Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Đánh giá tình hình lạm phát ở Việt Nam trong những năm qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.65 KB, 21 trang )

Đánh giá tình hình lạm phát ở Việt Nam trong những
năm qua
A. Tình hình lạm phát trong những năm qua
Trong thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, Việt Nam trải qua một nạn
lạm phát phi mó. Mức lạm phỏt gia tăng từ 125% vào năm 1980 lên đến 487%
vào năm 1986. Sau khi chính sách “đổi mới” và thả lỏng giá cả được thi hành,
mức lạm phát giảm xuống 4.2% vào năm 1999. Nạn lạm phỏt phi mó trong
gần hai thập niờn gõy ra bởi một lý do chớnh là Nhà nước tài trợ ngân sách
thiếu hụt bằng cách in thêm tiền. Ngoài ra nhu cầu của dân chúng, nhất là về
thực phẩm thỡ nhiều mà hàng hoỏ sản xuất ra thỡ quỏ ớt. Ngõn sỏch thiếu hụt
vỡ phải nuụi khoảng 200,000 quõn đóng ở Kampuchia trong khi không nhận
một đồng viện trợ nào của phương Tây. Cũn viện trợ của cựu Liờn Bang Xụ
Viết và cỏc nước Xó Hội Chủ Nghĩa Đông Âu bị giảm nhanh chóng rồi chấm dứt
vào cuối thập niên 1980.
Trong khoảng thời gian từ 1992 trở về sau lạm phát ở mức thấp dưới
10%. Ba yếu tố chính ảnh hưởng đến hiện tượng lạm phát trong giai đoạn này
là mức sản xuất thực phẩm nội địa, giá thực phẩm trên thị trường quốc tế đặc
biệt là giá gạo, và giá xăng nhớt và ảnh hưởng của nó trên chi phí chuyên chở.
Mức lạm phát ở mức 4.0% và 3.3% lần lượt vào 2002 và 2003.
Đặc biệt vào đầu thập niên thứ nhất của thế kỷ 21 Việt Nam trải qua giảm
phát nhẹ ở mức -1.6% vào năm 2000 và -0.4% vào năm 2001. Giảm phát là
trường hợp ngược lại với lạm phát, có nghĩa là giá cả hạ thấp, và kết quả là
làm tăng giá trị của đồng tiền so với hàng hoá và dịch vụ. Một hậu quả của sự
giảm phát là mức thất nghiệp gia tăng. Mức tiêu thụ suy giảm vỡ người mua
có khuynh hướng đỡnh hoón chi tiờu để chờ đợi cho giá cả xuống thấp hơn
nữa.
Trong vài năm qua nền kinh tế Việt Nam có những nét có vẻ ngày càng
khởi sắc, chẳng hạn như tốc độ phát triển kinh tế đó từ 4.8% năm 1999 lên đến
trên 7% năm 2003.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính xảy ở châu Á năm 1997, Việt Nam chủ
trương chính sách kích cầu nhằm giảm bớt ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng


