LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi. Số liệu
được nêu trong luận văn là trung thực và có trích nguồn. Kết quả nghiên cứu
trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trần Thị Ánh
1
LỜI CÁM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn Quý thầy cô Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
đã tận tâm giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt thời
gian tôi học tập tại trường. Đặc biệt, tôi xin chân thành cám ơn PGS.TS. Nguyễn
Ngọc Sơn đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cám ơn các anh chị đồng nghiệp đang công tác tại
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng đã hết lòng hỗ trợ, cung cấp số liệu và
đóng góp ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn.
2
LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến tích
cực, đời sống kinh tế - xã hội ngày càng mở rộng nâng cao, năng lực sản xuất kinh
doanh và sức cạnh tranh hàng hóa được nâng lên với sự góp mặt của nhiều thành
phần kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa . DNNVV là công cụ góp
phần khai thác toàn diện mọi nguồn lực kinh tế, đặc biệt là những nguồn tiềm tàng
sẵn có ở mỗi người, mỗi đất nước. Đây là nguồn lực mạnh và trong tương lai không
xa chính họ sẽ tạo nên sự tăng trưởng mạnh mẽ cho nền kinh tế nước nhà, là tiền đề
để phát triển nền kinh tế mũi nhọn, phát triển cơ chế công nghiệp hóa hiện đại hóa
của toàn xã hội.
Nhưng để thúc đẩy phát triển DNNVV ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải giải
quyết hàng loạt khó khăn mà các DN này đang gặp phải liên quan đến nhiều vấn đề.
Trong đó, khó khăn lớn nhất, cơ bản nhất là thiếu vốn để sản xuất và đổi mới công
nghệ Do vậy, Để đảm bảo sự phát triển cho DNNVV và hội nhập với xu hướng
hội nhập kinh tế quốc tế thì các DNNVV phải biết khai thác toàn diện và hiệu quả
mọi nguồn lực, nhất là sự hỗ trợ từ hệ thống các ngân hàng. Muốn vậy ngành ngân
hàng phải góp phần giải quyết những khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải.
Đây đang là mối quan tâm đặc biệt của các NHTM, bản thân doanh nghiệp và các
tổ chức tín dụng nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
Thực tế hiện nay cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho các
DNNVV còn hạn chế. Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng – VPBank là một trong
10 ngân hàng lớn nhất Việt Nam, Ngân hàng VPBank được thành lập từ năm 1993
với mục tiêu chiến lược trở thành một ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam. Nhờ có
sự chuẩn bị chu đáo và nghiên cứu kỹ lưỡng về thị trường tài chính Việt Nam, sau
gần 20 năm hoạt động của ngân hàng đã đạt được những thành tựu nhất định. Trong
đó hoạt động tín dụng đã góp phần đáp ứng được kịp thời nhu cầu vốn tín dụng cho
sự phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên nguồn vốn dành cho các DNNVV lại chiếm tỷ
trọng nhỏ, tỷ lệ nợ quá hạn và khả năng sinh lời chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng, và
3
các DNNVV gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp xúc với nguồn vốn tín dụng. Nguyên
nhân dẫn đến thực trạng trên là các DNNVV khó đáp ứng đầy đủ điều kiện vay vốn
từ ngân hàng và khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng thì các DN lại sử dụng vốn chưa
hợp lý và hiệu quả. Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp nhằm mở rộng tín dụng
đối với các DNNVV đang là mối quan tâm đặc biệt của các NHTM.
Xuất phát từ tình hình trên, cùng với định hướng hoạt động của Ngân hàng
VPBank trong những năm tiếp theo là mở rộng phạm vi tín dụng, em đã chọn đề tài:
“Mở rộng tín dụng đối với các Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng
VPBank”,
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài tập trung vào 03 nội dung chính sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về doanh nghiệp nhỏ và vừa; nghiên cứu các cơ sở
lý luận về tín dụng ngân hàng cho DNNVV, đặc biệt là các chỉ tiêu phản ánh mở
rộng cho vay và các nhân tố ảnh hưởng mở rộng cho vay của NHTM đối với
DNNVV
-Phân tích, đánh giá về thực trạng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại VP Bank, tìm ra các nguyên nhân gây ra những hạn chế trong hoạt
động tín dụng đối với DNNVV.
- Đưa ra các giải pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa tại VP Bank cho phù hợp với định hướng phát triển của Ngân hàng, đảm bảo
ngân hàng phát triển một cách bền vững
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Hoạt động tín dụng cho các DNNVV tại VP Bank trong những năm gần đây và giai
đoạn 2011-2015
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
4
- Phương pháp thu thập, thống kê số liệu từ báo cáo các hoạt động tín dụng
của Ngân hàng theo quý, năm
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: việc đánh giá hoạt động tín dụng đối với
DNNVV sẽ được phân tích trên từng chỉ tiêu riêng biệt, sau đó tổng hợp và
nhận định để đưa ra các đánh giá tổng quan và khách quan về hoạt động tín
dụng đó
- Phương pháp so sánh đối chiếu: đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn, so sánh
với các Ngân hàng TMCP khác để đánh giá thực trạng hoạt động của
VPBank
- Phương pháp khảo sát, tham khảo ý kiến của các cán bộ tín dụng trong Ngân
hàng để có cái nhìn khách quan hơn về thực trạng cũng như bổ sung thêm
các giải pháp để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng
5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì luận văn gồm ba chương:
Chương I. Cơ sở lý luận về tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của DNNVV
Chương II .Thực trạng hoạt động tín dụng đối với DNNVV tại VPBank
Chương III. Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng đối với DNNVV tại
Ngân hàng VPBank
5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DNNV
1.1. DNNVV VÀ VAI TRÒ CỦA DNNVV TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG:
1.1.1.Khái niệm :
Trên thế giới, định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu và quy định khác
nhau tuỳ theo từng nơi. Các tiêu chí để phân loại doanh nghiệp có hai nhóm: tiêu
chí định tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí định tính dựa trên những đặc
trưng cơ bản của doanh nghiệp như chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít,
mức độ phức tạp của quản lý thấp Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản
chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó chúng thường được
