LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: "Giải pháp nâng cao chất lượng
thẩm định cho vay dự án đầu tư tại Trụ sở chính Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Việt Nam" là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng./.
Hà Nội, ngày … tháng … năm …
Tác giả luận văn
Trương Ngọc Anh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CB - CNV : Cán bộ công nhân viên
DA : Dự án
DAĐT : Dự án đầu tư
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
HĐQT : Hội đồng quản trị
HTX : Hợp tác xã
HSX : Hộ sản xuất
NH : Ngân hàng
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHNo&PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
NHNo&PTNTVN : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam
NHTM : Ngân hàng thương mại
QSDĐ : Quyền sử dụng đất
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TCTD : Tổ chức tín dụng
TĐ : Thẩm định
TSC : Trụ sở chính
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH, SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhằm phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, đòi hỏi các thành phần kinh tế nói chung, các doanh nghiệp nói
riêng phải chủ động trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh của mình,
khai thác các dự án đầu tư một cách có hiệu quả. Đặc biệt khi nước ta gia
nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), bên cạnh những thời cơ thuận lợi là
những thách thức phải vượt qua, vấn đề tự do hoá thương mại đó làm chó tính
cạnh tranh không còn dừng lại ở trong nước mà mang tính toàn cầu.
Các doanh nghiệp là đội quân chủ lực trong phát triển và hội nhập, các
dự án đầu tư cho các doanh nghiệp thực hiện, chiếm phần lớn trong các dự án
đầu tư của nền kinh tế, đặc biệt trong các lĩnh vực như: Điện lực, giao thông,
cơ khí chế tạo, vật liệu xây dựng, bưu chính viễn thông, dầu khí, thuỷ hải sản,
thương mại dịch vụ, nông lâm nghiệp…
Các dự án trên chỉ có tính khả thi khi có đủ cơ sở để thực hiện. Đó là
những cơ sở về mặt pháp lý, khả năng tài chính của doanh nghiệp, hiệu quả về
mặt tài chính của dự án, thị trường, công nghệ và môi trường, khả năng tổ
chức quản lý và nguồn vốn thực hiện dự án…
Tác động mặt trái của kinh tế thị trường, tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các sản phẩm hàng hóa và giữa các
doanh nghiệp với nhau, sự ganh đua nhau đi tìm dự án đầu tư, bất biết dự án
có hiệu quả hay không, bản thân doanh nghiệp có năng lực tổ chức thực hiện
hay không, thậm chí có trường hợp dự án "ma", doanh nghiệp "ma" hoặc
nhiều doanh nghiệp đổ xô vào sản xuất kinh doanh một mặt hàng mà không
tính đến yếu tố thị trường….
Một trong những nhân tố quyết định sự thành công của dự án là vốn,
trong đó vốn tín dụng của ngân hàng đóng vai trò quan trọng hỗ trợ doanh
nghiệp trong việc thực thi dự án. Muốn được vay vốn ngân hàng, doanh
nghiệp phải có dự án khả thi, được ngân hàng thẩm định có hiệu quả và quyết
định cho vay.
Nhưng thẩm định như thế nào, bằng kỹ năng, phương pháp nào và dựa
trên những tiêu chí, chuẩn mực ra sao để mang lại chất lượng và hiệu quả tốt
nhất có chất lượng nhất, là cả một vấn đề không đơn giản.
Thực chất việc thẩm định cho vay là thẩm định các điều kiện vay vốn
của doanh nghiệp. Để đáp ứng được các yêu cầu đó, cán bộ làm công tác thẩm
định phải tinh thông nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật, nắm bắt thông tin kịp thời,
có kiến thức tin học, ngoại ngữ, có kỹ năng và phương pháp thẩm định thuần
thục nhằm đưa ra những nhận xét, kết luận chính xác về việc cho vay hay
không cho vay đối với dự án để giúp lãnh đạo trong việc quyết định cho vay.
Mục đích cuối cùng của việc thẩm định cho vay là nhằm nâng cao chất
lượng tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra trong
việc cho vay, đảm bảo khả năng thu nợ vốn vay, bảo toàn vốn của ngân hàng
và giúp doanh nghiệp có vốn để thực hiện dự án nhằm phát triển kinh tế xã
hội, phát triển doanh nghiệp…
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài "Giải pháp nâng cao
chất lượng thẩm định cho vay dự án đầu tư tại Trụ sở chính Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam" làm đề tài của luận văn
thạc sỹ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm lý luận về dự án đầu tư và chất lượng
thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại.
- Phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại
Trụ sở chính NHNo&PTNT Việt Nam.
- Đưa ra hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án
đầu tư tại Trụ sở chính NHNo&PTNT Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu về dự án đầu tư và chất lượng thẩm định cho vay dự
án đầu tư, thông qua phương pháp, quy trình, nội dung, hình thức thẩm định.
- Những vấn đề trên được nghiên cứu tại Trụ sở chính NHNo&PTNT
Việt Nam trong giai đoạn 2003-2006.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ những nguyên lý chung, luận văn vận dụng tổng hợp các
phương pháp: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, áp dụng điều tra, thống kê,
phân tích và so sánh… làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận văn
Tên đề tài: "Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định cho vay dự án
đầu tư tại Trụ sở chính NHNo&PTNT Việt Nam"
Kết cấu: Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Chất lượng thẩm định cho vay dự án đầu tư tại Ngân
hàng Thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định cho vay dự án đầu
tư tại Trụ sở chính Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
thẩm định cho vay dự án đầu tư tại Trụ sở chính ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Chương 1
CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH CHO VAY DỰ ÁN ĐẦU TƯ
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ VAI TRÒ CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.1.1. Dự án đầu tư
1.1.1.1. Khái niệm dự án đầu tư
Để không ngừng phát triển kinh tế xã hội của đất nước một cách bền
vững, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, tăng trưởng GDP theo mục tiêu
mà Đảng và Nhà nước đã đề ra thì phải quan tâm đến đầu tư để phát triển.
Tuy nhiên, để đầu tư đạt được mục tiêu đề ra, góp phần thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế thì khâu quan trọng trước hết là phải tiến hành tạo lập dự
án đầu tư trên cơ sở khoa học và có tính khả thi.
