Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

thực trạng và giải pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro đối với hoạt động của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.1 KB, 108 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu
khoa học, độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn
là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
PHÙNG THỊ MAI LY
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
5. Th.S Hoàng Đình Thắng, Phó Chánh thanh tra, giám sát ngân
hàng (2011), “Bàn về thanh tra, giám sát toàn bộ theo Điều 51 Luật Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (5), 18-20 101
6. Th.S Hoàng Đình Thắng, Phó Chánh thanh tra, giám sát ngân
hàng (2011), “Phương pháp kết hợp thanh tra, giám sát tuân thủ với
thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng”, Tạp chí
ngân hàng, (6), 17-20 101
7. Học viện tài chính (2005), Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng
thương mại, Nxb Tài chính, Hà Nội 101
8. Học viện tài chính (2006), Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng Trung
ương, Nxb Tài chính, Hà Nội 101
9. Học viện tài chính (2006), Giáo trình Thanh tra tài chính, Nxb Tài
chính, Hà Nội 101
NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
TCTD Tổ chức tín dụng
NHTW Ngân hàng Trung ương


NHTM Ngân hàng thương mại
MIS Hệ thống thông tin quản lý
HĐQT Hội đồng quản trị
TTGS Thanh tra, giám sát
CTTC Cho thuê tài chính
QTD Quỹ tín dụng

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
5. Th.S Hoàng Đình Thắng, Phó Chánh thanh tra, giám sát ngân
hàng (2011), “Bàn về thanh tra, giám sát toàn bộ theo Điều 51 Luật Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (5), 18-20 101
6. Th.S Hoàng Đình Thắng, Phó Chánh thanh tra, giám sát ngân
hàng (2011), “Phương pháp kết hợp thanh tra, giám sát tuân thủ với
thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng”, Tạp chí
ngân hàng, (6), 17-20 101
7. Học viện tài chính (2005), Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng
thương mại, Nxb Tài chính, Hà Nội 101
8. Học viện tài chính (2006), Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng Trung
ương, Nxb Tài chính, Hà Nội 101
9. Học viện tài chính (2006), Giáo trình Thanh tra tài chính, Nxb Tài
chính, Hà Nội 101
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nâng cao năng lực thanh tra Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với
hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) là một trong những yêu cầu
cần thiết trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế thị trường hiện
nay để đảm bảo duy trì một hệ thống ngân hàng an toàn, lành mạnh. Trải
qua chặng đường dài phát triển, Nhà nước đã không ngừng đổi mới tư duy
và nhận thức về hoạt động thanh tra ngân hàng, hoàn thiện hơn trên các
phương diện về thể chế, tác nghiệp và công nghệ để thích nghi với môi

trường hoạt động của ngành ngân hàng đang trong xu thế toàn cầu hóa.
Những thành tựu đóng góp của Thanh tra NHNN vào sự nghiệp đổi mới và
phát triển an toàn ngành ngân hàng là không thể phủ nhận, song những
thách thức đặt ra đối với hệ thống thanh tra ngân hàng trước yêu cầu đổi
mới cũng là không nhỏ. Đổi mới căn bản, toàn diện hệ thống thanh tra ngân
hàng là lựa chọn đúng đắn vì sự phát triển an toàn lành mạnh của hệ thống
ngân hàng Việt Nam trên đường hội nhập quốc tế và tự do hóa tài chính.
Trong đó, việc đổi mới thanh tra hoạt động ngân hàng sẽ có ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả đảm bảo an toàn của hệ thống ngân hàng. Thực tế cho
thấy, một số vụ việc xảy ra gần đây gây ảnh hưởng rất lớn đến an toàn hệ
thống ngân hàng là do năng lực quản lý, kiểm soát rủi ro của các NHTM
còn yếu kém, đồng thời phản ánh hoạt động thanh tra đã phần nào không đi
sát với thực tế. Trong hai năm qua, phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro
đã được triển khai, tuy nhiên vẫn còn những bất cập nhất định. Vì vậy việc
lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp thanh tra trên cơ
sở rủi ro đối với hoạt động của ngân hàng thương mại” là rất cần thiết
và có ý nghĩa thời sự cấp bách.
1
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Trước yêu cầu chuyển đổi mạnh mẽ nền kinh tế theo định hướng thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, hoạt động Thanh tra Ngân hàng hướng
vào mục tiêu chính là bảo vệ an toàn hệ thống Ngân hàng và bảo vệ an toàn
cho người gửi tiền. Đó là mục tiêu hiện nay đồng thời là mục tiêu lâu dài của
hoạt động Thanh tra Ngân hàng, không chỉ ở nước ta mà ở tất cả các nước
theo nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, phấn đấu cho mục tiêu quan trọng đó,
phải có quá trình, phải có bước đi thích hợp với các bước phát triển của nền
kinh tế nước ta. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động hệ thống Thanh tra Ngân
hàng là rất cấp thiết đã được NHNN thực hiện từ năm 2008, theo đó cũng cần
phải đổi mới tư duy và phương pháp thanh tra. Thanh tra trên cơ sở rủi ro là
một phương pháp thanh tra mới, do đó thực tiễn hoạt động còn có những hạn

chế và gặp phải những khó khăn nhất định, đề tài này sẽ phần nào phản ánh
những thực tế đó để làm cơ sở đưa ra những giải pháp mang tính xây dựng để
nâng cao hiệu quả và hoàn thiện hơn nữa hoạt động Thanh tra ngân hàng.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên tác giả xin được tập trung vào vấn
đề thanh tra tổng thể trên cơ sở rủi ro của NHTM và các tổ chức tín dụng
(TCTD) khác có hoạt động ngân hàng mà không đi sâu phân tích chi tiết, cụ
thể thanh tra trên cơ sở rủi ro đối với từng loại rủi ro có nguy cơ gặp phải
trong hoạt động của TCTD.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Việc vận dụng các quy định theo thông lệ quốc tế về giám sát ngân hàng
hiệu quả vào hoạt động thanh tra, giám sát đối với các TCTD ở Việt Nam
hiện nay còn gặp phải những khó khăn do một số các điều kiện chưa đáp ứng
phù hợp với yêu cầu. Đề tài hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về rủi ro và
thanh tra trên cơ sở rủi ro. Từ nghiên cứu lý luận, đề tài đề cập, đánh giá thực
2
trạng rủi ro và thanh tra trên cơ sở rủi ro đối với hoạt động của NHTM; đồng
thời chỉ ra một số khó khăn, hạn chế gặp phải trong tiến trình áp dụng phương
pháp thanh tra này. Từ đó đưa ra một số giải pháp để hạn chế rủi ro và nâng
cao hiệu quả thanh tra trên cơ sở rủi ro đối với hoạt động của NHTM và làm cơ
sở cho việc ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn ở Việt Nam trong thời gian tới.
5. Kết cấu của luận văn:
Với đề tài trên, ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn chia làm 3
chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về rủi ro và thanh tra trên cơ
sở rủi ro
Chương II: Thực trạng rủi ro và thanh tra trên cơ sở rủi ro đối
với hoạt động của ngân hàng thương mại
Chương III: Một số giải pháp hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả
thanh tra trên cơ sở rủi ro đối với hoạt động của ngân