dùng làm cơ sở để tham khảo trong, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại
trong thực tế. Nhóm tiêu chí định lượng có thể dựa vào các tiêu chí như số lao động,
giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong các nước APEC tiêu chí được sử
dụng phổ biến nhất là số lao động
Tại Việt Nam tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa được thể hiện trong nghị
định 56/2009/NĐ ngày 30/06/2009 của Chính Phủ. Theo quy định này doanh
nghiệp nhỏ và vừa được định nghĩa như sau: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở
kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp:
siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng
tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao
động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
Bảng 1: Tiêu chí xác định Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Quy mô
Doanh nghiệp
siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động Tổng nguồn
vốn
Số lao động Tổng nguồn
vốn
Số lao động
I. Nông, lâm nghiệp
và thủy sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
từ trên 200
người đến 300
6
200 người tỷ đồng người
II. Công nghiệp và
xây dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến 300
người
III. Thương mại và
dịch vụ
10 người trở
xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến 50
người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50 tỷ
đồng
từ trên 50
người đến 100
người
Nguồn: Nghị định
56/2009/NĐ
Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký
kinh doanh và thoả mãn một trong hai điều kiện trên đều được coi là doanh nghiệp
nhỏ và vừa. Ở nước ta có khoảng 500.000 DN được thànjh lập với số vốn đăng kí
lên gần 2.313.857 tỉ đồng (tương đương 121 tỉ USD). Đó là chưa kể trên 3 triệu hộ
kinh doanh thương mại. Theo cách phân loại này ở Việt Nam có khoảng 97%
trong tổng số doanh nghiệp hiện có là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.1.2. Vai trò của DNNVV:
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể giữ
những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương đồng
như sau:
• Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường
chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp (Ở Việt Nam chỉ
xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ này là trên 97%). Vì thế, đóng góp của
họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể. Doanh nghiệp nhỏ và vừa
luôn giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều
chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn
định. Vì thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa được ví là thanh giảm sốc cho nền kinh
tế.Bên cạnh đó do doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh
hoạt động (xét về mặt lý thuyết) nên nó làm cho nền kinh tế năng động.
7
• Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh nghiệp nhỏ và
vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp
thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
• Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở
những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại có mặt ở
khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào
sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương
Tại đại hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được tổ chức trong hai ngày 10 và
11/1/2011 tại Hà Nội, tập hợp khoảng 350 đại biểu đại diện cho cộng đồng doanh
nghiệp nhỏ và vừa trong toàn quốc đã có báo cáo nêu rõ: Các doanh nghiệp nhỏ và
vừa đóng góp hơn 40% GDP cả nước. Nếu tính cả 133.000 HTX, trang trại và các
hộ kinh doanh cá thể thì khu vực này đóng góp vào tăng trưởng tới 60% GDP. Các
doanh nghiệp nhỏ và vừa không chỉ đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của
đất nước mà còn giúp tạo ra hơn một triệu việc làm mới mỗi năm cho số lao động
phần lớn chưa qua đào tạo; góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng cường an sinh xã
hội… Hiện các doanh nghiệp này sử dụng trên 50% lao động xã hội
1.1.3. Đặc điểm của DNNVV trong nền kinh tế thị trường:
DNNVV là một loại hình doanh nghiệp không những thích hợp đối với nền
kinh tế của những nước công nghiệp phát triển mà còn đặc biệt thích hợp với nền
kinh tế của những nước đang phát triển DNNVV tại nước ta có một số đặc điểm
như sau:
- DNNVV có vốn đầu tư ban đầu ít nên chu kỳ SXKD của doanh nghiệp thường
ngắn dẫn đến khả năng thu hồi vốn nhanh tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh
doanh hiệu quả. DNNVV tồn tại và phát triển ở hầu hết các lĩnh vực, các thành
phần kinh tế: các DNNVV hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế:
thương mại, dịch vụ, công nghiệp, xây dựng, nông lâm ngư nghiệp và hoạt động
dưới mọi hình thức như: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. và các
cơ sở kinh tế cá thể
8
- DNNVV có tính năng động cao trước những thay đổi của thị trường, các DNNVV
có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh. Mặt
khác, do DNNVV tồn tại ở mọi thành phần kinh tế. Sản phẩm của các DNNVV đa
dạng phong phú nhưng số lượng không lớn nên chỉ cần không thích ứng được với
nhu cầu của thị trường, với loại hình kinh tế - xã hội này thì nó sẽ dễ dàng hơn các
doanh nghiệp có quy mô vốn lớn trong việc chuyển hướng sang loại hình khác cho
phù hợp với thị trường.
- Năng lực kinh doanh còn hạn chế. Do quy mô vốn nhỏ nên các DNNVV không có
điều kiện đầu tư quá nhiều vào nâng cấp, đổi mới máy móc, mua sắm thiết bị công
nghệ tiên tiến, hiện đại. Việc sử dụng các công nghệ lạc hậu dẫn đến chất lượng sản
phẩm không cao, tính cạnh tranh trên thị trường kém. DNNVV cũng gặp nhiều khó
khăn trong việc tìm kiếm, thâm nhập thị trường và phân phối sản phẩm do thiếu
thông tin về thị trường, công tác marketing còn kém hiệu quả. Điều đó làm cho các
mặt hàng của DNNVV khó tiêu thụ trên thị trường. Năng lực quản lý còn thấp: Đây
là loại hình kinh tế còn non trẻ nên trình độ, kỹ năng của nhà lãnh đạo doanh nghiệp
cũng như của người lao động còn hạn chế. Số lượng DNNVV có chủ doanh nghiệp,
giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ
phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo
bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế-xã hội và kỹ năng
quản trị kinh doanh. Mặt khác, DNNVV ít có khả năng thu hút được những nhà
quản lý và lao động có trình độ, tay nghề cao do khó có thể trả lương cao và có các
chính sách đãi ngộ hấp dẫn để thu hút và giữ chân những nhà quản lý cũng như
những người lao động giỏi.
