Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
LỜI MỞ ĐẦU
Khoa học kinh tế ra đời muộn hơn nhiều môn khoa học khác. Nhưng sự hướng
dẫn của nó thu hút nhiều nhà khoa học. Họ đã cùng nhau nghiên cứu, thế hệ nối
tiếp thế hệ thậm chí có những người đã dành trọn cả cuộc đời cho các lý thuyết và
mô hình kinh tế. Kết quả là ngày nay loài người có cả một kho tàng đồ sộ các kiến
thức kinh tế học được kết tinh trong kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả.
Kinh tế học là môn học cơ sở cung cấp nền tảng lý thuyết cho các môn định
hướng ngành và kinh tế ngành của tất cả các chuyên ngành kinh tế và quản trị kinh
doanh. Với mục đích hỗ trợ sinh viên chuyên ngành kinh tế trong việc nhìn nhận,
đánh giá một cách hiệu quả các vấn đề kinh tế của các hộ gia đình, các doanh
nghiệp và của đất nước, môn học kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô đã được đưa vào
giảng dạy và học tập.
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô giúp sinh viên tổng hợp các kiến thức của môn học từ đó
vận dụng đi sâu tìm hiểu một nội dung của môn học theo yêu cầu của bài tập. Bài
tập lớn này đi sâu tìm hiểu về lạm phát. Nó bao gồm các phần sau:
Phần I: Lời mở đầu
Phần II: Nội dung chính:
Chương I: Lạm phát và tác hại của lạm phát
Chương II: Đánh giá mức độ lạm phát của Việt Nam thời kỳ 2003-2008
Phần III: Kết luận
1
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
NỘI DUNG CHÍNH
Chương I: LẠM PHÁT VÀ TÁC HẠI CỦA LẠM PHÁT
A.Giới thiệu môn học, vị trí của môn học trong chương trình học đại học.
I. Giới thiệu môn học:
1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô:
a, Đối tượng:
Kinh tế học vĩ mô - một phân ngành của kinh tế học – nghiên cứu sự vận động và
những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
Nói cách khác,kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia trước
những vấn đề kinh tế xã hội cơ bản như: Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất
nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hoá và tư bản, sự phân phối nguồn lực và phân phối
thu nhập giữa các thành viên trong xã hội.
Kinh tế vĩ mô giúp chúng ta lý giải những câu hỏi quan trọng có quan đến đời
sống kinh tế của một quốc gia. Ví dụ, điều gì quyết định mức sống và tốc độ tăng
trưởng kinh tế của một nước? Những nhân tố nào dẫn đến lạm phát và thất nghiệp?
Tại sao các nền kinh tế thường xuyên biến động? Chính phủ đóng vai trò gì trong
việc thúc đẩy tăng trưởng, kiềm chế lạm phát và ổn định thất nghiệp ở mức hợp lý?
Những thay đổi trong môi trường quốc tế có ảnh hưởng như thế nào đến thành tựu
kinh tế vĩ mô của một nước?
Một quốc gia, có thể có những lựa chọn khác nhau tuỳ thuộc vào các ràng buộc
của họ về các nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị - xã hội. Song, sự lựa chọn
đúng đắn nào cũng cần đến những hiểu biết sâu sắc về hoạt động mang tính khách
quan của hệ thống kinh tế. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp những kiến thức và công
cụ phân tích kinh tế đó. Những kiến thức và công cụ phân tích này được đúc kết từ
nhiều công trình nghiên cứu và tư tưởng của nhiều nhà khoa học kinh tế thuộc
2
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
nhiều thế hệ khác nhau.Ngày nay, chúng càng được hoàn thiện thêm để có thể mô
tả chính xác hơn đời sống kinh tế vô cùng phức tạp của chúng ta.
Trong kinh tế học vĩ mô chúng ta tìm cách giải quyết hai vấn đề. Thứ nhất, chúng
ta tìm cách nắm bắt phương thức hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Thứ hai,
chúng ta tìm cách giải đáp câu hỏi là liệu Chính phủ có thể làm điều gì để cải thiện
thành tựu chung của toàn bộ nền kinh tế. Tức là chúng ta quan tâm đến cả giải
thích và khuyến nghị về chính sách.
Giải thích liên quan đến nỗ lực để hiểu hành vi của nền kinh tế trên bốn phương
diện cơ bản sau: sản lượng và tăng trưởng kinh tế; việc làm và thất nghiệp; sự biến
động của mức giá chung; và thu nhập ròng nhận được từ thương mại và tài chính
quốc tế. Kinh tế vĩ mô tìm cách giải thích điều gì quyết định các biến số đó, tại sao
chúng lại biến động theo thời gian và mối quan hệ giữa chúng.
Những vấn đề then chốt được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao gồm
mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá chung, và thương mại quốc tế của một nền kinh
tế. Phân tích kinh tế vĩ mô hướng vào giải đáp các câu hỏi như: Điều gì quyết định
giá trị hiện tại của các biến số này? Điều gì quy định những thay đổi của các biến
số này trong thời ngắn hạn và dài hạn? Thực chất chúng ta khảo sát mỗi biến số
này trong những khoảng thời gian khác nhau: hiện tại, ngắn hạn và dài hạn. Mỗi
khoảng thời gian đòi hỏi chúng ta phải sử dụng các mô hình thích hợp để tìm ra các
nhân tố quyết định các biến số kinh tế vĩ mô này .
b, Phương pháp:
Trong khi phân tích các hiện tượng và mối quan hệ kinh tế quốc dân, kinh tế học
vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng hợp. Theo phương
pháp này, kinh tế học vĩ mô khác với kinh tế học vi mô, xem xét sự cân bằng đồng
thời của tất cả các thị trường của các hàng hoá và các nhân tố, xem xét đồng thời
khả năng cung cấp và sản lượng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định đồng thời
giá cả và sản lượng cân bằng - những yếu tố quyết định tính hiệu quả của hệ thống
kinh tế.
3
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
Ngoài ra, kinh tế học vĩ mô cũng sử dụng những phương pháp phổ biến như: Tư
duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, mô hình hoá kinh tế. Đặc biệt trong
những năm gần đây và dự đoán trong nhiều năm sắp tới, các mô hình kinh tế lượng
vĩ mô sẽ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các lý thuyết kinh tế học vĩ mô hiện
đại.
Trong kinh tế vĩ mô chúng ta tìm cách hiểu phương thức hoạt động của toàn bộ
nền kinh tế. Tuy nhiên chúng ta không thể xem xét mọi giao dịch cá nhân trên tất
cả các thị trường trong nền kinh tế. Trái lại chúng ta phải đơn giản hoá, trừu tượng
hoá thế giới thực. Chúng ta sử dụng phương pháp trừu tượng hoá để giảm bớt
những chi tiết phức tạp của nền kinh tế, nhằm tập trung phân tích những mối quan
hệ kinh tế then chốt, qua đó dễ dàng phân tích, đánh giá và dự báo hành vi của
những biến số quan trọng. Quyết định nghiên cứu các biến số tổng hợp, chứ không
nghiên cứu các biến số đơn lẻ cũng là một sự trừu tượng hoá.