hàng thương mại
3
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO VÀ THANH TRA
TRÊN CƠ SỞ RỦI RO
1.1 RỦI RO VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN
1.1.1 Khái niệm rủi ro
Theo “Sổ tay thanh tra trên cơ sở rủi ro” do Cơ quan Thanh tra, giám sát
(TTGS) ngân hàng biên soạn năm 2009, “Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro là
khả năng mà các sự kiện, được dự đoán trước hay không được dự đoán trước,
có thể gây ra tác động bất lợi đối với vốn hay thu nhập của TCTD” [tr.13].
Kinh doanh ngân hàng là hoạt động kinh doanh mang tính nhạy cảm cao;
các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng mang tính tương đồng, dễ bắt chước và
gắn liền với yếu tố thời gian; những khách hàng của ngân hàng rất đa dạng,
phong phú; Do đó chấp nhận rủi ro và quản lý rủi ro là nguyên tắc cơ bản
trong kinh doanh ngân hàng.
Rủi ro tồn tại trong các hoạt động của TCTD, do đó nó không phải là lý
do chính gây ra sự lo lắng cho hoạt động của TCTD. Tuy nhiên, ở góc độ
Thanh tra viên cần đánh giá về rủi ro mà một TCTD đang gặp phải có được
đảm bảo hay không. Rủi ro được đảm bảo khi hiểu rõ về chúng, định lượng
được, kiểm soát được, và nằm trong khả năng sẵn sàng chịu đựng những tác
động bất lợi của TCTD. Nếu rủi ro không được đảm bảo, Ban điều hành và
Hội đồng quản trị (HĐQT) phải thực hiện các bước để giảm nhẹ hay loại trừ
những rủi ro này. Các hành động thích hợp mà một TCTD có thể thực hiện là
giảm trạng thái rủi ro, tăng vốn, hay củng cố quy trình quản lý rủi ro.
Bảy loại rủi ro được nêu lên sau đây, kể cả các tiểu rủi ro trong một số
loại rủi ro (như rủi ro lãi suất, rủi ro giá cả, và rủi ro ngoại hối là các loại rủi
ro thuộc rủi ro thị trường) phản ánh thuật ngữ thông dụng trong ngành ngân
4
hàng. Thanh tra viên ngân hàng cần phải nhận thức được rủi ro và có cách

thức ứng phó với từng loại rủi ro.
1.1.2 Các loại rủi ro trong hoạt động của NHTM
Bất cứ hoạt động kinh doanh nào trong nền kinh tế thị trường đều gặp rủi
ro. Đặc biệt hoạt động kinh doanh ngân hàng lại là một lĩnh vực kinh doanh
nhạy cảm càng không tránh được những rủi ro. Hơn thế, rủi ro luôn luôn tiềm
ẩn gây ra những tổn thất ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh
doanh ngân hàng. Trong cuốn “Sổ tay thanh tra trên cơ sở rủi ro” phiên bản 1
của Cơ quan TTGS ngân hàng phát hành tháng 11/2009 đã chỉ ra bảy loại rủi
ro cơ bản chi phối hoạt động của TCTD bao gồm:
* Rủi ro Tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro tiềm ẩn đối với thu nhập hoặc vốn phát sinh khi
người vay hoặc đối tác không thực hiện đúng điều khoản của hợp đồng hoặc
không thực hiện đầy đủ như thỏa thuận tại điều khoản của hợp đồng.
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro dễ nhận thấy nhất liên quan đến hoạt động
kinh doanh của TCTD. Định nghĩa truyền thống vốn cho rằng rủi ro tín dụng
chỉ liên quan đến các hoạt động cho vay. Tuy nhiên, định nghĩa nêu trên hàm
chứa nhiều khía cạnh hơn thế, trong đó chỉ ra rằng: rủi ro tín dụng cũng phát
sinh trong nhiều loại hoạt động ngân hàng, kể cả việc lựa chọn các sản phẩm
cho danh mục đầu tư, các TCTD đại lý, các đối tác kinh doanh sản phẩm phái
sinh hay các đối tác ngoại hối. Rủi ro tín dụng cũng có thể phát sinh từ rủi ro
quốc gia, cũng như phát sinh một cách gián tiếp thông qua hoạt động bảo
lãnh. Thuật ngữ rủi ro đối tác, rủi ro quốc gia, rủi ro chính phủ và rủi ro
chuyển tiền đôi khi được tách riêng thành các loại rủi ro độc lập do chúng có
nhiều biểu hiện khác nhau về rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng tồn tại trên cả nội bảng và ngoại bảng cân đối của TCTD.
Rõ ràng rủi ro tín dụng phát sinh từ các món cho vay nhưng còn có các nguồn
5
khác gây ra rủi ro tín dụng như: Tài trợ và chấp thuận thương mại; Giao dịch
liên ngân hàng; Cam kết và bảo lãnh; Các phái sinh lãi suất, ngoại hối, tín
dụng (kể cả hợp đồng hoán đổi, quyền chọn, các hợp đồng kỳ hạn lãi suất, và