và bù lại mức giảm đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Ta thấy mức tăng đầu tư
nhanh chóng đưa lên từ tỷ lệ 27,6% GDP năm 1999 lên tới 35% GDP vào năm
2003. Đây cũng là tỷ lệ đầu tư kỷ lục trên thế giới, thế nhưng do hiệu quả sản
xuất thấp vỡ chớnh sỏch đầu tư vẫn tập trung vào khu vực Nhà nước, tốc độ
phát triển cũng chỉ đạt được 7,3% . Đầu tư cao nhưng khoảng 60%, tức là
khoảng 7,5 tỷ USD vẫn là đầu tư của nhà nước, trong đó nguồn vốn đầu tư của
nhà nước là từ ngân sách (gần 40%), vay nước ngoài (30%), phần cũn lại là
vốn doanh nghiệp (khụng biết bao nhiờu là từ vay ngõn hàng và bao nhiờu là
vốn tự cú). Tỷ lệ đầu tư của nước ngoài giảm, nhưng có một điểm sáng là tỷ lệ
đầu tư của tư nhân tăng từ 24% năm 1999 lên 26,7% năm 2003. Tỷ lệ đầu tư
của nhà nước tiếp tục cao, tổng số tiền đầu tư lớn, do đó tham nhũng bành
trướng ở mức độ gần như không cũn kiểm soỏt được là điều dễ hiểu. Nếu như
tỷ lệ tham nhũng tiền đầu tư của nhà nước lên 20-30% như đó thảo luận
trong một kỳ họp quốc hội, thỡ số tiền tham nhũng cú thể lờn tới 1,5 – 2,25 tỷ
USD một năm.
Trong đầu tư, chính sách của nhà nước vẫn là tập trung phát triển sản
xuất thay thế nhập khẩu (sắt thép, xi măng, đường), kể cả đưa tới việc bảo vệ
thị trường nội địa cho đầu tư nước ngoài (xe hơi, xe gắn máy), thay vỡ tập
trung phỏt triển sản xuất nhằm xuất khẩu. Do chớnh sỏch trờn, thiếu hụt cỏn
cõn xuất nhập khẩu ngày càng cao, tăng từ 0% GDP năm 1999 lên 13,5% GDP
năm 2003.
Mức thiếu hụt cán cân xuất nhập khẩu năm 2003 là 5.1 tỷ USD. Mức thiếu
hụt này chưa tạo nên khủng hoảng cán cân thanh toán vỡ hiện nay thiếu hụt
được bù đắp bằng 2,5 tỷ do lao động người Việt ở nước ngoài và Việt kiều gửi
về, khoảng 1 tỷ đầu tư trực tiếp của nước ngoài và phần cũn lại là vay mượn
nước ngoài. Nhưng tỡnh hỡnh phỏt triển kớch cầu hệ thống quốc doanh thiếu
hiệu quả này khụng thể tiếp tục trong tương lai, và đó là tương lai rất gần.
Chính sách kích cầu, đi liền và đũi hỏi ngõn hàng tăng tín dụng đó đưa
lạm phát đến mức báo động. Cả năm 2003, lạm phát là 3%, đến năm 2004 lạm
phát đã là 9.5%. Nếu nhìn về quá khứ, từ mức lạm phát rất cao trong suốt

thập kỷ 80 của thế kỷ trước, có năm lên tới trên 774%, đến năm 1991 chỉ cũn
67%; sau đó liên tục giảm và xuống mức thấp nhất là 0,1% năm 1999. Tỷ lệ
lạm phát trong các năm 1996 - 1997 chỉ là 4,5% và 3,6%. Năm 1998, mặc dù
chịu ảnh hưởng lớn của khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, tỷ giá ngoại tệ
tăng và giá lương thực có nhiều đột biến, nhưng tỷ lệ lạm phát cũng chỉ ở mức
9,2%.
Nếu so sánh với các nước trong khu vực thì ta có thể thấy rằng trong hơn
chục năm qua, tỷ lệ lạm phát của chúng ta ở mức trung bình trong khu vực. Tỷ
lệ này thấp hơn một số nước như Indonesia, Myanmar, Lào. Như đã nói ở trên
lạm phát là hiện tượng chung của tất cả các nước trên thế giới, không phải
riêng của nước ta. Đối với nước có nền kinh tế phát triển, đời sống chính trị ổn
định, Nhà nước điều hành tài giỏi sẽ có tỷ lệ lạm phát hợp lý. Nước kém phát
triển hoặc có sự biến động về kinh tế, chính trị sẽ dẫn đến tỷ lệ lạm phát không
hợp lý. Ta tham khảo bảng dưới đây.

Năm
Nước
1992 1993 1994
199
5
1996
199
7
1998 1999 2000
200
1
2002 2003
Campuchia 96.1 114.3 -0.5 7.8 7.1 8.0 14.8 4.0 -0.8 0.2 3.3 1.1
Indonesia 7.6 9.7 8.5 9.5 7.9 6.6 58.5 20.5 3.7 11.5 11.9 2.0
Lào 9.8 6.3 6.8 19.6 13.0 13.0 95.8 139.7 20.5 7.7 10.7 15.5