Vì vậy, thuật ngữ "dự án đầu tư" được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên,
trước khi có luật xây dựng năm 2003 và luật đầu tư sửa đổi năm 2005, thuật
ngữ "Dự án đầu tư" vẫn chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh theo luật. Có tài
liệu cho rằng, dự án đầu tư là mộ tập hợp hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi
tiết và hệ thống các hoạt động sẽ được thực hiện với các nguồn lực và chi phí,
được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ nhằm đạt được những hiệu quả cụ thể
để thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Ngân hàng nhà nước
Việt Nam cho rằng, dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất về nhu cầu
vốn, cách thức sử dụng vốn, kết quả tương ứng thu được trong một khoảng
thời gian xác định đối với hoạt động cụ thể để sản xuất kinh doanh, dịch vụ,
đầu tư phát triển hoặc phục vụ đời sống. WB xem dự án đầu tư là tổng thể các
chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau được hoạch định nhằm
đạt những mục tiêu nhất định trong một thời gian nhất định. Nghị định số
52/1999/NĐ-CP giải thích dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên
quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất
nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến
nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác
định. Đây là khái niệm được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài.
1.1.1.2. Cơ cấu nội dung dự án đầu tư
Mặc dù dự án đầu tư được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau, song về
bản chất, dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất cho việc bỏ vốn đầu tư trong
một thời gian xác định, về hình thức đó là tài liệu do chủ đầu tư chịu trách
nhiệm lập, trong đó có thể hiện một cách đầy đủ, khoa học và toàn diện các
nội dung, các vấn đề có liên quan đến quá trình đầu tư.
Đối tượng đầu tư và cách thức triển khai thực hiện dự án đố với từng dự
án cụ thể, có thể khác nhau, nhưng cơ cấu nội dung của một dự án đầu tư phải
tuân thủ theo một cách thức nhất định.
Một dự án đầu tư mang tính chuẩn mực phải xác định được các nội dung
có liên quan như sau: (1) Sự cần thiết phải đầu tư bao gồm các căn cứ về pháp
lý và thực tiễn để xây dựng dự án; (2) Quy mô, phương diện kỹ thuật và giải
pháp thực hiện; (3) Tác động môi trường; (4) Tổng mức đầu tư và cơ cấu
nguồn vốn thực hiện; (5) Hiệu quả tài chính của dự án; (6) Khả năng tổ chức
quản lý thực hiện dự án; (7) Kết luận, kiến nghị.
Để xây dựng được những nội dung mang tính khoa học nêu trên đòi hỏi
chủ đầu tư phải có một thời gian nghiên cứu, xem xét, phân tích, đánh giá các
khía cạnh có liên quan đến dự án, những thuận lợi, khó khăn, thách thức khi
tổ chức thực hiện dự án, nhất là trên các phương diện: Cơ sở pháp lý, địa
điểm xây dựng, thực hiện dự án, thị trường đầu vào, đầu ra của sản phẩm,
thiết bị công nghệ, phương diện kỹ thuật, tài chính của dự án, tác động môi
trường, tổ chức quản lý… nhằm mang lại sự thành công, hiệu quả cao nhất
của dự án.
Như vậy là, cơ cấu nội dung dự án là trình tự sắp xếp các nội dung của
dự án theo một trình tự khoa học và nội dung của dự án phải thoả mãn các
yêu cầu cụ thể như sau:
Một là, tính pháp lý. Tính pháp lý được thể hiện không vi phạm những
điều cấm về an ninh, quốc phòng, thuần phong mỹ tục cũng như không chứa
đựng những điều trái luật pháp, chính sách của nhà nước. Muốn vậy, cần
nghiên cứu đầy đủ hệ thống luật pháp liên quan đến lĩnh vực dự định đầu tư
như Luật xây dựng, Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật lao động, Luật đất
đai, Luật thuế và các luật khác có liên quan, các văn bản pháp lý dưới luật,
chính sách chế độ…
Hai là, tính khoa học. Tính khoa học được thể hiện thông qua:
- Số lượng thông tin phải bảo đảm trung thực (phải có nguồn gốc xuất xứ
những thông tin và số liệu thu thập được).
- Phương pháp tính toán phải hợp lý, logic và chặt chẽ giữa các nội dung
của DAĐT.
Ba là, tính thực tiễn, thể hiện dự án có khả năng ứng dụng và triển khai
trong thực tế. Dự án phải phản ánh đúng môi trường đầu tư (được xây dựng
trong hoàn cảnh điều kiện cụ thể về thị trường, vốn, nguồn nguyên liệu).
Bốn là, tính hiệu quả, thể hiện thông qua dòng tiền của dự án, lợi nhuận
và lợi ích kinh tế xã hội mà dự án mang lại. Để đảm bảo tính hiệu quả của dự
án đầu tư thì khi xây dựng dự án cần tính kỹ và nắm chắc số liệu về định mức
kinh tế kỹ thuật, các yếu tố đầu vào, đầu ra cũng như thị trường tiêu thụ sản
phẩm của dự án.
Mặt khác, cần khẳng định rằng, các dự án đầu tư ở những lĩnh vực khác
nhau thì có những nội dung cụ thể không giống nhau, nhưng đều có một số
đặc trưng cơ bản sau: (1) Mỗi một dự án đầu tư không chỉ là một ý định hay
chỉ là một sự phác thảo mà đều có một mục tiêu rõ ràg, cụ thể cần đạt tới. (2)
Dự án đầu tư không phải là một nghiên cứu hay dự báo là một quá trình tác
động tạo nên một thực thể mới, phù hợp với mục tiêu mong đợi. (3) Dự án
đầu tư là một hoạch định cho tương lai nên bao giờ cũng có độ biến động và
những rủi ro nhất định. (4) Dự án đầu tư phải có thời gian (có bắt đầu và kết
thúc) và có những giới hạn nhất định về các nguồn lực.