các hợp đồng tài chính tương lai); Nắm giữ trái phiếu và cổ phiếu; và Thực
hiện giao dịch.
Các loại giao dịch được liệt kê trên đây có thể chứa đựng các rủi ro khác
nhưng rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh nổi bật nhất trong từng loại giao dịch
xuất phát từ việc không thực hiện như kế hoạch và thoả thuận.
Từng loại tiểu rủi ro tín dụng nằm trong khái niệm rủi ro tín dụng của
NHNN cần phải được áp dụng trong chiến lược kinh doanh, chính sách, thủ
tục, hạn mức, hệ thống thông tin quản lý (MIS) và trong báo cáo, hệ thống
xếp hạng rủi ro nội bộ và hệ thống kiểm soát nội bộ của TCTD.
Rủi ro tín dụng là rủi ro chính của TCTD, vì vậy trưởng bộ phận tín
dụng cần phải xem xét cẩn thận tất cả những rủi ro liên quan đến các yếu tố
trong cùng nhóm và mối quan hệ với các yếu tố đó có ảnh hưởng như thế nào
đến khả năng trả nợ và năng lực tài chính. Trong các trường hợp mà sự hỗ trợ
không rõ ràng thì cần phải được phân tích và ghi chép một cách thích hợp vào
hồ sơ tín dụng.
* Rủi ro thị trường
Rủi ro thị trường là rủi ro tiềm ẩn xảy ra tại một TCTD khi có những
biến động về lãi suất, tỷ giá hay giá cả thị trường theo chiều hướng xấu gây
ảnh hưởng bất lợi đến thu nhập hoặc vốn của TCTD.
Do vậy, những rủi ro thuộc phạm vi thanh tra, giám sát rủi ro thị trường bao
gồm: rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, và rủi ro giá cả. Ba loại này nằm trong khái
niệm rộng về rủi ro thị trường cũng như phù hợp với cách thức đo lường rủi ro
này trong nội bộ TCTD. Rủi ro thị trường xảy ra khi có sự thay đổi của các điều
kiện thị trường hay những biến động của thị trường.
6
* Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là rủi ro tiềm ẩn có tác động xấu tới thu nhập hoặc
vốn phát sinh khi: TCTD không có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ khi đến
hạn, hoặc TCTD có khả năng đáp ứng nghĩa vụ khi đến hạn nhưng phải chịu
tổn thất lớn để thực hiện nghĩa vụ đó.

Thanh khoản ngân hàng là khả năng đáp ứng việc giảm tài sản nợ và
tăng tài sản có. Một TCTD đảm bảo được tính thanh khoản khi TCTD đó có
đủ quỹ, hoặc bằng cách tăng tài sản nợ hoặc bằng cách chuyển đổi tài sản có
một cách nhanh chóng với mức chi phí hợp lý. Tính thanh khoản đặc biệt
quan trọng đối với tất cả các TCTD để bù đắp cho những biến động dự tính và
những biến động không biết trước của bảng cân đối tài chính và cung cấp
nguồn vốn để phát triển hoạt động.
Vì nhu cầu về thanh khoản được đáp ứng bằng cách nắm giữ các tài sản có
ngắn hạn chất lượng cao, nếu nhu cầu về thanh khoản không được đáp ứng nhờ
nắm giữ các tài sản có tính lỏng cao thì TCTD buộc phải tiến hành tái cơ cấu
hoặc huy động thêm tài sản nợ trong những điều kiện bất lợi của thị trường.
Vấn đề về thanh khoản cũng có thể phát sinh do thị trường đổ vỡ hoặc
nguồn thanh khoản bị thu hẹp và do đó TCTD chỉ có thể có khả năng chuyển
đổi các hạng mục tài sản sang thanh khoản với chi phí lớn. TCTD phải quản lý
thanh khoản hàng ngày. Các luồng tiền mặt của tài sản có phải vừa đủ hoặc lớn
hơn nhu cầu tiền mặt của tài sản nợ trong từng thời kỳ.
* Rủi ro hoạt động
Rủi ro hoạt động là nguy cơ tổn thất phát sinh do các quy trình nội bộ
không đầy đủ hoặc bị lỗi, do con người, do các hệ thống hoặc do các sự kiện
bên ngoài.
Rủi ro hoạt động tồn tại trong hầu hết các bộ phận của các TCTD có thực
hiện nghiệp vụ giao dịch kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc các hoạt động
7
chấp nhận rủi ro. Vì rủi ro hoạt động tồn tại tiềm tàng trong các hoạt động của
một TCTD cũng như các đơn vị hoạt động, trong hệ thống máy tính của TCTD
và trong hầu hết các giao dịch, cam kết hoặc quyết định mà các nhân viên
TCTD thực hiện, thanh tra viên phải tập trung vào những lĩnh vực quan trọng
nhất của rủi ro hoạt động cũng như các biện pháp của TCTD nhằm quản lý và
giảm thiểu rủi ro hoạt động.
Rủi ro hoạt động bao gồm: gian lận của nhân viên, các vụ trộm, lỗi hệ

thống, mất điện, lũ lụt, hoặc các lý do khác dẫn đến các sai sót ở một TCTD
mà không thể phân loại vào các rủi ro khác. Rủi ro hoạt động được thể hiện
qua một số ví dụ sau đây:
- Do con người: trong khoảng đầu năm 2007, một giao dịch viên tại chi
nhánh của TCTD ở miền Trung (Việt Nam) đã nhận tiền gửi từ các khách
hàng và phát hành biên lai cho mỗi khách hàng theo các quy trình của TCTD.
Tuy nhiên, giao dịch viên này không nộp tiền vào TCTD mà sử dụng vào việc
riêng. Nhân viên gian lận là một loại rủi ro hoạt động.
- Do các sự kiện bên ngoài: một cơn bão lớn đã gây hư hại về vật chất
cho văn phòng của TCTD hoặc gây mất điện trong vài ngày. TCTD gặp khó
khăn trong việc phục vụ khách hàng khi không có cơ sở vật chất thích hợp và
không có điện để hoạt động hệ thống máy tính và ghi dữ liệu. Chi phí cho
việc sửa chữa văn phòng bị hư hỏng, thay thế các dữ liệu bị mất hoặc chi phí
cơ hội khi không hoạt động kinh doanh trong thời gian sửa chữa đều là rủi ro
hoạt động.
- Quy trình nội bộ bị lỗi: Các TCTD phải lưu trữ hồ sơ cho mỗi một
khoản tín dụng. Nếu các nhân viên quên không thu thập hồ sơ và chữ ký cho
mỗi khoản tín dụng trước khi giải ngân thì trong tương lai việc thu nợ tín
dụng sẽ rất khó khăn. Hồ sơ tín dụng là căn cứ pháp lý cho khoản tín dụng.
Quy trình tín dụng phải bao gồm việc xem xét hồ sơ. Các lỗi trong hồ sơ tín
8
dụng là rủi ro hoạt động. Các lỗi này có thể sắp xếp từ ít quan trọng đến rất
quan trọng. Các lỗi lớn trong hồ sơ (rủi ro hoạt động) cũng có thể dẫn đến khó
khăn trong việc thu hồi nợ gốc hoặc lãi (rủi ro tín dụng).
* Rủi ro danh tiếng
Rủi ro danh tiếng là rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến thu nhập và vốn phát
sinh từ quan điểm tiêu cực của công chúng về hình ảnh, thương hiệu hoặc sản
phẩm của TCTD.
Điều này ảnh hưởng đến khả năng của TCTD trong việc phát triển khách
hàng mới hoặc dịch vụ mới hoặc tiếp tục phục vụ các khách hàng sẵn có. Rủi

