Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

GIẢI PHÁP xử lý nợ xấu tại AGRIBANK BA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.51 KB, 78 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
CƠ SỞ THANH HÓA – KHOA KINH TẾ

BÁO CÁO THỰC TẬP

ĐỀ TÀI: GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI AGRIBANK
BA ĐÌNH – THANH HOÁ
GIẢNG VIÊN HD : TH.S. LÊ ĐỨC THIỆN
SINH VIÊN TH : ĐỖ ANH THẮNG
MSSV : 10008123
LỚP : DHTN6TH
THANH HÓA, THÁNG 03 NĂM 2014
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
LỜI CẢM ƠN
Trong báo cáo thực tập này, em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn Thạc sỹ Lê Đức Thiện người cô đã luôn ở bên cạnh và tận tình giúp
đỡ chúng em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài tốt nghiệp của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trường Đại học
Công nghiệp Tp.Hồ Chí Minh, đặc biệt là các thầy cô giáo khoa kinh tế, những
người đã dạy dỗ, hướng dẫn chúng em trong những năm tháng học tập tại
trường.
Chúng em xin gửi lời cảm ơn đến các cô, chú, anh chị tại Agribank Ba
Đình – Thanh Hóa đã tạo điều kiện cho em được tiếp xúc thực tế, được học hỏi
những điều mới cũng như tạo điều kiện thuận lợi, giúp em trong suốt thời gian
thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 12 tháng 03 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Đỗ Anh Thắng
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 2


Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 3
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN


















Thanh Hóa, ngày … tháng … năm 2014
Giảng viên
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 4
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN



















Thanh Hóa, ngày … tháng … năm 2014
Giảng viên
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 5
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
MỤC LỤC
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 6
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 7
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nợ xấu, đây là những khoản nợ đã đáo hạn nhưng ngân hàng chưa thu được

và có thời gian tồn tại lâu dài, ít nhất trên 90 ngày có khả năng tổn thất một phần
hoặc toàn bộ. Nợ xấu tồn tại do nhiều nguyên nhân và nó ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM, bởi lẽ nợ xấu có thể dẫn đến
khả năng mất vốn nên các NHTM phải trích lập dự phòng rủi ro, khi sử dụng
khoản dự phòng này được hạch toán vào chi phí hoạt động của ngân hàng sẽ làm
giảm lợi nhuận. Nếu nợ xấu chiếm tỷ trọng lớn sẽ làm giảm uy tín của NHTM
và do đó sẽ dẫn đến suy giảm giá trị cổ phiếu của đơn vị. Ngoài ra nợ xấu còn
ảnh hưởng đến vòng quay vốn của ngân hàng, làm cho hệ số thu nợ của ngân
hàng giảm xuống thấp. Vì vậy việc nghiên cứu phân tích chỉ tiêu nợ xấu đóng
vai trò quan trọng trong định hướng phát triển của các NHTM trong tương lai,
nhất là khi xây dựng những chính sách, những nhóm giải pháp ngăn chặn tình
trạng tồn đọng nợ xấu lâu dài.
2. Mục đích nghiên cứu
Trong những năm qua, mặc dù hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói chung và
Agribank Ba Đình nói riêng đã nổ lực tìm ra cac giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng tín dụng và hạn chế rủi ro về nợ xấu nhưng đây thực sự là một lĩnh vực
khá phức tạp và nhạy cảm với những biến động của tình hình kinh tế nên khi
thực hiện còn gặp khá nhiều khó khăn và bộc lộ nhiều hạn chế. Sau thời gian
thực tập tại Agribank Ba Đình, em xin chọn đề tài “Nợ xấu và xử lý nợ xấu tại
Agribank Ba Đình” để làm chuyên đề báo cáo thực tập tốt nghiệp với mong
muốn góp phần tổng kết và khái quát lý luận từ thực tiễn, phục vụ cho việc nâng
cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro, tổn thất do nợ xấu gây ra.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nợ xấu, nguyên nhân và một số giải pháp hạn chế,
xử lý nợ xấu tại Agribank Ba Đình- Thanh Hóa.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng nợ xấu tại
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 8
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
Agribank Ba Đình- Thanh Hóa giai đoạn (2013 – 2013)
4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình làm báo cáo, em sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau: Thu thập thực tế thông tin, số liệu; phân tích đánh giá các nguồn thông tin;
sử dụng các phương pháp tổng hợp, so sánh, thống kê; phương pháp luận khoa
học gắn với thực tiễn.
5. Kết cấu báo cáo
Bài báo cáo gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tín dụng và rủi ro tín dụng
Chương 2: Thực trạng nợ xấu và xử lý nợ xấu tại Agribank Ba Đình
Chương 3: Giải pháp xử lý nợ xấu tại Agribank Ba Đình
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 9
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ RỦI RO HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG
1.1. Tín dụng.
1.1.1. Khái niệm tín dụng:
Tín dụng là khái niệm thể hiện mối quan hệ giữa người cho vay và người
vay. Trong quan hệ này, người cho vay có nhiệm vụ chuyển giao quyền sử dụng
tiền hoặc hàng hoá cho vay cho người đi vay trong một thời gian nhất định.
Người đi vay có nghĩa vụ trả số tiền hoặc giá trị hàng hoá đã vay khi đến hạn trả
nợ có kèm hoặc không kèm theo một khoản lãi. Tín dụng có vị trí quan trọng đối
với việc tích tụ, tận dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để phát triển kinh
doanh. Tín dụng được phân loại theo các tiêu thức: thời hạn Tín dụng (Tín dụng
ngắn hạn, trung hạn, dài hạn); đối tượng Tín dụng (Tín dụng vốn cố định, Tín
dụng vốn lưu động); mục đích sử dụng vốn (Tín dụng sản xuất và lưu thông
hàng hoá, Tín dụng trong tiêu dùng); chủ thể trong quan hệ Tín dụng (Tín dụng
hàng hoá, Tín dụng thương mại, Tín dụng nhà nước).
Có thể diễn giải khái niệm này một cách đơn giản hơn như sau: Dựa vào
nghĩa của 02 từ Tín và Dụng trong cụm từ ta thấy rằng Tín là chữ tín, Dụng
hiểu nôm na là sử dụng, ghép 2 từ lại ta có 1 khái niệm dễ hiểu Tín dụng là
việc sử dụng vốn, tài sản của người khác bằng uy tín, tín nhiệm của người sử