1.1.2. Vai trò của dự án đầu tư
Dự án đầu tư có vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước nói chung và từng doanh nghiệp, chủ đầu tư cũng như các
nhà tài trợ vốn nói riêng. Sự thành công hay thất bại của dự án tác động ảnh
hưởng đến nhiều lĩnh vực có liên quan của nền kinh tế. Do vậy, khi nghiên
cứu luận văn cho rằng cần làm rõ vai trò dự án để từ đó nhìn nhận thẩm định,
đánh giá dự án đầu tư sâu sắc hơn. Vai trò dự án đầu tư được thể hiện thông
qua các khía cạnh cụ thể sau:
Một là, đối với nhà đầu tư. Trước hết, dự án đầu tư là một căn cứ quan
trọng nhất để nhà đầu tư quyết định có nên tiến hành đầu tư hay không, vì sau
khi thiết lập nhà đầu tư sẽ thấy rõ những mặt thuận lợi, khó khăn mà dự án
chịu tác động. Xác định được tiềm năng và triển vọng do dự án mang lại,
hoạch định được chiến lược và cơ hội đầu tư của mình. Đối với nhà đầu tư,
doanh nghiệp, DAĐT còn khẳng định vị thế, vai trò của họ trên thương
trường, tạo lập hình ảnh và thương hiệu của nhà đầu tư trong nước cũng như
quốc tế. Dự án đầu tư thành công sẽ mang lại hiệu quả về mặt kinh tế cho nhà
đầu tư thông qua lợi nhuận thu được từ dự án, làm tăng năng lực về khả năng
tài chính cho doanh nghiệp, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người
lao động cũng như đóng góp cho ngân sách nhà nước. Mặt khác, dự án đầu tư
còn là cơ sở cho các nhà đầu tư xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi, đôn đốc
và kiểm tra quá trình thực hiện dự án và đồng thời là công cụ, cơ sở để các
đối tác liên doanh, góp vốn quyết định đầu tư vào dự án, là căn cứ soạn thảo
các hợp đồng cũng như giải quyết tranh chấp giữa các bên liên quan.
Hai là, đối với Nhà nước. Căn cứ vào tiềm năng kinh tế - xã hội của đất
nước, của từng ngành và địa phương, trên cơ sở đúc kết những thành công
cũng như thất bại của dự án đầu tư đã được triển khai và các dự án xây dựng
hiện tại cũng như trong tương lai, nhà nước xác định quy hoạch phát triển
ngành nghề có liên quan, hoạch định chính sách đầu tư, tạo hành lang pháp lý
cho các dự án đầu tư, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong đầu tư.
Dự án đầu tư tạo đà cho việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp
phần cơ bản cho việc tăng trưởng GDP, tăng thu cho ngân sách nhà nước,
nâng cao vị thế của từng địa phương, từng ngành trên cả nước và trên trường
quốc tế, nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Dự án đầu tư còn có vai trò khởi dậy và đánh thức các tiềm năng kinh tế
của đất nước, biến các của cải vật chất của nước nhà trong trong lòng đất,
biển cả, rừng núi và những tri thức, sức lao động cần cù của con người trở
thành sản phẩm hàng hóa.
DAĐT còn là tài liệu để các cấp có thẩm quyền xem xét thẩm định để
cho phép đầu tư hay không đầu tư (Đối với các dự án đầu tư theo quy định
của pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép đầu tư) và
làm cơ sở cho chủ đầu tư phê duyệt dự án, quyết định đầu tư đúng hướng.
Ba là, đối với các tổ chức tài trợ vốn. Các nhà tài trợ vốn, cụ thể như các
tổ chức tài chính, tín dụng, DAĐT là căn cứ để các tổ chức này xem xét thẩm
định, từ đó quyết định có nên tài trợ hay không và tài trợ đến mức độ nào,
thời gian bao lâu cho dự án, nhằm đảm bảo thu hồi được vốn, hạn chế tối đa
rủi ro. Để đạt được mục tiêu đó, trên có sở các DAĐT, các nhà tài trợ, các tổ
chức tín dụng sẽ xem xét thẩm định một cách kỹ lưỡng trên nhiều phương
diện DA đặc biệt là về phương diện hiệu quả về mặt tài chính, khả năng trả nợ
vốn vay.
Bốn là, đối với xã hội. Dự án đầu tư có vai trò thúc đẩy tiến trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cho bộ mặt xã hội phát triển, nâng cao
dân trí, khai thác nhân tài, diện mạo nông thôn, vùng sâu, vùng xa nơi có dự
án đầu tư được cải thiện, rút bớt sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, tận
dụng tiềm năng lao động tại các địa phương, biến một bộ phận lao động trong
nông nghiệp, nông thôn thành lao động công nghiệp, cải thiện môi trường,
thay đổi văn hoá xã hội theo hướng tích cực, phát triển cơ sở hạ tầng như:
Điện, đường, trường, trạm…
1.2. CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH CHO VAY DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
Thực trạng hiện nay thu nhập của ngân hàng chủ yếu vẫn từ hoạt động
tín dụng truyền thống (cho vay), trong đó tín dụng trung, dài hạn chiếm tỷ lệ
không nhỏ. Vì vậy, chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng
trung, dài hạn nói riêng ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của ngân hàng. Chất
lượng tín dụng trung, dài hạn chính là chất lượng tín dụng cho vay dự án đầu
tư. NHTM muốn có chất lượng tín dụng cho vay dự án đầu tư tốt thì rất cần
thiết phải có các dự án khả thi (có hiệu quả tài chính, khả năng thu hồi vốn
đảm bảo…). Để đạt được điều đó trước khi quyết định cho vay nhất thiết phải
thẩm định từng dự án đầu tư để xem xét.
Vì vậy, luận văn cho rằng, trước khi nghiên cứu về chất lượng thẩm định
dự án cần làm rõ thẩm định dự án đầu tư là gì, vai trò của thẩm định dự án
tỏng hoạt động cho vay của NHTM.
1.2.1. Khái niệm thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư là quá trình kiểm tra, đánh giá một cách khách
quan có khoa học trên nhiều phương diện từ các căn cứ, dữ liệu và chuẩn mực
liên quan đến dự án, để đưa ra những nhận xét, kết luận về tính khả thi, hiệu
quả của dự án nhằm quyết định đầu tư đúng hướng.