II. Vị trí của môn học trong chương trình học đại học:
Kinh tế học vĩ mô là một bộ phận của kinh tế học – môn học cơ sở cung cấp nền
tảng lý thuyết cho các môn định hướng ngành và kinh tế ngành của tất cả các
chuyên ngành kinh tế và quản trị kinh doanh.
Kinh tế học vĩ mô cung cấp cho sinh viên các thuật ngữ, nguyên lý và mô hình
kinh tế vĩ mô, giúp sinh viên biết vận dụng lý thuyết để lý giải các vấn đề kinh tế vĩ
mô mà thực tế đặt ra.
Kinh tế học vĩ mô góp phần cùng với các môn học khác hoàn thiện kiến thức cho
sinh viên, giúp sinh viên áp dụng vào thực tiễn làm việc.
Do vậy, kinh tế học vĩ mô chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình học đại
học.
4
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
B. Phân tích các vấn đề về lạm phát: Khái niệm, cách tính tỷ lệ lạm phát, phân
loại lạm phát, tác hại của lạm phát.
1. Khái niệm:
Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian.
Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số chung của giá cả và loại chỉ số biểu hiện lạm
phát gọi là chỉ số lạm phát hay chỉ số giá cả chung của toàn bộ hàng hoá cấu thành
tổng sản phẩm quốc dân. Nó chính là GNP danh nghĩa / GNP thực tế. Trong thực
tế thường được thay thế bằng một trong hai loại chỉ số giá thong dụng khác: chỉ số
giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn ( còn gọi là chỉ số giá cả sản xuất ).
Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh sự biến động giá cả của một giỏ hàng hoá và dịch
vụ tiêu biểu cho cơ cấu tiêu dùng của xã hội.
I
p
= ∑i
p
.d
Trong đó: I
p
- Chỉ số giá của cả giỏ hàng
i
p
- Chỉ số giá của từng loại hàng, nhóm hàng trong giỏ.
d- Tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại, nhóm hàng trong giỏ
(với ∑d=1). Nó phản ánh cơ cấu tiêu dùng của xã hội.
Thường người ta lựa chọn một thời kỳ cố định nào đó làm gốc để tính các chỉ số
cá thể và tỷ trọng mức tiêu dùng của các loại hàng hoá. Thời kỳ gốc để tính chỉ số
cá thể và thời kỳ gốc để tính tỷ trọng tiêu dùng có thể trùng nhau (cùng một năm
gốc) và cũng có thể lựa chọn khác nhau (năm gốc cho giá khác với năm gốc cho cơ
cấu tiêu dùng).
Khác với chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá bán buôn (giá cả sản xuất) phản ánh sự
biến động giá cả của đầu vào, thực chất là biến động giá cả chi phí sản xuất.Xu
hướng biến động giá cả chi phí tất yếu sẽ tác động đến xu hướng giả cả hàng hoá
thị trường. Hiện nay ở Việt Nam, chỉ số được dùng để biểu hiện lạm phát là chỉ số
giá tiêu dùng (được tính hàng tháng, quý, năm).
5
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
2. Cách tính tỷ lệ lạm phát:
- Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô và sự
biến động của nó phản ánh quy mô và xu hướng của lạm phát.
- Công thức tính tỷ lệ lạm phát:
Trong đó: gp: Tỷ lệ lạm phát (%)
I
p
: Chỉ số giá cả thời kỳ nghiên cứu
I
p-1
: Chỉ số giá cả thời kỳ trước đó
3. Phân loại lạm phát:
a, Phân loại theo quy mô:
- Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10%
một năm.Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động đáng kể đối với nền
kinh tế.
- Lạm phát phi mã: xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số
trong một năm. Loại lạm phát này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến
dạng kinh tế nghiêm trọng.
- Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tố độ cao vượt xa lạm
phát phi mã. Siêu lạm phát thường gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và sâu sắc;
tuy nhiên chúng cũng ít khi xảy ra.
b, Kết hợp quy mô lạm phát với độ dài thời gian xảy ra lạm phát:
- Lạm phát kinh niên: thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát đến 50% một
năm.
6
I
p
gp= ( - 1).100
I
p-1
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
- Lạm phát nghiêm trọng: thường kéo dài trên 3 năm, với tỷ lệ lạm phát trên 50%
một năm.
- Siêu lạm phát: kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
4. Tác hại của lạm phát:
Tác hại chủ yếu của lạm phát không phải ở chỗ giá cả tăng lên mà ở chỗ giá cả
tương đối đã thay đổi. Những tác hại đó là:
- Phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên giữ các cá nhân, tập đoàn
và các giai tầng trong xã hội, đặc biệt đối với những ai giữ nhiều tài sản có giá trị
danh nghĩa cố định và những người làm công ăn lương.
- Có những doanh nghiệp, ngành nghề có thể “phất” lên và trái lại cũng có những
doanh nghiệp và ngành nghề suy sụp, thậm chí phải chuyển hướng sản xuất kinh
doanh. Điều này gây ra những biến dạng về cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền
kinh tế, đặc biệt khi lạm phát tăng nhanh cùng với sự thay đổi mạnh mẽ của giá cả
tương đối.
- Tác hại đến tâm lý xã hội: Sự phản ứng của công chúng xuất phát từ vấn đề kinh
tế, nhưng có thể tác động đến sự ổn định chính trị và do vậy, phản ứng kinh tế vĩ
mô của các Chính phủ là tìm mọi biện pháp chống lạm phát, cho dù cái giá phải trả
là khá cao.
Chú ý: Để hiểu rõ hơn về tác hại của lạm phát cũng cần phải chia chúng thành hai
loại: lạm phát thấy trước và lạm phát không thấy trước
+ Lạm phát thấy trước còn gọi là lạm phát dự kiến. Mọi người đã dự kiến khá
chính xác sự tăng giá tương đối đều đặn của nó. Loại này ít gây tổn hại thực cho
nền kinh tế mà gây ra những phiền toái đòi hỏi các hoạt động giao dịch phải
thường xuyên được điều chỉnh.
+ Lạm phát không thấy trước, còn gọi là lạm phát không dự kiến được. Con người
luôn bị bất ngờ về tốc độ của nó. Nó không những gây ra sự phiền toái như loại
trên mà còn tác động đến việc phân phối lại của cải…
7
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
5. Các lý thuyết về lạm phát:
Lạm phát là sự tăng giá chung của toàn bộ nền kinh tế, mà các yếu tố đưa đến
tăng giá lại rất đa dạng và phức tạp; mức độ tác động của chúng là có thể rất khác
nhau, tuỳ thuộc vào đặc điểm cụ thể của một nền kinh tế trước và trong quá trình
xảy ra lạm phát. Sau đây là một số lý thuyết và quan điểm nhằm lý giải những
nguyên nhân gây ra và duy trì thúc đẩy lạm phát.
a, Lạm phát cầu kéo:
Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng đã
đạt hoặc vượt quá tiềm năng (hình bên).
