Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

ĐỀ TÀI THỰC HIỆN TIÊU bản HIỂN VI cố ĐỊNH NOÃN sào CHUỘT ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.1 MB, 45 trang )

GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

Hệ sinh dục là cơ quan duy trì nòi giống. Ở cơ quan sinh dục trong của động vật
hữu nhũ cái gồm: buồng trứng (noãn sào), ống dẫn trứng , tử cung, âm đạo. Trong các
cấu trúc này, buồng trứng là tổ chức sản sinh ra giao tử cái, phát triển thành cơ thể sống
khi chúng được thụ tinh, đồng thời đây cũng là nơi sản xuất hormon sinh dục.
Xuất phát từ những nhu cầu:
+ Tìm hiểu cấu trúc mô học của buồng trứng nhằm cung cấp kiến thức cơ sở
cho môn sinh lý động vật và nguời, ứng dụng trong các biện pháp kế hoạch
hoá gia đình.
+ Thực tế giảng dạy thực tập giải phẫu cần một lượng mẫu hiển vi mới nhằm
thay thế nguồn mẫu hiển vi cũ đã bị xuống cấp (do SV Nguyễn Thị Diệu Linh
thực hiện năm 1981).
Chúng tôi thực hiện đề tài: “Thực hiện tiêu bản hiển vi cố định noãn sào chuột
đồng (Rattus.sp)” nhằm:
+ Xác định thời lượng chính xác để thực hiện tiêu bản hiển vi cố định chuột
đồng (Rattus.sp).
+ Sản xuất ra 100 tiêu bản cố định và 2 mẫu ngâm noãn sào định vị trong cơ thể
chuột đồng (Rattus.sp).

Trang 1
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

PHẦN II : LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU

1. KỸ THUẬT:
Thực hiện theo phương pháp tiêu bản cắt lát. Mẫu thực hiện theo phương pháp này
qua nhiều giai đoạn phức tạp và có thêm một số thao tác phụ nếu như trong mỗi giai đoạn
chính chưa đạt được tính chất mong muốn. Tóm lược qui trình như sau: định hình - khử


nước - tẩm parafin - đúc khuôn - cắt mẫu - tải mẫu lên lame - nhuộm kép bằng
Hematoxyline & Eosin - khử nước - làm trong mẫu và cố định mẫu trong Baume Canada.
1.1. Cố định:
Nguyên tắc chung:
- Mẫu vật phải được cố định ngay sau khi lấy.
- Không được làm dập nát mẫu.
- Không được cắt quá dày.
- Không để một mặt mẫu dính vào lọ đựng.
- Dung dịch cố định cần thiết phải:
+ Đúng nồng độ.
+ Thể tích dung dịch cố định gấp từ 30 - 60 lần thể tích mẫu.
- Thời gian cố định thích hợp: nếu mẫu dày tối đa 5mm cố định từ 24 - 48 giờ.
- Dung dịch cố định Bouin: chứa acid piric, acid acetic và formol.
- Nếu không rửa mẫu cố định bằng vòi nước chảy thì thay dung dịch cố định bằng
cồn 95
0
ít nhất 2 lần.
1.2. Khử nước:
Quy trình khử nước thông thường chung cho mỗi loại mẫu (thời gian khử nước có thể
gia giảm tuỳ theo kích cỡ mẫu, điều kiện của từng phòng thí nghiệm)
- Cồn II (cồn tuyệt đối sử dụng 2 lần) 4 giờ
- Cồn I (cồn tuyệt đối sử dụng 1 lần) 4 giờ
- Cồn tuyệt đối. 6 giờ
- Cồn tuyệt đối. 6 giờ
1.3. Tẩm parafin:
- Tẩm dung môi trung gian của parafin (khử cồn)
Dung môi trung gian của parafin thường dùng nhất là tôluen và xylen. Ngoài ra còn
có nhiều chất có đặc tính khử cồn hoà tan parafin như benzen, ét-xăng bách hương,
butanol, sunfuacacbon Những chất sau chỉ dùng hạn chế: ví dụ như ét-xăng bách
hương dùng cho kỹ thuật xét nghiệm ty lạp thể, butanol dùng cho tổ chức hạch. Để khử

hết cồn dùng:
- Xylen (hay xylol) II (đã sử dụng 2 lần)
Trang 2
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

- Xylen I (đã sử dụng 1 lần)
- Xylen nguyên chất.
Thời gian khử cồn tối đa là 24 giờ, mẫu ngâm lâu quá sẽ cứng và dễ vỡ.
- Tẩm parafin (khử xylen):
Trước hết cần chọn loại parafin tốt và thích hợp. Parafin chỉ có thể ngấm vào mẫu và
loại xylen ra khi nó ở trạng thái lỏng, tẩm parafin chỉ thực hiện đầy đủ khi dung môi
trung gian đã bị loại hoàn toàn. Người ta khử dung môi trung gian bằng cách chuyển mẫu
lần lượt vào những lọ có parafin ngày càng tinh khiết. Để tiết kiệm hoá chất và thời gian,
trên thực tế chỉ cần 3 lần tẩm là đủ.
- Parafin I (đã sử dụng 2 lần). 6 giờ
- Parafin II (đã sử dụng 1 lần). 6 giờ
- Parafin III (nguyên chất). 12 giờ
Loại parafin I và II có thể dùng nhiều lần hơn qui định.
Loại parafin III phải đảm bảo nguyên chất vì chính nó sẽ dùng để đúc khuôn.
Nói chung, thời gian tẩm lâu hay mau là tuỳ vào kích thước và tính chất của mẫu: nếu
mẫu nhỏ và cấu trúc mô lỏng lẻo thì tẩm vài giờ, nếu mẫu to và cứng thì tẩm từ 24 - 36
giờ.
1.4. Đúc khuôn:
Người ta đổ vào khuôn chất parafin lỏng đã lọc từ trước (parafin ở lần chuyển thứ 3,
nghĩa là parafin hoàn toàn mới). Nhúng ngay mẫu vào chất parafin đang lỏng này. Dùng
kẹp hay kiềm đã đun nóng để định hướng mẫu theo ý muốn. Sau vài phút parafin sẽ đông
đặc lại và giữ mẫu ở nguyên vị trí. Khi lớp vỏ ngoài parafin đã đủ cứng, nhúng cả khuôn
vào trong bát đựng đầy nước lạnh và chú ý đừng làm rạn, vỡ màng mỏng parafin bên
trên. Khoảng 20 - 30 phút sau, parafin sẽ cứng và thuần nhất toàn bộ. Cần tránh làm lạnh
ngay khi parafin còn lỏng, không được cắt lát ngay, phải đợi 24 giờ sau khi đúc khuôn.

