Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

chính sách quản lý ruộng đất của triều lê sơ (1428 - 1527)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (676.62 KB, 112 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





Nguyễn Thị Thƣơng Huyền

CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ RUỘNG ĐẤT
CỦA TRIỀU LÊ SƠ (1428-1527)




LUẬN VĂN THẠC SĨ: CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM







Thái Nguyên - Năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






Nguyễn Thị Thƣơng Huyền

CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ RUỘNG ĐẤT
CỦA TRIỀU LÊ SƠ (1428-1527)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 6022.54
LUẬN VĂN THẠC SĨ: CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Nguyễn Thị Phƣơng Chi




Thái Nguyên - Năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan những nội dung trong luận văn là hoàn toàn đúng sự
thật, là kết quả của sự tìm tòi, tổng hợp, khái quát trên cơ sở nhiều nguồn tài liệu
khác nhau. Từ đó rút ra những chính sách quản lý ruộng đất của triều Lê sơ trong
khoảng thời gian từ 1428 – 1527.
Luận văn được thực hiện trong 8 tháng, từ tháng 12 năm 2010 đến tháng 8
năm 2011.


Ngƣời cam đoan



Nguyễn Thị Thƣơng Huyền











Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Lời cảm ơn!

Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới người hướng dẫn khoa học là
PGS. TS Nguyễn Thị Phương Chi - Phó tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử - Viện sử học, người đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
qua để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Viện sử học, Phòng Tư liệu
Khoa Lịch Sử - Trường Đại học sư phạm Thái Nguyên, Thư viện trường Đại học
sư phạm Thái Nguyên, Trung tâm học liệu Đại học Thái Nguyên, …đã tạo điều
kiện cung cấp thông tin giúp tôi có cơ sở khai thác, tổng hợp những kiến thức có
liên quan để hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể gia đình, người thân đã
quan tâm, động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện về mặt thời gian trong suốt quá trình
tôi thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2011
Tác giả



Nguyễn Thị Thƣơng Huyền



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC
Trang
Trang Phụ bìa
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài 1-2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2-5
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài 5
4. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu 6
5. Đóng góp của đề ài 6
6. Kết cấu của đề tài 6
NỘI DUNG

Chƣơng 1: Khái quát tình hình Đại Việt thời Lê Sơ (1428- 1527).
1.1. Tình hình chính trị 7-15
1.2. Tình hình kinh tế 15-20
1.3. Tình hình văn hóa -xã hội 21-23
Tiểu kết 23
Chƣơng 2: Chính sách quản lý ruộng đất công
2.1. Chính sách quản lý ruộng công làng xã 24 -36
2.2. Chính sách quản lý ruộng đồn điền 36-38.
2.3. Chính sách quản lý ruộng khẩn hoang 38-44
Tiểu kết 44-45
Chƣơng 3: Chính sách quản lý ruộng đất tƣ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3.1. Chính sách quản lý ruộng tư của thế gia, quan lại cao cấp …… 46-59
3.2. Chính sách quản lý ruộng đất tư của địa chủ 59-67.
3.3. Chính sách quản lý ruộng tư của nông dân 67-74
Tiểu kết 74-76
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC













Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Vấn đề ruộng đất từ trước đến nay luôn là đối tượng nghiên cứu của rất
nhiều công trình khoa học lớn nhỏ khác nhau- nhất là vấn đề ruộng đất thời trung
đại. Tìm hiểu về vấn đề ruộng đất cũng đồng nghĩa với việc tìm hiểu cơ sở văn
minh dân tộc trong lịch sử, bởi lẽ nền kinh tế nước ta cơ bản là sản xuất nông
nghiệp.
Trong bức tranh chung toàn cảnh ruộng đất, cái chi phối nhất, chi phối chủ
yếu đến tình trạng ruộng đất phải kể đến các chính sách về ruộng đất mà nhà
nước quân chủ ban hành. Các chính sách, biện pháp ruộng đất được nhà nước
ban hành có ảnh hưởng lớn đến bức tranh ruộng đất nói chung.
Quản lý ruộng đất là một nội dung trọng tâm của quản lý nhà nước thời
quân chủ. Bởi lẽ có nắm được ruộng đất, nhà nước mới có cơ sở để thu tô thuế,
mà tô thuế là nguồn thu nhập tài chính chủ yếu của nhà nước. Hơn thế nữa, từ
chỗ quản lý chặt chẽ và có hiệu quả ruộng đất, nhà nước mới có thể chi phối
được mọi mặt đời sống xã hội. Ngoài ra, chính sách quản lý ruộng đất còn thể
hiện quyền sở hữu tối cao của nhà nước đối với ruộng đất. Chính trên cơ sở chủ
đạo của chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất, nhà nước trung ương đã ban hành
những chính sách, biện pháp cần thiết có lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Dưới chế độ quân chủ, ruộng đất cùng các vấn đề khác như thủy lợi, tập
quán sản xuất được coi là những yếu tố cơ bản nhất quyết định đối với sản xuất
nông nghiệp. Mặt khác, vấn đề ruộng đất dưới mỗi triều đại, bên cạnh những nét
chung còn chứa đựng những nét đặc thù mà chúng ta cần tiếp tục đi sâu nghiên
cứu, đặc biệt là chính sách quản lý ruộng đất dưới mỗi triều đại cũng có đặc
trưng riêng.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Chính vì lẽ đó, việc tìm hiểu chính sách quản lý ruộng đất của nhà nước
phong kiến Việt Nam dưới một triều đại lịch sử nhất định sẽ giúp chúng ta có cái
nhìn và sự hiểu biết khá căn bản và toàn diện về tình hình kinh tế, xã hội, đời
sống nhân dân cũng như lý giải được nhiều vấn đề liên quan như tập quán sản
xuất, tập quán sinh hoạt, các mối quan hệ xã hội cũng như sự phân hóa giai cấp
trong xã hội, thịnh suy của triều đại phong kiến… để từ đó có phương hướng
đúng xử lý vấn đề tạo sự phát triển cho sản xuất.
Ngày nay trên bước đường xây dựng phát triển nhà nước XHCN, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, vấn đề ruộng đất được đặt ra trên bình diện khác, đó là vai
trò chủ động của con người. Nhưng những bài học lịch sử, trong đó có vấn đề
ruộng đất cùng chính sách quản lý nhà nước, ngày nay vẫn còn có ý nghĩa.
Việc nghiên cứu chính sách quản lý ruộng đất nhà nước phong kiến có tầm
quan trọng đặc biệt trong việc tìm hiểu các vấn đề chính trị, kinh tế, quân sự, văn
hóa và xã hội. Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Chính sách quản lý ruộng
đất của triều Lê sơ (1428-1527)” làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Vấn đề ruộng đất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, từ lâu đã thu
hút được sự quan tâm của giới sử học. Cho đến nay có nhiều công trình khoa học
được công bố:
Vào cuối thập kỉ 50 và 60, đã có một số chuyên khảo về đề tài trên mà tiêu
biểu là cuốn“Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ” của tác giả
Phan Huy Lê. Trong tác phẩm này, tác giả đã trình bày những nét lớn về chính
sách ruộng đất của nhà nước Lê sơ thế kỷ XV. Nguồn tư liệu chủ yếu của tác
phẩm là các bộ sử cũ của các sử gia phong kiến. Đây là cuốn sách đầu tiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
chuyên về đề tài này của giới sử học nước nhà kể từ sau cách mạng tháng Tám
năm 1945.
Từ cuối thập kỉ 70, 80 của thế kỷ trước đến nay đã có một số chuyên khảo
khá quy mô, đánh dấu một bước tiến mới trong việc nghiên cứu vấn đề ruộng
đất.
Trong chuyên khảo “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX”, dựa trên những bộ chính sử của triều Nguyễn, tác giả Vũ Huy Phúc đã hệ
thống hóa những chính sách lớn về ruộng đất của nhà Nguyễn, thiết chế và kết
cấu ruộng đất hình thành từ chính sách đó, cũng như tác động và ảnh hưởng của
nó đối với yêu cầu của lịch sử.
Trong chuyên khảo công phu và quy mô “Chế độ ruộng đất ở Việt Nam ( từ
thế kỷ XI-XVIII)” (2 tập) của tác giả Trương Hữu Quýnh đã phác họa ra những
nét chính về sự tiến triển của chế độ ruộng đất ở nước ta từ thế kỷ XI đến thế kỷ
XVIII, qua đó bước đầu vạch ra xu thế phát triển chủ yếu cũng như tính chất
kinh tế, xã hội của nó. Bên cạnh việc sử dụng các bộ chính sử, tác giả còn huy
động một nguồn tư liệu địa phương khá phong phú (bao gồm văn bia, gia
phả…). Vì vậy, chuyên khảo này còn cung cấp những tư liệu tham khảo có giá
trị về vấn đề sở hữu ruộng đất dưới thời phong kiến.
Ngoài ra còn có thể kể tới một số công trình như:“Chế độ ruộng đất và
kinh tế nông nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX”- Luận án PTS sử học của tác
giả Vũ Văn Quân, “Tình hình ruộng đất kinh tế nông nghiệp và đời sống nông
dân dưới triều Nguyễn” của các tác giả Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang, Vũ Văn
Quân.
Bên cạnh các cuốn sách và luận án nói trên còn nhiều bài viết đề cập đến
vấn đề này được đăng tải trên các Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu kinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4
tế, Dân tộc học có thể kể đến: Nguyễn Khắc Đạm “Vấn đề ruộng đất trong lịch
sử Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 65 (1965); Minh Tranh“Vài nét
vấn đề ruộng đất trong lịch sử Việt Nam”, tạp chí văn sử địa số 2; Phan Huy Lê
“Chế độ ban cấp ruộng đất thời Lê sơ và tính chất sở hữu của các loại ruộng đất
thế nghiệp”, tạp chí NCLS số 199 (1981).
Các tác giả Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đức
Nghinh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc, Đào Tố Uyên, Nguyễn Cảnh
Minh…cũng đã có những bài viết liên quan đến vấn đề ruộng đất.
Các bài viết trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của chế độ sở hữu
ruộng đất và kinh tế nông nghiệp trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XI đến đầu
thế kỷ XIX.
Trong nghiên cứu tình hình ruộng đất, nguồn tư liệu địa bạ được các nhà
nghiên cứu đặc biệt coi trọng. Giáo sư sử học Nguyễn Đức Nghinh đã giành
nhiều thời gian nghiên cứu và cho đến nay đã có hàng chục công trình được công
bố qua việc khai thác nguồn tư liệu này. Đặc biệt mấy năm gần đây, tại trung tâm
lưu trữ quốc gia I, 10.044 tập địa bạ đã bước đầu được thống kê, khảo sát.
Trong Luận án “Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Kim Sơn”(1829),
tác giả Đào Tố Uyên đã chỉ ra những điểm cơ bản và diễn biến của chế độ ruộng
đất ở huyện Kim Sơn nửa đầu thế kỷ XIX. Tác giả Bùi Quý Lộ trong luận án
“Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Tiền Hải” cũng đã phân tích kĩ chế độ
ruộng đất ở Tiền Hải. Những công trình nêu trên tuy không trực tiếp liên quan
đến đề tài luận văn nhưng nội dung các công trình đó giúp cho tác giả luận văn
có thêm nhận thức trong quá trình thực hiện đề tài.
Như vậy, vấn đề ruộng đất ở nước ta thời phong kiến đã có một quá trình
lịch sử nghiên cứu. Nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà địa phương học đã góp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5