dụng.
Rõ ràng, trong khái niệm này ít nhất phải có 02 chủ thể: Người có vốn
(Người cho vay) – muốn cho vay và Người có chữ tín (hoặc tài sản thế chấp)
muốn đi vay (Người đi vay). Người cho vay có quyền sở hữu vốn nhưng
chưa/không có nhu cầu sử dụng vốn nên đã chuyển giao Quyền sử dụng cho
Người đi vay. Người đi vay chỉ có quyền sử dụng, không có quyền sở hữu đối
với món vay. Về cơ bản, trong các NHTM hiện nay tín dụng được chia thành
02 mảng chính.
Tín dụng cá nhân: Phục vụ các khách hàng cá nhân, nhu cầu phục vụ đời
sống như: vay mua nhà, mua ôtô, du học, kinh doanh, phục vụ đời sống cá
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 10
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
nhân …
Tín dụng doanhh nghiệp: Phục vụ các khách hàng doanh nghiệp, nhu cầu
vốn cho sản xuất kinh doanh như: cho vay bổ sung vốn lưu động, mua sắm tài
sản, thanh toán công nợ khác (trừ trường hợp vay trả nợ ngân hàng khác).
1.1.2. Chức năng của tín dụng:
Là một bộ phận của hệ thống tài chính, quan hệ tín dụng cũng có chức năng
phân phối và giám đốc.
- Chức năng phân phối của tín dụng được thực hiện thông qua phân phối
lại vốn. Phân phối của tín dụng dựa trên cơ sở tự nguyện theo nguyên tắc hoàn
trả và có hiệu quả. Nội dung của chức năng này biểu hiện ở cơ chế "hút" (hay
huy động) các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi, phân tán trong xã hội để (đẩy) (hay
cho vay) nó vào hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng "thu hồi" vốn cho
vay theo kỳ hạn và "tham dự phân phối" ở các cơ sở đi vay theo số lượng cho
vay với tỷ suất lợi tức đã ghi trong hợp đồng.
- Chức năng giám đốc, kiểm soát các hoạt động kinh tế của tín dụng có liên
quan đến đặc điểm quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn, đến mối quan hệ
giữa người cho vay và người đi vay.
Người có vốn cho vay luôn quan tâm đến sự an toàn của vốn, không những

thế, họ còn mong muốn vốn của họ khi sử dụng có khả năng sinh lợi để họ có
thể thu về thêm khoản lợi tức. Muốn vậy,người cho vay phải am hiểu và kiểm
soát hoạt động của người đi vay, từ khâu xem xét tư cách pháp nhân người vay,
tình hình vốn liếng, mặt hàng sản xuất kinh doanh cả về chất lượng và số lượng,
khả năng trả nợ nói riêngvà tình hình tài chính nói chung, quan hệ với các chủ
nợ khácv v Sau khi xem xét tư cách pháp nhân để cho vay, người cho vay còn
phải kiểm soát việc sử dụng vốn cho vay có đúng mục đích không, có hiệu quả
không để điều chỉnh liều lượng vốn và để thu hồi vốn đúng hạn, có kèm theo lợi
tức.
1.1.3. Vai trò của tín dụng
Thực hiện tốt hai chức năng trên, tín dụng có vai trò sau đây:
+ Thứ nhất: Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 11
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Việc phân phối vốn tín dụng đã
góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản
xuất được liên tục. Tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Nó là động
lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu về vốn cho
đầu tư phát triển.
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn
vốn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp, vì vậy tín dụng
đã góp phần động viên vật tư hàng hoá đi vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa
học kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội.
+ Thứ hai: Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Hoạt động của ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng,
trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế. Mặt khác quá trình đầu tư tín dụng
được thực hiện một cách tập trung, chủ yếu là cho các xí nghiệp lớn, những xí
nghiệp kinh doanh hiệu quả.
+ Thứ ba: Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển
và ngành kinh tế mũi nhọn.