Bên cạnh những đặc điểm thể hiện ưu điểm của DNNVV thì còn có một số
điểm còn hạn chế. DNNVV có vị thế trên thị trường thấp, tiềm lực tài chính nhỏ
nên khả năng cạnh tranh thấp và ít khả năng huy động vốn để đầu tư đổi mới công
nghệ giá trị cao. Do vậy, họ ít có điều kiện để đào tạo nhân công, đầu tư cho nghiên
cứu, thiết kế cải tiến công nghệ, đổi mới sản phẩm. Trong nhiều trường hợp thường
9
bị động vì phụ thuộc vào hướng phát triển của các doanh nghiệp lớn và tồn tại như
một bộ phận của doanh nghiệp lớn
1.2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DNNVV:
1.2.1.Khái niệm và các hình thức tín dụng của NHTM đối với các DNNVV:
1.2.1.1. Khái niệm:
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và
người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.
Hay nói một cách khác: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ
kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối
lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng
buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi. Trong
quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn giá bán trao
tiền ngay, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu. Quan hệ
mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. Vì vậy nó
không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hoá.
Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội thường
xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này và nhu cầu
thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh do có sự
chênh lệch về thời gian sử dụng vốn của tổ chức hay cá nhân đó. Trong khi đó số
lượng các khoản thu nhập và chi tiêu ở các tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản
xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Vậy để khắc phục tình trạng này thì chỉ có
ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết
được những mâu thuẫn đó.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì?
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân hàng –
một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ
chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa
là người cho vay”.
10
Với tư cách là người đi vay: ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức cá
nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội
Với tư cách là người cho vay: Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, ngân hàng đã thực hiện chức năng phân
phối lại vốn, tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội.
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp ứng nhu
cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
1.2.1.2. Các hình thức tín dụng của NHTM đối với các DNNVV:
Theo hình thức cấp tín dụng thì tín dụng được chia ra thành các nghiệp vụ sau:
- Cho vay: Cho vay là một chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng – để tài
trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và cơ quan chính phủ. Hoạt động cho
vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu
vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của doanh nghiệp,
tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hơn nữa, thông qua các khoản vay của ngân hàng,
thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ
đó giúp cho họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn
khác nhau với chi phí thấp hơn. Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay
chiếm quá nửa tổng tài sản và tạo ra 1/2 -2/3 nguồn thu của ngân hàng. Đồng thời,
rủi ro trong hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản
vay.
Cho vay là một quan hệ kinh tế, trong quan hệ này người cho vay chuyển giao
quyền sử dụng tiền trong một thời gian nhất định cho người đi vay. Khi đến hạn trả
nợ người đi vay có nghĩa vụ hoàn trả số tiền gốc và lãi vay.
Như vậy cho vay được hiểu như sau :Cho vay phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa
một bên là người cho vay (NHTM) còn bên kia là người vay (khách hàng vay vốn )
11
- Chiết khấu: là việc Ngân hàng Thương mại ứng trước tiền cho khách hàng tương
ứng với giá trị của thương phiếu sau khi đã trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng để
sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Về mặt pháp lý thì Ngân hàng không phải
là nhà cho vay với chủ sở hữu thương phiếu và chỉ là hình thức trao đổi trái quyền.
Tuy nhiên đối với Ngân hàng, việc bỏ tiền ở thời điểm hiện tại để thu về một khoản
tiền lớn hơn trong tương lai với lãi suất ấn định trước được coi như là hoạt động tín
dụng, nhưng có lẽ coi đây là một hoạt động đầu tư của Ngân hàng hơn là một hoạt
động tín dụng.
- Bảo lãnh: là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay khách
hàng của mình khi khách hàng của mình không có khả năng trả nợ. Mặc dù không
phải xuất tiền ra, song Ngân hàng vẫn thu được lợi từ khách hàng nhờ uy tín của
mình. Nghiệp vụ này được đưa vào tài khoản ngoại bảng của Ngân hàng. Tuy nhiên
nếu có nghiệp vụ phát sinh tức là Ngân hàng đứng ra thực hiện nghĩa vụ tài chính
thay cho khách hàng của mình thì nó lại được đưa vào tài khoản nội bảng.
- Cho thuê: là việc Ngân hàng đứng ra bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê
theo những điều kiện nhất định. Sau thời gian đó khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi
cho Ngân hàng. Đây là hoạt động khá mới mẻ với Ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động
này sinh lời khá cao, nhưng nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro trong đó có yếu tố về
công nghệ. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng không những phải có chuyên môn về
nghề nghiệp mà còn có cả sự hiểu biết về kỹ thuật, về công nghệ.
Căn cứ vào thời hạn tín dụng, tín dụng được chia thành 3 loại
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn cho vay đến 12 tháng. Tín dụng
ngắn hạn để cho vay bổ sung vốn lưu động cho các DN, cũng như nhu cầu sản xuất,
chi tiêu ngắn hạn của các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình.
- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn cho vay trên 12 tháng đến 60
tháng. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định,
cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng
các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu vốn nhanh. Bên cạnh đầu tư cho tài
12
sản cố định, tín dụng trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên
của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn cho vay trên 60 tháng. Tín dụng dài
hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà xưởng các
thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Nghiệp vụ truyền thống của các NHTM là cho vay ngắn hạn, nhưng ngày
nay trong nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển,
nhu cầu vốn trung dài hạn tăng lên, dẫn tới nghiệp vụ tín dụng trung dài hạn phát
triển theo. Nâng cao tỷ trọng cho vay trung, dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân
hàng đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới, hiện đại hoá tài sản cố định tạo ra
năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
Phân loại tín dụng theo tài sản đảm bảo: Nếu căn cứ vào tài sản đảm bảo thì ta
có các loại hình tín dụng sau đây:
- Tín dụng đảm bảo đó là sự cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản
đảm bảo thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Ngân hàng
trong trường hợp không trả được nợ. Trong trường hợp này khi khách hàng không
trả được nợ, hoặc vì sử dụng sai mục đích nguồn vốn vay dẫn đến không thanh toán
được thì Ngân hàng sẽ bán tài sản đi để thu hồi nguồn vốn. Tín dụng đảm bảo được
áp dụng đối với các khách hàng có độ rủi ro cao như khách hàng mới hay những
khách hàng có tình hình tài chính không tốt
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo đó là loại hình tín dụng mà khách hàng có nhu
cầu vay vốn với một hạn mức nhất định mà không cần tài sản đảm bảo. Loại tín
dụng này thường được cấp cho các khách hàng có uy tín cao, những khách hàng có
mối quan hệ tốt và lâu dài đối với Ngân hàng, họ có tình hình tài chính lành mạnh,
có mối quan hệ tốt với các tổ chức tài chính. Cũng có thể là các khoản vay thực hiên
theo chỉ thị của Chính phủ, hay Chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNNVV:
13
Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển các DNNVV rất cần đến
nguồn vốn tín dụng, vì vậy tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy các
DNNVV phát triển, thể hiện như sau:
Tín dụng ngân hàng góp phần tạo nên một cơ cấu vốn tối ưu, và nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn của DNNVV. Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh,
nhằm tối đa hoá lợi nhuận, các DNNVV cần có một cơ cấu vốn tối ưu. Phối hợp
hợp lý giữa vốn của chủ sở hữu và vốn tín dụng. Sử dụng nguồn vốn tín dụng
ngân hàng giúp cho các DNNVV phát huy được các đòn bẩy tài chính, nâng cao
hiệu quả hoạt động
Tín dụng ngân hàng bổ sung vốn cho các DNNVV, đảm bảo hoạt động của
DNNVV phát triển ổn định và nâng cao năng lực cạnh tranh. Cạnh tranh là một
quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển chiếm
lĩnh thị trường, thị phần, các DNNVV cần thiết phải cải tiến kỹ thuật, đổi mới
máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Mặt
khác để hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục không bị gián đoạn, các
DNNVV cần thiết phải dự trữ một lượng nhất định hàng hoá, nguyên nhiên vật
liệu. Để làm được việc này cần phải có vốn, trong khi trên thực tế thì rất ít có
DNNVV có đủ vốn để thực hiện. Tín dụng ngân hàng sẽ giúp các DNNVV chủ
động trong việc thực hiện mục đích của mình và bảo đảm cho sản xuất kinh
doanh được ổn địn
Mặt khác khi sử dụng vốn vay ngân hàng các DNNVV phải tuân theo các nguyên
tắc tín dụng, điều này giúp các DN phải luôn quan tâm đến việc sử dụng vốn vay
đúng mục đích, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, để hoàn trả nợ đúng hạn cả gốc và
lãi.
1.2.3. Mở rộng tín dụng Ngân hàng.
1.2.3.1. Khái niệm mở rộng hoạt động tín dụng:
Mở rộng có nghĩa là tạo ra sự gia tăng về quy mô, khối lượng số lượng, là
nói đến sự gia tăng theo chiều rộng. Như vậy mở rộng cho vay tức là ngân hàng
14
thực hiện tăng quy mô hoạt động cho vay trên cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động và
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
1.2.3.2 Rủi ro khi mở rộng tín dụng:
Để cạnh tranh với nhau các ngân hàng đã làm mọi cách để thúc đẩy việc bán sản
phẩm dịch vụ của mình nhằm mục đích mở rộng tín dụng của họ và thu hút khách
hàng mới điều này gây ra những lo ngại về rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân
hàng. Việc mở rộng tín dụng dễ dàng hơn cũng đặt các ngân hàng vào rủi ro cao
hơn. Do các ngân hàng nhận thấy tiềm năng trong lĩnh vực bán lẻ, các ngân hàng
cũng đang chạy đua để cung cấp cho khách hàng các sản phẩm tín dụng ưu đãi với
thời hạn dài hơn điều này gây khó khăn cho khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Trong cuộc đua thu hút khách hàng, rất nhiều sản phẩm tín dụng với mức tín dụng
cao và thời hạn dài, và không phải tất cả các ngân hàng có một hệ thống đánh giá
tín dụng để đưa ra quyết định, điều này tạo ra những rủi ro khá rõ ràng. Hệ thống
quản lý thông tin ở các ngân hàng hiện nay đang đối mặt với hàng loạt vấn đề.
Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) ở ngân hàng nhà nước đã đi vào hoạt động đã
lâu, nhưng không phải lúc nào cũng cung cấp những thông tin kịp thời và hiệu quả.
Các ngân hàng cũng thiếu sự kiểm soát đối với những khoản tín dụng đã cho vay.
Mở rộng tín dụng với các điều kiện dễ dàng hơn sẽ sẽ làm tăng rủi ro không chỉ cho
hệ thống ngân hàng mà còn cho cả nền kinh tế. Giữa những khó khăn về kinh tế như
hiện tại, việc mở rộng tín dụng có thể làm gia tăng lạm phát ở nước ta.
Các ngân hàng phải phân loại khách hàng rõ ràng hơn, cung cấp mức tín dụng phù
hợp với khả năng trả nợ của họ. Nhu cầu cho tín dụng tiếp tục tăng lên ở Việt Nam
và điều đó phản ánh một phần sự phát triển kinh tế của nước ta. Tuy nhiên, song
song với nó là việc kiểm soát rủi ro phải được đặt lên hàng đầu, như thế tín dụng
mới có thể thúc đẩy nhu cầu sử dụng cũng như nhu cầu chi tiêu của người tiêu
dùng mà không gây ra những nguy cơ về rủi ro tín dụng cho khu vực ngân hàng.
1.2.3.3. Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng hoạt động tín dụng
Chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng dư nợ
15
Dư nợ tín dụng là con số thời điểm, dư nợ tín dụng phản ánh số tiền mà khách hàng
đang nợ ngân hàng vào một thời điểm nhất định (thường là cuối ngày, cuối tháng,
cuối quý, cuối năm).
Nhóm chỉ tiêu dư nợ có các chỉ tiêu dẫn suất như sau:
+ Mức gia tăng dư nợ :
Mức gia tăng dư nợ = dư nợ kỳ này – dư nợ kỳ trước.
+ Tốc độ tăng trưởng dư nợ.
Dư nợ kỳ này – Dư nợ kỳ trước
Tốc độ tăng dư nợ =
_________________________________ ______
X 100%
Dư nợ kỳ trước
Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng dư nợ phản ánh sự gia tăng dư nợ cho vay so với một
điểm mốc thời gian nhất định (cuối kỳ trước, cùng kỳ năm trước…).