Hình bên cho thấy, khi sản lượng vượt tiềm năng, đường AS có độ dốc lớn nên
khi cầu tăng mạnh, đường AD dịch chuyển lên trên (AD
1
), giá cả tăng nhanh từ P
0
đến P
1.
b, Lạm phát chi phí đẩy:
Ngay cả khi sản lượng chưa đạt tiềm năng nhưng vẫn có khả năng và trên thực tế
đã xảy ra lạm phát ở nhiều nước, kể cả ở các nước đang phát triển cao.
8
P
P
1
P
0
Y
1
Y
0
Y
*
Y
E
’
1
ASLR
ASSR
0
AD
Đó là một đặc điểm của lạm phát hiện
đại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát
chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm
sản lượng, tăng thêm thất nghiệp nên
cũng còn gọi là “lạm phát đình trệ”.
Các cơn sốc giá của thị trường đầu
vào đặc biệt là các vật tư cơ bản (xăng
dầu, điện…) là nguyên nhân chủ yếu
đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch
chuyển lên trên. Tuy tổng cầu không
thay đổi nhưng giá cả đã tăng lên và
sản lượng lại giảm xuống.
P
P
1
P
0
Y
*
Y
E
1
AD
0
AD
1
ASSRASLR
Trong thực tế, khi xảy ra lạm phát cầu kéo
người ta thường nhận thấy lượng tiền
trong lưu thông và khối lượng tín dụng
tăng lên đáng kể và vượt quá khả năng có
giới hạn của mức cung hàng hoá.
Như vậy, bản chất của lạm phát cầu kéo
là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một
lượng cung hạn chế về hàng hoá có thể sản
xuất được, trong điều kiện thị trường lao
động đã cân bằng.
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
Giá cả sản phẩm trung gian (vật tư) tăng đột biến thường do các nguyên nhân sau:
thiên tai, chiến tranh, sự biến động chính trị, kinh tế… Đặc biệt sự biến động giá
dầu lửa do OPEC tạo ra những năm 1970 đã gây ra các cuộc lạm phát đình trệ trầm
trọng trên quy mô thế giới.
c, Lạm phát dự kiến:
Trong nền kinh tế tiền tệ, lạm phát vừa phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử
của nó. Giá cả trong trường hợp này tăng đều đều với một tỷ lệ tương đối ổn định.
Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ, và vì mọi người có thể dự tính
trước mức độ của nó nên còn được gọi là lạm phát dự kiến.
d, Lạm phát và tiền tệ:
Xét trong dài hạn lãi suất thực tế và sản lượng thực tế đạt mức cân bằng.Tỷ lệ lạm
phát sẽ bằng tỷ lệ tăng tiền. Như vậy, lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Điều này
9
P
P
2
P
1
P
0
Y
*
Y
ASLR
ASSR
2
ASSR
0
AD
’’
AD
’
AD
Hình bên cho thấy lạm phát dự kiến xảy
ra như thế nào. Đó là đường AD và AS
dịch chuyển lên trên cùng một tốc độ. Vì
lạm phát đã được dự kiến nên chi phí sản
xuất (kể cả tiền lương) và cả nhu cầu chi
tiêu cũng được điều chỉnh cho phù hợp
với tốc độ lạm phát. Như vậy, sản lượng
vẫn giữ nguyên nhưng giá cả tăng lên
theo dự kiến.
Tỷ lệ lạm phát dự kiến một khi đã hình
thành thì trở nên ổn định và tự duy trì
trong một thời gian. Những cú sốc mới
trong nền kinh tế sẽ đẩy lạm phát khỏi
trạng thái ỳ.
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
xảy ra trong thực tế khi nền kinh tế gặp phải một cơn sốc làm cho lượng tiền thực
tế nhất thời giảm xuống. Chính phủ cần phải tăng mức cung tiền danh nghĩa để
đảm bảo nhu cầu tiền thực tế. Nhưng vì sản lượng và việc làm không đổi, lãi suất
thực tế cũng không đổi, chỉ có mức cung tiền danh nghĩa, giá cả cũng như tiền
lương danh nghĩa tăng lên. Song tốc độ tăng tiền danh nghĩa và tốc độ lạm phát rất
khác nhau giữa các nước.
Tuy nhiên, lịch sử lạm phát cũng chỉ ra rằng, không có tiền lạm phát cao nào mà
không có sự tăng trưởng mạnh về tiền tệ. Lượng tiền tăng càng nhanh thì lạm phát
càng cao, và bất kỳ một chính sách vĩ mô nào làm giảm được tốc độ tăng tiền cũng
dẫn đến giảm tỷ lệ lạm phát và điều này đặc biệt phù hợp với thời kỳ ngắn hạn.
e, Lạm phát và lãi suất:
Lãi suất thực tế thường ít thay đổi và ở mức mà cả người cho vay và người đi vay
đều có thể chấp nhận được. Nếu khác đi sẽ tạo ra mức dư cầu hoặc dư cung và sẽ
đẩy lãi suất này về mức ổn định. Nhưng lãi suất danh nghĩa lại biến động theo lạm
phát. Khi lạm phát thay đổi lãi suất danh nghĩa sẽ thay đổi theo, để duy trì lãi suất
ở mức thực tế ở mức ổn định. Vậy lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm
phát. Khi tỷ lệ lạm phát tăng lên, lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội
của việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt.
C. Phân tích các chính sách kinh tế vĩ mô chống lạm phát:
Trong lịch sử của mình, các nước trên thế giới đều trải qua lạm phát ở những mức
độ khác nhau. Những nguyên nhân lạm phát đều có điểm chung. Nhưng mỗi nền
kinh tế đều có những đặc điểm riêng biệt nên lạm phát của mỗi nước lại mang tính
chất trầm trọng và phức tạp khác nhau. Để thoát khỏi lạm phát, chiến lược chống
lạm phát của mỗi quốc gia không thể không xét đến những đặc điểm riêng biệt của
mình. Nếu không tính đến những cái riêng của mỗi nước thì giải pháp chung được
lựa chọn thường là:
- Đối với mọi cuộc siêu lạm phát và lạm phát phi mã, hầu như đều gắn chặt với sự
tăng trưởng nhanh chóng về tiền tệ, có mức độ thâm hụt cao ngày càng lớn về ngân
10
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
sách và có tốc độ tăng lương danh nghĩa cao.
Vì vậy, giảm mạnh tốc độ tăng cung tiền, cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu ngân sách và
kiểm soát có hiệu quả việc tăng lương danh nghĩa, chắc chắn sẽ chặn đứng và đẩy
lùi lạm phát. Thực chất của giải pháp trên là tạo ra cú sốc cầu, gây ra một mức độ
suy thoái và thất nghiệp nhất định. Nếu biện pháp trên được giữ vững, nền kinh tế
sẽ tự điều chỉnh và sau một thời gian giá cả sẽ đạt ở mức lạm phát thấp hơn và sản
lượng trở lại tiềm năng.