Malaysia 4.6 3.6 3.1 4.0 3.4 2.8 5.2 2.8 1.5 1.4 1.8 1.2
Myanmar 21.9 31.8 24.1 25.2 16.3 29.7 30.1 21.0 -0.1 40.1 43.5 ...
Philippin 7.9 5.6 8.3 8.0 9.1 5.9 9.8 6.6 4.4 6.1 3.1 2.9
Singapore 2.3 2.3 3.1 1.7 1.3 2.0 -0.3 0.1 1.3 1.0 -0.4 0.5
Thailand 4.2 3.3 5.1 5.8 5.8 5.6 8.1 0.3 1.6 1.6 0.7 1.8
Việt nam … … … … 5.7 3.2 7.8 4.2 -1.6 -0.4 4.0 3.3
Tỷ lệ lạm phát của các nước thuộc khối ASEAN qua một số năm
(Nguồn: Ngân hàng phát triển Châu Á - ADB)
Có thể nói tỷ lệ lạm phát năm 2004 là cao, nó đã ảnh hưởng không ít đến
nền kinh tế và xã hội: chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ có
những ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Những tác động chủ yếu
bao gồm: Giá cả tăng mạnh sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
Lạm phát cao làm giảm giá trị đồng tiền trong nước. Khi các mức giá cả trong
tương lai khó dự đoán hơn thỡ cỏc kế hoạch chi tiờu và tiết kiệm hợp lý sẽ trở
nờn khú thực hiện hơn. Người dân ngày càng lo ngại về việc sức mua trong
tương lai của họ bị giảm xuống và mức sống của họ cũng vỡ vậy mà kộm đi.
Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi
hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất (ví dụ: khi có lạm phát, nếu ngân
hàng không tăng lói suất tiền gửi thỡ dõn chỳng sẽ khụng gửi tiền ở ngõn hàng
mà tỡm cỏch đầu cơ vào đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao...). Lạm phát cao
đặc biệt ảnh hưởng xấu đến những người có thu nhập không tăng kịp mức
tăng của giá cả, đặc biệt là những người sống bằng thu nhập cố định như là
những người hưởng lương hưu hay công chức. Phúc lợi và mức sống của họ sẽ
bị giảm đi.
Một hậu qủa nữa của lạm phát đó là tỷ lệ thất nghiệp tăng lên khi lạm
phát tăng. Theo nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta vẫn đang ở
mức cao. Một phần lớn trong số những người thất nghiệp là ở bộ phận nông
thôn, do công việc ở nông thôn chỉ mang tính chất thời vụ nên ngoài những
thời điểm vào vụ ra thì hầu như họ thất nghiêp, có chăng là một bộ phận dân

cư có việc làm nhưng những việc ấy thu nhập không cao hoặc công việc làm
thêm là không nhiều. Một tác động nữa của tình trạng thất nghiệp hiện nay là
do dịch cúm gia cầm đã và đang xảy ra gây tác đọng không nhỏ đến những
người nông dân nuôi gia cầm. Do vậy, đã không ít những người ở nông thôn
sau khi kết thúc công việc mang tính chất thời vụ ở quê nhà, họ đã ra các thành
phố lớn để kiếm việc làm thêm. ở các thành phố lớn tình trạng dân bản gốc
thất nghiệp thì không nhiều nhưng dân di cư từ các nơi đến thì không hề nhỏ
chút nào. Tình trạng việc làm có thể thấy cung nhiều-cầu ít nên tỷ lệ thất
nghiệp vẫn là rất lớn.
Như sẽ phân tích ở dưới đây, lạm phát ở nước ta là lạm phát giá cả, tập
trung là do chi phí đẩy, các cơn sốt cung đẩy chi phí sản xuất và giá cả lên, sản
lượng giảm xuống. Điều đó dẫn đến doanh thu giảm làm cho mức lương của
người lao động cũng giảm xuống, người lao động bỏ việc...
B. Nguyên nhân
Lý giải về vấn đề lạm phát năm 2004 có nhiều ý kiến của các chuyên gia
kinh tế. Ta đi xem xét những ý kiến cơ bản trong vấn đề này.
1. Xét trên góc độ phương pháp tính:
Một số nước khi tính toán và công bố chỉ số lạm phát thường loại bỏ các
yếu tố biến động một số mặt hàng có tính chất thời vụ, nhất thời, gây đột biến
chỉ số CPI, đặc biệt là họ loại bỏ sự biến động có thời điểm của giá lương thực,
xăng dầu. Trong thực tế chỉ số CPI không thể đo lạm phát chính xác, bởi vỡ nú
bị tỏc động của một số yếu tố gây sai lệch rổ hàng hoá được quy định trước.
Theo một nghiên cứu tại Mỹ: (Boskin và cộng sự - 1995) dự báo lạm phát theo
CPI thường cao hơn lạm phát thực tế trung bỡnh là 1,1%.
Cũng từ phương pháp tính lạm phát đó giải thớch cho một thực tế là tại
sao trên thị trường thế giới giá dầu mỏ, sắt thép, gạo, cà phê, cao su, đường,
bông nguyên liệu nhựa, phân bón,...; tỷ giá giữa đô la Mỹ, Euro, yên Nhật,...
nhiều khi biến động lớn và thất thường, nhưng chỉ số lạm phát của các nước
vẫn ổn định! Lý do giải thích cho vấn đề này là phương pháp tính chỉ số lạm
phát của các nước khác với Việt Nam và một số quốc gia trong khu vực khi