Chỉ tiêu dư nợ, mức gia tăng dư nợ, tốc độ tăng trưởng dư nợ là những chỉ tiêu rất
cơ bản để đánh giá mở rộng tín dụng. Suy cho đến cùng mục tiêu của mở rộng tín
dụng là tăng thu nhập từ hoạt động cho vay. Thu nhập từ hoạt động cho vay chủ yếu
là thu lãi. Khối lượng lãi tiền vay được xác định bằng dư nợ nhân với lãi suất cho
vay. Nếu bỏ qua yếu tố lãi suất cho vay thì thu lãi tiền vay tỷ lệ thuận với quy mô
dư nợ.
Để chi tiết hơn người ta còn có thể tính toán dư nợ bình quân của một thời kỳ. Dư
nợ bình quân là trung bình cộng dư nợ của các thời điểm trong kỳ phân tích.
Chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng số lượng khách hàng:
Mở rộng tín dụng còn được thể hiện thông qua việc mở rộng đối tượng cho vay.
Ngân hàng có thể mở rộng số lượng khách hàng thông qua việc lựa chọn nhiều đối
tượng cho vay khác nhau, bất kỳ loại đối tượng nào cũng có thể cho vay trừ những
đối tượng mà pháp luật có quy định về cấm giao dịch, mua bán, chuyển nhượng.
KH
1
– KH
0
Tăng trưởng khách hàng = x 100%
KH
0
Trong đó : KH
1
: là số DNNVV có hoạt động tín dụng với ngân hàng năm nay
16
KH
0
: là số DNNVV có hoạt động tín dụng với ngân hàng năm trước
Để tăng trưởng quy mô tín dụng ngoài việc tăng trưởng dư nợ, tăng mức đầu tư vốn
cho từng dự án, thì việc tăng thêm khách hàng là một trong những chỉ tiêu quan
trọng để mở rộng tín dụng.
Chỉ tiêu phản ánh sự mở rộng các loại hình tín dụng đối với DNNVV
Nói đến hình thức tín dụng là nói đến các loại hình tín dụng ngắn hạn, trung hạn,
dài hạn hoặc cho vay, bảo lãnh ngân hàng, thấu chi, cho thuê tài chính. Các phương
thức cấp tín dụng như từng lần, hạn mức, thấu chi, theo dự án đầu tư…
Mở rộng các hình thức cấp tín dụng là việc các ngân hàng phải gia tăng thêm các
hình thức, phương thức cấp tín dụng mới.
Chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận
+ Mức gia tăng lợi nhuận: Lợi nhuận từ hoạt động cho vay là kết quả còn lại sau khi
đã lấy thu nhập từ hoạt động cho vay trừ đi chi phí cho hoạt động cho vay
Mức gia tăng LN hoạt động cho vay = LN hoạt động cho vay kỳ này – LN từ hoạt
động cho vay kỳ trước
Mức gia tăng lợi nhuận trong hoạt động cho vay không chỉ phản ánh mở rộng cho
vay về mặt số lượng mà còn phản ánh mở rộng cho vay về mặt chất lượng. Mở rộng
cho vay tốt sẽ dẫn tới làm gia tăng tương ứng lợi nhuận của hoạt động cho vay.
+ Tốc độ tăng lợi nhuận
Tốc độ gia tăng LN kỳ này- LN kỳ trước
Lợi nhuận =
_________________________________
X 100%
Cho vay LN kỳ trước
Chỉ tiêu phản ánh nợ xấu
Nợ xấu là những khoản nợ đã xuất hiện khả năng xảy ra rủi ro cao. Chỉ tiêu nợ xấu
là một trong những chỉ tiêu đo lường mở rộng cho vay về mặt chất lượng.
Theo quy định hiện hành thì dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng được phân chia
thành 05 nhóm: từ nhóm 1 đến nhóm 5 theo mức độ rủi ro khác nhau. Nợ xấu là
tổng dư nợ của các khoản cho vay được phân loại từ nhóm 3 đến nhóm 5. Cơ sở
pháp lý để các NHTM tiến hành phân loại dư nợ là quyết định 493 của ngân hàng
17
Nhà nước. Theo quyết định 493 của ngân hàng Nhà nước căn cứ để phân loại dư nợ
thành 5 nhóm là khả năng xảy ra rủi ro của các khoản cho vay mà thể hiện ra ngoài
chính là thời gian đã các khoản vay đã quá hạn theo hợp đồng đã ký với các NHTM
Đối với các ngân hàng thương mại thì việc quản lý chất lượng tín dụng có ý nghĩa
vô cùng quan trọng đối với mở rộng cho vay. Nếu quản lý tốt chất lượng cho vay thì
đó là nhân tố thúc đẩy mở rộng cho vay, ngược lại nếu quản lý không tốt chất lượng
tín dụng thì sẽ tác động tiêu cực đến mở rộng cho vay.
Liên quan đến nợ xấu có các chỉ tiêu như sau:
+ Tổng dư nợ xấu = tổng dư nợ các khoản cho vay được xếp loại từ nhóm 3 đến
nhóm 5.
+ Mức giảm nợ xấu
Nếu đem so sánh tổng dư nợ xấu giữa các thời kỳ ta có chỉ tiêu mức giảm nợ xấu
Mức giảm nợ xấu = dư nợ xấu kỳ trước – dư nợ xấu kỳ này.
+ Tỷ lệ nợ xấu
Tổng dư nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =
_________________________________ ______
X 100%
Tổng dư nợ
+ Cơ cấu nợ xấu:
Dư nợ nhóm i
Tỷ lệ nợ nhóm i =
_________________________________ ______
x 100%
Tổng dư nợ xấu
Chỉ tiêu cơ cấu nợ xấu phản ánh tỷ trọng từng nhóm nợ trong tổng nợ xấu
1.2.4. Sự cần thiết của việc mở rộng tín dụng đối với các DNNVV tại các NHTM
1.2.4.1 Mối quan hệ giữa Ngân hàng và DNNVV:
Có nhiều kênh cung cấp vốn cho DNNVV trong đó kênh vốn tín dụng ngân hàng là
kênh trực tiếp quan trọng và là tổ chức, trung gian tạo điều kiện DNNVV tiếp cận
nguồn vốn ưu đãi. Theo Cục DNNVV (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy, chỉ có
32,38% DNNVV có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn, 35,25% khó tiếp cận,
còn lại không thể tiếp cận. Trong số DN tại VN không tiếp cận được vốn vay ngân
18
hàng thì 80% không đáp ứng đủ điều kiện cho vay. Chính vì sự khó khăn này nên
có nhiều ý kiến cho rằng, ngân hàng đang “gây khó dễ” với các DNNVV.