- Đối với lạm phát vừa phải, kiềm chế và đẩy từ từ xuống mức thấp hơn cũng đòi
hỏi áp dụng các chính sách nói trên. Tuy nhiên, vì biện pháp trên kéo theo sự suy
thoái và thất nghiệp nên việc kiểm soát chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá trở
nên phức tạp và đòi hỏi phải thận trọng. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển
không chỉ cần kiềm chế lạm phát mà còn đòi hỏi có sự tăng trưởng nhanh. Trong
điều kiện đó, việc kiểm soát chặt chẽ các chính sách tài khoá và tiền tệ vẫn là
những biện pháp cần thiết nhưng cần có sự phối hợp, tính toán tỷ mỉ với mức thận
trọng cao hơn. Về lâu dài, ở các nước này, chăm lo mở rộng sản lượng tiềm năng
bằng các nguồn vốn trong và ngoài nướccũng là một trong những hướng quan
trọng nhất để đảm bảo vừa nâng cao sản lượng, mức sống, vừa ổn định giá cả một
cách bền vững.
- Có thể xoá bỏ hoàn toàn lạm phát không? Cái giá phải trả của việc xoá bỏ hoàn
toàn lạm phát không tương xứng với lợi ích đem lại của nó. Vì vậy, các quốc gia
thường chấp nhận lạm phát ở mức thấp và xử lý ảnh hưởng của nó bằng việc chỉ số
hoá các yếu tố chi phí như tiền lương, lãi suất, giá vật tư…Đó là cách làm cho sự
thiệt hại của lạm phát là ít nhất.
1. Chính sách tài khoá:
- Chính sách tài khoá là việc Chính phủ sử dụng thuế khoá và chi tiêu công cộng
để điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế.
- Công cụ: Chi tiêu chính phủ (G) và thuế (T)
- Đối tượng: Khu vực tư nhân
11
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
- Người thực hiện: Bộ tài chính và kho bạc nhà nước.
- Để chống lạm phát người ta dùng chính sách tài khoá ngược chiều
Nền kinh tế thịnh vượng: Q
tt
> Q
p,
u
i
< u
n
, G < T, lạm phát cao
Chống lạm phát bằng cách:
+ Giảm G, giữ nguyên T
+ Tăng T, giữ nguyên G
+ Vừa giảm G vừa tăng T
Kết quả: AD↓→ Q↓, u↑, lạm phát giảm, ngân sách càng thặng dư
2. Chính sách tiền tệ:
- Công cụ: Mức cung tiền MS và lãi suất i
- Đối tượng: Đầu tư tư nhân
- Khi nền kinh tế thịnh vượng (Q
tt
>Q
p
, u
i
< u
n
, lạm phát cao, G < T), thực hiện
chính sách tiền tệ chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất)→ I↓→ AD↓, u↑, lạm phát↓.
- Người thực hiện: Ngân hàng trung ương.
3. Chính sách thu nhập:
- Công cụ: tiền lương W
- Đối tượng: hộ gia đình, hãng kinh doanh.
- Để kiềm chế lạm phát phải giữ lương cố định trong một thời gian nào đó.
Khó khăn của chính sách này là nó vừa tác động vào tổng cầu vừa tác động vào
tổng cung của nền kinh tế nên ít được áp dụng.
- Người thực hiện: Bộ tài chính, bộ lao động thương binh xã hội.
4. Chính sách kinh tế đối ngoại:
- Công cụ: tỷ giá và các chính sách thương mại.
- Đối tượng: xuất khẩu, nhập khẩu.
12
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
- Để chống lạm phát người ta tăng giá đồng nội tệ tức là làm tỷ giá e↑→ E
X
↓,
I
m
↑→ AD↓→ Q↓, u↑, P↓.
- Người thực hiện: bộ thương mại và ngân hàng nhà nước.
D. Trình bày ý nghĩa của việc xác định tỷ lệ lạm phát và việc thực hiện các
chính sách chống lạm phát:
Tỷ lệ lạm phát là thước đo tỷ lệ giảm xuống sức mua của đồng tiền. Nó là một
biến số được xác định để tính toán lãi suất thực cũng như để điều chỉnh mức lương.
Tỷ lệ lạm phát là tốc độ tăng mặt bằng giá của nền kinh tế ( giá cả trung bình ). Nó
cho thấy mức độ lạm phát của nền kinh tế thông thường, người ta tính tỷ lệ lạm
phát dựa vào chỉ số giá cả hàng hoá tiêu dùng. Chỉ số có thể được tính cho một
tháng, một quý, nửa năm hay một năm.
Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô và sự
biến động của nó phản ánh quy mô và xu hướng lạm phát.
Việc xác định tỷ lệ lạm phát rất có ý nghĩa phục vụ cho các mục tiêu điều hành
chính sách tiền tệ của các nước trên 3 phương diện: kinh tế, chính trị, xã hội.
Từ đó, việc thực hiện các chính sách chống lạm phát chiếm một vị trí quan trọng
trong việc điều hành và quản lý của nhà nước. Chống lạm phát luôn được coi là
nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong điều hành kinh tế hiện nay. Việc thực hiện các
chính sách chống lạm phát giúp cho nền kinh tế thoát khỏi tình trạng giá cả tăng
quá cao, góp phần ổn định nền kinh tế.
Lạm phát không chỉ gây ra rối loạn kinh tế, ngừng trệ sản xuất, và bóp méo hoạt
động phân bổ nguồn lực xã hội, mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của mọi
tầng lớp nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của người nghèo và người có
thu nhập thấp trong xã hội, do thu nhập không thay đổi kịp với tốc độ thay đổi giá.
Lạm phát giá lương thực có thể xóa tan thành quả công cuộc xóa đói, giảm nghèo
trong nhiều năm qua của các nước đang phát triển trên thế giới.
Lạm phát là một vấn đề phức tạp và phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô.
13
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
Chính vì vậy, việc nghiên cứu nguyên nhân và tìm kiếm các biện pháp đối phó với
lạm phát luôn thu hút các nhà kinh tế thế giới và là công việc thường niên của
chính phủ các nước. Trong bối cảnh lạm phát tăng cao, việc nghiên cứu tìm nguyên
nhân và biện pháp để giải quyết lạm phát ở Việt Nam là một việc hết sức cấp thiết.
Việc nghiên cứu định lượng để tìm ra nguyên nhân và lời giải cho bài toán lạm
phát ở Việt Nam sẽ giúp chúng ta nhanh chóng ổn định kinh tế vĩ mô, đưa nền kinh
tế quay trở lại guồng tăng trưởng.