Trong thời gian tập trung phát triển nông nghiệp và ưu tiên cho xuất khẩu
… Nhà nước đã tập trung tín dụng để tài trợ phát triển các ngành đó, từ đó tạo
điều kiện phát triển các ngành khác.
+ Thứ tư: Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế
của các doanh nghiệp.
Đặc trưng cơ bản của vốn tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có
lợi tức, nhờ vậy mà hoạt động của tín dụng đã kích thích sử dụng vốn có hiệu
quả. Bằng cách tác động như vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử dụng vốn tín
dụng phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản
xuất, tăng vòng quay của vốn, tạo điều kiện nâng cao doanh lợi của doanh
nghiệp.
+ Thứ năm: Tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Trong điều kiện kinh tế “mở”, tín dụng đã trở thành một trong những
phương tiện nối liền các nền kinh tế các nước với nhau.
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 12
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
1.1.4. Phân loại tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong phú.
Tuỳ theo tiêu thức phân loại mà tín dụng được phân thành nhiều loại khác nhau.
a) Thời hạn tín dụng: Căn cứ vào thời hạn tín dụng, tín dụng được chia ra
ba loại: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn.
+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và thường
được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động và phục vụ
cho nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
+ Tín dụng trung hạn: là tín dụng có thời hạn từ 1 – 5 năm, được cung cấp
để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng
các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: là loại có thời hạn trên 5 năm, loại tín dụng này được
sử dụng để cung cấp vốn cho XDCB, cải tiến và mở rộng sản xuất có qui mô
lớn. Tín dụng trung hạn và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và

một phần tối thiểu cho hoạt động sản xuất.
b) Đối tượng tín dụng: Căn cứ vào đối tượng tín dụng, tín dụng được chia
thành hai loại: tín dụng vốn lưu động và tín dụng vốn cố định.
Tín dụng vốn lưu động: là loại vốn tín dụng đực sử dụng để hình thành vốn
lưu động của các tổ chức kinh tế, như cho vay để dự trữ hàng hoá, mua nguyên
vật liệu cho sản xuất. Tín dụng vốn lưu động thường được sử dụng để cho vay
bù đắp mức vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Loại tín dụng này thường được
chia ra các loại: cho vay dự trữ hàng hoá; cho vay chi phí sản xuất và cho vay để
thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kỳ phiếu.
Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành TSCĐ.
Loại này được đầu tư để mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kỹ thuật mở rộng
sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. Thời hạn cho vay là trung
hạn và dài hạn.
c) Mục đích sử dụng vốn: Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn, tín dụng
được chia làm hai loại: tín dụng sản xuất lưu thông hàng hoá và tín dụng tiêu
dùng.
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 13
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại cấp phát tín dụng cho
các doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác để tiến hành sản xuất hàng hoá và
lưu thông hàng hoá.
+ Tín dụng tiêu dùng: là hình thức cấp phát tín dụng cho cá nhân để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng: Như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các hàng hoá bền chắc và
cả những nhu cầu hàng ngày. Tín dụng tiêu dùng có thể được cấp phát dưới hình
thức bằng tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hoá.
d) Chủ thể trong quan hệ tín dụng: Căn cứ vào tiêu thức này, thì tín
dụng được chia thành các loại: tín dụng thương mại, tín dụng Nhà nước và tín
dụng ngân hàng.
+ Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp
được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Mua bán chịu hàng hoá

là hình thức tín dụng, vì:
Người bán chuyển giao cho người mua để sử dụng vốn tạm thời trong một
thời gian nhất định.
Đến thời hạn được thoả thuận, người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới
hình thức tiền tệ và cả phần lãi suất.
Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là GIẤY
NỢ - một dạng đặc biệt của khế ước dân sự xác định trái quyền cho người bán
và nghĩa vụ phải thanh toán nợ của người mua. GIẤY NỢ trong quan hệ tín
dụng thương mại được gọi là kỳ phiếu thương mại (thương phiếu), với 2 loại:
hối phiếu và lệnh phiếu.
Hối phiếu là một thương phiếu do chủ nợ lập ra để ra lệnh cho người thiếu
nợ trả một số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn. Người
hưởng thụ có thể là người phát hành, cũng có thể là thứ ba.
Lệnh phiếu là một thương phiếu do người thiếu nợ lập ra để cam kết trả
một số tiền nợ nhất định khi đến hạn cho chủ nợ.
Về hình thức, thương phiếu được chia ra ba loại: (1) Thương phiếu vô
danh, không ghi tên người thụ hưởng; (2) Thương phiếu ký danh; có ghi tên
người thụ hưởng và (3) Thương phiếu định danh, có ghi tên như thương phiếu
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 14
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
ký danh nhưng không chuyển nhượng cho người khác.
Vai trò của tín dụng thương mại trong nền kinh tế thị trường: Trong nền
kinh tế thị trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà doanh nghiệp thường
xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng nhu
cầu vốn của những nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn, đồng thời giúp cho các
doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình. Mặt khác sự tồn tại của hình
thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp chủ động khai thác được
nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy vậy tín dụng thương mại vẫn có những hạn chế về qui mô tín dụng, về
thời hạn cho vay, và về phương hướng (giới hạn đối với những xí nghiệp cần