phần mình vào việc dựng lên bức tranh về chế độ ruộng đất ở các thế kỷ, làm cơ
sở cho việc trình bày một cách đầy đủ các mặt hoạt động của nhân dân ta đương
thời.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về “Chính sách
quản lý ruộng đất của triều Lê sơ (1428-1527)”. Những thành quả của các nhà
nghiên cứu đi trước là những ý kiến gợi mở quý báu giúp chúng tôi hoàn thành
đề tài này.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
Chính sách quản lý ruộng đất triều Lê sơ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Trong phạm vi của đề tài: Chính sách quan lý ruộng đất triều
Lê Sơ, luận văn giới hạn ở việc tìm hiểu chính sách quản lý của nhà nước Lê Sơ
đối với ruộng công và ruộng tư.
Về thời gian: Từ khi triều Lê sơ xác lập – 1428 đến khi kết thúc -1527.
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
Luận văn tìm hiểu về chính sách quản lý của nhà nước Lê Sơ đối với các
loại hình ruộng đất: ruộng công, ruộng tư;
Đồng thời luận văn còn nêu lên tác động của chính sách đó tới lợi ích của
nhà nước phong kiến, đời sống của các bộ phận trong xã hội, từ đó thấy được tác
dụng và hạn chế của chính sách ruộng đất triều Lê sơ đối với công cuộc xây
dựng và bảo vệ quốc gia Đại Việt.

4. Nguồn tƣ liệu, phƣơng pháp nghiên cứu
4. 1. Nguồn tƣ liệu:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
- Nguồn tư liệu trong chính sử: Một số sử sách và địa chí cổ: Đại Việt sử

ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Khâm Định Việt sử thông giám
cương mục, Dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, Phủ biên tạp
lục.
- Các sách, tạp chí xuất bản liên quan đến đề tài.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng phương pháp lịch sử kết hợp
với phương pháp logic là chủ yếu. Ngoài ra có sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp đề tài.
Luận văn làm rõ chính sách quản lý ruộng đất của triều Lê Sơ trong lịch sử
dân tộc. Đồng thời còn cho thấy tác dụng của chính sách quản lý ruộng đất triều
Lê sơ đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ quốc gia Đại Việt
Luận văn sẽ góp phần cung cấp thêm tư liệu phục vụ cho học tập, giảng dạy và
nghiên cứu lịch sử.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục; đề tài gồm có ba
chương:
Chƣơng 1: Khái quát tình hình nước Đại Việt thời Lê sơ (1428-1527)
Chƣơng 2: Chính sách quản lý ruộng đất công
Chƣơng 3: Chính sách quản lý ruộng đất tư


CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH NƢỚC ĐẠI VIỆT
THỜI LÊ SƠ (1428-1527)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7

1.1. Tình hình chính trị

Về xây dựng và củng cố chính quyền.
Xã hội Đại Việt cuối thế kỉ XIV lâm vào tình trạng chính trị khủng hoảng
sâu sắc, kinh tế nông nghiệp sa sút nghiêm trọng, xã hội bất ổn định. Bên cạnh
đó, Đại Việt lại đứng trước nguy cơ ngoại xâm ngày càng đến gần.
Sau cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh của nhà Hồ bị thất bại,
đât nước Đại Việt rơi vào ách đô hộ của nhà Minh trong hai mươi năm (1407-
1427). Khởi nghĩa Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã cùng với nhân dân
cả nước đánh bại quân Minh xâm lược. Đất nước thanh bình, vương triều nhà Lê
(Lê sơ) được thiết lập. Nhà Lê sơ thực hiện các chính sách nhằm khôi phục, ổn
định và phát triển đất nước.
Thời Lê sơ được tính từ khi Lê Lợi lên ngôi (1428) đến khi Mạc Đăng Dung
cướp ngôi (1527), gồm 11 đời vua, trong đó Lê Thái Tổ là người sáng lập, Lê
Thánh Tông là người đưa vương triều Lê sơ đến giai đoạn thịnh đạt nhất.
Một công việc thiết yếu mà các vua thời Lê sơ đều quan tâm và cố gắng
thực hiện là kiện toàn bộ máy nhà nước quân chủ tập trung, mang tính quan liêu
chuyên chế. Đến thời Lê Thánh Tông (1460-1497) đạt tới đỉnh cao, trở thành nhà
nước toàn trị, cực quyền. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển đổi mô
hình từ nền quân chủ quý tộc thời Lý -Trần mang đậm tính Phật giáo sang nền
quân chủ quan liêu nho giáo.
Về hành chính, năm 1428, Lê Thái Tổ chia đất nước thành 5 đạo: Đông đạo,
Tây đạo, Nam đạo, Bắc đạo, Hải tây. Đứng đầu mỗi đạo có chức hành khiển và
tổng quản. Hành khiển coi việc dân chính và tư pháp. Tổng quản chỉ huy các vệ
quân trong đạo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Dưới đạo có các đơn vị nhỏ như trấn, lộ rồi đến phủ, huyện, châu, xã. Tất cả
hệ thống chính quyền ấy đều tập trung quyền hành vào tay triều đình trung ương.
Ở triều đình, đứng đầu là vua rồi đến các chức tả Tướng quốc và hữu Tướng