ro này có thể đặt TCTD vào thế bị kiện tụng, tranh chấp, tổn thất về tài chính
hoặc bị hủy hoại danh tiếng.
Rủi ro danh tiếng xuất hiện trong toàn bộ tổ chức và cần phải hết sức
thận trọng trong việc quan hệ với khách hàng và cộng đồng. Rủi ro danh tiếng
tiềm ẩn ngay trong các hoạt động của tất cả các TCTD và nó vẫn tồn tại cho
dù quan điểm của công chúng có đúng hay không đúng.
Các TCTD nào tích cực gắn kết tên tuổi của mình với các sản phẩm và
dịch vụ hữu hình thì thường có rủi ro danh tiếng lớn hơn. Khi TCTD dễ bị rủi
ro danh tiếng, thì khả năng đưa ra các sản phẩm và dịch vụ cạnh tranh của
TCTD cũng bị ảnh hưởng.
Ví dụ tại Quỹ tín dụng (QTD) nhân dân Liên Nghĩa – Đức Trọng – Lâm
Đồng: khi cán bộ Kế toán trưởng nghỉ việc tại QTD để chuyển sang nơi khác
làm việc, cán bộ này đã gọi điện thoại cho một số khách hàng của QTD thông
báo quỹ sắp đổ bể, Hội đồng quản trị (HĐQT) đã mang tiền bỏ trốn. Danh
tiếng của QTD bị ảnh hưởng, ngay lập tức khách hàng kéo đến rất đông để rút
tiền. Cả chi phí và thu nhập của QTD đều bị tổn thất, nếu lúc này nguồn tiền
dự trữ của QTD không đáp ứng kịp nhu cầu thanh toán thì có thể gây ra rủi ro
thanh khoản, nguy hiểm hơn là dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền của hàng loạt
QTD trên toàn địa bàn.
9
* Rủi ro chiến lược
Rủi ro chiến lược là rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến thu nhập và vốn phát
sinh từ chiến lược, việc thực hiện chiến lược không đúng hoặc không có khả
năng thích nghi với những thay đổi trong môi trường kinh doanh.
Rủi ro này là đề cập đến sự phù hợp giữa các mục tiêu chiến lược của tổ
chức, chiến lược kinh doanh được triển khai để thực hiện các mục tiêu này,
các nguồn lực phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu và chất lượng thực hiện.
Các nguồn lực cần thiết để tiến hành chiến lược kinh doanh bao gồm cả
nguồn lực hữu hình và nguồn lực vô hình. Nó bao gồm các kênh thông tin, hệ
thống hoạt động, mạng lưới phân phối, khả năng và năng lực quản lý.

Rủi ro chiến lược không chỉ tập trung vào việc phân tích một văn bản về
kế hoạch chiến lược. Nó còn tập trung vào cách thức mà những kế hoạch, hệ
thống và việc thực hiện ảnh hưởng đến giá trị kinh doanh của TCTD như thế
nào. Nó cũng xem xét cách thức ban lãnh đạo phân tích các yếu tố bên ngoài
có ảnh hưởng đến định hướng chiến lược của công ty.
* Rủi ro tuân thủ
Rủi ro tuân thủ là rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến thu nhập và vốn phát
sinh do việc không tuân thủ pháp luật, quy định, quy chế, thông lệ tốt, chính
sách và quy trình nội bộ hoặc các chuẩn mực đạo đức khác.
Rủi ro này cũng phát sinh khi mà các luật lệ và quy định về quản lý các
sản phẩm cụ thể của TCTD hoặc các hoạt động của khách hàng không thể
hiện rõ ràng, còn mập mờ và không được kiểm chứng.
Rủi ro tuân thủ dẫn đến TCTD phải chịu phạt, phải bồi thường thiệt hại
và hủy hợp đồng. Rủi ro tuân thủ có thể dẫn đến suy giảm về danh tiếng, giảm
giá trị kinh doanh, hạn chế các cơ hội kinh doanh, giảm khả năng mở rộng
hoạt động và không có khả năng thực hiện hợp đồng.
10
1.1.3 Ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động của NHTM
Trong quá trình hoạt động các TCTD đã chấp nhận sự có mặt của rủi ro,
việc đánh giá mức độ ảnh hưởng của rủi ro phụ thuộc vào khả năng quản lý rủi
ro của TCTD. Nếu một TCTD xác định được mức độ rủi ro và quản lý được rủi
ro đó, nếu có xảy ra biến cố dẫn đến rủi ro mà hệ quả của rủi ro gây ra vẫn nằm
trong giới hạn kiểm soát của các TCTD thì TCTD vẫn được coi như là không
bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, do kinh doanh ngân hàng là kinh doanh trong lĩnh
vực đặc biệt, nên khi rủi ro xảy ra không chỉ ảnh hưởng đến bản thân tổ chức
mà còn gây tác động xấu đến nền kinh tế - xã hội.
Rủi ro xảy ra làm cho tổ chức bị tổn thất về mặt tài chính: bất kỳ loại rủi
ro nào xảy ra cũng gây những tổn thất về mặt tài chính cho tổ chức do làm
tăng chi phí hoạt động hoặc làm giảm thu nhập. Nếu thu không đủ chi tổ chức
sẽ bị thua lỗ, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến phá sản. Rủi ro và tổn thất tài