14
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
Chương 2: ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ
2003-2006
A.Nhận xét chung tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam:
Thuận lợi: Sau 17 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, thế và lực của nước ta cũng
như kinh nghiệm tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đều đã tăng lên đáng kể.Năm 2006, kinh tế nước ta phát triển
trong điều kiện trong nước và thế giới có những sự kiện nổi bật: Đại hội đảng toàn
quốc lần thứ X, hội nghị APEC 2006 tại Hà Nội thành công tốt đẹp, Việt Nam đã
chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Khó khăn: Trong khi nền kinh tế còn nhiều mặt yếu kém, thì giá cả của nhiều loại
vật tư nguyên vật liệu đầu vào quan trọng như xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất
dẻo liên tục tăng; thiên tai (hạn hán, bão lũ) và dịch bệnh (dịch SARS, dịch cúm
gia cầm) lại xảy ra trên diện rộng. Thêm vào đó, môi trường kinh tế thế giới và khu
vực diễn biến hết sức phức tạp do tác động tiêu cực của thảm hoạ môi trường; mâu
thuẫn tôn giáo, sắc tộc và khủng bố quốc tế.
1. Những thành tựu đạt được:
a. Kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, vượt qua thời kỳ suy giảm về tốc
độ tăng trưởng; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Tăng trưởng với tốc độ tăng năm sau cao hơn năm trước (Năm 2003 tăng 7,34%;
năm 2004 tăng 7,79%, năm 2005 tăng 8,43% và 8,17% năm 2006). Bình quân mỗi
năm 2003-2005 tổng sản phẩm trong nước tăng 7,51%, năm 2006 tăng 8,17%, đưa
quy mô nền kinh tế năm 2005 gấp 1,44 lần năm 2000. Đưa nước ta đứng vào hàng
15
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và thế giới (Theo số liệu
của Ngân hàng Thế giới và ESCAP thì tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước bình
quân mỗi năm trong những năm 2000-2004 của Trung Quốc là 8,5%; Hàn Quốc
5,5%; Thái Lan và Ma-lai-xi-a 5,0%; In-đô-nê-xi-a 4,6%; Phi-li-pin 4,5%; Xin-ga-
po 4,1%).
Kinh tế nước ta không những tăng trưởng tương đối cao mà cơ cấu kinh tế còn
tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị
tăng thêm theo giá thực tế chiếm trong tổng sản phẩm trong nước của khu vực
công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 39,47% năm 2003; 40,21% năm 2004; 40,97%
năm 2005 và năm 2006 chiếm 41,52%. Khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tuy
đạt tốc độ tăng bình quân hàng năm 5,42% về giá trị sản xuất và 3,83% về giá trị
tăng thêm, nhưng tỷ trọng trong tổng sản phẩm trong nước đã giảm từ 23,03% năm
2003; 21,81% năm 2004; 21,02% năm 2005 và năm 2006 chỉ còn 20,40%. Khu
vực dịch vụ vẫn duy trì được tỷ trọng chiếm trên dưới 38% tổng sản phẩm trong
nước.
Mặc dù trong những năm 2003-2006, số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã giảm
đáng kể do tổ chức, sắp xếp lại và thực hiện cổ phần hoá, nhưng tỷ trọng của khu
vực kinh tế Nhà nước trong tổng sản phẩm trong nước vẫn duy trì ở mức trên 38%
(Năm 2003 chiếm 39,08%; 2004 chiếm 39,10%; năm 2005 chiếm 38,42%). Kinh tế
ngoài Nhà nước được khuyến khích phát triển nên thường xuyên tạo ra 46-47%
tổng sản phẩm trong nước. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục giữ vị
trí quan trọng. Năm 2000 khu vực này tạo ra 13,28% tổng sản phẩm trong nước và
đến năm 2005 đã tạo ra 15,89%.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ năm 2006 tăng 20,9% so với năm trước.
Giá tiêu dùng tháng 12/2006 tăng 6,6% so với tháng 12/2005 thấp hơn mức tăng
trưởng và đạt mục tiêu về lạm phát mà Quốc hội đã đề ra. Xuất khẩu hàng hoá năm
2006 đã vượt 4,9% so với kế hoạch cả năm. Nhập khẩu hàng hoá năm 2006 vượt
4,5% so với kế hoạch năm 2006 và tăng 20,1% so với năm trước. Xuất khẩu dịch
vụ tăng 19,6% so với năm 2005. Nhập khẩu dịch vụ năm 2006 tăng 14,3% so với
16
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
năm trước.
b. Huy động vốn đầu tư đạt kết quả cao, tạo nguồn lực tăng cường kết cấu hạ tầng kinh
tế-xã hội
Tổng số vốn đầu tư phát triển 5 năm 2001-2005 theo giá thực tế đã đạt trên
1200 nghìn tỷ đồng, gấp trên 2 lần tổng số vốn đầu tư phát triển huy động được
trong kế hoạch 5 năm 1996-2000. Tính ra, vốn đầu tư phát triển bình quân mỗi
năm trong 5 năm 2001-2005 đạt trên 240 nghìn tỷ đồng, bằng 201,6% mức bình
quân mỗi năm trong kế hoạch 5 năm 1996-2000.
Tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước đã tăng từ 37,76% năm 2003
lên 38,45% năm 2004, năm 2005 là 38,67%. Tỷ lệ vốn đầu tư của nước ta giai
đoạn này chỉ thấp hơn Trung Quốc, còn cao hơn hầu hết các nước trong khu vực
( Tỷ lệ đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước năm 2004 của Trung Quốc là
45,7%, Hàn Quốc 29,3%, Thái Lan 37,8%, Malaixia 22,5%, Philipin 19,6%,
Inđôlêxia 19,5%, Xingapo 15,3%).
Trong 5 năm 2001-2005 đã có gần 14 vạn doanh nghiệp dân doanh đăng ký
thành lập với tổng số vốn đăng ký lên tới 294 nghìn tỷ đồng. Nhờ vậy số vốn của
khu vực này chiếm trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 29,7% năm 2003;
30,9% năm 2004 và năm 2005 là 32,4%.
Cùng với việc triển khai nhiều giải pháp huy động các nguồn vốn trong nước,
việc thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài tiếp tục được chú trọng, nhất là thu hút
vốn FDI và vốn ODA. Đến nay trên lãnh thổ nước ta đã có các nhà đầu tư của
trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 100 công ty đa quốc gia. Số vốn
ODA do các nhà tài trợ cam kết dành cho nước ta trong 5 năm 2001-2005 cũng lên
tới trên 15 tỷ USD, đưa tổng số vốn ODA cam kết trong 13 Hội nghị quốc tế về ODA
dành cho Việt Nam từ năm 1993 đến nay lên trên 32 tỷ USD. Số vốn ODA cam kết
này đã được hiện thực hoá bằng nhiều hiệp định cụ thể với tổng trị giá 24 tỷ USD
và thực tế đã giải ngân được 16 tỷ USD, trong đó 5 năm 2001-2005 giải ngân được
8 tỷ USD.