quốc. Tiếp theo là các chức Tam Tư, Tam Thiếu, Tam Thái giành riêng cho tôn
thất và công thần. Dưới là hai ngạch ban văn và ban võ. Sau Đại Hành khiển là
Thượng thư đứng đầu Bộ (có hai Bộ là Bộ Lại và Bộ Lễ). Bên cạnh đó có một số
cơ quan chuyên trách như Khu Mật viện, Hàn Lâm viện, Ngũ Hình viện, Ngự Sử
đài, Quốc Tử Giám, Quốc Sử viện, Nội thị sảnh, các quán, cục, ty
Ở địa phương, đứng đầu các đạo là các chức Hành khiển phụ trách mọi việc
quân dân. Sau đó là các chức An phủ sứ, Tri phủ, Tuyên phủ sứ, Chuyển vận sử
đứng đầu các trấn, lộ, huyện. Xã có xã quan.
Nhìn chung, bộ máy Nhà nước thời Lê Lợi chủ yếu dựa vào quy chế tổ chức
của các triều đại Lý, Trần. Tuy nhiên nó đã là một bước tiến bộ về mức độ tập
trung chính quyền. Trải qua các đời Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, bộ máy nhà
nước càng được củng cố hơn, theo hướng tập quyền, nhằm mục đích tập trung
quyền hành vào tay nhà vua, nâng cao hơn nữa tính chuyên chế.
Từ 1466-1471, Lê Thánh Tông đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính lớn.
Đất nước được chia thành 13 đạo thừa tuyên với các cơ quan hành chính thống
nhất.
Hệ thống hành chính thời Lê Thánh Tông được tổ chức chặt chẽ, thống nhất
từ trung ương đến địa phương. Chủ trương của Lê Thánh Tông là đảm bảo sự
thống nhất trong chính quyền từ trên xuống dưới, từ trung ương đến địa phương,
"các chức lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, nặng nhẹ cùng giữ gìn nhau, lẽ phải
của nước không bị chuyện riêng, việc lớn của nước không đến lung lay, khiến có
thói tốt làm hợp đạo đúng phép, không có lầm lỗi làm trái nghĩa phạm hình, để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
theo trọn các chí của thánh tổ thần tông ta, mà giữ được trị an lâu dài"
[12, tr. 482].
Các chức tể tướng, bộc xạ, tư đồ đều bị bãi bỏ. Vua trực tiếp điều khiển 6
bộ: bộ binh, hình, lễ, lại, công, hộ. Đứng đầu là thượng thư, giúp việc có 2 thị

lang. Đây là cơ quan chính phụ trách mọi công tác của triều đình. Giúp việc cho
các bộ còn có 6 tự. Để giám sát hoạt động của quan lại nói chung có ngự sử đài
và 6 khoa tương ứng với 6 bộ. Hàn lâm viện và Quốc tử giám được giữ nguyên
như các triều đại trước. Quá trình tuyển chọn quan lại qua nhiều đường khác
nhau: tập ấm, tuyển cử , chủ yếu là khoa cử.
Dưới thời vua Lê Thánh Tông đã tuyển chọn đội ngũ quan lại có năng lực làm
việc trong bộ máy nhà nước. Để tạo điều kiện cho quan lại trung thành với nhà
vua, Lê Thánh Tông đặt quy chế lương bổng, ruộng lộc, phẩm tước rõ ràng
thống nhất.
Nếu so sánh với những triều vua thời Lý- Trần, hệ thống hành chính quốc
gia thời Lê sơ, đặc biệt ở thời Lê Thánh Tông đã thể hiện một bước tiến cơ bản.
Có thể nói nó đã đạt đến đỉnh cao của mô hình Nhà nước quân chủ chuyên chế,
quan liêu. Vua tuy vẫn giữ những chức năng cơ bản của thời trước nhưng với
quyền lực tập trung hơn, quyết đoán hơn. Trong thiết chế quân chủ tuyệt đối thời
Lê sơ, vai trò của nhà vua được đẩy lên rất cao với chủ nghĩa "tôn quyền". Theo
đó, nhà vua là "con trời", người giữ mệnh trời, thay trời cai trị dân. Vua là người
đứng đầu cả nước, đồng thời cũng là người được ban hành mọi chính sách, luật
lệ của đất nước. Hệ thống các cơ quan hành chính được xếp đặt rõ ràng, có phân
công, phân nhiệm cụ thể. Hệ thống hành chính thời Lê Thánh Tông thể hiện
được tính tập trung từ dưới lên trên, từ địa phương đến trung ương, đề cao quyền
hành toàn diện của người đứng đầu Nhà nước.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Về luật pháp:
Ngay sau khi lên ngôi vua, trong năm 1428, Lê Lợi đã cùng với các đại thần
bàn định một số luật lệ và lo đến việc lập pháp. Lê Lợi hạ lệnh cho các Tướng
hiệu và các quan rằng: "Từ xưa tới nay, trị nước phải có pháp luật, không có
pháp luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa đặt ra pháp luật là để dạy các