chính là điều khó tránh khỏi trong việc tìm kiếm lợi nhuận, hoạt động nào có
lợi nhuận càng cao thì khả năng xảy ra rủi ro càng lớn. Do đó, tổ chức cần cân
nhắc lựa chọn phương án kinh doanh nhằm cân bằng hợp lý giữa lợi nhuận
với rủi ro và tổn thất.
Rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng: thiệt hại về uy tín
và mất lòng tin từ công chúng là những tổn thất lớn hơn rất nhiều so với tổn
thất về tài chính, vì không có hoạt động kinh doanh nào lại không cần đến
khách hàng. Các thua lỗ trong hoạt động của ngân hàng luôn có ảnh hưởng
bất lợi đến niềm tin của quần chúng. Khi dân chúng thiếu tin tưởng vào khả
năng kinh doanh của ngân hàng hoặc nghi ngờ ngân hàng mất khả năng thanh
toán, họ sẽ đồng loạt rút tiền gửi ra khỏi ngân hàng dẫn đến sự đổ bể về tài
chính hoặc phá sản.
Rủi ro trơng kinh doanh ngân hàng còn gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh
tế - xã hội: tình hình tài chính xấu của một ngân hàng tạo ra sự nghi ngờ về sự
11
ổn định và khả năng thanh toán của cả hệ thống ngân hàng, gây tác động xấu
đến tình hình tài chính của các ngân hàng khác, kéo theo phản ứng dây
chuyền và phá vỡ tính ổn định của thị trường tài chính.
1.2 QUẢN LÝ RỦI RO CỦA TCTD
Quản lý rủi ro là một yêu cầu tất yếu đặt ra trong quá trình tồn tại và phát
triển của NHTM. Đồng thời năng lực quản lý rủi ro của các TCTD có vai trò
rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả thanh tra . Do đó, trước khi tìm
hiểu Thanh tra trên sơ sở rủi ro, cần xem xét vấn đề quản lý rủi ro của TCTD.
1.2.1 Các yếu tố quản lý rủi ro
Mục đích chính của hoạt động quản lý rủi ro là xác định, đo lường và
kiểm soát rủi ro ở mức có thể chấp nhận được. Hoạt động quản lý rủi ro hiệu
quả có thể cho phép ngân hàng đạt được tương quan hợp lý giữa rủi ro mà
ngân hàng mong muốn (ở mức chi phí tương xứng) với rủi ro mà ngân hàng
muốn giảm thiểu. Khi rủi ro được kiểm soát hợp lý thì ngân hàng sẽ có điều
kiện tối đa hóa lợi ích thu được từ những rủi ro đó thông qua nhiều cách: chấp

nhận, giảm nhẹ, loại bỏ hay chuyển đổi rủi ro.
Hoạt động quản lý rủi ro có thể được xem như một chu kỳ bao gồm bốn
giai đoạn sau: nhận dạng rủi ro (xác định rủi ro); đo lường và đánh giá rủi ro
(định lượng rủi ro); giám sát và báo cáo rủi ro (quản lý rủi ro); kiểm soát và
giảm thiểu rủi ro (kiểm soát rủi ro).
* Nhận dạng rủi ro
Nhận dạng rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng có nghĩa là nhận biết và phân
loại rủi ro, bản chất và đặc điểm của các hoạt động theo mức độ không chắc
chắn có trong mỗi hoạt động. Trước khi tiến hành quản lý rủi ro, rủi ro cần
phải được nhận dạng. Nhiệm vụ này do HĐQT, Ban điều hành, Kiểm toán nội
bộ và Kiểm toán độc lập thực hiện và trong một TCTD lớn nhiệm vụ này
được thực hiện bởi bộ phận quản lý rủi ro.
12
* Đo lường và đánh giá rủi ro
Đo lường rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng có nghĩa là xác định, đánh giá
và lượng hóa các rủi ro đã được nhận dạng. Các phương pháp đo lường rủi ro
bao gồm đo lường giá trị danh nghĩa; tính theo phần trăm của toàn bộ vốn, tài
sản có, tiền gửi, vv… theo độ biến động; khả năng tổn thất, hoặc kết hợp các
yếu tố này.
Đo lường và đánh giá rủi ro cho phép HĐQT thiết lập các chính sách đối
với các hoạt động có rủi ro của TCTD, từ đó ban hành các quy trình quản lý
rủi ro thống nhất trong toàn hệ thống TCTD.
* Giám sát và báo cáo rủi ro
Các rủi ro phải được đo lường, đánh giá và giám sát định kỳ để hiểu một
cách thấu đáo về cách nhận biết rủi ro đang được sử dụng, để có được dự
đoán tốt hơn về số tiền và hậu quả của các hoạt động, các trạng thái rủi ro
trong tương lai. Đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát và báo cáo rủi ro
là MIS. MIS bao gồm tất cả các báo cáo được lập và được TCTD sử dụng.
Nhiệm vụ giám sát yêu cầu HĐQT và Ban điều hành phải xem xét MIS ở cấp
tổng quát nhất để xác định xem các chính sách và chiến lược có được tuân thủ