Dưới góc độ của ngân hàng (nhà tài trợ vốn), thẩm định dự án là việc
kiểm tra, phân tích, đánh giá về hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ vốn vay
những rủi ro có thể xảy ra đối với dự án, nhằm đưa ra kết luận về việc cho vay
hay không cho vay.
Một DAĐT cho dù có được soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng không thể
lượng hết được sự biến động và các rủi ro phát sinh trong quá trình tiến hành
thực hiện DA. Do vậy việc TĐ DAĐT được coi là việc phản biện của việc
thiết lập DA, là một bước quan trọng của thời kỳ chuẩn bị DA.
1.2.2. Vai trò thẩm định dự án trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại
Thẩm định dự án có vai trò rất quan trọng không những đối với hoạt
động tín dụng của NHTM, mà nó còn có tác dụng thiết thực đối với chủ đầu
tư và các cơ quan quản lý nhà nước. Đó là quá trình kiểm tra, đánh giá, rà soát
lại toàn bộ những vấn đề có liên quan đến dự án, làm rõ những thuận lợi, khó
khăn đối với dự án, tính hợp lệ hợp pháp, minh bạch đối với dự án, hiệu quả
tài chính của dự án, năng lực tài chính của chủ đầu tư và khả năng nguồn vốn
đáp ứng cho việc thực hiện dự án…
* Đối với cơ quan quản lý Nhà nước: TĐ DAĐT là một bộ phận quan
trọng trong toàn bộ công tác quản lý quá trình đầu tư. TĐ DAĐT đứng trên
góc độ quản lý nhà nước chính là xem xét các lợi ích kinh tế - xã hội với các
tiêu chuẩn của nó mà DA mang lại có phù hợp với các mục tiêu của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hay không.
* Đối với các chủ đầu tư DA: Ngoài hiệu quả của DA (khả năng sinh lợi
cao hay thấp) mục đích thẩm định còn là xem xét đến những rủi ro, những trở
ngại có thể gặp phải khi đi vào thực hiện DA nhằm có các đối sách thích hợp.
* Đối với các nhà tài trợ DA: Ngoài những vấn đề nêu trên thì họ còn
quan tâm chủ yếu phương án tài chính và khả năng hoàn vốn vay cụ thể của
DA. Một trong những nhà tài trợ chủ yếu của dự án là các NHTM và cho dù
tài trợ cho DA dưới bất kỳ hình thức nào thì nghiệp vụ TĐ DAĐT có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong quyết định của ngân hàng đối với các DA.
Việc TĐ DAĐT sẽ giúp đánh giá chính xác hiệu quả tài chính và hiệu
quả kinh tế xã hội của việc đầu tư, ngăn ngừa và hạn chế bớt các rủi ro, tránh
gây thất thoát, không thu hồi được vốn đầu tư của chủ đầu tư, nhà tài trợ cũng
như của xã hội. Những DA không được thẩm định kỹ càng thường đưa đến
những hậu quả như: Rủi ro về mặt pháp lý, kỹ thuật lạc hậu, công nghệ lỗi
thời, máy móc thiết bị thiếu đồng bộ, thời gian xây dựng kéo dài, thiếu vốn
xây dựng cơ bản, nguồn nguyên liệu cung cấp thiếu đảm bảo về số lượng và
chất lượng, không có thị trường tiêu thụ, gây ô nhiễm môi trường.
Trong hệ thống tín dụng ngân hàng, đặc biệt là trong việc cho vay, bảo
đảm đối với các dự án đầu tư thì việc thẩm định để đưa ra quyết định về việc
cấp tín dụng, bảo lãnh lại càng quan trọng. Đặc trưng của việc đầu tư tín dụng
đối với các dự án đầu tư là mức vốn cho vay, bảo lãnh khá lớn, thời hạn cho
vay dài, mà thời hạn cho vay càng dài thì rủi ro càng lớn do không thể lường
hết được những biến động trong tương lai như: Cơ chế chính sách, biến động
thị trường, chênh lệch tỷ giá, sự cạnh tranh, đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp,
khả năng quản lý…
Ngoài ra, việc thẩm định của ngân hàng còn giúp khách hàng, giúp chủ
đầu tư bổ sung hoàn thiện hồ sơ đối với dự án, điều chỉnh các nội dung liên
quan đến dự án một cách hợp lý, nhằm hoàn chỉnh thủ tục hồ sơ dự án và
hướng cho khách hàng trong việc triển khai thực hiện dự án được tốt hưon, có
hiệu quả hơn.
Qua thực tế cho thấy những nơi nào, ngân hàng nào làm tốt công việc
thẩm định, coi trọng công tác thẩm định và nâng cao chất lượng thẩm định thì
nơi đó, ngân hàng đó chất lượng tín dụng được nâng lên rõ rệt, hạn chế tới
mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra, góp phần đưa hoạt động kinh doanh
của ngân hàng có hiệu quả, vị thế ngân hàng được nâng cao.
1.2.3. Chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động của ngân
hàng thương mại
1.2.3.1. Nhận thức về chất lượng thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư là công cụ trợ giúp các nhà quản trị ngân hàng
trong việc ra quyết định tài trợ cho dự án. Khi quyết định đầu tư dự án tức là
quyết định bỏ vốn đầu tư trung, dài hạn nhằm tăng năng lực sản xuất của chủ
đầu tư và tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Nếu không tiến hành thẩm định dự
án hoặc thẩm định sơ sài trước khi ra quyết định đầu tư thì không những vi
phạm pháp luật và việc cho vay sẽ không có cơ sở, dẫn đến quyết định sai lầm
gây hậu quả nghiêm trọng mà không ai khác là chủ đầu tư và ngân hàng là
người đầu tiên phải gánh chịu. Điều đó cho thấy tác dụng của thẩm định dự án
là rất quan trọng trong đó chất lượng thẩm định dự án là yếu tố cốt lõi, quyết
định dự án có trả được nợ hay không.
Chất lượng thẩm định dự án đầu tư được thể hiện thông qua công tác
thẩm định giúp cho chủ đầu tư và ngân hàng đánh giá và lựa chọn dự án được
chính xác với chi phí và thời gian thấp nhất.