1.5. Cắt và dán mẫu:
- Bảo quản máy cắt và lưỡi dao:
+ Máy cắt lát luôn luôn được bảo quản tốt và các phụ tùng được kiểm tra chặt chẽ.
+ Trước khi dùng cần kiểm tra lại vị trí các trụ của bàn gắn và lưỡi dao tránh sự va
chạm vào nhau làm sai lệch máy.
+ Xem lại dầu tra vào máy, sự trơ tru của các trục chuyển động.
Sau khi dùng thì tháo lưỡi dao ra, lau sạch bằng một miếng vải mịn có tẩm xylene, vít
chặt trong hộp để tránh tai nạn, lau chùi cẩn thận các mảnh vụn nếu không sẽ làm cho
máy cắt bị rỉ sét và bị bẩn.
- Cắt mẫu tẩm parafin bằng máy cắt với 3 giai đoạn:
+ Cắt mẫu thành hình khối, đáy hình thang để một khoảng 2 - 3 mm parafin quanh
mẫu, gọt làm sao cho 2 cạnh trên và dưới song song.
+ Cố định mẫu trên thớ gỗ cho ngay ngắn.
Trang 3
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

+ Đặt lưỡi dao vào, định hướng khối mẫu và dao trên lát cắt cho thích hợp, nhiệt độ
tối ưu trong phòng là 28 - 29
o
C. Độ dày của mẫu cắt:
* 3 – 5 µm đối với nghiên cứu tế bào học.
* 10 - 15 µm đối với nghiên cứu tổ chức định khu.
Tốc độ của tay quay tuỳ thuộc vào tính chất của khối và độ dày của khối. Nói chung
nên quay chậm với các khối dễ vỡ, đặc biệt là gan và lách. Còn đối với khối rắn không vỡ
cần quay nhanh, hứng các mẫu cắt trên một tờ giấy trắng.
- Tải mảnh cắt lên lame:
Trước khi nhuộm cần tải mảnh cắt và dán mảnh trên lame, muốn mảnh cắt dính vào
nền của lame có thể dùng một chất dính gêlatin hoặc albumin, trình tự thực hiện:
+ Tráng một lớp dung dịch albumin, để se khô.
+ Nhỏ vài giọt nước ấm trên lame

+ Đặt lên trên dung dịch một mảnh cắt hay một dãy cắt.
+ Đặt lên trên bàn nóng, hoặc đặt mẫu vào trong tủ sấy ở nhiệt độ khoảng 50
0
C
khoảng 15 phút, theo dõi mảnh cắt tải ra, mảnh cắt phải nổi trên dung dịch. Không bao
giờ bàn nóng hoặc tủ sấy quá 50
0
C vì tổ chức sẽ bị khô.
+ Nghiêng lame để tháo nước đi một cách thận trọng. Làm thế nào cho dung dịch dán
trôi đi càng nhiều càng tốt.
+ Để tiêu bản khô theo tư thế nghiêng (mảnh cắt ở mặt dưới) ít nhất là 12 giờ ở nhiệt
độ bình thường hoặc là 20 - 30 phút trong tủ ấm ở nhiệt độ 40 - 45
0
C khi đã khô kiệt, các
mảnh cắt dính rất tốt vào lame.
1.6. Loại parafin ra khỏi mảnh cắt:
Loại parafin ra khỏi mảnh cắt được tiến hành trước khi nhuộm vì không thể bảo quản
lâu được tổ chức rất hay vụn vỡ, hút ẩm.
- Đối với các tiêu bản được nhuộm cả khối:
+ Làm tan parafin bằng xylen.
+ Gắn bằng Baume Canada.
- Đối với các tiêu bản chưa nhuộm và dán bằng albumin:
+ Làm đông đặc albumin bằng cách hơ nhanh trên ngọn đèn cồn.
+ Hoà tan parafin bằng xylen từ 1 - 2 phút.
+ Loại xylen bằng cồn tuyệt đối 1 phút.
+ Cho vào cồn 95
0
- 1 phút.
+ Cho vào nước 5 phút.
1.7. Nhuộm Hematoxyline - Eosin:

- Cho tiêu bản vào Hematoxyline 5 - 45 phút tuỳ theo loại Hematoxyline và tuỳ loại
mẫu.
- Rửa tiêu bản trong vòi nước chảy cho đến khi nào tiêu bản màu xanh (từ hồng
sang xanh) khoảng 10 phút (nước chảy có pH = 8)
Trang 4
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

- Nhúng vào cồn acid vài giây (1ml acid HCl + 99ml cồn 96
0
).
- Cần lắc tiêu bản rồi nhúng vào nước lã cho xanh lại, kiểm tra lại nếu biệt hoá chưa
đủ thì nhúng lại cồn acid, nếu màu nhạt sau khi rửa qua nước cất, có thể cho lại
Hematoxyline từ 10 - 15 phút, sau đó biệt hoá trở lại.
- Ngâm tiêu bản trong Eosin từ 2 - 4 phút (Eosin Y 1% trong cồn 80
o
) để nhuộm
nguyên sinh chất.
- Rửa nước từ 3 - 4 phút (kiểm tra trên kính hiển vi xem đã đạt yêu cầu chưa)
- Nhúng tiêu bản trong cồn 90
0
khoảng 10 - 15 giây sau đó là cồn tuyệt đối I, II, III
(10 - 30 giây mỗi lần) để khử nước.
- Chuyển sang ngâm mẫu trong xylen cho đến khi nào mẫu trong (khoảng 15 giây)
Gắn Baume Canada vào tiêu bản cần chú ý: sau khi gắn xong tiêu bản phải trong suốt.
Baume Canada thường dùng với dung dịch xylen 55%. [Miền, 2005].
2. SINH THÁI HỌC CHUỘT ĐỒNG:
* V ị trí phân loại:
Ngành: Chordata
Ngành phụ: Vertebrata
Lớp: Mammalia

Bộ: Rodentia
Họ: Muridae
Giống: Rattus
Loài: Rattus.sp
2.1. Mô tả hình dạng:
Thân hình thô, đuôi dài gần 2/3 thân, tai ngắn hình bầu dục, bàn chân sau lớn.
Bình thường có 6 đôi vú.
Lông mềm mại không có gai. Mặt lưng vàng sẫm có điểm nâu cánh gián. Con non
sẫm hơn chỉ trừ phần đầu nâu vàng đất sáng. mặt bụng trắng có vệt tối giữa ngực không
rõ. Bàn chân trắng bẩn có vệt nâu tối, ngắn hơn thân. Đối với chuột đồng bé hình dạng
tương tự nhưng chỉ dài 28 - 30 mm, bàn tay trắng, bàn chân màu nâu.
Trang 5
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