tướng hiệu, quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ biết thế nào là thiện, là ác,
điều thiện thì làm, điều chẳng lành thì tránh, chớ để đến nỗi phạm pháp".
[14, tr. 45, 453]
Trải qua các đời vua Thái Tông, Nhân Tông, đặc biệt dưới đời vua Lê
Thánh Tông, vào năm 1483, vua sai các triều thần sưu tập các điều luật, pháp
lệnh đã ban bố trong các triều vua thời Lê sơ xây dựng thành bộ luật hoàn chỉnh
vì theo quan niệm của Thánh Tông "Pháp luật là phép công của nhà nước, vua
cùng quan đều phải theo".
Năm 1483, Lê Thánh Tông cho ban hành bộ luật thành văn hoàn chỉnh gồm
722 điều chia thành 16 chương gọi là "Quốc triều hình luật" hay "Luật Hồng
Đức". Về hình thức, đó là bộ luật hình sự với khung hình "suy, trượng, đồ, lưu,
tử".Thực chất, đây là bộ luật tổng hợp và có các điều khoản về điền sản, dân sự,
hôn nhân.
Nội dung chủ yếu của Bộ luật là nhằm bảo vệ quyền thống trị của nhà nước
trung ương tập quyền (những hành động chống đối triều đình, chống đối lễ giáo
phong kiến bị ghép vào "thập ác'').
Đặc biệt là nhiều điều luật trong "Điền sản" nhằm bảo vệ tô thuế của nhà
nước, nghiêm cấm và trừng phạt những hành vi xâm lấn, chiếm đoạt ruộng đất
công. Luật Hồng Đức giành nhiều điều quy định chi tiết về việc sở hữu ruộng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
đất, nguyên tắc mua bán, cầm cố ruộng đất nhằm bảo vệ quyền tư hữu tài sản;
trước hết quyền tư hữu ruộng đất và bóc lột địa tô của giai cấp địa chủ:
Điều 341
Bán ruộng đất quan thụ và ruộng đất khẩu phân bị phạt 60 trượng, biếm 2
tư, người viết thay hoặc chứng kiến (tội cũng như thế) giảm một bậc; truy
nguyên tiền và ruộng đất nộp cho nhà nước. Bán đợ thì phạt 60 trượng, cho
chuộc lại.

Điều 342
Chiếm ruộng đất công quá hạn (bị phạt như sau: 1 mẫu bị 80 trượng, 10
mẫu bị biếm 10 tư, tội chỉ đến biếm 3 tư; truy tiền hoa lợi ruộng đất nộp cho nahf
nước. Nếu khẩn đất hoang thì không bị tội.
Điều 343
Nhận càn ruộng đất (bị phạt như sau), 1 mẫu trở xuống bị biếm 1 tư, 5 mẫu
trở xuống bị biếm 2 tư, 10 mẫu trở xuống bị biếm 3 tư, tội chỉ đến đồ khao đinh.
Lấn giới hạn (ruộng đất) bị biếm 1 tư và bồi thường tiền hoa lợi tăng thêm 1/10.
Nếu là ruộng đất công (tội) gia thêm 1 bậc, bồi thường tiền hoa lợi tăng thêm
2/10. Người giám đương không biết cáo giác bị biếm 1 tư, mất quyền giám
đương. [27, tr. 191-192]
Bộ luật cũng bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến, đặc quyền của tầng lớp
quý tộc; đồng thời củng cố trật tự xã hội phong kiến, bảo vệ chế độ gia tộc phụ
quyền và các nguyên tắc về đạo đức phong kiến. Những tội "ác nghịch","bất
hiếu","bất mục" đều bị ghép vào tội thập ác.
Trong Quốc triều hình luật có những điều luật nhằm bài trừ nạn tham
nhũng, hối lộ, lãng phí của công, ức hiếp dân lành và chú trọng phần nào đến
việc bảo vệ lợi ích của dân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Là sản phẩm của nhà nước phong kiến, ra đời sau cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc, Bộ luật Hồng Đức rất chú ý đến quốc gia Đại Việt thống nhất bao
gồm nhiều thành phần các dân tộc khác nhau. Riêng đối với người phụ nữ, luật
Hồng Đức cũng có những điều bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Về kinh tế,
con gái được hưởng quyền chia gia tài bình đẳng như con trai (điều 387). Gia
đình không có con trai, con gái trưởng được quyền thừa kế hương hỏa (điều
309).
Về mặt hôn nhân, người con gái đã đính hôn nhưng chưa làm lễ thành hôn

mà người con trai bỗng mắc ác tật hoặc phạm tội phá tài sản thì người con gái
được quyền từ hôn và trả của. Những quy định nói trên đối với phụ nữ có tính
chất tiến bộ, lần đầu tiên được đặt ra trong pháp luật thành văn ở nước ta.
Luật Hồng Đức đã phản ánh phong phú nhiều mặt đời sống, tập quán của
nhân dân ta ở thế kỉ XV. Bộ luật Hồng Đức biểu hiện rõ tính chất giai cấp và
quyền lực của nhà nước quân chủ đối với nhân dân nhưng đó cũng là bộ luật tiến
bộ nhất trong lịch sử trung đại Việt Nam. Bộ luật đã thể hiện tính sáng tạo và
tinh thần thực tiễn của nhà nước quân chủ độc lập trong giai đoạn đi lên. Ý thức
bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, đó là mặt tiến bộ của Bộ luật mà sau
này vẫn được ca ngợi. Chính sách quản lý ruộng đất của nhà Lê sơ đã được thực
hiện quy củ, chặt chẽ, hiệu quả thông qua các điều luật trong "Điền sản chương",
góp phần bảo vệ lợi ích nhà nước phong kiến, đặc biệt là quyền sở hữu tối cao về
ruộng đất.