Thực tế, khi xem xét hồ sơ vay vốn của DN, ngân hàng thường quan tâm đến các
yếu tố như phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư của DN, tình hình tài
chính, kết quả hoạt động kinh doanh dựa trên các báo cáo tài chính Nguyên nhân
trước hết nằm ở phía các DNNVV và các chính sách vĩ mô liên quan hơn là ở phía
“rườm rà thủ tục” của các tổ chức tín dụng. Nguồn vốn của ngân hàng còn hạn hẹp,
năng lực thẩm định còn hạn chế do đó phải thận trọng trong các quyết định cho vay.
Điều làm cho DNNVV khó tiếp cận vốn vì ngân hàng e ngại về “tư cách” vay vốn,
về năng lực trả nợ…
Thực tế, từ lâu dù có văn bản hay không thành văn bản thì các DNNVV của VN đều
được các NHTM coi là “khách hàng truyền thống”. Nhưng đáng tiếc chỉ "truyền
thống" về phương diện nhóm khách hàng, loại khách hàng chứ ít DNNVV nào được
trở thành khách hàng truyền thống với tư cách một pháp nhân đích danh giữ mối
quan hệ lâu dài, chung thủy và có uy tín với NHTM.
Bản thân các DNNVV ngoài nỗi khổ vì “thấp bé nhẹ cân” còn bị chịu cảnh cạnh
tranh không đồng nhất vì yếu thế các quyền lợi tiếp cận tài nguyên quốc gia như
mặt bằng, lao động, công nghệ, đào tạo, thị trường so với các doanh nghiệp nhà
nước. Nếu không có các quy định chuẩn mực hóa thông qua hệ tiêu chí hay các điều
kiện chuẩn mực về điều kiện vay vốn ngân hàng cho sản xuất, kinh doanh thì các
DNNVV cũng sẽ khó tiếp cận vốn ngân hàng. Bên cạnh đó, các DNVVVN hầu như
không thể huy động vốn bằng con đường lên sàn để phát hành trái phiếu công ty
hay cổ phiếu tăng vốn. Chính vì vậy, phải xem xét vấn đề tiếp cận vốn của DNNVV
trên cơ sở mối quan hệ lợi ích giữa DN này với DN khác trong môi trường thị
trường cạnh tranh. Bởi ngoài nguồn vốn tự có, các DNNVV hầu như chỉ nhờ vào
vốn NHTM, hơn nữa do đặc thù của từng ngành hàng mà giữa các DN hoặc giữa
các DN với bên bán hàng và bên mua hàng sử dụng vốn “gối đầu” của nhau để duy
trì sản xuất và tiêu thụ hàng hóa
1.2.4.2 Sự cần thiết của việc mở rộng tín dụng đối với các DNNVV tại NHTM
19
Trước thực trạng cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế thị trường, các ngân hàng
thương mại và tất cả các doanh nghiệp đều tập trung chiếm lĩnh thị trường. Ở nước
ta chủ yếu là nền sản xuất nhỏ, các dịch vụ ngân hàng hiện đại còn hạn chế vì vậy
hoạt động tín dụng chưa có điều kiện phát triển. Qua đó việc mở rộng hoạt động tín
dụng mà tập trung vào việc mở rộng cho vay của các NHTM không chỉ đem lợi ích
cho chính NHTM mà còn thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vì vậy, mở rộng tín dụng
đối với các NHTM hiện nay là nhu cầu nhất thiết. Lợi ích cụ thể của mở rộng cho
tín dụng đem lại cho các NHTM được cụ thể như sau
Mở rộng tín dụng làm gia tăng lợi nhuận của các ngân hàng thương mại: Mục
tiêu hoạt động của các ngân hàng thương mại là lợi nhuận. Các ngân hàng
thương mại đều mong muốn có lợi nhuận ngày càng tăng. Muốn có lợi nhuận
ngày càng cao phải gia tăng các hoạt động trong đó có việc gia tăng cho vay.
Đối với các ngân hàng thương mại truyền thống hoạt động chủ yếu là các nghiệp
vụ truyền thống thì việc mở rộng này còn có ảnh hưởng lớn hơn đối với lợi
nhuận, thậm chí còn là nhân tố quyết định đến gia tăng lợi nhuận:
Mở rộng tín dụng giúp cho các ngân hàng thương mại quản trị rủi ro tốt hơn:
Các ngân hàng thương mại luôn phải đối mặt với rủi ro tín dụng, rủi ro tín dụng
có thể bắt nguồn từ việc cho vay quá tập trung: dồn vốn cho vay vào quá ít số
lượng khách hàng, cho vay tập trung vào một ngành, một địa phương, một loại
cho vay…Mở rộng phạm vi hoạt động này dẫn tới vốn vay của các ngân hàng
thương mại dàn trải hơn (đa dạng hoá sản phẩm) điều đó hạn chế được rủi ro tín
dụng .
Mở rộng tín dụng giúp cho các ngân hàng nâng cao vị thế cạnh tranh và phát
triển ổn định: Vị thế của các ngân hàng là thứ bậc xếp hạng trong hệ thống ngân
hàng. Người ta xếp loại ngân hàng căn cứ vào nhiều yếu tố trong đó có yếu tố
quy mô tài sản và quy mô lợi nhuận. Mở rộng tín dụng sẽ làm gia tăng quy mô
tài sản, tăng lợi nhuận, tăng số lượng khách hàng, mở rộng thị phần, tăng mạng
lưới phân phối. Những nhân tố gia tăng đó sẽ gia tăng vị thế của ngân hàng
thương mại
20
1.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC MỞ RỘNG TÍN DỤNG NHTM
ĐỐI VỚI DNNVV:
1.3.1. Các nhân tố chủ quan:
1.3.1.1. Từ phía Ngân hàng:
Năng lực, uy tín của ngân hàng:
- Hệ thống tổ chức và cơ cấu vận hành của bộ máy ngân hàng: Hệ thống tổ chức và
cơ cấu vận hành của bộ máy ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng hoạt
động tín dụng của ngân hàng. Mạng lưới hoạt động rộng là nhân tố tác động tích
cực đến mở rộng tín dụng, mạng lưới rộng sẽ tạo điều kiện mở rộng nguồn huy
động vốn, từ đó mà tác động đến cho vay. Mạng lưới rộng sẽ tạo điều kiện cho
khách hàng giao dịch thuận tiện hơn từ đó mở rộng tín dụng.