Hình 1: Ảnh chụp chuột đồng
2.2. Sinh thái học chuột đồng:
Chuột đồng sống ở đồng ruộng, thích ở gần các bờ nước, đào hang ở bờ ruộng, bờ
đê và đôi khi ờ giữa ruộng, không gặp ở vùng núi cao, đôi khi còn vào ở trong nhà. Mùa
đông có thể vào trú ở đống rơm rạ hoặc chạy vào nhà kho, nhà ở.
Hang chuột đơn giản. Đối với chuột đồng lớn thường chỉ có 1 cửa ra vào đường
hầm tương đối thẳng và ngắn. đường kính của hang khoảng 7 cm. Trong hang có phòng ở
(14 x 18 cm) lót bằng lá, rơm rạ. Đường hầm dài ngắn tuỳ nơi ở ruộng thì dài hơn 2,38m.
Hang ở đê có cấu trúc khác hơn, có các lối thoát thông với khe nứt trong đê. Đường hầm
dài 2,55m [Đào Văn Tiên, 1967]. Đối với chuột đồng bé, hang có 2 - 6 cửa, đường kính
hang bé (3 - 5 cm) trong hang thường dùng lá cây lót thành tổ. Đất do chuột đào ra
thường có thành viên bé dễ nhận thấy. Hang có một số cửa bí mật, chuột chỉ dùng khi cần
chạy thoát.
Chuột đồng ăn tạp, trong dạ dày phân tích thấy có bột xám, khoai (40 - 60%) thực
vật xanh. Trong dạ dày còn chứa một ít thịt, thức ăn ưa thích của chuột đồng nhỏ là cá
con, cua, ốc, côn trùng, Vào mùa gặt lượng thịt gặp không đáng kể chiếm 16,6% trong

lúc đó vào các tháng 1 - 2 tần số gặp thức ăn thịt tăng lên 100%. Điều đó chứng tỏ rằng
khi có thức ăn thực vật, chuột chỉ ăn một ít thịt, nhưng khi thực vật khan hiếm chuột ăn
thịt đồng loại và các loài động vật khác.
Chuột đồng lớn thành thục có cỡ tối thiểu với con đực có chiều dài thân 160mm
nặng 180 gr; với con cái là 170mm và nặng 180gr. Phân tích số phôi của chuột sưu tầm
được thấy số phôi trung bình mỗi lứa từ 3-14 (trung bình 9.1). số phôi không phụ thuộc
vào số lứa đẻ, ví dụ lứa thứ nhất số phôi là 3-10 ( 8.2); lứa hai 10-14 (11.2); lứa thứ ba 6-
10 (7.6). Chuột đẻ tối đa 3 lứa với tổng số 27-30 con. Tỉ lệ chuột non bắt vào tháng 11
cao; còn tháng 12-1 thì gặp nhiều chuột sắp trưởng thành. Điều đó chứng tỏ cường độ
Trang 6
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

sinh sản của chuột mạnh vào các tháng mùa thu, đầu mùa đông ứng với vụ mùa ở nước ta
và giảm đáng kể vào cuối mùa đông đầu mùa xuân.
Đối với chuột đồng bé, chúng sinh sản không mạnh lắm. Ở Trung Quốc chuột sinh
sản tập trung vào tháng 4-5. Số lượng phôi trung bình 5-6 (2-13). Ở nước ta chuột đẻ tập
trung vào lúc lúa làm đòng và giảm ở sau vụ gặt.
Chuột hoạt động ban đêm, nhanh nhẹn, leo trèo, đào đất nhanh và bơi lội dễ dàng.
Ở nước ta vào mùa lũ lụt (tháng 7-8) chuột ra khỏi hang bị ngập nước, bơi đến những chỗ
cao như mô đất cao hay bụi cây để trú ẩn. Chuột nhút nhát và đa nghi. Trong phòng thí
nghiệm chuột luôn tìm cách trốn thoát khi người đến gần.
Chuột đồng lớn sống chung với các loài chuột khác ở đồng như chuột lợn
(Bandicota indica), chuột nhà (Rattus flavipectus colliculus), chuột đồng nhỏ (R.losea).
Chúng thường cạnh tranh nhau đôi khi ăn thịt lẫn nhau.
Chuột đồng làm hại đáng kể cho nông nghiệp: cắn đổ mạ và lúa, ăn lá và bông lúa.
Chuột đào bới và gậm các loại củ làm chết cây (sắn, khoai, ). Chuột đào hang trong đê,
bờ ruộng, bờ đập làm cho thấm lậu nước trong ruộng và đê [Cao Văn Sung - Đặng Huy
Huỳnh – Bùi Kính, 1980].
3. CẤU TRÚC MÔ HỌC:
Ở động vật hữu nhũ, con đực và con cái có bộ máy sinh dục riêng.

Đối với con cái, bộ máy sinh dục gồm:
- Hai buồng trứng (noãn sào) đảm nhiệm chức năng quan trọng: tạo giao tử cái và
tiết hormon sinh dục.
- Đường sinh dục cái: hai vòi fallope, tử cung và âm đạo.
3.1. Đường sinh dục cái:
3.1.1. Vòi Fallope:
Là ống dài, đầu ngoài có hình loa kèn, đầu trong thông với khoang tử cung, lòng
ống hẹp hai đầu và rộng ở giữa.
Từ ngoài vào trong, thành tử cung cấu tạo bởi ba tầng mô: tầng vỏ ngoài, tầng cơ
và tầng niêm mạc
3.1.2. Tử cung:
Tử cung gồm hai ống tử cung, cấu tạo cũng gồm ba lớp (tầng vỏ ngoài, tầng cơ và
tầng niêm mạc).
Là nơi làm tổ của noãn đã thụ tinh và là nơi phát triển của phôi thai để tạo ra cá
thể mới.
Trang 7
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

3.1.3. Âm đạo:
Hai ống tử cung phối hợp ở ngọn thành một ống duy nhất gọi là âm đạo liên lạc
với bên ngoài nhờ âm môn ở trước hậu môn, sau lổ tiểu.
3.2. Buồng trứng:
Buồng trứng có nhiệm vụ sản sinh ra trứng và kích thích tố sinh dục cái.
3.2.1. Hình thể:
Buồng trứng hình hạt đậu, dưới thận nằm ở phía sau dây chằng rộng và dính vào
dây chằng rộng bởi một cuống tức là mạc treo buồng trứng. Chỗ buồng trứng tiếp với
cuống gọi là rốn [Diệu Linh, 1981].
Buồng trứng phát triển từ lá phôi giữa, từ mấu sinh dục ở phía bụng của thận sơ
cấp.
Bên ngoài buồng trứng là lớp biểu mô ngoài, dưới đó là lớp màng trắng [Nguyễn

Xuân Hoạt và Phạm Đức Lộ, 1980].
Trang 8
Hình 2 : Cơ quan sinh dục chuột cái
1. Tuyến thượng thận; 2. Thận; 3. Buồng trứng; 4. Noãn phễu; 5. Tử cung;
6. Ống dẫn tiểu; 7. Bàng quang; 8. Ống thoát tiểu; 9. Lỗ tiểu;
10. Lỗ sinh dục ; 11. Hậu môn. [Diệu Linh, 1981]
8
1
2
3
4
5
6
7
9
10
11
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

Hình 3: Buồng trứng động vật hữu nhũ trong thời kỳ sinh dục
[www.eme.maricopa.edu/vc/BioBookRepRod. hmt]
3.2.2. Cấu trúc chi tiết:
Bổ đôi buồng trứng qua rốn, người ta phân biệt được hai phần:
3.2.2.1. Phần vỏ:
Là phần ngoại vi của buồng trứng. Từ ngoài vào trong gồm có:
a) Biểu mô buồng trứng (biểu mô vuông đơn). Nằm trên mặt buồng trứng, cấu tạo
bởi một hàng tế bào hình khối vuông nằm sát nhau. Những tế bào ấy có ít bào tươngvà
một nhân bắt màu mạnh, đôi khi có hình giảm phân. Thỉnh thoảng biểu mô ẩn sâu vào
trong vùng vỏ tạo nên thừng thượng mô.
b) Màng trắng: là một màng liên kết, hình thành một cái vỏ không có ranh giới rõ rệt