17
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
c. Đời sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện; sự nghiệp văn hoá giáo dục,
chăm sóc sức khoẻ dân cư và một số lĩnh vực khác có những tiến bộ đáng kể.
Do kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối khá và việc điều chỉnh mức lương tối
thiểu từ 240 nghìn đồng năm 2002 lên 290 nghìn đồng đầu năm 2003 và 350 nghìn
đồng năm 2005 cùng với việc triển khai nhiều chương trình tạo việc làm, phát triển
nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo nên đời sống các tầng lớp dân cư ở cả
thành thị và nông thôn nhìn chung tiếp tục được cải thiện.
Kết quả các cuộc điều tra mức sống hộ gia đình do Tổng cục Thống kê tiến hành những
năm vừa qua cho thấy thu nhập bình quân một người một tháng theo giá thực tế đã tăng
từ 356,1 nghìn đồng/người/tháng năm 2001-2002 và 484,4 nghìn đồng/người/tháng năm
2003-2004. Tính ra, thu nhập bình quân một người một tháng theo giá thực tế năm
2003-2004 đã tăng 64,2% so với năm 1999. Thu nhập tăng đã tạo điều kiện tăng
tiêu dùng cho đời sống và tăng tích luỹ. Chi tiêu cho đời sống bình quân một người
một tháng đã tăng từ 269,1 nghìn đồng năm 2001-2002 lên 359,7 nghìn đồng năm
2003-2004.
Đáng chú ý là thu nhập cũng như chi tiêu đều tăng ở cả khu vực thành thị và nông
thôn, ở tất cả 8 vùng sinh thái và tất cả 5 nhóm thu nhập. Thu nhập bình quân một
người một tháng năm 2003-2004 của nhóm thu nhập thấp nhất đạt 141,8 nghìn
đồng, tăng 3,1% so với mức bình quân 2001-2002; nhóm thu nhập dưới trung bình
đạt 240,7 nghìn đồng, tăng 35%; nhóm thu nhập trung bình đạt 347 nghìn đồng, tăng
38,2%; nhóm thu nhập khá đạt 514,2 nghìn đồng, tăng 38,8%; nhóm thu nhập cao
nhất đạt 1182,3 nghìn đồng, tăng 35,4%.
Tỷ lệ hộ nghèo lương thực, thực phẩm đã giảm từ 9,9% năm 2001-2002 xuống
còn 6,9% năm 2003-2004, trong đó tỷ lệ nghèo của khu vực thành thị giảm từ 4,6%
xuống 3,9% và 3,3%; của khu vực nông thôn giảm từ 16% xuống 11,9% và 8,1%.
Tỷ lệ nghèo chung của nước ta (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và
nghèo phi lương thực thực phẩm) cũng đã giảm xuống.Trong các Báo cáo những
năm gần đây, UNDP đã xếp Việt Nam vào danh sách những quốc gia dẫn đầu các
nước đang phát triển về thành tích giảm nghèo và tiêu biểu cho nhóm các nước đang
18
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
phát triển đã đạt được sự hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển các chính sách
xã hội vì con người. Báo cáo Phát triển Con người năm 2005 của tổ chức này đã xếp
Việt Nam ở vị trí 108/177 nước được xếp hạng, tăng 4 bậc so với bảng xếp hạng
năm 2004.
Trong Báo cáo Giám sát Giáo dục Toàn cầu năm 2005, UNESCO đánh giá về
tiến độ thực hiện mục tiêu “Giáo dục cho tất cả đến năm 2015” do Liên Hợp quốc
đề ra, Chỉ số giáo dục cho tất cả của nước ta được xếp vị trí 64/127, đứng trên một
số nước trong khu vực như In-đô-nê-xi-a, Phi-li-pin, Ấn Độ
Đáng chú ý là năm 2003 nước ta đã khống chế được dịch viêm đường hô hấp cấp
(SARS), được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận là quốc gia đầu tiên khống chế
thành công dịch bệnh này. Những năm 2004-2005 cũng đã khống chế được sự lây
lan của dịch cúm gia cầm H5N1. Hoạt động của ngành Y tế những năm vừa qua đã
góp phần đưa tuổi thọ bình quân của dân số nước ta tăng từ 67,8 tuổi trong năm
2000 lên 69,0 tuổi năm 2002; 70,5 tuổi năm 2003 và 71,5 tuổi năm 2005.
2. Hạn chế và bất cập
Bên cạnh những thành tựu đạt được nêu trên, diễn biến và thực trạng kinh tế - xã
hội 2003-2006 cho thấy nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều hạn chế và yếu kém,
thể hiện trên một số điểm chủ yếu sau:
a. Nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển, sức cạnh tranh thấp và chứa đựng
nhiều mặt mất cân đối.
Những năm 2003-2006 vừa qua nền kinh tế nước ta tăng trưởng bình quân mỗi
năm 7,51% là một thành công, nhưng do xuất phát điểm thấp nên quy mô của nền
kinh tế còn nhỏ bé, giá trị tăng thêm của 1% tăng lên không cao và do vậy đến nay
nước ta vẫn chưa ra khỏi danh sách các nước đang phát triển có thu nhập thấp.
Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người tính bằng đô la Mỹ theo tỷ giá
hối đoái năm 2004 của nước ta chỉ bằng 53,2% của Phi-li-pin; 46,4% của In-đô-nê-
xi-a; 43,6% của Trung Quốc; 21,8% của Thái Lan và bằng 12% của Ma-lai-xi-a.
Nếu tính theo sức mua tương đương thì cũng có tình trạng thấp thua tương tự.
19
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
Một hạn chế lớn khác của nền kinh tế nước ta là đang chứa đựng nhiều mặt mất
cân đối. Quan hệ tích luỹ, tiêu dùng ít được cải thiện. Tích luỹ trong tổng sản phẩm
trong nước chiếm tỷ trọng thấp và gần như không tăng qua các năm (Năm 2003
chiếm 35,4%; 2004 chiếm 35,5%). Trong quan hệ thương mại, nhập siêu tuy vẫn
nằm trong tầm kiểm soát nhưng ở mức tương đối cao. Mặc dù thu ngân sách hàng
năm không ngừng tăng lên, ước tính năm 2005 gấp trên 2,3 lần năm 2000, nhưng
ngân sách vẫn trong tình trạng bội chi. Đáng chú ý là, trong tổng thu ngân sách
hàng năm có khoảng 45% tổng thu bị phụ thuộc vào các yếu tố không ổn định, đó
là thu từ dầu thô và thu thuế xuất nhập khẩu. Cán cân thanh toán quốc tế có chuyển
biến tích cực, dự trữ ngoại tệ năm 2004 gấp 2 lần năm 2000, nhưng mới tương ứng
với 10 tuần nhập khẩu hàng hoá, trong khi chỉ tiêu này của nhiều nước đã đạt 40-
60 tuần. Theo Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF)
công bố những năm gần đây thì Chỉ số cạnh tranh tăng trưởng (GCI) của nền kinh tế
nước ta từ vị trí thứ 60/101 năm 2003 đã lùi xuống vị trí 79/104 năm 2004 và 81/117
năm 2005; Chỉ số cạnh tranh doanh nghiệp (BCI) cũng tụt từ vị trí 50/102 năm 2003
xuống 79/104 năm 2004 và 80/116 năm 2005.
b. Đời sống của một bộ phận dân cư còn khó khăn; nhiều vấn đề xã hội bức xúc
chậm được khắc phục.
