ 1,1%/ tháng lên 1,25%/ tháng và
nâng lãi suất tái cấp vốn cho các TCTD từ 0,9%/ tháng lên 1,1%/
tháng(quyết định 40/1998/QĐ ngày 17.1.1998).
Mặc dù có một số ưu điểm nhất định song vẫn tồn tại những áp lực
làm giảm lãi suất cho vay như nền kinh tế ít nhiều chịu ảnh hưởng của cơn
bão tiền tệ nên tăng trưởng chậm lại, khả năng cạnh tranh của hàng hoá
kém, vốn tự có của doanh nghiệp nhỏ, chênh lệch giữa trần lãi suất cho vay
trung và dài hạn với trần lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,05%/ tháng chưa đủ
bù đắp rủi ro và kích thích các TCTD mở rộng cho vay trung và dài hạn.
Tuy nhiên khả năng giảm lãi suất cho vay này là không khả thi.
Từ 11.9.1998, quyết định số 309/1998/QĐ-NHNN1 điều chỉnh trần
lãi suất cho vay bằng đồng Đôla Mỹ giảm từ 8,5%/ năm xuống 7,5%/ năm
cho phù hợp với lãi suất SIBOR, LIBOR hiện hành đồng thời quy định lại
lãi suất tiền gửi tối đa của các pháp nhân tại các TCTD.
Năm 1999, NHNN tiếp tục thực hiện quản lý và điều hành chính
sách lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đối với
các TCTD. Trần lãi suất năm 1999 được NHNN điều chỉnh liên tục cho
phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu vốn tín dụng, góp phần thực
19
hiện giải pháp kích cầu đầu tư của Chính Phủ thơng qua cơ chế nới lỏng lãi
suất tín dụng. Đây được coi là năm lãi suất được điều chỉnh nhiều nhất và
có xu hướng giảm dần và tiếp tục kéo dài tới năm 2000.
(Đơn vị: %/ tháng)
Quyết định điều
chỉnh
Thời điểm
Trần lãi suất cho
vay ngắn hạn
Trần lãi suất cho
vay trung, dài hạn
01/1999/CT-NH1
17.1.1999
1,2
1,25
184/1999/QĐ-NH1
29.5.1999
1,15
1,15
266/1999/QĐ-NH1
30.7.1999
1,05
05/1999/CT-NH1
9.1999
0,95
0,95
383/1999/QĐ-NH1
10.1999
0,85
0,85
Trong liên tục hai năm 1999-2000, lạm phát âm xuất hiện làm cho
trần lãi suất giảm liên tục. Thậm chí, có đợt NHNN cịn quy định buộc các
NHTM giảm cả lãi suất dư nợ cho vay khiến cho các NHTM chịu rủi ro lãi
suất. Chênh lệch lãi suất cho vay và huy động rất nhỏ. Mặt khác, do mức
độ điều chỉnh lãi suất của NHNN tương đối lớn nên dư nợ tín dụngkhơng
có động cơ tăng mặc dù lãi suất đã giảm mạnh bởi khách hàng kỳ vọng ở
khả năng lãi suất tiếp tục giảm, ngay cả một số TCTD cũng đã tạm ngừng
huy động vốn có kỳ hạn(loại 6 tháng và 9 tháng) với lý do tương tự đã tạo
nên tình trạng đóng băng vốn số lượng lớn. Nền kinh tế vẫn tiếp tục rơi vào
trạng thái trì trệ và hạ lãi suất lúc này là cần thiết. Để giải toả nguồn vốn ứ
đọng này, các NHTM có nguồn vốn dư thừa đã tận dụng triệt để phương
châm” thà cho vay với lãi suất thấp tới mức 0,4%/ tháng còn hơn để vốn
chết tại NHNN để hưởng lãi suất 0,1%/ tháng”. Giữa các ngân hàng dần
hình thành nên thế cạnh tranh bằng lãi suất cho vay. Mặc dù lãi suất cho
vay của các NHTM giảm xuống từ 0,15 tới 0,2%/ tháng so với quy định
của NHNN nhưng tốc độ tăng tín dụng tới tận nửa đầu năm 2000 vẫn chưa
thực sự có ý nghĩa. Trong bốn tháng đầu năm 2000 vốn huy động tăng
12,3% trong khi dư nợ tín dụng chỉ tăng 5,8%. Tín dụng chỉ được đâỷ
mạnh từ cuối quý 2 năm 2000 khi các ngân hàng tiếp tục hạ lãi suất cho
vay và nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng lên. Mức huy động VNĐ cho kỳ
20