ở phía trong. Màng này cấu tạo bởi ít tế bào liên kết, nhưng nhiều chất căn bản.
c) Lớp đệm vỏ: là lớp tổ chức liên kết khá đặt cấu tạo bởi ít sợi chun và nhiều sợi tạo
keo, nhưng nhiều tế bào hình thoi non nằm sát nhau.
Trong lớp đệm vỏ có những khối hình cầu gọi là noãn nang, ở những giai đoạn
tiến triển khác nhau. Mỗi nang noãn là một cái túi đựng noãn, noãn là một tế bào thuộc
dòng sinh dục cái gọi là dòng noãn. Thành túi cấu tạo bởi những tế bào biểu mô gọi là tế
bào nang (tế bào hạt) có cùng nguồn gốc với tế bào dòng noãn nghĩa là phát sinh từ biểu
mô xoang cơ thể thuộc trung bì trung gian. [Phạm Phan Địch. 1998]
Trang 9
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

Những nang noãn:
Kết quả cuối cùng của sự sinh noãn là hình thành các nang sơ cấp.
Sự sinh noãn có thể chia thành những giai đoạn khác nhau tương ứng với những
pha phát triển của noãn. [Diệu Linh, 1987]
Hình 4: Sự biến đổi nang noãn
a. Nang nguyên thuỷ; b. Nang noãn đặc; c. Nang noãn có hốc; d. Nang noãn chín ; e.
Sự rụng trứng; f. Hoàng thể.
[www.mum.org/ovary.hmt]
* Noãn nguyên bào (nguyên thuỷ):
Đó là những nang noãn nhỏ nhất, xếp thành nhiều hàng ở vùng ngoại biên của
buồng trứng, ngay dưới màng trắng. Mỗi nang noãn gồm có từ trong ra ngoài:
- Một noãn bào I nằm chính giữa nang.
- Chung quanh noãn có một vài hàng tế bào nang dẹt gọi là tế bào hạt.
- Ngoài cùng là một màng đáy, bọc toàn bộ nang noãn gọi là vỏ nang. [Phạm Phan
Địch. 1998]
Hình 5: Nang noãn nguyên thuỷ
[www.ansi.okstate.edu/…/study/Note/Female/]
Trang 10
Nhân

Nhân noãn
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

Trong noãn sào, các noãn nguyên bào đã có thể phân biệt với các tế bào khác nhờ
kích thước lớn, có sự phân phối nguyên sinh chất khá đặc sắc. [Nguyễn Xuân Hoạt -
Phạm Đức Lộ,1980]
Noãn nguyên bào chỉ phát triển và tồn tại trong buồng trứng ở giai đoạn phôi thai.
noãn nguyên bào có bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội. Qua nhiều lần gián phân nguyên nhiễm,
cuối cùng chúng sinh ra những noãn bào cấp I.
Sau khi con cái non sinh ra, các noãn nguyên bào lớn lên (trừ: chó, thỏ, chuột lang,…)
trong buồng trứng ở các nang noãn. [Diệu Linh. 1981]
Quá trình tiến triển của nang noãn nguyên thuỷ thành nang noãn chín trải qua nhiều
giai đoạn.
* Nang noãn sơ cấp (noãn nang cấp I):
Là giai đoạn phát triển tiếp theo của nang noãn nguyên thuỷ. Có kích thước lớn noãn
nguyên thuỷ. Gồm một noãn bào I và một hàng tế bào nang vuông. Các tế bào nang phát
triển nhờ quá trình gián phân. [Trương Đình Kiệt. 2002]
Trong bào tương của noãn bào I có những biến đổi đáng chú ý: Bộ golgi phát triển
mạnh và phân bố rộng khắp bào tương. Các ống thuộc hệ thống lưới nội bào có hạt dài ra
và có nhiều hạt ribôxôm bám vào mặt ngoài thành ống. Những ribôxôm tự do phong phú
và phân bố khắp bào tương.
Chung quanh nó xuất hiện 1 màng gọi là màng trong suốt ngăn cách noãn với
những tế bào nang. Màng này được tạo ra trong suốt quá trình tiến triển của nang noãn
nguyên thủy. Lúc mới đầu, xen giữa noãn bào I và tế bào nang có một khoảng trống hẹp,
trong đó có những vi nhung mao của noãn và những phần lồi hình ngón tay của tế bào
nang tiến vào. Rồi trong khoảng trống này xuất hiện một chất vô hình ngày càng nhiều
làm cho nó rộng ra. Chất này dần dần đặc lại, vùi các vi nhung mao của noãn bào I và các
phần lồi hình ngón tay của bào trứng, tế bào nang và tạo ra một cái màng gọi là màng
trong suốt, có tính chiết quang cao cấu tạo bởi glucoprotein ngăn cách noãn bào I và tế
bào nang.

Ở nang noãn chuột đã tiến triển, ở màng trong suốt có glucoprotein chiếm gần toàn bộ
khối lượng của màng và đóng vai trò quan trọng trong sự kết dính tinh trùng

và có tính
đặc hiệu cho loài, một hiện tượng rất quan trọng trong quá trình thụ tinh.[Bộ môn mô học
và phôi thai học - ĐHYDHN. 2002]
Hình 6: Nang noãn cấp I
[www.ansi.okstate.edu/…/study/Note/Female/]
Trang 11
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

* Nang noãn đặc (noãn nang thứ cấp - noãn nang cấp II):
Lớn hơn nang noãn sơ cấp, noãn đã lớn. Từ trong ra ngoài nang noãn đặc cấu tạo
gồm:
+ Noãn bào I: Nằm ở trung tâm vẫn đang tiếp tục lớn và tiếp tục ngừng quá trình
phân bào
+ Màng trong suốt bao quanh noãn bào I rõ rệt và đang dày lên. Lớp hạt, được gọi
như vậy vì gồm nhiều hàng tế bào đa diện nằm sát nhau, lấm tấm những nhân trông giống
hình hạt, tạo thành một biểu mô tầng do sự tăng sinh của tế bào nang. Những tế bào nang
tạo thành lớp này còn gọi là tế bào hạt.
+ Màng đáy.
Vỏ liên kết mỏng, được tạo ra từ mô kẽ vây quanh nang noãn. Giới hạn bên ngoài của vỏ
này lúc mới đầu rất khó phân biệt với mô kẽ. [Bộ môn mô học và phôi thai học -
ĐHYDHN. 2002]
Hình 7: Nang noãn đặc
[www.ansi.okstate.edu/…/study/Note/Female/]
* Nang noãn có hốc (nang noãn có xoang):
Khi nang noãn thứ phát đã lớn (ở người có thể đạt đường kính 200 micromet) và
trong nang noãn lớp hạt đã có 6-10 hàng tế bào nang vây quanh noãn bào I. Ở một số nơi
trong lớp này, một chất dịch lỏng, sáng màu, tập trung ngày càng nhiều trong các khoảng

gian bào, làm cho các khoảng này ngày càng rộng ra thành các hốc có kích thước to nhỏ
khác nhau và hình thành chất dịch ấy. Những hốc này gọi là hốc nang noãn và lúc này
nang noãn thứ phát gọi là nang noãn có hốc, chất dịch chứa trong hốc nang noãn gọi là
dịch nang noãn hay nước nang noãn, là một dịch thấm từ huyết tương nhưng có thành
phần cấu tạo khác huyết tương vì chứa nhiều hyaluronat, nhiều yếu tố phát triển, sterid và
các hormon hướng sinh dục với nồng độ cao hơn ở huyết tương.
Trong nang noãn có hốc, noãn bào I vẫn tiếp tục lớn lên và tiếp tục ngừng phân bào.
Màng trong suốt tiếp tục dày lên và lớp vỏ liên kết bọc ngoài nang noãn ngày càng rõ rệt.
[Bộ môn mô học và phôi thai học - ĐHYDHN. 2002]
Trang 12
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