hàng hoá để sử dụng cho sản xuất hoặc dự trữ), ngoài ra việc cung cấp tín dụng
thương mại chỉ được thực hiện trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau.
+ Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân.
Trong nền kinh tế ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức trung gian, trong
quan hệ tín dụng nó vừa là người cho vay đồng thời là người đi vay. Với tư cách
là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các nhà doanh nghiệp, cá nhân
hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Với
tư cách là người cho vay, nó cung cấp tín dụng cho các nhà doanh nghiệp và cá
nhân.
Khác với tín dụng thương mại, được cung cấp dưới hình thức hàng hoá, tín
dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ - bao gồm tiền mặt và bút
tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân
hàng, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá,
trang trải các chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ, mà còn tham gia cấp
vốn cho đầu tư XDCB và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tín dụng tiêu dùng
cá nhân.
+ Tín dụng Nhà nước: Là quan hệ tín dụng trong đó Nhà nước là người đi
vay. Chủ thể trong quan hệ tín dụng Nhà nước bao gồm: Người đi vay là Nhà
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 15
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
nước Trung ương và Nhà nước địa phương, người cho vay là dân chúng, các tổ
chức kinh tế, ngân hàng và nước ngoài. Mục đích đi vay của tín dụng Nhà nước
là bù đắp khoản bội chi Ngân sách.
Tín dụng Nhà nước bao gồm: tín dụng ngắn hạn và tín dụng dài hạn.
- Tín dụng ngắn hạn: là khoản vay ngắn hạn của Kho bạc Nhà nước để bù
đắp các khoản bội chi tạm thời, thời hạn dưới 1 năm. Tín dụng ngắn hạn của
Nhà nước được thực hiện bằng cách phát hành kỳ phiếu kho bạc (còn gọi là tín
phiếu). Việc phát hành được thực hiện bằng hai cách: (1) Phát hành để vay vốn

Ngân hàng Trung ương và (2) Phát hành để vay vốn cá nhân và nhà doanh
nghiệp.
- Tín dụng dài hạn: Là các khoản vay dài hạn của kho bạc Nhà nước,
thường từ 5 năm trở lên. Tín dụng Nhà nước dài hạn được thực hiện bằng cách
phát hành công trái (trái phiếu). Theo thời gian công trái chia ra hai loại: Trái
phiếu thời hạn 5 năm hoặc 10 năm và trái phiếu vĩnh viễn. Theo phạm vi phát
hành, công trái cũng chia ra hai loại: Trái phiếu quốc nội và trái phiếu quốc tế.
Lãi suất công trái được Nhà nước qui định lúc phát hành và chi trả hàng năm.
1.2. Rủi ro hoạt động tín dụng.
1.2.1. Khái niệm tín dụng:
Có rất nhiều cách quan niệm khác nhau về rủi ro tuỳ thuộc vào chủ thể và
hoạt động của chủ thể đó trong mối quan hệ với các yếu tố khác của môi trường.
Tuy nhiên, các quan niệm đó đều thống nhất một nội dung coi rủi ro là sự bất
trắc không mong đợi, gây ra thiệt hại và có thể đo lường được.
Như vậy, trong hoạt động kinh tế nói chung và trong hoạt động Ngân hàng
nói riêng thì vấn đề rủi ro là không thể tránh khỏi. Vì thế, các nhà quản trị không
thể loại bỏ được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện kịp thời để có những biện pháp
chủ động xử lý. Trong sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay,
các nhà quản trị phải biết nhận biết và dự đoán trước các rủi ro để sớm đưa ra
các giải pháp phòng ngừa chống đỡ tác hại của nó.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tồn tại trong hoạt động kinh doanh dưới các hình thức khác nhau.
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 16
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
Do đặc điểm đặc thù của hoạt động Ngân hàng làm cho hoạt động này có độ rủi
ro lớn. Có các loại rủi ro chủ yếu sau trong hoạt động của ngân hàng thương
mại.
1.2.2.1. Rủi ro tín dụng
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại. Nguồn thu từ
hoạt động tín dụng luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng thu nghiệp vụ ngân hàng

và đem lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng lại
làhoạt động có nhiều rủi ro nhất và phức tạp nhất. Hoạt động tín dụng liên quan
chặt chẽ đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Mỗi rủi ro trong các lĩnh vực này đều
tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Trong hoạt
động tín dụng, ngân hàng thương mại luôn đặt ra mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận,
đồng thời tối thiểu hoá rủi ro. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi ngân hàng
thương mại phải có những giải pháp thích hợp để quản lý và phòng ngừa rủi ro
tín dụng.
1.2.2.2. Rủi ro lãi suất
Đây là loại rủi ro mang tính xã hội, nó ảnh hưởng đến hầu hết các tổ chức
kinh tế, các cá nhân trong nền kinh tế quốc dân. Người ta quan niệm lãi suất là
chi phí để vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời gian nào đó. Trong
cơ chế thị trường, lãi suất luôn biến động và điều này có thể gây ra rủi ro cho
hoạt động của ngân hàng thương mại. Chẳng hạn, ngân hàng đã ký hợp đồng
cho vay một kỳ hạn với lãi suất cố định, sự thiệt hại của ngân hàng sẽ diễn ra khi
lãi suất trên thị trường tăng lên. Ngược lại, khi nhận vốn với một thời hạn và lãi
suất ấn định, ngân hàng sẽ bị thiệt hại khi lãi suất thị trường giảm xuống.
Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của yếu tố tiền tệ. Rủi ro lãi
suất nảy sinh trong những trường hợp sau:
+ Lạm phát tăng, lãi suất buộc phải điều chỉnh theo xu hướng tăng làm
chi phí của ngân hàng phải bỏ ra cũng tăng lên, do đó làm giảm thu nhập của
ngân hàng. Khi lạm phát cao thì thường có lợi cho người vay vốn và bất lợi
cho người cho vay.
+ Do cơ cấu tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng không hợp lý. Ngân
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 17
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
hàng dùng tài sản nợ ngắn hạn để đầu tư vào tài sản có dài hạn. Nếu lãi suất
ngắn hạn tăng, chi phí ngân hàng phải bỏ ra cũng sẽ tăng lên, trong khi thu
nhập ở tài sản có dài hạn vẫn giữ nguyên, như vậy thu nhập của ngân hàng
không đủ bù đắp chi phí kinh doanh, dẫn đến ăn mòn vào vốn.