Về quân đội và quốc phòng.
Thời Lê sơ, cùng với quá trình xây dựng bộ máy chính quyền trung ương
tập quyền, tổ chức quân đội cũng được xây dựng có quy củ. Sau khi đã hoàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, đầu năm 1429, Lê Lợi cho 25 vạn quân trở
về làm ruộng, giữ lại 10 vạn quân thường trực. Số quân còn lại này chia làm 6
quân ngự tiền đóng ở kinh thành, có nhiệm vụ bảo vệ kinh đô và cung điện nhà
vua, và quân 5 đạo đóng giữ ở các địa phương. Trong số 10 vạn quân, Lê Lợi
chia làm 5 phiên, cứ lần lượt thay nhau, có 4 phiên về làm ruộng và một phiên ở
lại thường trực. Mỗi khi có việc dụng binh, Nhà nước mới điều động toàn bộ
quân đội và có khi bắt lính bổ sung thêm.
Năm 1466, Lê Thánh Tông cải tổ lại hệ thống tổ chức quân đội. Quân đội
toàn quốc chia làm hai loại thân binh hay cấm binh bảo vệ kinh thành và ngoại

binh trấn giữ các sứ.
Quân đội ở các đơn vị cũng được quy định thống nhất, mỗi ti gồm 100
người, mỗi sở gồm 400 người, chia làm 20 đội, mỗi đội 30 người.
Cũng như thời Lí- Trần, nhà Lê sơ sử dụng chính sách " ngụ binh ư nông"
cho quân lính thay phiên nhau về nhà làm ruộng. Dưới thời Thánh Tông, chế độ
tập luyện của quân đội được quy định chặt chẽ. Tất cả các hạng quân đội đều
được theo bậc cấp ruộng đất công xã ở xã thôn từ 8,5 đến 4 phần. Các võ quan
được cấp lộc điền bổng lộc như các tầng lớp quan lại khác.
Trên cơ sở một đội quân mạnh, nhà Lê tiến hành chính sách biên giới rất
cương quyết. Các nước láng giềng nhỏ bé ở phía Tây và Nam như Ai Lao, Chân
Lạp mỗi lần xâm lấn bờ cõi đều lập tức bị đánh tan.
Để nắm chắc và khống chế các tù trưởng thiểu số, triều đình nhà Lê đã áp
dụng những biện pháp như trấn áp và phủ dụ. Triều đình đã cử phần tử trung
kiên nhất lên miền núi chiêu dân lập ấp đời đời cai trị địa phương. Họ biến thành
dòng họ "phiên thần". Chính sách này đã có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
biên cương tổ quốc, tạo ra sự giao thoa văn hóa giữa miền xuôi và miền ngược,
quá trình tộc người thông qua quan hệ hôn nhân có sự giao thoa.
Nhà vua cũng cho điều tra và lập sổ hộ khẩu, khảo sát địa hình, lập bản đồ
hành chính quốc gia, đề cao tôn vinh truyền thống dân tộc và các danh nhân văn
hóa. Nhờ có lực lượng quân đội hùng mạnh và chính sách ngoại giao cương
quyết, thời Lê sơ cương giới lãnh thổ Tổ quốc được gìn giữ, bảo vệ. Đại Việt trở
thành một quốc gia có uy thế trong khu vực Đông Nam Á.
Về chính sách đối nội và đối ngoại
Trong phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV, nhân dân các dân tộc
thiểu số đã kề vai sát cánh với người Kinh chiến đấu chống kẻ thù chung.
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, chính sách của nhà Lê cũng như các triều

đại phong kiến trước đây có hai mặt. Một mặt mua chuộc, nắm lấy các tù trưởng-
tầng lớp thống trị của dân tộc thiểu số để bắt họ nộp cống phú, mặt khác dùng vũ
lực trấn áp những hành động phản kháng, những cuộc nổi dậy chống đối triều
đình.
Trong quan hệ đối với các nước láng giềng, trước hết đối với nhà Minh, nhà
Lê vẫn giữ quan hệ hòa hiếu. Sau ngày độc lập, Lê Thái Tổ cử sứ bộ sang nhà
Minh cầu phong, giữ đúng lễ triều cống của một nước phiên thần, nhưng vẫn
luôn giữ vững chủ quyền độc lập và lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc. Trong lời dụ
của Lê Thánh Tông năm 1471 đã nêu rõ: "Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ
nào tự tiện vứt bỏ được. Phải kiên quyết tranh luận, không để họ lấn dần , nếu
kẻ nào dám đem một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì người
đó sẽ bị trừng trị nặng".
Đối với nước Champa ở phía Nam và Ai Lao, Bồn Man ở phía Tây Nam,
quan hệ bang giao với Đại Việt từ sau kháng chiến chống Minh được nối lại. Ai

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Lao cũng như Bồn Man và Champa nhiều lần sai sứ sang triều cống đều được
nhà Lê tiếp đãi ân cần. Các nước này đều xin thần phục nhà Lê.
Tuy nhiên, từ đời vua Nhân Tông trở đi, quan hệ có phần căng thẳng, việc
tranh chấp các vùng biên giới diễn ra, đặc biệt dưới triều vua Lê Thánh Tông, đã
biến thành những cuộc xâm lấn đất đai. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông đích thân
mang quân đánh Champa và Bồn Man, sáp nhập một phần vào lãnh thổ Đại Việt.
1.2. Tình hình kinh tế
Về nông nghiệp.
Đất nước được giải phóng đã mở ra một thời kì phát triển mới của xã hội
Đại Việt. Một trong những nhiệm vụ lịch sử trọng yếu của Nhà nước thời Lê sơ
là phải nhanh chóng khôi phục lại nền kinh tế vừa bị phá hoại nghiêm trọng dưới
ách đô hộ của nhà Minh, mà trước hết là kinh tế nông nghiệp.