Hình 8: Nang noãn có hốc
1. Lớp hạt; 2. Hốc nang trứng; 3. Gò noãn; 4. Noãn.
[Phạm Phan Địch. 1998]
* Nang noãn có hốc điển hình:
Dịch nang noãn chứa trong các hốc ngày càng nhiều các hốc ngày càng lớn , thông
với nhau , rồi hợp với nhau thành những hốc lớn hơn, cuối cùng thành một hốc duy nhất
rất lớn. Lúc bấy giờ nang noãn thứ phát gọi là nang noãn có hốc điển hình hay nang noãn
có hốc duy nhất.
Ở những nơi có hốc xuất hiện hợp lại với nhau, thông với nhau, lớp hạt mất tính chất
của lớp biểu mô tầng. Các tế bào nang tách xa nhau ra, biến đổi hình dạng, có thể trở
thành tế bào hình sao, có các nhánh liên lạc với nhau. Hốc duy nhất chứa dịch nang noãn
tiếp tục lớn. [Bộ môn mô học và phôi thai học - ĐHYDHN. 2002]


Hình 9: Nang noãn có hốc điển hình.
1. Tế bào nang; 2. Noãn bào; 3. Vỏ nang; 4. Hốc nang.
[www.ansi.okstate.edu/…/female/sldo16.hmt]
Trang 13

1
2
3
1 3 2
4
4
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

* Nang noãn chín (nang De-graff):
Đó là nang noãn rất lớn
Vào khoảng giữa chu kỳ kinh nguyệt trong cả hai buồng trứng thường chỉ có một (đôi
khi 2-3) nang noãn chín lồi lên mặt buồng trứng. Chung quanh nang noãn tổ chức lớp
đệm vỏ tạo ra hai lớp vỏ. Ở mặt ngoài buồng trứng cả hai lớp vỏ rất mỏng, nói chung chỉ
2-3 hàng tế bào nang. Ở gò noãn, chung quanh noãn có màng trong suốt bao bọc, những
tế bào nang cao lên thành một hàng tế bào trụ, tạo ra hình ảnh tia mặt trời gọi là vòng tia
(vòng phóng xạ). [Bộ môn mô học và phôi thai học - ĐHYDHN. 2002]

Hình 10: Nang noãn chín
[www.ansi.okstate.edu/…/study/Note/Female/]
* Nang noãn vỡ và sự rụng trứng:
Vào khoảng giữa hai chu kỳ kinh nguyệt, phần tuỷ của buồng trứng và lớp vỏ
trong của nang noãn chín bị ứ huyết đến cực độ làm cho buồng trứng cương lên và nước
nang noãn tiết ra nhiều. Áp lực của nước nang noãn tăng lên tới mức làm bục thành của
hốc nang noãn ở nơi lồi lên trên mặt buồng trứng. Sự bục bất thình lình ấy làm noãn rời
thành nang noãn và bị tống ra khỏi buồng trứng mang theo màng trong suốt, vòng tia và
một số tế bào nang khác của gò noãn. Đó là sự thoát nang của noãn (còn gọi là sự rụng
trứng). Nước nang noãn trào lên mặt buồng trứng. Một số mạch máu ở lớp vỏ trong bị
đứt, máu thoát ra ngoài mạch, một phần chảy vào hốc nang noãn và đông lại thành một
cục máu đông, một phần chảy ra ngoài buồng trứng, tạo nên một đám xuất huyết nhỏ trên
mặt buồng trứng. [Phạm Phan Địch. 1998]

Khi rụng trứng, noãn bào II được tạo ra và bắt đầu tiến hành ngay lần phân bào
thứ hai của quá trình giảm phân.
Trước khi rụng trứng một chút, các tua của loa vòi trứng chuyển động mạnh quét
lên khắp mặt buồng trứng. Bởi vậy, khi được phóng thích khỏi buồng trứng, noãn bào II
(được bọc lần lượt từ trong ra ngoài bởi màng trong suốt và vòng tia), được loa vòi trứng
hứng lấy, lọt vào trong vòi trứng, được vận chuyển trong vòi trứng, về phía tử cung.
Trong lòng vòi trứng, noãn bào II tiếp tục lần phân bào II của giảm phân.
Như vậy, phần lớn các kỳ của lần phân bào II xảy ra bên ngoài buồng trứng.
Trang 14
Tế bào
nang
Hốc
nang
Noãn bào
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

Trong noãn chín, bào tương chứa nhiều nhất chất dinh dưỡng cần thiết để noãn sử
dụng sau khi thụ tinh, trong các giai đoạn đầu của quá trình phát triển cá thể. Bên cạnh đó
mọi hoạt động tổng hợp và chuyển hóa hầu như ngừng lại. Noãn chín ở trạng thái tiềm
sinh.
Sự vỡ các nang trứng để gây ra hiện tượng rụng trứng không phải chỉ do áp lực
của dịch nang noãn và thành hốc nang noãn đã tăng tới mức tối đa mà còn do cấu tạo
hình thái và hoá học của nang noãn chín, sự sắp xếp thành phần cấu tạo nang noãn.
[Bộ môn mô học và phôi thai học - ĐHYDHN. 2002]
Hình 11: Nang noãn chín (A) và sự rụng trứng (B)
1. Biểu mô buồng trứng; 2 Mô kẽ; 3. Vỏ xơ; 4.Tế bào vỏ ở lớp vỏ
trong; 5. Mạch máu ở lớp vỏ trong; 6. Lớp hạt; 7. Vết trong suốt;
8. Hốc nang noãn; 9. Vòng tia.
[Bộ môn mô học và phôi thai học - ĐHYDHN. 2002]
* Sự phát triển của nang noãn vỡ đã mất noãn và sự hình thành, phát triển của

hoàng thể.
Sự phát triển của nang noãn vỡ đã mất noãn và sự tạo thành hoàng thể.
Sau khi rụng trứng, dịch nang noãn đã thoát ra ngoài, nang noãn vỡ, mất noãn, trở
thành nhăn nheo và được gọi là nang noãn nhăn. Màng đáy ngăn cách lớp vỏ và lớp hạt,
bị rách. Một số mao mạch máu nằm ở lớp vỏ trong bị vở. Máu thoát mạch, tạo thành một
cục máu đông nằm ở trung tâm nang noãn vỡ. Những tế bào nang của lớp hạt và những tế
bào vỏ nằm ở lớp vỏ trong của nang noãn trương to, tích luỹ nhiều giọt mỡ trong bào
tương và có màu vàng nhạt. Những tế bào này gọi là tế bào hoàng thể. Chúng tăng sinh
tạo thành một khối tế bào vây quanh cục máu đông, làm cho nang noãn vở biến thành
một cấu trúc màu vàng ( khi nhìn trên tiết đồ buồng trứng còn tươi, chưa nhuộm) gọi là
hoàng thể, được bọc ngoài bởi một vỏ xơ vốn là vỏ liên kết của nang noãn vở. Rồi những
mạch máu từ lớp vỏ xơ tiến vào khối tế bào tăng sinh, xẻ khối tế bào ấy thành những dây
tế bào biểu mô có quan hệ mật thiết với chúng. Trong khi đó cục máu đông ở vùng trung
tâm của hoàng thể biến thành một khối xơ. [Bộ môn mô học và phôi thai học -
ĐHYDHN. 2002]
Trang 15
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