Trong nền kinh tế hiện nay, các NHTM đặc biệt là các NHTMCP đang theo đuổi
chiến lược Ngân hàng bán lẻ nên mạng lưới hoạt động là nhân tố quan trọng để mở
rộng các hoạt động tín dụng. Thông thường các NHTM khi thành lập có trụ sở đóng
ở các đô thị lớn sau đó mở các chi nhánh về các địa phương nơi có kinh tế phát triển
để mở rộng tín dụng.
- Về nguồn vốn: Quy mô vốn của ngân hàng quyết định mở rộng cho tín dụng, chỉ
khi có nguồn vốn mới có thể mở rộng được tín dụng. Vốn tự có của ngân hàng
thương mại thể hiện sức mạnh về tài chính của ngân hàng đó, vốn tự có càng cao
chứng tỏ ngân hàng đó càng mạnh. Để quản lý quy mô hoạt động thì các ngân hàng
thương mại phải đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động theo thông tư 13/2010/TT-
NHNN. Mặt khác để quản trị rủi ro, NHNN có đưa ra các giới hạn như giới hạn cho
vay đối với một khách hàng ( không quá 15% vốn tự có), tỷ lệ dùng vốn ngắn hạn
để cho vay trung dài hạn, tỷ lệ dùng vốn tự có để mua sắm tài sản cố định. Những
nhân tố đó sẽ trực tiếp hay gián tiếp tác động đến mở rộng tín dụng của các ngân
hàng thương mại.
Bên cạnh việc tăng thêm vốn tự có, để mở rộng tín dụng các NHTM phải tích
cực mở rộng huy động vốn trong và ngoài nước, dưới nhiều hình thức để đáp ứng
nhu cầu vốn tín dụng của các DNNVV.
21
- Quy mô và chất lượng CBCNV của ngân hàng cũng có tác động đến mở rộng tín
dụng. Muốn mở rộng tín dụng phải có nguồn nhân lực tương ứng. Nguồn nhân lực
không những có đủ về số lượng mà còn phải đáp ứng về chất lượng. Với đội ngũ
nhân viên được đào tạo bài bản, nắm vững và vận dụng linh hoạt quy trình nghiệp
vụ thì hoạt động tín dụng sẽ có nhiều cơ hội để phát triển, các rủi ro sẽ được kiềm
chế. Nếu chất lượng cán bộ tín dụng không đảm bảo sẽ ảnh hưởng xấu tới chất
lượng tín dụng từ đó mà tác động đến mở rộng tín dụng. Không chỉ nguồn nhân lực
trực tiếp mà số lượng cũng như chất lượng hệ thống kiểm soát tín dụng cũng cần
phải được bố trí tương ứng để đảm bảo kiểm soát chất lượng tín dụng.
- công nghệ: Với hệ thống thiết bị và công nghệ hiện đại, các thao tác và quy trình
sẽ được rút ngắn tạo điều kiện thoải mái cho khách hàng, từ đó giảm thiểu chi phí
hoạt động cho ngân hàng. Công nghệ còn giúp cho việc cung cấp thông tin, điều
chuyển vốn dư thừa hoặc thiếu hụt giữa các chi nhánh trong hệ thống trở nên thuận
lợi hơn, góp phần quyết định vào việc mở rộng hoạt động tín dụng. Khi mở rộng tín
dụng số lượng các giao dịch tăng lên, giá trị các giao dịch tăng lên đòi hỏi phải cải
tiến công nghệ quản lý. Ngược lại khi công nghệ quản lý hiện đại sẽ tăng năng suất
lao động, tăng chất lượng sản phẩm, đa dạng của sản phẩm tín dụng, như là các
thông số sản phẩm về kỳ hạn, phương thức nhận gửi, phương thức thanh toán từ
đó có tác động trở lại với mở rộng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
- Uy tín của Ngân hàng cũng là nhân tố tác động đến mở rộng tín dụng. Ngân hàng
có uy tín sẽ là nhân tố tác động tích cực đến mở rộng tín dụng và ngược lại ngân
hàng không có uy tín sẽ hạn chế mở rộng tín dụng. Một ngân hàng có uy tín, ngân
hàng đó có thể huy động đủ vốn để mở rộng hoạt động tín dụng và ngược lại, nếu
không có uy tín sẽ không thể mở rộng được hoạt động này.
Chiến lược và chính sách tín dụng của Ngân hàng
- Căn cứ vào tình hình thực tế và từng giai đoạn cụ thể các NHTM để xây dựng
chiến lược hoạt động, được cụ thể hoá bằng những chính sách như chính sách tín
dụng, chính sách khách hàng, chính sách giá cả, chính sách về sản phẩm… Chính
22
sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ, đường lối phát triển của ngân hàng và nó
có ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng tín dụng DNNVV của ngân hàng đó.
- Quan điểm cho vay của các ngân hàng phụ thuộc vào tình trạng vốn của các ngân
hàng, tình trạng của thị trường và tình trạng tín dụng của ngân hàng đó. Thông
thường khi vốn khả dụng cao, chất lượng tín dụng đang đảm bảo, nhu cầu của người
vay lớn thì các ngân hàng có quan điểm cởi mở hơn và ngược lại nếu vốn khả dụng
thấp, tình trạng chất lượng tín dụng xấu, thị trường ảm đạm thì các ngân hàng hạn
chế tín dụng.
- Một chiến lược hoạt động đúng đắn, với tầm nhìn dài hạn và có những bước đi
vững chắc, một chính sách tín dụng phù hợp sẽ là kim chỉ nam cho hoạt động này đi
đúng hướng, thúc đẩy hoạt động tín dụng phát triển ổn định, bền vững, ngược lại
nó sẽ kìm hãm tăng trưởng, mở rộng tín dụng.