chọn chỉ số CPI.
Một là, các nước đó thường loại trừ giá lương thực, dầu mỏ ra khi tính
toán...;
Hai là, giá đó là giá giao dịch mua buôn, bán buôn trên thị trường hàng
hoá của các nhà kinh doanh, cũn giỏ bỏn lẻ cho người tiêu dùng đối với nhiều
mặt hàng thỡ vẫn ổn định;
Ba là, các mặt hàng đó chiếm tỷ trọng nhỏ trong các nhóm hàng hoá và
dịch vụ tính chỉ số tăng giá hàng tiêu dùng.
Ở Việt Nam theo phương pháp tính chỉ số giá cả hàng tiêu dùng hiện nay,
giá cả của nhóm hàng lương thực - thực phẩm chiếm quyền số lớn nhất, tới
47,9% trong rổ hàng hoá tính CPI. Trong các năm trước đây, mặc dù nhiều
nhóm mặt hàng khác có biến động tăng đáng kể, nhưng nhóm mặt hàng lương
thực, thực phẩm, nhất là giá lúa gạo, giá cao su, cà phê, hạt điều, thịt lợn, rau
hoa quả,... biến động thất thường. Trong các năm 1991, 1993, 1994, 1998... giá
lương thực và thực phẩm tăng rất cao, kèm theo đó là chỉ số giá chung cũng
tăng cao. Ngược lại, trong các năm 1997, 1999, 2000,... các mặt hàng lương
thực, thực phẩm có giá bán giảm thấp, khó tiêu thụ, nên đó làm cho chỉ số giỏ
tiờu dựng ở mức rất thấp, thậm chớ là õm. Nhưng trong 9 tháng đầu năm
2004, nhóm mặt hàng này đó tăng tới 15%; trong đó giá lương thực tăng
12,5% và giá thực phẩm tăng 16,8% đó tỏc động mạnh làm gia tăng cao chỉ số
CPI nói chung. Do đó nếu loại bớt được sự tăng giá đột biến gây những cú sốc
trong tính toán, thỡ rừ ràng chỉ số lạm phỏt không cao như đó cụng bố.
Phân tích về bản chất và nguyên nhân của chỉ số giá cả tăng cao trong
năm 2004 có thể thấy rừ được lạm phát ở nước ta là lạm phát tiền tệ hay lạm
phát giá cả, cũng như hiểu thêm về tỡnh hỡnh lạm phỏt chung của khu vực.
Trong bối cảnh giá cả một số mặt hàng nhậy cảm của thế giới, đặc biệt là
trong khu vực tăng đáng kể trong thời gian gần đây, như giá xăng dầu tăng
cao nhất trong nhiều năm qua, giá phôi thép biến động mạnh, giá gạo xuất
khẩu tăng khá, tới mức 43% trong vũng 1 năm. Giá các mặt hàng khác như:
phân bón, nguyên liệu nhựa, bột giấy, cao su... cũng tăng lên. Nhiều quốc gia