Cấu tạo và mô sinh lý học hoàng thể.
- Cấu tạo: theo kiểu được tạo ra như vừa mô tả trên, hoàng thể là một tuyến nội tiết
kiểu lưới nằm trong buồng trứng và được bọc ngoài bởi một vỏ xơ, ngăn cách nhu mô
tuyến với mô kẽ của vùng vỏ buồng trứng.
Trong nhu mô tuyến của hoàng thể đang phát triển, có thể phân biệt hai loại tế bào
hoàng thể: tế bào hạt hoàng thể và tế bào vỏ hoàng thể.
+ Tế bào hạt hoàng thể: nằm ở vùng trung tâm hoàng thể, những tế bào hạt hoàng
thể là những tế bào đa diện lớn, phát sinh từ những tế bào nang (tế bào hạt) thuộc lớp hạt
của nang noãn tiến triển. Kích thước của chúng thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của
hoàng thể. Mặt tế bào có những vi nhung mao dài và có những chỗ lõm vào bào tương.
Nhân có một hạt nhân lớn nhưng những hạt dị nhiễm sắc nhỏ nên nhân đậm màu. Ti thể
có tính đa hình, hình que, hình cầu, lớn. Ở hoàng thể thai nghén, ti thể hình que chiếm ưu

thế. Chất nền ti thể chứa những hạt có hình dáng không đều và lớn hơn những hạt thấy ở
chất nền ti thể của các loại tế bào khác.
Hình 12: Sự hình thành hoàng thể và cấu tạo vi thể của hoàng thể
A. Sự tạo ra hoàng thể; B. Cấu tạo vi thể của hoàng thể
1. Biểu mô buồng trứng; 2. tế bào kẽ; 3. Vỏ xơ của nang noãn đã vở mất noãn;
4. Mạch máu từ vỏ xơ tiến vào khối tế bào tăng sinh;
5. Tế bào vỏ hoàng thể; 6. Tế bào hạt hoàng thể.
[Bộ môn mô học và phôi thai học - ĐHYDHN. 2002]
Tế bào vỏ hoàng thể: nằm ở vùng ngoại vi của hoàng thể, những tế bào vỏ hoàng
thể cũng có hình đa diện, nhưng nhỏ hơn và bắt màu đậm hơn tế bào hạt hoàng thể,
nhưng khác với những tế bào này bởi trên mặt chúng không có những vi nhung mao dài.
Những hạt dị nhiễm sắc trong nhân lớn hơn, rõ rệt hơn nên bắt màu đậm hơn. Ti thể có
tính đa hình, hình que, hình cầu. Ở hoàng thể thai nghén, ti thể hình que chiếm ưu thế.
Chất nền ti thể có hình dạng không đều và lớn hơn những hạt thấy ở chất nền ti thể của
các loại tế bào khác.
Đặc điểm cấu tạo nổi bậc của tế bào hạt hoàng thể là sự phong phú cấu tạo lưới
nội bào không hạt cấu tạo bởi những ống nối với nhau thành một lưới rất khít. Lưới nội
Trang 16
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

bào có hạt thưa thớt. Bộ Golgi phong phú và được phân bố nhiều vùng trong bào tương.
Nhiều giọt mỡ nằm riêng rẽ hoặc tập hợp thành đám và có quan hệ mật thiết với những
đám lưới nội bào không hạt tụ đặc. Những hạt tụ đặc có hình dáng không đều được coi là
những lysosome với số lượng thay đổi và tăng trong quá trình phát triển của hoàng thể.
Trong những tế bào hạt hoàng thể tạo thành hoàng thể thai nghén, có những hạt đặc khác,
không phải là lysosome và đươc coi là nơi tích lũy relaxin, một hormon thuộc loại
polypeptid.
+ Tế bào vỏ hoàng thể: nằm ở vùng ngoại vi của hoàng thể, những tế bào vỏ hoàng
thể cũng có hình đa dạng, nhưng nhỏ hơn và bắt màu đậm hơn tế bào hạt hoàng thể,
nhưng khác với những tế bào này bởi trên mặt chúng không có những vi mao dài. Những

hạt dị nhiễm sắc trong nhân lớn hơn, rõ rệt hơn nên bắt màu đậm hơn. Ti thể có hình
dạng cố định hơn. Không có ti thể hình cầu. Chất nền ti thể không có những hạt đa hình.
Bộ Golgi kép phong phú nhưng lớn hơn. Lưới nội bào không hạt chiếm phần lớn bào
tương.
- Mô sinh lý học. hai loại tế bào hoàng thể mô tả trên có nguồn gốc khác nhau, có
siêu cấu trúc không giống nhau và có tính đáp ứng khác nhau với tác động của hormon
hoàng thể hóa LH. Chúng tiết ra những hormon khác nhau tuy các hormon đều thuộc loại
steroid. Những tế bào vỏ hoàng thể không phải đều thấy ở hoàng thể mọi động vật có vú.
[Bộ môn mô học và phôi thai học - ĐHYDHN, 2002].
* Các nang noãn thoái triển:
Tuyệt đại đa số các nang noãn được tạo ra trong buồng trứng từ đời sống trong
bụng mẹ bị thoái triển. Sự thoái triển xảy ra mạnh nhất khi nó ra đời, lúc dậy thì và lúc
mãn kinh. Những nang noãn thoái triển có thể là nang noãn chưa tiến triển (nang noãn
tiến triển hoặc nang noãn đã tiến triển tới một giai đoan nào đó và cũng có thể là những
nang noãn chín hoặc nang noãn vỡ đã phóng thích noãn nhưng không tạo ra hoàng thể).
Những nang noãn thoái triển có cấu tạo khác nhau tuỳ theo giai đoạn tiến triển mà
chúng đã trãi qua. Có nhiều dạng nang noãn thoái triển.
+ Nang noãn thoái hoá:
Đó là những nang noãn mà sự thoái triển xảy ra rất sớm, khi nang noãn chưa tiến
triển, nghĩa là ở giai đoan nang noãn nguyên thuỷ, hay khi nang noãn mới bắt đầu tiến
triển (nang noãn nguyên phát). Những nang noãn này mau chóng biến đi hoàn toàn,
không để lại vết tích gì.
+ Nang noãn xuất huyết:
Sự thoái triển bắt đầu xảy ra ở giai đoạn nang noãn có hốc. Hốc nang noãn chứa
máu đã đông. Các tế bào nang ở thành hốc và noãn đều bị thoái hoá. Vết tích của nang
noãn thoái hoá gọi là thể đen (corpora nigra).
+ Nang noãn tạo tuyến vỏ:
Người ta phân biệt:
Trang 17
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài


- Nang noãn thiếu phát triển. Sự thoái triển xảy ra ở nang noãn có hốc có kích thước
vừa phải. Trong nang noãn này noãn và lớp hạt bị thoái hoá, chỉ còn sót lại lớp vỏ liên
kết.
- Nang noãn túi. Sự thoái triển xảy ra ở nang noãn có hốc rất lớn hay chưa lớn lắm.
Lớp hạt thoái hoá nhưng lớp nang chưa biến đi mau chóng. Lớp vỏ trong dày lên, tạo
thành một màng có lổ thủng. Vết tích của nang noãn túi là một thể xơ trong suốt cấu tạo
bởi một lớp mô liên kết bị phù.
+ Nang noãn nhăn:
Sự thoái triển bắt đầu xảy ra ở nang noãn đã vỡ, đã phóng thích noãn, nhưng không
phát triển thành hoàng thể. Hốc nang noãn biến mất do thành hốc trở nên nhăn nhúm.
Lớp hạt và lớp vỏ vẫn còn. Nhưng lớp này có thể tăng sinh làm cho nang noãn trương to
(nang noãn nhăn phì đại). Vết tích của nang noãn nhăn phì đại là một màng rất nhăn
nheo. [Bộ môn mô học và phôi thai học - ĐHYDHN. 2002].
3.2.2.2. Phần tuỷ:
Phần trung tâm của buồng trứng gọi là phần tuỷ, là một tổ chức liên kết thưa: nhiều
sợi cơ trơn và dây thần kinh vận động, cảm giác, vận mạch, nhiều hạch bạch huyết mà
hầu hết là những khe bạch huyết, và nhiều mạch máu.
Ở đây những động mạch chạy ngoằn ngoèo như lò xo và bắt nguồn từ những động
mạch buồng trứng và đông mạch tử cung.
Những động mạch cùng những tĩnh mạch tạo thành một tổ chức cương. Khi giãn
ra, chúng có thể làm cho buồng trứng trương lên khá nhiều.
Ở vùng rốn buồng trứng, những di tích phôi thai gọi là rete ovarii xuất hiện dưới
hình thức những dãy tế bào hay một vài nang nước nhỏ. Chúng tương đương với những
retetestis của tinh hoàn. Thành của những nang ấy là biểu mô vuông.[Phạm Phan Địch.
1998]

Trang 18
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài


PHẦN III: PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG TIỆN

1. PHƯƠNG TIỆN VÀ HOÁ CHẤT:
1.1. Địa điểm - thời gian thực hiện đề tài:
- Đề tài được tiến hành tại phòng thí nghiệm sinh lý động vật, Bộ môn Sinh, Khoa
Sư phạm Trường Đại học Cần Thơ.
- Thời gian thực hiện đề tài : từ tháng 10 năm 2005 đến tháng 5 năm 2006.
1.2. Phương tiện và hoá chất:
1.2.1. Phương tiện và mẫu vật:
STT TÊN PHƯƠNG TIỆN SỐ LƯỢNG
1 Kính hiển vi 1 cái
2 Tửu tinh kế 1 cái
3 Cân kỹ thuật 1 cái
4 Tủ sấy 1 cái
5 Đồng hồ bấm giây 1 cái
6 Máy cắt Microtome 1 cái
7 Khay đựng mẫu 1 cái
8 Lame 5 hộp
9 Lamelle 5 hộp
10 Chai màu đựng hoá chất 5 cái
11 Hủ Yaourt 20 cái
12 Cốc đựng Baume Canada 1 cái
13 Đũa thuỷ tinh 1 cái
14 Khay mổ 1 cái
15 Kim mũi giáo 1 cái
16 Kim phá não 1 cái
17 Kéo 1 cây
18 Kẹp 1 cây
19 Ống hút nhựa 5 ống
20 Bercher 1000 ml 1 cái

21 Dĩa đồng hồ 1 cái
22 Ống đong 500 ml 1 ống
23 Phểu thuỷ tinh 1 cái
24 Thùng nhựa 5 cái
25 Hộp gỗ đựng mẫu 1 cái
26 Đèn cồn 1 cái
Trang 19
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

27 Tủ lạnh 1 cái
28 Lưỡi lam 2 hộp
29 Băng keo trong 1 cuồn
30 Giấy lọc 1 hộp
31 Giấy vệ sinh 6 cuồn
32 Ấm điện 1 cái
33 Hột gà 2 trứng
34 Khối gỗ gắn mẫu 3 mẫu
35 Chuột (làm thí nghiệm)
36 Dao cắt mẫu 2 cái
1.2.2.Hoá chất:
STT TÊN PHƯƠNG TIỆN SỐ LƯỢNG
1 Nước cất 20 lít
2 Cồn tuyệt đối 5 lít
3 n-Butanol 0.5 lít
4 Xylen 2 lít
5 Acid piric 10 gr
6 Acid acetic 0.5 lít
7 Formaldehyd 0.5 lít
8 Glycerin 100 ml
9 Amonium alum (NH

4
Al(SO
4
)
2
.12H
2
O) 20 gr
10 Methanol 250 ml
11 Hematoxyline 3 gr
12 Eosin 3gr
13 Parafin 1 kg
14 Formol 1.5 lit
15 Baume canada 15 gr
16 Acid sulfuric 300 ml
17 Bicromate kali 35 gr
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
2.1. Thực hiện mẫu ngâm đại thể:
Thao tác thực hiện có thể đơn giản hơn so với giải phẩu nghiên cứu tổng thể nội quan.
Có thể tóm lược như sau:
- Sau khi bị gây mê bằng ete, đặt chuột nằm ngửa, kéo 4 chân và ghim xuống tấm
cao su đặt trên mâm mổ.
- Sau đó tiến hành cắt da, theo các đường trong hình 13a.
Trang 20
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

.
Hình 13a :Cắt da.
- Căng da ghim xuống tấm cao su.
- Tiếp theo cắt cơ bụng và cơ hoành theo sơ đồ hình 13b.

Hình 13b: Cắt thịt
[Nguyễn Mỹ Tín - Nguyễn Thanh Tùng. 2005]
- Gỡ hệ tiêu hóa trình bày sang bên phải. Gỡ bỏ phần mở dính trong khoang bụng
để thấy rõ hệ sinh dục và hệ bài tiết.
- Cố định mẫu trên tấm nhựa có đục lỗ.
- Đặt mẫu vào trong hộp dựng dung dịch formol dehyd 15% (trước khi trữ mẫu vĩnh
viễn nên thay dung dich formol 10% 2 đến 3 lần).