hay không.
* Kiểm soát và giảm thiểu rủi ro
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng được kiểm soát dựa trên việc sử dụng
một cách thận trọng 3 yếu tố đầu tiên (nhận dạng rủi ro; đo lường và đánh giá
rủi ro; giám sát và báo cáo rủi ro). HĐQT và Ban điều hành tiến hành từng
bước để giảm thiểu các ảnh hưởng bất lợi có thể có của các loại rủi ro mà
TCTD gặp phải. Việc này được tiến hành thông qua quan điểm chỉ đạo và
xem xét định kỳ các chiến lược, chính sách, các giới hạn, các quy trình, thủ
tục đã được thiết lập đầy đủ tại các cấp trong hệ thống tổ chức; sử dụng các
chuyên gia khi cần thiết; Giám sát thường xuyên MIS; và thực hiện một hệ
13
thống kiểm soát nội bộ toàn diện. Hệ thống kiểm soát nội bộ được Ban điều
hành thiết lập thông qua các quy trình hoạt động để đảm bảo các giao dịch
được hạch toán đầy đủ, đảm bảo các giao dịch có rủi ro được xem xét thích
hợp và đảm bảo các chính sách và chiến lược do HĐQT thiết lập được thực
hiện nghiêm túc. Bộ phận kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập để kiểm
tra hiệu lực của các chính sách, quy trình, hệ thống kế toán, MIS và kiểm soát
nội bộ của TCTD.
1.2.2 Quy trình quản lý rủi ro
Quản lý rủi ro luôn là nhiệm vụ rất quan trọng trong quản trị ngân hàng
ở các nước trên thế giới nhằm mục tiêu dự đoán, kiểm soát được các rủi ro có
thể xảy ra. Những lý luận về quản lý rủi ro và quy trình quản lý rủi ro đối với
TCTD Việt Nam được xây dựng dựa trên quá trình nghiên cứu các thông lệ
quốc tế và điều kiện thực tế Việt Nam. Các thông lệ quốc tế chủ yếu bao gồm:
bộ các nguyên tắc cơ bản trong giám sát ngân hàng hiệu quả của Ủy ban giám
sát ngân hàng Basel (25 nguyên tắc của Ủy ban Basel) được ban hành tháng
10/2006, đây là những nguyên tắc cơ bản tổng kết những thông lệ tốt nhất
trên thế giới về giám sát trên cơ sở rủi ro; bộ phương pháp luận các nguyên
tắc cơ bản cho giám sát hiệu quả của Ủy ban Basel (phương pháp nguyên tắc
cơ bản) và các tài liệu khác có liên quan.

Nguyên tắc số 7-Quy trình quản lý rủi ro đã ghi rõ: “Các giám sát viên
phải đảm bảo rằng TCTD và tập đoàn ngân hàng có quy trình quản lý rủi ro
toàn diện phù hợp (bao gồm cả giám sát của HĐQT và Ban điều hành) để
nhận diện, đánh giá và giám sát, kiểm soát/giảm thiểu rủi ro và đánh giá mức
độ đầy đủ vốn của TCTD so với tình hình rủi ro của họ. Quy trình này phải
phù hợp với quy mô và mức độ phức tạp trong hoạt động của TCTD”. (trích:
Nguyên tắc số 7, 25 nguyên tắc cơ bản của Basel).
14
Để quản lý được các loại rủi ro, các TCTD phải có một hệ thống quản trị
rủi ro hiệu quả. Một hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả phải có khả năng nhận
dạng, đo lường, giám sát/thông tin và kiểm soát/giảm thiểu rủi ro thông qua
bốn quy trình sau:
(1) Sự giám sát tích cực của HĐQT và Ban điều hành;
(2) Đầy đủ các chính sách, quy trình, thông lệ và các hạn mức;
(3) Hệ thống thông tin quản lý (MIS) hiệu quả;
(4) Kiểm soát nội bộ và hoạt động toàn diện của kiểm toán nội bộ.
Thanh tra viên NHNN cần phải đòi hỏi mọi TCTD có quy trình quản lý
rủi ro phù hợp với quy mô và mức độ phức tạp trong từng hoạt động chịu rủi
ro của TCTD.
1.3 THANH TRA TRÊN CƠ SỞ RỦI RO
Khi chuyển sang giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Ngân hàng,
hệ thống các TCTD có bước phát triển rất nhanh về qui mô và phạm vi hoạt
động, đồng thời tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thị trường tài chính phi ngân hàng
(chứng khoán và bảo hiểm) có sức hấp dẫn cao, các TCTD có xu hướng thâm
nhập sâu rộng hơn vào hoạt động này, vì vậy, rủi ro đối với các TCTD trở nên
đa dạng hơn. Sự phát triển mạnh mẽ của các dịch vụ ngân hàng đồng hành
cùng với các loại tội phạm mới xuất hiện trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro về
tác nghiệp và công nghệ trong điều kiện hệ thống quản trị, điều hành kinh
doanh của các TCTD còn những yếu kém đang là nỗi lo lớn của các nhà quản
lý ngân hàng. Mặc dù các TCTD Việt Nam đang từng bước áp dụng có hiệu

quả các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về an toàn trong hoạt động ngân hàng
của Hiệp ước vốn Basle I trong công tác quản trị rủi ro ngân hàng, nhưng bốn
loại rủi ro trọng yếu là rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường và
rủi ro hoạt động, trong đó đặc biệt rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường vẫn
đang tác động mạnh đến sự bất ổn trong hoạt động của các TCTD.
15
Sự phát triển mạnh mẽ của các TCTD cả về chiều rộng và bề sâu đòi hỏi
hoạt động quản lý nhà nước của NHNN cũng phải được đổi mới, theo đó,
thanh tra trên cơ sở rủi ro đối với TCTD là bước đi tất yếu của NHNN.
1.3.1 Quan niệm về thanh tra trên cơ sở rủi ro
Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 ghi: “Thanh tra là một chức năng thiết
yếu của cơ quan quản lý nhà nước, là phương thức đảm bảo pháp chế, tăng
cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ
nghĩa”. Theo đó, trong hoạt động của NHNN Việt Nam đã thực hiện thanh tra
việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng trong trách
nhiệm quản lý nhà nước của NHNN (viết gọn là thanh tra tuân thủ) theo quy
định của Pháp lệnh Thanh tra sau này là Luật Thanh tra.
Vào những năm thập kỷ 90 của thế kỷ XX, khái niệm về thanh tra trên
cơ sở rủi ro xuất hiện như một thông lệ tốt nhất trên thế giới đối với các cơ
quan thanh tra, giám sát tài chính. Kể từ khi xuất hiện, sự biến đổi đa dạng về
kỹ thuật thanh tra, giám sát đã được các cơ quan thanh tra, giám sát xây dựng.
Tâm điểm của những kỹ thuật này là ngôn ngữ chung về rủi ro; tiếp xúc
thường xuyên với HĐQT và Ban điều hành của tổ chức được giám sát; giám
sát liên tục hoạt động tài chính và các chỉ số an toàn. Phương pháp giám sát
linh hoạt có thể cho phép đánh giá cụ thể và kịp thời những bộ phận chức
năng được xem là có nhiều rủi ro nhất.
Thanh tra trên cơ sở rủi ro là việc đánh giá TCTD trên các mặt: mức độ
và xu hướng của rủi ro; hiệu quả của quy trình quản lý rủi ro; và khả năng tài
chính (vốn) của TCTD để chống đỡ (đối mặt) với các rủi ro có thể xảy ra.
Thanh tra trên cơ sở rủi ro là hoạt động thanh tra mang tính hệ thống, tập