Đối với ngân hàng trên cơ sở thu thập thông tin và đánh giá dự án để ra
quyết định có cho vay hay tài trợ cho dự án không, nếu cho vay thì mức cho
vay là bao nhiêu, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, phương thức cho vay,
điều kiện cho vay, điều kiện giải ngân, nguồn thu nợ… Ngoài ra, với những
kinh nghiệm trong thẩm định dự án, ngân hàng có thể giúp chủ đầu tư điều
chỉnh những nội dung chưa hợp lý trong dự án hoặc bổ sung thêm những biện
pháp nhằm tăng thêm tính an toàn khi đưa dự án vào thực hiện. Tất cả những
việc đó nhằm mục tiêu cuối cùng là giúp ngân hàng tìm ra những cơ hội cho
vay tốt nhất, đảm bảo các khoản cho vay của ngân hàng đạt chất lượng, tức là
thu đủ nợ gốc và lãi đúng hạn.
Đối với khách hàng, khi thẩm định dự án có chất lượng nó hỗ trợ đắc lực
cho việc thực hiện kế hoạch đầu tư, đảm bảo dự án khi đi vào hoạt động sẽ
phát huy hiệu quả đúng như những tiêu chí đặt ra ban đầu và không bỏ sót bất
kỳ một cơ hội đầu tư có lợi nào, cũng như không có những quyết định sai lầm
trong phê duyệt dự án, trong quyết định đầu tư. Nói cách khác, thẩm định dự
án đầu tư có chất lượng giúp cho chủ đầu tư cũng như tất cả các tổ chức, cá
nhân quan tâm đến dự án đều có thể tự trả lời được các câu hỏi của mình một
cách cụ thể, sát thực, chính xác như: Có nên đầu tư hay không? quản lý thu
hồi vốn ra sao? Cần đặc biệt quan tâm đến yếu tố nào để hạn chế rủi ro khi dự
án đi vào hoạt động…
Thời gian thẩm định cũng tác động đến chất lượng thẩm định dự án. Dự
án là một tập hợp nhiều vấn đề phức tạp và có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ, vì
thế thời gian thẩm định quá ngắn sẽ không đủ cho ngân hàng đánh giá chính
xác hiệu quả của dự án, ngược lại thời gian thẩm định quá dài có thể làm mất
thời cơ kinh doanh của khách hàng - một điều rất dễ xảy ra trong môi trường
cạnh tranh gay gắt như hiện nay và do đó bỏ qua một cơ hội đầu tư tốt của
ngân hàng. Thời gian thẩm định hợp lý khi vừa đủ để ngân hàng đánh giá
đúng dự án vừa phù hợp với nhu cầu kinh doanh của khách hàng. Vì vậy,
ngân hàng không nên quy định một cách cứng nhắc về thời gian thẩm định
chung cho tất cả các loại dự án mà cần phân biệt các dự án theo độ lớn, lĩnh
vực, tính chất… để có những quy định cụ thể về thời gian thẩm định tối thiểu
cần thiết. Thực trạng thời gian qua một số NHTM quy định thời gian thẩm
định đối với món vay trung, dài hạn tối đa là 15 ngày, không kể dự án lớn hay
nhỏ, mức độ phức tạp ra sao là chưa hợp lý.
Ngoài ra, một số chỉ tiêu có tính định lượng khác phản ánh chất lượng
tín dụng trung, dài hạn cũng gián tiếp phản ánh chất lượng thẩm định dự án
của ngân hàng. Đó là những chỉ tiêu: Tổng dư nợ cho vay, bảo lãnh đối với
một khách hàng, nhóm khách hàng, ngành hàng, tỷ trọng tín dụng trung dài
hạn, tỷ lệ nợ quá hạn, giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ… Những chỉ tiêu trên
ảnh hưởng đến việc phân tán rủi ro, đánh giá quan hệ tín dụng của khách hàng
đối với ngân hàng.
Chất lượng thẩm định thể hiện qua độ chính xác của việc thu thập, xử lý
thông tin. Ngay từ khi thu thập các thông tin đầu tiên phải đảm bảo chất
lượng, độ tin ậy của các thông tin đó. Việc xử lý các thông tin phải khoa học,
toàn diện, cụ thể, chính xác như: phân tích, đánh giá tổng mức đầu tư, nguồn
vốn đầu tư, nguồn tài trợ, dòng tiền của dự án, năng lực tài chính của chủ đầu
tư, tỷ lệ chiết khấu, thị trường đầu vào, đầu ra, khả năng tổ chức quản lý, mức
độ rủi ro của dự án…nhằm tăng sự tin cậy của các dự báo, kết quả thẩm định
từ quá trình phân tích so với kết quả thực tế khi dự án đi vào hoạt động, giúp
cho ngân hàng đưa ra được quyết định tài trợ đúng đắn.
Các ngân hàng cần phải xây dựng kỹ năng và phương pháp thẩm định,
nhằm giúp cán bộ thẩm định nắm bắt kịp thời những kỹ thuật, chuẩn mực khi
thẩm định dự án đầu tư, đảm bảo cho công tác thẩm định tiến hành theo trình
tự khoa học.
Trong thực tiễn xảy ra ở NHTM, có những dự án nếu giữ nguyên
phương án cơ sở do chủ đầu tư lập khi thẩm định cho thấy hiệu quả của dự án
không cao, nhưng nếu điều chỉnh phương án một cách hợp lý như: Loại trừ
những chi phí bất hợp lý trong tổng mức đầu tư, cơ cấu nguồn vốn đầu tư, bóc
tách thuế VAT mà chủ đầu tư được hoàn ngay trong quá trình đầu tư, các
khoản trả lãi tiền vay trong thời gian xây dựng theo tiến độ nhận tiền vay,
công suất sản xuất, thời gian xây dựng công trình… thì hiệu quả của dự án sẽ
khả quan hơn và ngược lại. Vì vậy, khi nâng cao chất lượng thẩm định còn
cung cấp cho khách hàng những tiện ích như tư vấn về kế hoạch kinh doanh,
hướng phát triển dự án (mở rộng hay thu hẹp), phương án về nguồn vốn (tăng
hay giảm giá trị một số nguồn trong cơ cấu nguồn vốn của dự án) góp phần
giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động của dự án, mang lại lợi ích cho
chủ đầu tư.