1.3.1.2 Từ phía DNNVV:
Để đảm bảo khoản tín dụng xử dụng có hiệu quả, mang lại lợi ích cho ngân hàng
góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội thì khách hàng có vai trò
hết sức quan trọng. Một khách hàng có tư cách đạo đức tốt, có tình hình tài chính
vững vàng, có thu nhập sẽ sẵn sàng hoàn trả đầy đủ những khoản vốn vay của Ngân
hàng khi đến hạn, qua đó đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng và tín dụng.
Những nhân tố này bao gồm:
Năng lực tài chính và đạo đức của khách hàng:
- Vốn khả năng tài chính của doanh nghiệp: Có nhiều nhóm chỉ tiêu khác nhau biểu
hiện tình hình tài chính, khả năng độc lập tài chính của doanh nghiệp như nhóm chỉ
tiêu về khả năng thanh toán, nhóm chỉ tiêu hoạt động, nhóm chỉ tiêu cơ cấu vốn,
nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận. Ngoài ra khi xem xét về tình hình tài chính ngân hàng
còn quan tâm đến luồng tiền vào, luồng tiền ra, dự trữ ngân quỹ …. Khả năng tài
chính tốt là điều kiện để doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư
mua sắm thiết bị tiên tiến, sản xuất sản phẩm có chất lượng cao, chiếm lĩnh thị
trường và đem laị lợi nhuận lớn, hoạt động tốt là điều kiện để doanh nghiệp trả nợ
cho ngân hàng .
23
- Tư cách, đạo đức của người vay: Tư cách đạo đức xét trên phương diện ý muốn
hoàn trả khoản nợ vay, trong nhiều trường hợp người vay có ý muốn chiếm đoạt
vốn, không hoàn trả nợ vay mặc dù có khả năng trả nợ, điều này đã gây ra những
rủi ro không nhỏ cho ngân hàng
Trình độ khả năng của cán bộ đội ngũ cán bộ lãnh đạo của doanh nghiệp.
- Đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, đạo đức tốt sẽ có khả năng đưa ra chiến
lược kinh doanh, cạnh tranh phù hợp giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển.
Doanh nghiệp làm ăn tốt là điều kiện để họ bù đắp chi phí kinh doanh và và trả nợ
ngân hàng cả gốc và lãi đúng hạn, qua đó giảm rủi ro và nâng cao chất lượng tín
dụng.
- Trình độ năng lực cán bộ của doanh nghiệp là điều kiện quan trọng và được ngân
hàng xem xét kỹ trước khi cấp tín dụng.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp:
Trên cơ sở nhận định một cách khách quan, chính xác khả năng phát triển sản xuất
của doanh nghiệp, thị hiếu của người tiêu dùng vơi sản phẩm của doanh nghiệp
mình cùng với những yếu tố thuận lợi, khó khăn của môi trường, doanh nghiệp sẽ
quyết định kế hoạch chiến lược mở rộng thu hẹp hay ổn định sản xuất, từ đó xây
dựng các kế hoạch cụ thể về sản xuất, thiêu thụ. Việc xây dựng các kế hoạch kinh
doanh đúng đắn quyết định đến dự thành công hay thất bại của của một doanh
nghiệp
Tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức công tác tiêu thụ sản: phẩm của
doanh nghiệp.
Hiện nay, các doanh nghiệp không chỉ kinh doanh bó hẹp trong một phạm vi nhỏ,
số lượng mặt hàng ít mà họ thường kinh doanh đa dạng các mặt hàng, mở rộng
mạng lưới tiêu thụ ra nhiều khu vực lãnh thổ, từ các tỉnh thành phố trong nước ra
các nước trong khu vực và thế giới. Sự hình thành mạng lưới hoạt động phức tạp
như thế đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự tổ chức sản xuất và tiêu thụ hợp lý. Tổ
chức tốt việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là yếu tố giúp quá trình tái sản xuất diễn
ra được thông suốt, nhanh chóng, tăng khả năng quay vòng vốn, tiết kiệm chi phí và
24
tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là sự đảm
bảo cho ngân hàng nâng cao chất lựơng tín dụng.
1.3.2.Các nhân tố khách quan:
Môi trường chính trị xã hội:
- Sự ổn định về chính trị- xã hội sẽ thu hút đầu tư, các doanh nghiệp yên tâm đưa ra
quyết định đầu tư do vậy mà nhu cầu vốn cho đầu tư mới đầu tư mở rộng sản xuất
gia tăng. Nếu môi trường chính trị, xã hội không ổn định sẽ làm các nhà đầu tư rút
vốn đầu tư dẫn đến nhu cầu vốn sẽ giảm theo.
- Ổn định chính trị là tiền đề để ổn định và phát triển kinh tế, giữa ổn định chính trị
và ổn định và phát triển kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau. Kinh tế phát
triển ổn định, chính trị và an ninh giữ vững là nhân tố thúc đẩy sán xuất kinh doanh
từ đó mà tạo điều kiện mở rộng cho vay.
- Không chỉ có chính trị trong nước mà tình hình chính trị quốc tế cũng tác động
đến mở rộng cho tín dụng. Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu, các nền kinh tế của các
quốc gia hiện nay đều phát triển theo xu hướng phát triển nền kinh tế mở để tranh
thủ cơ hội phát triển kinh tế. Nền kinh tế mở chịu ảnh hưởng rất lớn của nền kinh tế
thế giới. Các biến động thị trường thế giới ngay lập tức tác động đến nền kinh tế
trong nước, và thông qua đó tác động đến giá cả và tác động đến sản xuất, từ sản
xuất sẽ tác động đến hoạt động tín dụn của ngân hàng. Nền kinh tế thế giới phát
triển ổn định là nhân tố thúc đẩy mở rộng tín dụng.
Môi trường kinh tế vĩ mô:
- Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân hàng phát
triển. Nền kinh tế ổn định, lạm phát thấp không có khủng hoảng, hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành tốt có hiệu quả mang lại lợi nhuận cao,
doanh nghiệp hoàn trả được vốn vay ngân hàng cả gốc và lãi, nên hoạt động tín
dụng của ngân hàng phát triển. Ngược lại trong thời kỳ suy thoái kinh tế, sản xuất
kinh doanh bị thu hẹp, đầu tư, tiêu dùng giảm sút, lạm phát cao, nhu cầu tín dụng
giảm, vốn tín dụng đã thực hiện cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hoặc trả nợ
25