+ Ngoài ra, rủi ro lãi suất có thể xảy ra do trình độ thấp kém bị thua thiệt
trong việc cạnh tranh lãi suất trên thị trường. Hoặc do yếu tố của nền kinh tế
tác động đến lãi suất như cung, cầu, yếu tố thị trường… Khi Nhà nước có
quyết định điều chỉnh lãi suất theo hướn giảm xuống, trong khi tiền gửi có kỳ
hạn chưa đến hạn trả. Như vậy, lãi suất cho vay bị giảm thấp, nhưng phần trả lãi
cho những khoản tiền gửi có kỳ hạn lại không giảm tương ứng dẫn đến rủi ro lãi
suất.
1.2.2.3. Rủi ro nguồn vốn
+ Rủi ro do thừa vốn
Như ta biết, nguồn vốn hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là
nguồn vốn huy động. Để huy động được vốn Ngân hàng phải trả lãi cho người
gửi tiền. Nếu số này bị ứ đọng, không thể cho vay hoặc đầu tư vào các loại tài
sản có thể sinh lời trong khi ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn đã huy
động thì có nghĩa là các thiệt hại của ngân hàng đang diễn ra. Nếu quá trình
này kéo dài ở mức độ lớn có thể dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh. Giải quyết
vấn đề này, NHTM cần phải tăng cường công tác kế hoạch hoá, đảm bảo cân
đối giữa vốn huy động và vốn cho vay.
+ Rủi do do thiếu vốn.
Loại rủi ro này xảy ra khi Ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu
cho vay và đầu tư, thậm chí không đủ vốn để thanh toán cho người gửi tiền
khi đến hạn. Rủi ro này xuất phát từ chưc năng chuyển hoán các kỳ hạn sử
dụng vốn và nguồn vốn của ngân hàng, thông thường các kỳ hạn sử dụng vốn
dài hơn kỳ hạn các nguồn vốn, hoặc do mất lòng tin mà các hàng loạt khách
hàng đến rút tiền, khiến cho ngân hàng không có đủ tiền để chi trả cùng một lúc.
Trong bối cảnh đó, ngân hàng khó lòng huy động được nguồn vốn dồi dào, từ đó
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 18
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
kinh doanh có thể bị thu hẹp và vỡ nợ rất có thể xảy ra. Rủi ro này còn có thể do
ngân hàng chưa thực hiện tốt công tác huy động vốn thể hiện ở việc không thu
hút đủ vốn để cho vay hoặc do sự mất cân đối trong cơ cấu vốn huy động, thiếu

các nguồn vốn trung dài hạn trong khi nhu cầu vay vốn trung dài hạn lại ở mức
cao. Điều này đã làm cho Ngân hàng mất cơ hội đầu tư vào những dự án an toàn
và có thể đem lại lợi nhuận cao.
1.2.2.4. Rủi ro hối đoái:
Rủi ro hối đoái là loại rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ giá
hối đoái bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì nhà kinh doanh có lãi, ngược lại thì bị
lỗ. Sự thay đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi về giá trị ngoại hối, cụ thể:
+ Nếu ngân hàng có dư dật về ngoại tệ (vị thế thường - net long position):
Nếu ngoại tệ đó lên giá thì ngân hàng sẽ có lãi khi đánh giá lại và ngược lại ngân
hàng sẽ lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá.
+ Nếu ngân hàng ở vị thế đoản (net short position) về loại ngoại tệ nào đó,
khi ngoại tệ đó lên giá, ngân hàng sẽ lỗ và ngược lại ngân hàng sẽ có lãi khi
ngoại tệ đó xuống giá.
Một trạng thái ngoại hối dù ở thế trường hay thế đoản đều có nguy cơ gây
ra tổn thất cho ngân hàng. Dư dật về ngoại tệ(vị thế trường) càng lớn thì rủi ro
càng cao khi tỷ giá giảm, ngược lại, đoản về ngoại tệ nào đó càng mạnh thì rủi
ro cũng không ít khi tỷ lệ tăng.
Khi phân biệt tình hình lãi lỗ ngoại hối theo vị thế ngoại hối, người ta so
sánh lỗ, lãi thực tế xảy ra so với mức lãi, lỗ dự kiến, qua đó đánh giá chất lượng
quản lý rủi ro so với mức lãi, lỗ dự kiến, qua đó đánh giá chất lượng quản lý rủi
ro tỷ giá hối đoái của một ngân hàng.
1.2.2.5. Rủi ro trong thanh toán
Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh
toán. Khả năng thanh toán tưc là đáp ứng được các nhu cầu thanh toán hiện đại,
đột xuất khi có vấn đề nảy sinh và đáp ứng được khả năng thanh toán trong
tương lai. Khi ngân hàng thiếu khả năng thanh toán, nếu không được giải quyết
một cách kịp thời có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Khi ngân hàng thừa
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 19
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
khả năng thanh toán sẽ dẫn đến ứ đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu

nhập của ngân hàng giảm.
Rủi ro thanh toán nảy sinh do những nguyên nhân sau:
+ Do mất cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn dư thừa quá
lớn, trong khi đó thị trường đầu ra hạn hẹp nên một số ngân hàng đã dùng vốn
huy động ngắn hạn để cho tập trung dài hạn quá mức, dẫn đến thiếu hụt khả
năng thanh toán cuối cùng.
+ Đến hạn các khoản cho vay khó thu hồi được, uy tín của ngân hàng giảm
sút, người gửi tiền và người đi vay thường phản ứng trước những khó khăn của
ngân hàng bằng cách rút hết hạn mức tín dụng để đảm bảo có tiền cho những
nhu cầu về sau hoặc rút hết số dư tiền gửi vì sợ có thể không rút được. Tất cả
những khía cạnh trên đều dẫn đến những rủi ro trong thanh toán của ngân hàng.
+ Loại rủi ro này còn có thể phát sinh trong quá trình thanh toán của ngân
hàng, có thể do ngân hàng bị lợi dụng trong thanh toán điện tử,thanh toán séc
chấp nhận thanh toán các chứng từ giả mạo hoặc do nhầm lẫn, sai sót trong hoạt
động nghiệp vụ…dẫn đến sự thiệt hại của ngân hàng.
1.2.2.6. Rủi ro thuần tuý
Đây là loại rủi ro khách quan do thiên tại gây ra như: lụt lội, động đất, hoả
hoạn hoặc do bị mất trộm, bị lừa đảo, tham nhũng…làm thiệt hại hay phá huỷ
các tài sản của ngân hàng. Các rủi ro này xảy ra cũng gây mất mát, thiệt hại
không nhỏ cho ngân hàng.
1.2.2.7. Rủi ro mất khả năng thanh toán
Đây là loại rủi ro đặc trưng của ngân hàng thương mại liên quan đến sự
sống còn của ngân hàng, nó là hậu quả của một hoặc nhiều loại rủi ro kể trên
dẫn đến việc ngân hàng thương mại bị thua lỗ, không có đủ khả năng trả nợ cho
người gửi tiền khi đến hạn hoặc không có đủ tiền nhất thời để chi trả cho nhu
cầu rút tiền ồ ạt của khách hàng tại một thời điểm. Đây là loại rủi ro nghiêm
trọng nhất, nó không những làm sụp đổ chính ngân hàng thương mại đó mà còn
là nguy cơ dẫn đến sự phá sản của hàng loạt các chưc năng, các tổ chức tín dụng
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 20
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện

khác có liên quan.
1.2.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.2.3.1. Nguyên nhân từ phía khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
thường xuyên phải đương đầu với cạnh tranh và chịu sự chi phối rất lớn của quy
luật cung cầu ,giá cả thị trường nên cũng phải thường xuyên đối mặt với rủi ro
từ nhiều phía kể cả các rủi ro thuần tuý như thiên tai,hoả hoạ,trộm cắp có khi
do giá cả thay đổi, khả năng quản lý kém, sự thay đổi cơ chế chính sách của nhà
nước dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp làm cho KD gặp khó khăn thua lỗ,
thậm chí phá sản. Đồng thời hoặt động KD của các doanh nghiệp cũng không
thể thoát ly khỏi mối quan hệ với NH. Chính vì vậy rủi ro của NHTM là cộng
hưởng rủi ro của các doanh nghiệp .
Nếu đứng trên góc độ tư cách đạo đức của người đi vay (khách hàng) thì
nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng có thể chia làn hai
trường hợp lớn. Khách hàng gian lận hoặc khách hàng không gian lận.
+ Khách hàng gian lận, cố ý lừa ngân hàng.
Điều này được thể hiện qua việc gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu
tài sản
Doanh nghiệp có thể nộp báo cáo tài chính không chính xác,cố ý đưa ra
số liệu sai sự thật, phản ánh không đúng thực trạng SXKD và tình hình tài
chính của đơn vị. Những món cho vay trên cơ sở nnhững thông tin giả như
vậy dễ đưa đến rủi ro cho NH. Bên cạnh đó lợi dụng khe hở về giấy tờ sở hữu
tài sản, doanh nghiệp có thể đem thế chấp một tài sản ở nhiều ngân hàng
khác nhau. Khi không thu được nợ, các NHTM phát mãi tài sản thì mới biết bị
lừa.
Ngoài ra, khách hàng có thể gian lận ngân hàng thể hiện qua việc sử
dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, không
đúng phương án đã nêu nên không trả được nợ đúng hạn hoặc không trả
được nợ. Doanh nghiệp có thể vay vốn ngắn hạn nhưng lại dùng để mua sắm
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 21

Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
tài sản cố định và bất động sản. Việc giá nhà đất đột ngột giảm xuống làm
doanh nghiệp kinh doanh nhà đất bị thua lỗ nặng không thể trả được nợ ngân
hàng. Ngân hàng có phát mại tài sản thế chấp đi nữa cũng không đủ khoản
cho vay vì tài sản thế chấp cũng là nhà đất nên cũng giảm giá trị.
Việc khách hàng gian lận gây ra rủi ro cho ngân hàng còn thể hiện qua
những hoạt động của người đi vay có tư cách kém như cố tình không trả nợ
ngân hàng hoặc lừa đảo ngân hàng rồi bỏ trốn.
+ Khách hàng không gian lận
Không chỉ khi khách hàng có ý không tốt ngân hàng mới gặp rủi ro mà
ngay cả khi khách hàng đi vay có đủ tư cách, không có ý gian lận, ngân hàng
vẫn có thể gặp rủi ro tín dụng. Đó là khi khách hàng có trình độ kém, năng lực
quản lý yếu, không có đầu óc kinh doanh nên không thể đưa phương án kinh
doanh của mình đạt hiệu quả, không thể đưa doanh nghiệp của mình thắng trong
cạnh tranh nên việc trả nợ ngân hàng là rất khó khăn.
Ngoài ra, nếu doanh nghiệp bị lừa đảo trong kinh doanh hoặc bạn hàng
của doanh nghiệp gặp rủi ro thì ngân hàng cũng gặp khó khăn trong việc thu
nợ đúng hạn.
Bên cạnh đó, nhiều nguyên nhân rủi ro khách quan như thiên tai, trộm
cắp có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp và có nguy cơ dẫn đến rủi ro tín
dụng cho ngân hàng.
1.2.3.2. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Các khoản cho vay có vấn đề và các thiệt hại cho vay có thể xảy ra do sơ
hở về thủ tục trong nội bộ ngân hàng. Đây được gọi là các hoạt động cho vay
không hoàn hảo và nó xuất hiện do các nguyên nhân sau đây:
+ Do thông tin tín dụng không đầy đủ. Ngân hàng có một cái nhìn không
toàn diện về bản thân khách hàng cũng như tình hình tài chính của họ. Điều đó
dẫn đến sự sai lệch trong việc đánh giá hiệu quả của các khoản vay, cho vay quá
khả năng chi trả của khách hàng.
+ Trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng nói chung và của cán bộ tín

Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 22
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
dụng nói riêng còn hạn chế.
Hiện nay nhiều cán bộ tín dụng ngân hàng thiếu năng lực xử lý các thông
tin tín dụng để bảo vệ và giám sát khoản vay. Cán bộ tín dụng không có khả
năng phân tích thẩm định dự án; kiến thức thị trường, kiến thức xã hội cũng bị
hạn chế nên nhều khi cho vay mà không đánh giá được liệu dự án hay phương
án đó có khả thi không.
+ Ngân hàng quá trú trọng về lợi tức, đặt mong muốn về lợi tức cao hơn
các khoản cho vay lành mạnh, do vậy rủi ro của khoản vay càng cao.
+ Sự cạnh tranh không lành mạnh với các ngân hàng khác để mong muốn
có tỷ trọng cho vay nhiều hơn. Cạnh tranh không lành mạnh ở đây có thể hiểu
rằng ngân hàng đã bỏ qua một số bước kiểm định các khoản cho vay, hạ thấp
tiêu chuẩn tín dụng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhằm lôi kéo khách
hàng.
+ Hoạt động kiểm tra, kiểm soát chưa được tiến hành thường xuyên. Nhân
viên tín dụng không nắm bắt được tình hình tín dụng của khách hàng cũng như
môi trường tín dụng của nền kinh tế. Do vậy, hoạt động sai sót, không nắm bắt
kịp thời các khoản cho vay có vấn đề.
1.2.3.3. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh
+ Môi trường kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đóng
vai trò quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung và lĩnh
vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng của các ngân hàng thương mại nói riêng.
Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ bao gồm các chính sách về kinh tế,
tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại Chỉ cần chính phủ thay đổi một trong các
chính sách trên, lập tức sẽ có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp và người chịu tác động trực tiếp là các ngân hàng thương mại
và hoạt động kinh doanh của ngân hàng khác nhau luôn gắn bó mật thiết với
hoạt động của các doanh nghiệp. Chính vì vậy nếu chính sách kinh tế vĩ mô của