Chất lượng thẩm định dự án đầu tư của các NHTM được thể hiện qua kết
quả thẩm định các nội dung có liên quan đến dự án đầu tư, kể cả liên quan
đến chủ đầu tư thực hiện dự án đầu tư. Chất lượng thẩm định dự án đầu tư của
các ngân hàng được phản ánh qua kết quả thẩm định các nội dung sau:
- Thẩm định cơ sở pháp lý của chủ đầu tư thực hiện dự án đầu tư
- Thẩm định phương diện tài chính của chủ đầu tư (năng lực tài chính
của người thực hiện dự án đầu tư)
- Thẩm định các nội dung liên quan đến dự án đầu tư: Cơ sở pháp lý của
dự án đầu tư; Mục tiêu của dự án đầu tư; Phương diện thị trường; Phương
diện kỹ thuật, công nghệ; Phương diện tài chính của dự án; Phương diện tổ
chức quản lý; Vấn đề môi trường sinh thái.
- Thẩm định về biện pháp bảo đảm tiền vay.
1.2.3.2. Đánh giá chất lượng thẩm định dự án đầu tư
Kết quả thẩm định dự án đầu tư làm cơ sở quan trọng để xem xét quyết
định cho vay của các NHTM. Vì vậy, chất lượng thẩm định dự án đầu tư, xét
đến cùng được đánh giá thông qua kết quả thẩm định đối với từng nội dung cụ
thể liên quan đến dự án, nó được thể hiện thông qua việc làm cụ thể của cán
bộ thẩm định, tính khả thi và hiệu quả của dự án và chất lượng tín dụng của
chính dự án đó, đảm bảo khả năng thu nợ, thu lãi đúng hạn.
Chất lượng thẩm định dự án đầu tư của các NHTM được đánh giá qua
các giai đoạn, thông qua việc thẩm định các nội dung liên quan đến chủ đầu
tư và dự án đầu. Nói một cách cụ thể hơn, chất lượng thẩm định dự án đầu tư
được xem xét, đánh giá trên các nội dung, khía cạnh chủ yếu như: (1) Quản trị
công tác thẩm định dự án đầu tư; (2) Phương pháp sử dụng và quy trình thẩm
định; (3) Nội dung thẩm định.
(1) Quản trị công tác thẩm định DAĐT của NHTM là việc tổ chức tiến
hành thực hiện thẩm định DAĐT từ Hội sở chính, đến các chi nhánh. Khi hoạt
động này được tiến hành khoa học, chất lượng thẩm định sẽ cao và ngược lại.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần có sự phân cấp quản lý trong thẩm định dự án đầu
tư, nhằm đảm bảo tính chủ động và chất lượng trong thẩm định.
(2) Phương pháp, quy trình thẩm định dự án là cách thức, trình tự tiến
hành thẩm định nhằm đạt được mục đích đặt ra đối với công tác thẩm định.
Có thể khẳng định rằng, thẩm định sẽ không thể có chất lượng nếu tiến hành
không có những phương pháp phù hợp với những nội dung cụ thể.
Xét một cách tổng quát nhất, khi thẩm định có 2 phương pháp cơ bản, đó
là thẩm định theo trình tự và thẩm định trên cơ sở so sánh các chỉ tiêu.
Thẩm định theo trình tự hay còn gọi là thẩm định từ tổng quát đến chi
tiết, việc thẩm định được tiến hành theo một trình tự biện chứng, từ tổng quát
đến chi tiết, từ kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau. Trong đó thẩm
định tổng quát là dựa vào các nội dung cần thẩm định để xem xét tổng quát,
phát hiện các vấn đề hợp lý hay không để nghiên cứu sâu thêm tìm biện pháp
khắc phục. Thẩm định tổng quát cho phép hình dung khái quát về dự án thông
qua quy mô, tầm cỡ của dự án cũng như những ngành, những bộ phận mà dự
án có liên quan. Trên cơ sở đó sẽ xác định và dự kiến được các công việc cần
làm và các cơ quan, thành phần có liên quan để có thể hoàn thành được việc
thẩm định một cách có hiệu quả nhất. Thẩm định chi tiết là tiến hành sau khi
đã thẩm định tổng quát, thực chất là đi sâu vào từng nội dung của dự án để có
ý kiến nhận xét kết luận, đồng ý hay không. Khi soạn thảo dự án có thể có
nhiều sai sót, các ý kiến có thể mâu thuẫn nhau, không đúng logic, thậm chí
có thể nhầm lẫn trong tính toán. Nhiệm vụ của thẩm định chi tiết là không
được bỏ qua những sai sót đó. Đối với các dự án nước ngoài còn cần thiết
phải sửa đổi cả câu văn, chữ nghĩa để tránh những sơ hở có thể xảy ra, dẫn
đến bất đồng ý kiến trong các đối tác tham gia đầu tư.
Thẩm định theo phương pháp so sánh là trước hết xác định các chỉ tiêu
cần thiết của dự án và sau đó, so sánh, đối chiếu các chỉ tiêu của dự án với các
chỉ tiêu chuẩn để đánh giá. Các chỉ tiêu được dùng làm cơ sở đối chiếu
thường là:
- Các định mức, hạn mức đang được áp dụng tại Việt Nam.
- Các chỉ tiêu so sánh giữa trường hợp đã có dự án với trường hợp chưa
có dự án.
- Các chỉ tiêu của các dự án tương tự.
- Các chỉ tiêu tiên tiến của các ngành.
- Trường hợp không có chỉ tiêu để đối chiếu ở trong nước thì tham khảo
của nước ngoài.
Phương pháp này áp dụng với các nội dung có thể định lượng được trong
dự án. Trong một tập hợp rất nhiều chỉ tiêu của dự án, cần căn cứ vào từng
loại dự án để xem xét kỹ. Điều này giúp cho người thẩm định đi đúng trọng
tâm, rút ngắn được thời gian và vẫn đáp ứng được yêu cầu chất lươịng của
công tác thẩm định. Nhiều chỉ tiêu đặc trưng có thể là những chỉ tiêu thuộc về
bản chất của dự án, nhưng cũng có thể là những chỉ tiêu liên quan đến các vấn
đề khó khăn thường gây ra tranh luận hoặc những vấn đề đang được Nhà
nước rất quan tâm.