Để nhanh chóng khôi phục sản xuất nông nghiệp, vua Lê đã cho 25 vạn
quân giải ngũ về quê làm ruộng và kêu gọi nhân dân phiêu tán các nơi trở về
làng cũ của mình. Nhà Lê lệnh cho các địa phương lập sổ ruộng và ban hành các
chính sách ruộng đất, nông nghiệp. Thời Lê Sơ, ruộng đất của nhà nước vẫn
chiếm một địa vị rất quan trọng với diện tích rộng lớn.
Có thể nói, sau khi thiết lập vương triều, triều đình Lê Sơ đã liên tục ban
hành chính sách quốc hữu hóa, nhà nước quản lý tất cả thổ sản, trong đó có
ruộng đất của một số đối tượng như của các thế gia triều trước, của các quan lại
cũ, của nhân dân tuyệt tự, của ngụy quan, lính trốn đều phải kê khai dâng nộp
cho nhà nước. Chỉ trong vòng 3 tháng, từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1428, nhà
nước đã hai lần ra lệnh kiểm kê tài sản để sung công. Sử chép, ngày 10 tháng 8
năm 1428: “Chỉ huy rằng các thứ đồng, sắt, dâu, gai, tơ, lụa, keo, sơn, nhựa
trám, sáp ong, dầu, diêm tiêu, mây, phàm là thổ sản nước ta sản xuất, ruộng đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
của quan ty ngạch cũ, của các thế gia triều trước, của nhân dân tuyệt tự, cùng là
ruộng đất của nguỵ quan, của lính trốn, các hạng vật theo mùa đều phải kê rõ đủ
số, hạn đến tháng 4 sang năm dâng nộp. Nếu ai ẩn lậu hoặc là lấy của công làm
của tư, thay đổi không làm có, có làm không, thì xử tội đồ lưu biếm bãi”.
[14, tr 64]
Ba tháng sau, vào tháng 11, ngày 25, triều đình lại ra lệnh kiểm kê tất cả
các loại ruộng đất trong nước, cùng các loại khoáng sản khác, “ngày 25 (tháng
11-1428) làm sổ điền sổ hộ. Chỉ huy cho các phủ huyện trấn lộ đến nơi khám xét
các chằm, bãi, ruộng, đất và các mỏ vàng bạc, cùng sản vật rừng núi trong bản
hạt và thuế ngạch cũ, cũng là các hạng ruộng đất của thế gia và nhân dân tuyệt
tự, của binh trốn đều sung làm của công, hạn đến năm Kỷ Dậu trung tuần tháng
2 trình lên. Hộ tịch năm Mậu Thân và điền bạ năm Kỷ Dậu, đến tháng 4 năm
Quý Sửu sẽ làm. Nguỵ quan thì theo từng hạng một mà khai ra”. [ 11, tr.31]

Trải qua các triều vua, nhà Lê nắm trong tay một khối lượng ruộng đất lớn cũng
như trực tiếp quản lý toàn bộ diện tích ruộng đất còn lại. Đương thời, ruộng đất
được chia làm hai bộ phận chính:
Thứ nhất, ruộng đất công gồm hai loại: thuộc sở hữu nhà nước và thuộc sở
hữu làng xã.
Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước: tất cả những ruộng đất tịch thu được của
chính quyền đô hộ và bọn ngụy quan, ruộng đất không chủ đều thuộc sở hữu nhà
nước. Với số lượng rất lớn, nhà nước sử dụng nó dưới các hình thức sau:
+ Loại do nhà nước trực tiếp quản lí và thu tô thuế: gồm ruộng quốc khố
thường phát canh cho nông dân hoặc giao cho những người bị tội đồ cày cấy.
+ Loại cấp cấp cho các công thần khai quốc và phần làm ruộng lộc cho quan
lại (chế độ lộc điền).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
+ Ruộng đất đồn điền của nhà nước phong kiến thời Lê sơ chiếm một diện
tích qaun trọng. Số đồn điền này một phần bao gồm một số ruộng đất công sẵn
có của nhà nước, nhưng chủ yếu là những người bị tù tội, nông dân lưu tán
nghèo đói được mộ.
Ruộng làng xã: Đây là bộ phận quan trọng nhất của nhà nước với tư cách là
nguồn tô thuế, sưu dịch, binh lính. Từ thời Lê Thái Tổ, nhà nước đã đặt quy chế
phân chia ruộng đất công của các làng nhưng mãi đến thời Lê Thánh Tông, một
chính sách "quân điền" thống nhất cho cả nước mới được ban hành và thực hiện.
Thứ hai, ruộng đất tư: Bộ phận ruộng đất này đã có một quá trình phát triển
lâu dài. Đến đầu thế kỷ XV, bộ phận ruộng đất tư hữu này đã trở thành một bộ
phận ruộng đất quan trọng và giai cấp địa chủ có ruộng đất tư hữu đã trở thành
một lực lượng xã hội mạnh mẽ.
Ruộng đất tư hữu thời Lê sơ gồm ba loại: Ruộng tư của quan lại cao cấp,
ruộng tư của địa chủ, ruộng của nông dân tư hữu. Sự gia tăng của hàng ngũ quan