trung vào việc kiểm tra, đánh giá năng lực quản lý rủi ro của TCTD.
1.3.2 Vai trò của thanh tra trên cơ sở rủi ro
Khi được áp dụng đầy đủ quy trình thanh tra trên cơ sơ rủi ro sẽ làm
giảm gánh nặng cho thanh tra viên và TCTD. Trọng tâm được đặt vào những
16
lĩnh vực rủi ro cao và những bộ phận chức năng có quy trình quản lý rủi ro
không tốt. Các thanh tra, giám sát viên thiết lập, duy trì mối liên hệ thường
xuyên với nhân viên TCTD và được thông báo khi có dấu hiệu xuất hiện
những rủi ro chứ không phải là sau khi những rủi ro này đã xảy ra. HĐQT và
Ban điều hành TCTD có trách nhiệm thiết lập và duy trì hệ thống giám sát,
chính sách và thủ tục, báo cáo và kiểm soát hiệu quả. Các quy trình dựa trên
cơ sở rủi ro cho phép các thanh tra, giám sát viên linh hoạt trong việc dựa vào
kết quả công việc của các cơ quan thẩm quyền khác trong quá trình hoàn thiện
việc đánh giá của mình.
Việc đánh giá vai trò của thanh tra trên cơ sở rủi ro còn phụ thuộc vào
năng lực quản lý rủi ro của các TCTD.
1.3.3 Quy trình và phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro
Trong cuốn “Sổ tay thanh tra trên cơ sở rủi ro” phiên bản 1 của Cơ quan
TTGS ngân hàng phát hành tháng 11/2009 nêu rõ các bước trong quy trình
thanh tra trên cơ sở rủi ro sẽ được trình bày sau đây. Có thể thấy, quy trình
thanh tra trên cơ sở rủi ro là một quy trình kín, kết quả của những bước đầu là
cơ sở để thực hiện bước tiếp theo và kết quả của bước cuối cùng sẽ là cơ sở
cho bước đầu tiên.
Bảng sơ đồ dưới đây mô tả thanh tra trên cơ sở rủi ro là một quy trình
liên tục gồm 6 bước:
17
Bước 1: Hiểu biết về TCTD và đánh giá rủi ro của TCTD
Vì hoạt động thanh tra trên cơ sở rủi ro nhằm mục đích kiểm soát rủi ro
liên tục, việc hiểu biết về mỗi TCTD là điểm bắt đầu tốt nhất, do đó nên có quy
trình phù hợp để phát triển và duy trì việc hiểu biết toàn diện về tình hình rủi ro

của mỗi TCTD. Theo đó, hiểu biết về TCTD để lập bản Tình hình và chiến
lược của TCTD và xây dựng ma trận rủi ro là những nội dung chính.
+ Lập bản Tình hình và chiến lược của TCTD:
Bước này là xuất phát từ Nguyên tắc Cơ bản 19 của Uỷ ban Basel. Người
được giao nhiệm vụ lập bản Tình hình và chiến lược của TCTD phải hiểu và
tóm lược các thông tin về quy mô, sở hữu, lãnh đạo, hoạt động kinh doanh và
địa điểm kinh doanh, kết quả thanh tra trước đây và tình hình hiện tại.
Ngoài ra, người lập phải đánh giá các lĩnh vực có rủi ro lớn nhất của
TCTD và đề xuất chiến lược thanh tra để tóm lược các vấn đề và lĩnh vực cần
phải được thanh tra tại chỗ. Bằng cách tập trung vào các lĩnh vực có rủi ro
lớn, thanh tra viên có thể giám sát mỗi TCTD cũng như toàn hệ thống TCTD
một cách hiệu quả hơn (theo Tiêu chí cơ bản 2 và 3, Nguyên tắc 19, Phương
pháp nguyên tắc cơ bản).
Tình hình và Chiến lược của TCTD là một tài liệu được lập để tóm lược
những thông tin quan trọng nhất về mỗi TCTD. Tài liệu này bao gồm các
phần sau:
 Thông tin chung và cơ cấu của TCTD;
 Kết quả của cuộc thanh tra trước;
 Tóm tắt tình hình hiện tại;
 Các rủi ro chính;
 Đề xuất chiến lược thanh tra.
Thông thường thì bản Tình hình và chiến lược của TCTD do bộ phận
phân tích lập (việc hoàn thiện bản Tình hình và chiến lược của TCTD có thể
18
mất vài ngày hoặc một tuần, phụ thuộc vào quy mô và mức độ phức tạp của
TCTD và mức độ sẵn có của thông tin). Nhằm thu thập các thông tin cần thiết
để hoàn thiện nhiệm vụ này, người lập bản Tình hình và Chiến lược của
TCTD cần xem xét:
+ Thông tin chung và cơ cấu của TCTD: căn cứ vào các dữ liệu thông
qua việc giám sát từ xa, người lập cũng phải xác định xem có thay đổi gì về