- Trong những năm vừa qua, tỷ lệ hộ nghèo của nước ta đã giảm đáng kể, nhưng
đến nay vẫn còn tương đối cao. Một bộ phận dân cư, nhất là bộ phận dân cư sinh
sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc ít người đời sống vẫn rất
khó khăn.
- Có sự chênh lệch đáng kể giữa thu nhập của các nhóm dân cư. Thu nhập bình
quân một người một tháng của nhóm thu nhập cao nhất năm 2003-2004 tăng 309,4
nghìn đồng, nhưng của nhóm thu nhập thấp nhất chỉ tăng có 34,1 nghìn đồng, bằng
11,0% mức tăng của nhóm thu nhập cao nhất. Với mức tăng 34,1 nghìn
đồng/người/tháng trong bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng tăng tương đối cao trong
những năm vừa qua thì thu nhập thực tế của nhóm thu nhập thấp được cải thiện
không nhiều.
20
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
- Theo kết quả điều tra lao động và việc làm những năm vừa qua thì tỷ lệ thất nghiệp
của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị tuy có giảm nhưng rất chậm và đến
nay vẫn ở mức 4-6% (Năm 2003: 5,78%; năm 2004: 5,60%, năm 2005: 5,31% và
năm 2006 là 4,4%). Tỷ lệ thời gian lao động chưa được sử dụng của lao động trong
độ tuổi ở khu vực nông thôn cũng thường ở mức trên dưới 20% (Năm 2003:
22,35%; 2004: 20,90% và 2005: 19,35%).
Việc nước ta chính thức ra nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO từ tháng 11năm
2006 và ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới vừa là thuận lợi
vừa là thách thức đòi hỏi nền kinh tế nước ta phải có sự chuyển đổi thích hợp và mạnh
mẽ cả về cơ cấu ngành và cơ cấu sản phẩm, đồng thời cần nâng cao chất lượng tăng
trưởng, hiệu quả đầu tư và tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm Việt không chỉ trên
thị trường quốc tế mà ngay cả trên thị trường trong nước.
B. Thu thập và trình bày các số liệu về biến động chỉ số giá cả, tỷ lệ lạm phát ở
Việt Nam thời kỳ 2003-2006
Diễn biến lạm phát từ năm 2003-2006
(đơn vị % tăng giảm)
2003 2004 2005 2006
So với đầu năm
CPI 3.0 9.5 8.4 6.6
I. Hàng LTTP:
1- Hàng ăn và dịch vụ ăn uống 2.8 15.6 10.8 7.9 ↓
T/đó:
a-Lương thực 2.9 14.3 7.8 14.1
b- Thực phẩm 2.9 17.1 12.0 5.5
II- Hàng phi LTTP 2.8 4.7 6.4 3.8
2- Đồ uống thuốc lá 3.5 3.6 4.9 5.2
3- May mặc giày dép mũ nón 3.4 4.1 5.0 5.8
4-Nhà ở vật liệu xây dựng 4.1 7.4 9.8 5.9 ↓
5- Thiết bị đồ dùng gia đình 1.9 3.6 4.8 6.2
6- Dược phẩm y tế 20.9 9.1 4.9 4.3 ↓
21
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
7- Phương tiện đi lại, bưu điện -2.0 5.9 9.1 4.0 ↓
8- Giáo dục 4.9 -1.8 5.0 3.6 ↓
9- Văn hoá, thể thao, giải trí -1.3 2.2 2.7 3.5
10- Hàng hoá dịch vụ khác 4.3 5.2 6.0 6.5
III- Bình quân 3.2 7.7 8.3 7.4
Năm 2004 và 2005 là giai đoạn mà lạm phát của Việt Nam đột nhiên tăng vọt ở
mức rất cao. Theo số liệu công bố của tổng cục thống kê, tính đến tháng 12/2005,
chỉ số giá tiêu dùng của cả nước lên tới 8,4%, vượt xa so với mức 6,5% theo nghị
quyết của quốc hội đề ra từ đầu năm, thấp hơn so với mức 9,5% của năm 2004
nhưng cao gấp 3 lần so với 3% của năm 2003.
Theo một báo cáo gần đây của IMF, thì giá của những yếu tố đầu vào (chẳng hạn
như giá dầu lửa và nhiều mặt hàng trong nhóm ngành lương thực) đã góp phần làm
tăng giá và đẩy lạm phát lên cao trong những năm gần đây. phát hiện quan trọng
nhất của nghiên cứu này đã chỉ ra quan hệ chặt chẽ giữa tốc độ tăng cung tiền (và
cả cung tín dụng) đối với lạm phát ở Việt Nam, nhất là giai đoạn từ sau năm 2002.
Theo công bố của Tổng cục thống kê, lạm phát CPI năm 2006 tăng 6,6% thấp hơn
nhiều so với mức tăng 8,4% của cùng kỳ năm 2005. Điều đặc biệt là nếu như năm
2005, lạm phát CPI và lạm phát nhóm hàng lương thực thực phẩm (LTTP nằm
trong nhóm hàng Hàng ăn và dịch vụ ăn uống) đều giảm so với năm trước (8,4% so
với 9,5% và 10,8% so với 15,6%) còn ngược lại lạm phát của các nhóm hàng phi
LTTP và lạm phát bình quân lại tăng thì bước sang năm 2006, cả 4 chỉ tiêu lạm
phát CPI, LTTP, phi LTTP và lạm phát bình quân đều giảm so với năm ngoái. Tuy
lạm phát của năm 2006 ở mức thấp hơn so với hai năm trước đó, nhưng đó vẫn là
tỷ lệ lạm phát khá cao so với những nước trong khu vực (năm 2006, lạm phát của
Thái Lan là 4,6%, Trung Quốc là 1,5%). Sự giảm lạm phát của năm 2006 là do các
nguyên nhân về giá dầu lửa và các mặt hàng lương thực thực phẩm không còn tạo
sức ép lên giá (mặc dù giá của dầu vẫn ở mức cao nhưng không biến động tăng nên
không thể đẩy giá tăng thêm) cộng thêm một vài động tác của phía Ngân hàng nhà
nước, chẳng hạn như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở các ngân hàng thương mại.