Chính phủ đúng đằn phù hợp với thực tiễn thì nó sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả,
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 23
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
nhưng ngược lại cũng sẽ kìm hãm sự phát triển sản xuất kinh doanh làm cho các
doanh nghiệp gặp khó khăn thậm chí thua lỗ, phá sản.
+ Môi trường pháp lý:
Trong hoạt động kinh doanh, song song với hoạt động mang tính kĩ thuật
nghiệp vụ và các hoạt động mang tính pháp lý như kí kết hợp đồng kinh tế, đầu
tư tài chính tín dụng Tính pháp lý thể hiện ở các hoạt động kinh doanh luôn
tiến hành dựa trên các quy định pháp luật, hay nói cách khác bị giới hạn trong
khuôn khổ pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các yếu tố pháp lý là điều kiện đảm
bảo cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là các hoạt động tín dụng của các ngân
hàng thương mại. Nhưng cũng chính vì vậy, nếu môi trường pháp lý chưa hoàn
chỉnh thiếu đồng bộ cũng sẽ gây khó khăn, bất lợi cho cả doanh nghiệp và ngân
hàng.
Môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên môi trường kinh doanh của
các doanh nghiệp đồng thời tạo nên môi trường cho vay của các ngân hàng
thương mại. Môi trường cho vay có ảnh hưởng, tác động tích cực hay tiêu cực
đến hoạt động tín dụng , nó sẽ góp phần làm hạn chế hoặc tăng thêm rủi ro trong
các hoạt động tín dụng của các NHTM.
1.2.3.4. Nguyên nhân từ môi trường xã hội:
Những biến động lớn về kinh tế chính trị trên thế giới luôn có ảnh hưởng
tới công việc kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như của các ngân hàng.
Ngày nay, cùng với sự mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá, chính trị giữa các
nước đời sống kinh tế thế giới cũng có nhiều biến đổi. Muốn phát triển kinh tế
một cách toàn diện cần thực hiện mở cửa nền kinh tế để tiếp thu những thành
tựu khoa học kĩ thuật hiệi đại của những nước phát triển, trao đổi, xuất nhập
khẩu hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài, đầu tư hoặc vay tiền của nước ngoài

Tất cảc các hoạt động đó tạo nên mối quan hệ kinh tế đối ngoại của mối quốc
gia. Những thay đổi về chính trị rết có thể dẫn đến sự biíen động cán cân thương
mại quốc tế, tỷ giá hối đoái giá các đồng tiền làm biến động thị trường trong
nước như giá cả nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ, mức lãi suất thị trường, mức
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 24
Báo cáo thực tập GVHD: Th.S. Lê Đức Thiện
cầu tiền tệ trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp và người chịu tác động là các ngân hàng thương mại.
1.3. Một số chỉ tiêu và đo lường rủi ro tín dụng.
1.3.1. Các chỉ tiêu đo lường tín dụng
Để có mức độ RRTD hợp lý trong HĐKD của NHTM thì việc đo lường
RRTD sẽ là cần thiết từ đó giúp các nhà quản lý có được biện pháp phòng ngừa
và hạn chế RRTD, việc đo lường đó phải mang tính chất thường xuyên, có phân
tích đánh giá qua sự kết hợp của các số liệu lịch sử. Các chỉ tiêu cơ bản để đo
lường RRTD gồm:
+ Cơ cấu dư nợ và kết cấu nợ theo ngành nghề:
Thực tế, chúng ta có thể thấy rằng: Đối với việc quản lý nợ ngắn hạn sẽ
chặt chẽ hơn nợ trung và dài hạn, chính vì vậy với 1 NH có tỷ trọng nợ trung và
dài hạn càng lớn thì sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn.
Đối với kết cấu dư nợ: Nếu dư nợ tập trung quá vào 1 khách hàng, một
ngành nghề, thành phần kinh tế… sẽ tiềm ẩn nhiều RR. Chính vì vậy, việc đề ra
giới hạn cho vay tối đa là hết sức quan trọng cho việc chia sẻ RR.
+ Tỷ lệ nợ xấu: Theo QĐ 493 thì nợ xấu bao gồm: Nợ dưới tiêu chuẩn, nợ
nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn. Ba nhóm nợ này là cơ sở để đo lường chất
lượng tín dụng của NHTM. Tỷ lệ nợ xấu càng cao thì nợ có vấn đề càng lớn, tuy
nhiên không phải khoản nợ xấu nào cũng dẫn đến RRTD vì về mặt định tính có
thể có nhưng món nợ nằm trong nhóm này nhưng không phải do đọng vốn cũng
không hẳn do mất vốn
+ Tỷ lệ: Nợ xấu có khả năng tổn thất / Tổng nợ xấu: Đây là chỉ tiêu trực
tiếp phản ánh RR, với nợ nhóm 5 thì mức độ RR gần như là 100%, với nhóm

này do thời gian quá hạn dài, hoặc những món nợ đánh giá theo định tính có
mức RR 100%, như vậy kết quả xử lý thu hồi và qua đánh giá thì nợ nhóm này
rất khó thu. Với loại này sau khi đã xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ mà
không đủ sẽ phải dùng đến quỹ (dự phòng rủi ro) DPRR nợ khó đòi để xử lý.
+ Tỷ lệ: Quỹ DPRR / Nợ có khả năng mất vốn: Tỷ lệ này phản ánh khả
năng chống đỡ RRTD từ quỹ dự phòng. Thông thường thì tỷ lệ này lớn hơn
Sinh viên thực hiện: Đỗ Anh Thắng – MSSV: 10008123 Trang 25

×