Trước những năm 90, việc thẩm định cho vay nói chung và thẩm định dự
án đầu tư nói riêng của các ngân hàng thương mại nhìn chung còn mang tính
hình thức, nội dung thẩm định sơ sài, chưa đi sâu phân tích đánh giá năng lực
tài chính của chủ đầu tư; việc thẩm định hiệu quả về mặt tài chính của dự án
hầu như bỏ ngỏ, thiếu chặt chẽ, việc xem xét cho vay chủ yếu cho vay các
doanh nghiệp quốc doanh theo chỉ tiêu kế hoạch được cấp có thẩm quyền giao
hàng năm, không quan tâm nhiều đến sản phẩm của dự án sản xuất ra là cái
gì, có bán được không, bán ở đâu, chủ đầu tư có năng lực tài chính và khả
năng tổ chức quản lý dòng tiền của dự án thế nào, nguồn trả nợ của dự án ra
sao, thời hạn cho vay cũng xác định theo cảm tính, chưa tuân thủ dòng thu
chi, sự thay đổi theo thời gian của giá trị tiền tệ, lợi nhuận mang lại của dự án
thường được xem xét trong trạng thái tĩnh, thậm chí cho vay không cần thẩm
định mà chỉ ký khế ước cho vay. Do đó, hàng loạt các công ty, xí nghiệp của
Nhà nước hoạt động thua lỗ, giải thế phá sản, nợ vay ngân hàng không trả
được. Đó cũng là bài học tất yếu trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang cơ chế mới, cơ chế thị trường.
Những năm đầu của thập niên 90, từng ngân hàng thương mại cũng đã
mò mẫm xây dựng cho mình một cơ chế cho vay đối với khách hàng nhưng
chủ yếu vẫn là cho vay hộ sản xuất, còn cơ chế cho vay đối với doanh nghiệp,
cho vay dự án đầu tư chưa được hình thành rõ nét. Do đó, chất lượng thẩm
định cho vay đối với các dự án đầu tư cũng còn gặp không ít bỡ ngỡ như thẩm
định cái gì, nội dung nào của dự án cần thẩm định, dự án như thế nào là dự án
có hiệu quả về mặt tài chính, trách nhiệm của người thẩm định cho vay, người
quyết định cho vay cũng chưa phân định cụ thể. Vì vậy, chất lượng tín dụng,
đặc biệt là tín dụng trung dài hạn trên cơ sở các dự án chưa cao, nợ quá hạn,
nợ khó đòi phát sinh phải xử lý khoanh, xoá nợ…
Luật các tổ chức tín dụng ra đời (1997) quy định rõ tính tự chủ và tự chịu
trách nhiệm của các tổ chức tín dụng khi xem xét quyết định cho vay. Theo
đó, tổ chức tín dụng phải tổ chức việc xét duyệt cho vay theo nguyên tắc phân
định trách nhiệm giữa các khâu thẩm định và quyết định cho vay. Ý thức
được điều đó các ngân hàng thương mại đã chấn chỉnh việc thẩm định cho
vay, nâng cao chất lượng tín dụng, gắn cơ chế tài chính với việc cho vay của
các chi nhánh, phân định trách nhiệm của những người có liên quan trong quá
trình cho vay.
Sau khi có Luật các TCTD (1997) Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban
hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Các quy chế
này liên tục được bổ sung hoàn chỉnh nhằm chuẩn hóa các điều kiện cho vay
đối với khách hàng. Theo đó, các điều kiện cho vay, thẩm định cho vay đối
với dự án đầu tư cũng được xác định một cách rõ ràng.
Căn cứ vào quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng,
các ngân hàng thương mại đều có các quy định cụ thể về việc cho vay, xây
dựng quy trình xét duyệt cho vay, xây dựng các tài liệu hướng dẫn và kỹ năng
thẩm định dự án, phân định rõ trách nhiệm từng khâu trong quá trình thẩm
định, xét duyệt cho vay. Để tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng, tăng
cường việc kiểm soát trước khi cho vay và nhằm chuyên môn hoá việc thẩm
định các dự án đầu tư, nhiều tổ chức tín dụng đã thành lập bộ phận thẩm định
chuyên trách từ Trụ sở chính đến các chi nhánh để thẩm định các khoản vay
lớn, khoản vay đồng tài trợ và khoản vay vượt quyền phán quyết cho vay của
chi nhánh.
Chất lượng thẩm định của các ngân hàng thương mại nhìn chung được
nâng lên rõ rệt, nội dung thẩm định chặt chẽ, đề cập đến các nội dung có liên
quan của dự án đầu tư như: cơ sở pháp lý của chủ đầu tư, phân tích đánh giá
thực trạng tài chính của doanh nghiệp, cơ sở pháp lý của dự án, hiệu quả về
mặt tài chính của dự án, các vấn đề về công nghệ, thiết bị, thị trường, môi
sinh môi trường và khả năng tổ chức quản lý thực hiện dự án đều được các
ngân hàng thương mại thẩm định, đánh giá rõ ràng và đưa ra kết luận cụ thể
về việc cho vay hay không cho vay.
Đối với các dự án lớn, vốn đầu tư cao, các ngân hàng thương mại thường
áp dụng phương thức cho vay đồng tài trợ, nhiều ngân hàng thương mại cùng
tham gia cho vay, cùng thẩm định, nhằm đưa ra kết luận chuẩn xác về việc
đầu tư đối với dự án. Mặt khác phương thức đồng tài trợ này còn nhằm phân
tán rủi ro trong tín dụng.
Chất lượng thẩm định của các ngân hàng thương mại được phản ánh
thông qua chất lượng tín dụng, các dự án đầu tư mà các ngân hàng thương
mại cho vay trong thời gian qua đã phát huy hiệu quả, hạn chế tới mức thấp
nhất những rủi ro, nợ quá hạn liên tục được giảm thấp, việc trích lập dự phòng
và xử lý rủi ro theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các
ngân hàng thương mại đều kinh doanh có lãi, làm nghĩa vụ đối với ngân sách
nhà nước đầy đủ, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện.