Trong 10 nhóm hàng hoá, thì 5 nhóm hàng có mức tăng thấp hơn so với mức
22
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
tăng của năm 2005, đó là: Lương thực thực phẩm, Phương tiện đi lại bưu điện, Nhà
ở vật liệu xây dựng, Giáo dục, Dược phẩm y tế, 5 nhóm còn lại là May mặc, mũ
nón giày dép, Thiết bị đồ dùng gia đình, Đồ uống thuốc lá, Văn hoá thể thao giải
trí, Hàng hoá dịch vụ khác lại có mức tăng cao hơn năm ngoái.
+Năm 2006 mức tăng của giá cả nhiều mặt hàng trên thế giới và trong nước đều
thấp hơn năm 2005:
- Năm 2006 theo đánh giá của IMF, mức tăng 15% của nhiều mặt hàng thiết yếu
đầu vào của sản xuất thấp hơn mức tăng 29% của cùng kỳ năm ngoái đã góp phần
làm giảm áp lực lên giá thành các hàng hoá nhập khẩu, tác động làm lạm phát nhập
khẩu giảm, qua đó làm giảm lạm phát CPI.
Diễn biến giá một số mặt hàng trên thế giới (2003-2006)
(% so với đầu năm)
2003 2004 2005 2006
1. Dầu thô 4.2 33.8 36.8
17.1↓
2. Giá gạo XK TL 8.8 10.3 20.7
5.3↓
3. Đường 19.8 -4.5 41.2
17.9↓
4. Clinke 5.7 25.2
7.0↓
5 .Giấy sợi dài 13.8 25.9
6.2↓
6. Nhựa 53.3 -23.0 6.19
7. Phân ure 45.9 27.7 -11.6 1.7
8. Thép 34.1 18.3 -9.1 2.6
- Trong nước, giá cả nhiều mặt hàng đều có mức tăng thấp hơn năm ngoái.
Diễn biến giá cả một số mặt hàng, 2004-2006
(% so với đầu năm)
2004 2005 2006
1. Xăng dầu 10.2÷33.9 26.7÷56 10.5÷15.0↓
Tr/đó: số lần điều chỉnh 3↑ 3↑; 1↓ 2↑; 2↓
2. Đường 34.0 42.0 10.5↓
23
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
3. Cước vận tải 4-5 2-3↓
4. Phân bón 3.0 4.6 0.5↓
5. Chỉ số giá thực phẩm 17.1 12.0 5.5↓
6. Giá nước sạch
- Hà nội 0 14÷40 0↔
- HCM 37÷63 0 0↔
7. Vé xe buýt
- Hà nội 0 20 0↔
- HCM 0 0 0↔
8. Điện 0 0 0↔
9. Giá than
- Than cốc 100* 0 44.0↑
- Than cám 120* 0 44.0↑
10. Chỉ số giá LT 14.3 7.8 14.1↑
11. Thép 17.8 -0.3 2.0↑
12. Xi măng -2.7 1.2 3.3↑
Cụ thể, giá thực phẩm và giá xăng dầu đều có mức tăng thấp hơn cùng kỳ cùng
với giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý như điện, nước, giá vé xe buýt, vé hàng
không ổn định (trừ mặt hàng than) khiến mức tăng của các nhóm Phương tiện đi
lại bưu điện, Nhà ở vật liệu xây dựng giảm so với năm 2005. Điều này đã tác động
trực tiếp làm lạm phát CPI giảm hơn so với năm 2005, mặt khác cũng gián tiếp tác
động làm giảm lạm phát CPI thông qua việc góp phần làm giảm chi phí của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, riêng giá lương thực lại có mức tăng cao năm 2005 (14.1% so
với 7.8%) nhưng do mức giảm của giá thực phẩm mạnh hơn (5.5% so với 12%)
nên nhóm LTTP vẫn có mức tăng thấp hơn năm 2005.
- Sức ép về tăng trưởng kinh tế giảm hơn so với năm 2005:
Tăng trưởng kinh tế của năm 2006 đạt 8,2%, thấp hơn mức tăng 8.4% của năm
2005, thể hiện sức ép về bên cầu đã giảm bớt; điều này đã góp phần làm lạm phát
năm 2006 có mức tăng thấp hơn cùng kỳ.
- Năm 2006, Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm giảm bớt tốc độ tăng
24
Bài tập lớn kinh tế vĩ mô 1
của giá cả nguyên vật liệu đầu vào của sản xuất (cơn sốc phía cung) để kiềm chế
mức tăng của giá cả.
-Tiền lương và thu nhập của công chúng gia tăng:
Từ 1/10/06 Chính phủ tăng tiền lương tối thiểu của khối cán bộ công chức tại các
DNNN với mức tăng 28,6%, cao hơn mức tăng 20,7% của năm 2005 theo Đề án
cải cách tiền lương giai đoạn 2003-2007, đồng thời điều chỉnh tăng mức lương tối
thiểu đối với khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài với mức tăng bình quân là
42% từ mức 487.000-626.000 lên mức 710.000-870.000 đồng/tháng. Đây là một
nhân tố làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, từ đó tạo sức ép làm gia tăng
lạm phát. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế liên tục ở mức cao khiến thu nhập của
người dân ngày càng được cải thiện đã tác động làm tiêu dùng cuối cùng của dân
cư gia tăng, thể hiện ở Tổng mức bán lẻ hàng hoá sau khi loại trừ yếu tố giá tăng
cao hơn so với năm 2005 (13.2% so với 12.0%). Điều này đã tác động làm 5 nhóm
hàng hoá chủ yếu phục vụ tiêu dùng của dân cư có mức tăng cao hơn cùng kỳ năm
2005, đó là: nhóm May mặc, mũ nón giày dép, Thiết bị đồ dùng gia đình, Đồ uống
thuốc lá, Văn hoá thể thao giải trí, Hàng hoá dịch vụ khác. Tuy nhiên, riêng nhóm
Thiết bị đồ dùng gia đình tăng ngoài nguyên nhân do tiêu dùng tăng cao như đã đề
cập ở trên còn do giá cao su và nhựa trên thị trường thế giới và trong nước có mức
tăng cao hơn hẳn năm 2005 (56% so với 21%; 24% so với -23%).
- Giá lương thực tiếp tục tăng mạnh so với cùng kỳ:
Mặc dù giá lương thực thế giới có mức tăng thấp hơn so với cùng kỳ (5.3% so với
20.7%) nhưng trong nước nhóm lương thực lại có mức tăng 14.1%, cao hơn nhiều
so với mức tăng 7.8% của năm 2005. Nguyên nhân chủ yếu là do sản lượng lương
thực năm 2006 giảm do bị ảnh hưởng bởi hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh, đặc biệt là
dịch rầy nâu, vàng lùn, lùn xoắn lá ở đồng bằng sông Cửu Long, thể hiện ở chỉ tiêu
sản lượng lúa thu hoạch vụ mùa năm 2006 giảm gấp đôi so với năm 2005 (-0.4%
so với -0.2%).
Như vậy, nếu như năm 2005 lạm phát gia tăng là do tác động từ cả cơn sốc về
25