Trang 21
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

2.2. Thực hiện mẫu hiển vi:
Nghiên cứu cấu trúc noãn sào chuột thông qua việc thực hiện tiêu bản hiển vi cố
định gồm những bước có tính chất nguyên tắc : lấy mẫu, cố định, khử nước, tẩm parafin,
đúc khuôn, cắt lát, nhuộm mẫu, khử nước, làm trong và gắn mẫu. Tất cả các bước trên
cần phải được tiến hành theo đúng trình tự, thao tác kỹ thuật và thời gian xử lý phải thật
hợp lý. Nếu không tuân thủ sẽ đưa đến kết quả xấu.
Vật liệu và phương tiện chính là cơ sở cho việc nghiên cứu mô học. Ngoài ra nó
còn phụ thuộc vào tài liệu tham khảo, cơ sở vật chất trong phòng thí nghiệm.
2.2.1. Lấy mẫu:
Thao tác mổ giai đoạn định hình chuột: cắt da, cắt thịt tương tự phương pháp giải
phẫu động vật có vú kích thước nhỏ nhưng không cần quan tâm đến các nội quan khác
chỉ tách lấy buồng trứng. Vì buồng trứng chuột nhỏ, mềm được treo bởi màng treo buồng
trứng ở trên và liên kết với vòi Fallope ở dưới và được bọc bởi lớp mỡ dày. Vì vậy thao
tác lấy phải cẩn thận tránh làm dập và bị phạm vào buồng trứng. Nên sử dụng kéo mũi
nhọn. Sau khi tách bỏ hệ tiêu hoá, hệ bài tiết để lộ hệ sinh dục từ đó tìm vị trí buồng
trứng.

Hình 14: Ảnh chụp giải phẫu chuột đồng
A. Chuột chưa mang thai; B. Chuột mang thai

1. Buồng trứng; 2. Tử cung
Cẩn thận dùng kéo luồn qua lớp mỡ sau đó cắt bỏ dần lớp mỡ bao quanh buồng
trứng và tách buồng trứng khỏi vòi Fallope.
2.2.2. Cố định:
Có nhiều phương pháp cố định mẫu: cơ học, hoá học, ở đây cố định mẫu bằng
phương pháp hoá học bằng dung dịch Bouin (xem phần phụ lục). Tác dụng Bouin làm
mẫu cứng lại nhưng không bị co và cấu trúc tế bào học được bảo quản tốt.
Cố định trong dung dịch Bouin đựng trong lọ thuỷ tinh (giai đoạn này được thử
nghiệm qua các thời gian: 18 giờ - 12 giờ - 8 giờ - 4 giờ). Trong quá trình cố định nên
thường xuyên lắc đều mẫu để trộn đều dung dịch cường nhủ, không để mặt mẫu luôn tiếp
xúc với đáy lọ không được tiếp xúc tốt với dung dịch cố định mẫu cố định đồng bộ.
Trang 22
A
1
2
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

Thể tích dung dịch phải gấp 30 - 40 lần thể tích mẫu khi đó dung dịch cố định sẽ
dễ dàng ngấm sâu vào mô, mô cố định sẽ tốt.
2.2.3. Khử nước:
Mẫu sau thời gian cố định được vớt ra rửa dưới vòi nước chảy từ 2 - 3 giờ cho bớt
màu vàng của dung dịch Bouin: dùng 1 chai nước rửa chén 50ml bị đục thủng đáy, cắt
ngang phần miệng chai khoảng 10cm dùng làm phểu đặt ngược phểu vào phần còn lại
của chai. Đặt vào phễu 1 miếng cước rửa chén. Đặt mẫu lên cước rồi mở vòi nước cho
chảy nhẹ lên mẫu.
Tiếp theo rửa bằng nước cất trong 5 phút, sau đó chuyển qua cồn 50
0
, 70
0
, 90

0
, cồn
tuyệt đối và n-Butanol.
Cồn 50
0
2 giờ x 2 lần
Cồn 70
0
2 giờ x 2 lần
Cồn 90
0
2 giờ x 2 lần
Cồn tuyệt đối 2 giờ x 2 lần
n - Butanol 1 giờ x 2 lần
Chú ý: mỗi lọ cồn chỉ được sử dụng một lần cho một lần làm mẫu.
2.2.4. Tẩm parafin:
Chuyển mẫu từ n-Butanol sang xylene (1 giờ x 2 lần) rồi tiếp tục chuyển qua
xylene : parafin (tỉ lệ 1 : 1), nhiệt độ thử nghiệm dưới, trên và 60
0
C trong 8 giờ,10 giờ, 12
giờ. Sau đó cho mẫu vào parafin lỏng nguyên chất để trong tủ sấy ở nhiệt độ 60
0
C với
thời gian thử nghiệm là 16, 20, 24 giờ.
2.2.5. Đúc khuôn:
- Chuẩn bị:Để tiến hành đúc khuôn, cần chuẩn bị các vật liệu sau: khuôn giấy, đèn
cồn, kim mũi giáo và kẹp. Khuôn có kích thước 3cm x 1,5cm được xếp từ giấy bìa cứng
không màu (hình 15).

4.5cm

1.5cm
1.5cm

3cm
Hình 15: Hình dạng khuôn giấy
Trang 23
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài

- Tiến hành:
Đặt khuôn vào nơi bằng phẳng, rót parafin lỏng nguyên chất vào khuôn ở khoảng
chiều cao khuôn, chờ cho parafin vừa đặc lại ở vành khuôn dùng kẹp gắp mẫu từ trong
parafin tẩm ra và đặt khuôn parafin vừa rót. Tiếp theo dùng kim mũi giáo hơ nóng cho
parafin trong và hết bọt.
2.2.6 Cắt mẫu:
- Chuẩn bị:
Lấy khối mẫu tẩm parafin ra khỏi khuôn, rồi dùng dao gọt khối mẫu thành dạng hình
thang cân. Gắn khối parafin đã gọt lên khối gỗ bằng cách hơ nóng khối gỗ và khối
parafin rồi gắn chúng lại với nhau (hình 16).

Khối gỗ
Hình 16: Chuẩn bị khối mẫu và khối gỗ
- Tiến hành:
+ Thận trọng từng động tác, tránh gió lùa, để máy cắt gần tủ lạnh mở của càng tốt.
+ Gắn khối mẫu vào máy cắt cho ngay, xiết chặt ốc, giữ lấy mẫu.
+ Gắn lưỡi dao vào máy và chỉnh lưỡi dao nghiêng một góc từ 10-15
0
.
+ Điều chỉnh cho khối mẫu và lưỡi dao vừa chạm vào nhau (hình 17)
+ Chỉnh độ dày của lát cắt về 16 µm.
+ Quay tay, quay thử đều ở độ dày 16 µm chuyển dần đến độ dày cần thiết là 10

µm, lúc đó các lát cắt sẽ dính liền nhau thành băng (hình 18), hứng mẫu trên một tờ
giấy trắng.
+ Chuyển mỗi băng đã cắt xong lên tờ giấy trắng và bảo quản trong hộp giấy.
Trang 24
Khối gỗ đã gắn mẫu
Parafin
Mẫu
Khối gỗ
GVHD: ThS. Dương Thị Huỳnh Hoa LVTN - Nguyễn Thị Phương Đài


Hình 17 : Chuẩn bị cắt mẫu
Hình 18 : mẫu được cắt thành băng

Trang 25
khối gỗ cắt mẫu
lưỡi dao
Hình 19: Ảnh chụp máy cắt

×