lại cao cấp góp phần làm cho bộ phận ruộng đất tư hữu của địa chủ ngày càng
phát triển, trong lúc đó các điền trang ngày càng thu hẹp lại. Những chính sách
của nhà nước chứng tỏ bước phát triển và củng cố chế độ tư hữu ruộng đất của
thời Lê sơ.
Bằng sự nỗ lực của nhân dân, nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi. Nhà
nước ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích phục hóa, khai hoang, mở
rộng diện tích canh tác. Lập đồn điền là một chính sách khẩn hoang tương đối
quy mô của Nhà nước phong kiến. Lê Thánh Tông đã từng ban dụ cho các quan
phủ, huyện: "Về các việc dân sự tầm thường như là đại hạn mà không đảo, nước
lụt mà không khơi, việc lợi không làm, việc hại không trừ, có tai dị mà không cầu
đảo thì phải xử tội lưu".

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Nhà nước thời Lê sơ cũng chăm lo đến việc bảo vệ đê điều và các công trình
thủy lợi. Nhiều công trình thủy nông khác như đào mương, khơi kênh cũng được
tiến hành. Năm 1437, Thái Tông sai khơi lại các kênh và năm 1438, sai đào các
kênh ở Trường An, Thanh Hóa, Nghệ An. Năm 1467, nhà nước cho khai kênh ở
Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa.
Để tạo điều kiện cho nhân dân tập trung sức sản xuất nông nghiệp, nhà nước
quy định: "Hễ công việc gì có hại cho nghề nông thì không được kinh động sức
dân". Hàng năm vào mùa xuân, nhà vua thân ra cày mấy đường gọi là cày tịch
điền để mở đầu mùa cày cấy cho nhân dân. Pháp luật thời Lê sơ cũng trừng phạt
nặng đối với tội trộm cắp và giết trâu bò.
Chính sách "trọng nông" là chính sách truyền thống của các vương triều
phong kiến Việt Nam. Chính sách đó có tác dụng quan trọng tới việc phục hồi
phát triển kinh tế, thúc đẩy sức sản xuất xã hội, kích thích sự phát triển công
thương nghiệp, đời sống nhân dân được cải thiện. Nhân dân đời sau nhớ lại cuộc
sống thời này đã ca ngợi:

Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng muốn ăn.
Về thủ công nghiệp và thương nghiệp.
Kinh tế nông nghiệp phát triển, đời sống nhân dân ổn định đã tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển thủ công nghiệp. Các ngành thủ công truyền thống
như kéo tơ, dệt vải, lụa, làm đồ gốm, đúc đồng, rèn sắt, làm giấy, đan lát nhanh
chóng hồi phục và phát triển. Một số làng thủ công ra đời và hoạt động sôi nổi:
Bát Tràng, Thổ Hà, Hương Canh, Nghĩa Đô, Huê Cầu, Mao Điền Nhiều câu
ca dao đã nói lên những nghề thủ công truyền thống và lâu đời:
" Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm"
Thủ công nghiệp dân gian đã đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế thủ
công nghiệp. Sản phẩm thủ công nhằm giải quyết nhu cầu thiết yếu của người
nông dân. Ở các thị trấn, những thợ thủ công đã tổ chức lại thành những phường
chuyên môn. Thành Thăng Long thời Lê sơ có 36 phường, mỗi phường làm một
nghề nhất định: Phường Yên Thái làm giấy, Phường Nghi Tàm dệt vải, Phường
Hà Tân nung vôi
Ngoài các nghề thủ công của nhân dân, Nhà nước phong kiến còn có những
tổ chức sản xuất thủ công riêng gọi là các cục bách tác, cục bách công chuyên
việc đúc tiền, rèn đúc vũ khí, đóng thuyền chiến, may mũ áo cho vua quan, làm
đồ trang sức
Trên cơ sở kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển, việc lưu
thông buôn bán cũng hồi phục và ngày càng mở rộng. Ngay từ đời Lê Thái Tổ,
nhà nước đã quan tâm đến sự phát triển của giao lưu hàng hóa. Tháng 7 năm
1429, vua xuống chiếu: " Tiền là mạch máu của sinh dân. Nước ta vốn có mỏ
đồng, nhưng tiền đồng cũ đã bị nhà Hồ hủy bỏ, trăm phần chỉ còn được một.

Đến nay, việc quân, việc nước thường hay bị thiếu. Muốn cho tiền được lưu
thông sử dụng, để thuận lòng dân, há chẳng khó sao? Mới rồi có người dâng thư
trình bày, xin lấy tiền giấy thay cho tiền thực. Trẫm sớm khuya nghĩ
ngợi Truyền cho các đại thần trăm quan và những người hiểu về việc đời ở
trong, ở ngoài đều nghị bàn quy chế đồng tiền cho thuận lòng dân, để không vì
ưa thích riêng của một người mà bắt ép muôn nghìn người không muốn phải
theo, để làm phép hay của một đời. Nên bàn định sớm rồi tâu lên, trẫm sẽ tự
chọn lấy mà cho thi hành" [ 14, tr. 468, 483]

×