trong khu vực bị ảnh hưởng của tỡnh hỡnh biến động của thị trường, nên lạm
phát cũng gia tăng. Nghiên cứu sự tác động của giá cả xăng dầu, một số mặt
hàng nguyên liệu quan trọng, phân bón,... trên thế giới cho thấy, nó gây nên
hiệu ứng lạm phát lớn về lạm phát đối với nhiều nền kinh tế ở châu Á. Trong 9
tháng đầu năm 2004, Ấn Độ, Trung Quốc, Malaixia và Inđônêxia,... cũng đó cú
mức lạm phỏt lờn tới 4,0% - 7,5%.
Động lực thúc đẩy lạm phát ở Trung Quốc được xem chủ yếu là do giá
lương thực và dịch vụ tăng nhanh. Chỉ số giá tiêu dùng của Trung Quốc đó
vượt quá mức 7% tính đến hết tháng 8 năm 2004. Cũn lạm phỏt của Inđônêxia
nếu như năm 2003 mức lạm phát chỉ là 2% thì trong năm 2004 là trên 6%,
nguyên nhân chủ yếu cũng do giá xăng dầu, lương thực và giá dịch vụ tăng
cao.
Trường hợp của Việt Nam, chỉ số giá tiêu dùng hết tháng 9 năm 2004 đó
lờn tới 8,6%, vượt xa so với mức dự kiến đầu năm là không vượt quá 5%, cao
nhất kể từ năm 1995 đến nay.
2. Xét trên góc độ tài chính- tiền tệ:
Để thấy rừ nhõn tố này, chỳng ta cựng nghiờn cứu tổng phương tiện
thanh toán, điều hành lói suất, tỷ giỏ,... của Ngõn hàng Nhà nước - Ngân hàng
Trung ương của Việt Nam.
Về tổng phương tiện thanh toán, bao gồm tiền mặt trong lưu thông, tiền
gửi tại ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng (nội và ngoại tệ). Nhân tố
này về nguyên lý là thường tác động có độ trễ, tức là tổng phương tiện thanh
toán tăng lên trong kỳ này, thỡ ảnh hưởng của nó phát sinh ở kỳ sau, trong
ngắn hạn là 6 tháng, trung và dài hạn thường là từ 1 năm trở lên. Nhưng
trong 14 năm qua mối liên hệ của sự tác động này không rừ ràng, cú khi nhõn
tố tiền tệ tăng cao, nhưng chỉ số giá vẫn tăng thấp. Trong 14 năm qua, mức
tăng tổng phương tiện thanh toán bỡnh quõn 23% - 26%/năm, phù hợp với
tốc độ tăng trưởng kinh tế và không thấy tác động rừ rệt về lạm phỏt, cũng
như giảm phát. Năm 1999 tổng phương tiện thanh toán tăng cao nhất, tới
39,25%, nhưng các năm 1999, 2000 và 2001 tốc độ tăng chỉ số CPI ở mức thấp,

thậm chí năm 2000 cũn giảm 0,6%. Cỏc năm 1994, 1995, 1998, chỉ số CPI tăng
cao, nhưng các năm đó và năm trước đó tốc độ tăng tổng phương tiện thanh
toán vẫn ở mức trung bỡnh nhiều năm. Năm 1998, tổng phương tiện thanh
toán tăng thấp nhất trong nhiều năm, chỉ có 20,33%, nhưng năm 1998, có một
thực tế dễ hiểu đó là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của
khu vực.
Trong 6 tháng đầu năm 2004 tổng phương tiện thanh toán tăng 7,26%,
thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm 2003 là 8,28%. Tiền gửi 6 tháng đầu năm
2004 tăng 8,28% và cùng kỳ năm 2003 là 10,5%; cũn dư nợ cho vay lần lượt là
11,81% và 14,2%. Song chỉ số tăng giá trong 6 tháng đầu năm 2004, tổng
phương tiện thanh toán, tốc độ tăng trưởng vốn huy động và tăng dư nợ cho
vay,... đều thấp hơn mức cùng kỳ năm ngoái, nhưng chỉ số tăng giá đó là 8,6%.
Tất nhiờn như đó núi ở trờn là cú độ trễ về mặt thời gian, thường từ 6 tháng
đến 1 năm.
Về nhân tố ngoại hối: sự biến động tỷ giá và giá vàng. Bản thân hai mặt
hàng này không nằm trong các nhóm hàng hoá và dịch vụ tính chỉ số CPI. Song
thường có tính quy luật ở nước ta đó là, mỗi khi tỷ giá và giá vàng có biến
động, nó gây tâm lý tác động đến mặt bằng giá chúng, tác động đến lói suất.
Quay trở lại phân tích đến lịch sử diễn biến kinh tế vĩ mô từ khi bắt đầu
công cuộc đổi mới cho đến nay, có thể thấy trong các năm cuối thập kỷ 80 và
đầu thập kỷ 90, chỉ số tăng giá cao đi kèm với mức độ tăng giá vàng và đô la
Mỹ, mặc dù giá vàng và tỷ giá đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới ít biến
động. Hay nói cách khác, trong các năm đó, nói đến lạm phát cũng đồng nghĩa
với sự mất giá của đồng tiền Việt Nam so với mặt bằng giá chung và đặc biệt
là so với giá vàng, đô la Mỹ. Ở giai đoạn này, mức độ hội nhập về thị trường

×