sở hữu và cơ cấu đang hoặc được dự kiến là sẽ xảy ra không. Đang xảy ra có
nghĩa là TCTD đã xin phép được thực hiện các hoạt động mới, mở chi nhánh
mới, hoặc thay đổi về sở hữu. Dự kiến xảy ra là lãnh đạo NHNN biết sẽ có
những thay đổi này qua tiếp xúc với TCTD. Người lập phải sử dụng thông tin
thu thập được để hoàn thành mục “Thông tin và Cơ cấu cơ bản” của bản Tình
hình TCTD và chiến lược thanh tra.
+ Kết quả của cuộc thanh tra trước: căn cứ báo cáo thanh tra trước gần
nhất. Nếu không có báo cáo thanh tra tại chỗ hợp nhất được lập trong 2 năm
trước thì người lập phải tập trung vào báo cáo thanh tra của từ 3 đến 5 chi
nhánh lớn nhất. Qua việc xem xét các báo cáo này, người lập có thể xác định
được các nội dung chính và xu hướng nêu trong cuộc thanh tra trước. Kết luận
của cuộc thanh tra trước, số lượng và bản chất của các trường hợp ngoại lệ và
vi phạm pháp luật, phản hồi của Ban điều hành, các biện pháp chỉnh sửa của
NHNN, tất cả những nội dung này cần được tóm lược trong mục “Kết quả của
cuộc thanh tra trước”.
+ Tóm tắt tình hình hiện tại: căn cứ các báo cáo sau:
- Báo cáo kiểm toán cuối năm trước: Lấy từ hồ sơ của NHNN một bản
copy báo cáo của kiểm toán độc lập về TCTD năm gần nhất. Tóm lược các
phát hiện và kết luận trong mục “Tóm tắt tình hình hiện tại”. Phần này chỉ nêu
các phát hiện và kết luận ở mức cao nhất của báo cáo kiểm toán. Nếu có nhận
xét về những khiếm khuyết của hệ thống quản lý rủi ro của TCTD cần được
19
đưa vào phần tóm tắt này. (theo Chỉ tiêu chủ yếu 3, Nguyên tắc 20, Phương
pháp Nguyên tắc Cơ bản)
- Báo cáo quý hiện tại (bảng cân đối, báo cáo thu nhập chi phí và các bảng
biểu hỗ trợ) (theo Chỉ tiêu chủ yếu 4, Nguyên tắc 20, Phương pháp Nguyên tắc
Cơ bản): Các tài liệu này có được thông qua giám sát từ xa. Cần xem số liệu
cuối năm của hai năm gần nhất và cuối quý gần nhất. Dữ liệu của các tài liệu
này sẽ được sử dụng trong suốt quá trình lập kế hoạch cũng như trong cuộc
thanh tra để thiết lập các mức và xu hướng dữ liệu cần được rà soát. Đa số các

dữ liệu đều được đưa vào mục “Tóm tắt tình hình hiện tại”. Chú ý rằng các
thông tin của bảng cân đối được thể hiện bằng số phần trăm so với tổng tài sản.
Điều này cho phép xem xét nhanh các hoạt động có rủi ro và mức độ của chúng
đối với TCTD. Không dùng số tuyệt đối trong mục này. Trong mục này cũng
phải xác định xem TCTD có tuân thủ các biện pháp an toàn không (theo Chỉ
tiêu chủ yếu 4, Nguyên tắc 19, Phương pháp Nguyên tắc Cơ bản), bao gồm:
Hệ số vốn tối thiểu (Quyết định 457, Điều 4);
Tài sản Có ngắn hạn /Tài sản Nợ ngắn hạn (Quyết định 457, Điều 12);
Góp vốn, mua cổ phần tại các công ty (Quyết định 457, Điều 17).
- Gặp bộ phận Khiếu nại và Tố cáo và thu thập thông tin về khiếu nại đối
với TCTD cũng như tố cáo từ NHNN. Vì đây là việc rà soát ở mức độ sơ lược
nên chỉ nhận xét khi có vấn đề trong khiếu nại và/hoặc tố cáo đối với TCTD.
Các vấn đề này được hình thành bởi những khiếu nại hoặc tố cáo lặp đi lặp
lại, do Ban điều hành thiếu trách nhiệm hoặc liên quan đến số tiền lớn.
+ Các rủi ro chính: căn cứ vào việc xây dựng ma trận rủi ro:
Sau khi xem xét cẩn thận mỗi loại báo cáo và tài liệu, phân tích bảng cân
đối, báo cáo thu nhập chi phí hay các bảng biểu liên quan của ít nhất là ba thời
điểm (quý hiện tại, số cuối kỳ của hai năm trước). Sau đó trưởng phòng giám
sát từ xa, cán bộ giám sát phân tích phụ trách TCTD, và trưởng phòng thanh
20
tra tại chỗ thảo luận về các lĩnh vực cần quan tâm và nhất trí về những rủi ro
chủ yếu (theo Tiêu chí chủ yếu 5, Nguyên tắc 19, Phương pháp Nguyên tắc cơ
bản); Lãnh đạo NHNN thường nắm được rủi ro và các vấn đề quản lý rủi ro
của các TCTD. Qua việc áp dụng các tiêu chuẩn quản lý rủi ro tối thiểu, lãnh
đạo các TCTD cũng cần thông báo cho NHNN những thay đổi quan trọng
trong hoạt động, các vi phạm quy chế an toàn và một số tổn thất lớn). Tóm tắt
các ý kiến về tình hình tài chính trong mục “Tóm lược tình hình hiện tại”, và
nhận xét về các lĩnh vực cần thanh tra tại chỗ trong mục “Rủi ro chủ yếu”.
Ma trận rủi ro là một công cụ được thiết kế để hỗ trợ thanh tra viên xác
định lĩnh vực rủi ro lớn nhất của từng TCTD. Ma trận này phải được hoàn

thiện và đính kèm vào bản Tình hình và chiến lược của TCTD để bổ sung cho
các rủi ro chính.
+ Xây dựng ma trận rủi ro:
Bao gồm các nội dung:
- Các hoạt động có rủi ro chủ yếu: Bắt đầu bằng bảng cân đối quý gần
nhất, thanh tra viên xác định các hạng mục tài sản có, tài sản nợ và các khoản
mục ngoại bảng quan trọng. Liệt kê mỗi loại và điền số tiền vào cột bên cạnh.
- Khối lượng hay tỷ trọng: (% so với tổng tài sản hay vốn). Tỷ trọng và số
tiền của các hạng mục được xem xét qua việc tính tỷ lệ phần trăm của mỗi hạng
mục so với tổng tài sản hay vốn hoặc cả tổng tài sản và vốn. Chỉ những hoạt
động quan trọng hay trạng thái lớn được đưa vào ma trận. Ví dụ trong Sổ tay
này sử dụng một ngưỡng là 5% vốn để làm tiêu chí cho số tiền được đưa vào
ma trận. Số tiền thấp hơn ngưỡng này không được đưa vào ma trận. Khi thanh
tra viên quen hơn với mỗi TCTD, các vấn đề khác có thể là quan trọng, như
TCTD bị tổn thất trong một loại tài sản. Ví dụ: nếu TCTD bị tổn thất lớn trong
cho vay thấu chi, nhưng cho vay thấu chi chỉ chiếm 1% tổng tài sản có thì số
dư cho vay thấu chi cần được đưa vào ma trận, cùng với bằng chứng là một số
21

×