Song, bên cạnh đó cũng còn có ngân hàng thương mại việc thẩm định cho vay
đối với một số dự án cũng còn hạn chế do đó dẫn đến nợ phải cơ cấu lại.
(3) Nội dung thẩm định. Về nguyên tắc, khi thẩm định dự án phải thẩm
định tất cả các nội dung đã được soạn thảo trong dự án, đồng thời xem xét các
vấn đề trong đó mối quan hệ biện chứng. Chẳng hạn, thẩm định phương diện
kỹ thuật (máy móc thiết bị) của dự án cần đặt trong bối cảnh khả năng về tài
chính và khả năng nhập thiết bị; Thẩm định hiệu quả tài chính có xét đến tác
động của hiệu quả xã hội…
1.2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu
tư
Chất lượng thẩm định dự án đầu tư của các NHTM do nhiều nhân tố tác
động. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, luận văn sẽ phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư trên cơ sở phân chia thành 2
nhóm: (1) Nhóm nhân tố chủ quan và (2) Nhóm nhân tố khách quan.
(1) Nhóm nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan là những nhân tố có liên quan trực tiếp đến ngân hàng,
đó là: Các quy định về nghiệp vụ cho vay đối với khách hàng, quản trị điều
hành công tác tín dụng, quản trị rủi ro, quy trình và kỹ năng thẩm định, kiểm
soát tín dụng, trình độ cán bộ làm công tác thẩm định, cơ sở vật chất của ngân
hàng.
- Quy định về nghiệp vụ cho vay đối với khách hàng của NHTM là cơ sở
để các ngân hàng xem xét cho vay đối với khách hàng. Đó là những quy định
về những nguyên tắc và điều kiện tín dụng, thẩm định cho vay… Quy định
càng cụ thể rõ ràng, chặt chẽ, mang tính thực tiễn cao thì chất lượng thẩm
định các dự án được nâng lên rõ rệt; ngược lại nếu quy định này lỏng lẻo,
chung chung, hiểu theo nghĩa nào cũng được dễ dẫn đến những sơ hở trong
việc cho vay và dĩ nhiên là ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
- Việc quản trị điều hành trong công tác tín dụng nói chung và trong việc
quản trị rủi ro, thẩm định cho vay nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng thẩm định, theo đó các quy định về phân công, phân
nhiệm, trách nhiệm của những người có liên quan đến việc cho vay như:
Người đề xuất, người thẩm định và người quyết định cho vay được phân định
rõ ràng. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro, các quy định về giới hạn tín dụng,
chất lượng tín dụng và trách nhiệm vật chất có liên quan.
- Quy trình, kỹ năng thẩm định dự án rõ ràng, khoa học là cơ sở tạo nên
chất lượng công tác thẩm định. Một ngân hàng có quy trình thẩm định chặt
chẽ, theo đó hồ sơ dự án được thẩm định như thế nào, luân chuyển ra sao, qua
mấy tay kiểm soát, thẩm định như thế nào, thẩm định cái gì, cách thức, kỹ
thuật thẩm định, phương pháp thẩm định, nếu lượng hết được những vấn đề
đó thì chất lượng thẩm định sẽ đạt được. Ngược lại một quy trình, phương
pháp thẩm định bất hợp lý, luộm thuộm, không bài bản chắc chắn dẫn tới kết
quả thẩm định dự án không cao, khó có thể dựa vào đó để đưa ra quyết định
đầu tư chính xác.
Kỹ năng thẩm định giúp cán bộ thẩm định phân tích dự án, tính toán hiệu
quả của dự án một cách nhanh chóng, chính xác, đảm bảo độ tin cậy. Tuy
nhiên, mỗi dự án có những đặc trưng nhất định mà mỗi chỉ tiêu chỉ phản ánh
được một khía cạnh nào đó của dự án và đều có những ưu, nhược điểm nhất
định. Vì vậy, nếu kỹ năng thẩm định dự án không toàn diện, kết quả thẩm
định sẽ có độ tin cậy không cao.
- Trình độ cán bộ thẩm định. Con người mà trực tiếp là cán bộ làm công
tác thẩm định dự án là nhân tố quyết định chất lượng thẩm định dự án. Một
ngân hàng có quy chế về cho vay đối với khách hàng rõ ràng đến đâu, quản trị
điều hành tốt đến mấy quy trình và phương pháp thẩm định tiên tiến đến mức
độ đi nữa, nếu cán bộ tác nghiệp, cán bộ thẩm định không có năng lực, trình
độ chuyên môn, kiến thức pháp luật, tin học, ngoại ngữ, nắm bắt thông tin…
thì chất lượng thẩm định không đảm bảo, thiếu sự tham mưu cho lãnh đạo
trong việc quyết định cho vay và tất nhiên ảnh hưởng đến chất lượng khoản
vay, đến rủi ro tín dụng, thậm chí dẫn đến vi phạm pháp luật.
Mặt khác, vấn đề đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ làm công tác thẩm
định, có tác động không nhỏ đến chất lượng thẩm định. Thẩm định là ý chí và
kiến thức của con người kết tinh vào báo cáo thẩm định, nếu ý chí đó không
minh bạch, trong sáng vì động cơ nào đó chi phối, thì chất lượng thẩm định
cũng méo mó đi và tất yếu dẫn đến việc cho vay sai.
Tính độc lập trong thẩm định có ý nghĩa quan trọng đến chất lượng thẩm
định, nếu trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định bị tác động từ bên
ngoài hoặc từ cấp trên… thì kết quả thẩm định thiếu khách quan.
- Cơ sở vật chất của ngân hàng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Hoạt động thẩm định khó có thể đạt chất
lượng nếu cơ sở vật chất, công nghệ ngân hàng lạc hậu. Cơ sở vật chất kỹ
thuật của ngân hàng bao gồm: các phương tiện, trang thiết bị, máy tính, mạng
thông tin tín dụng liên ngân hàng… Cùng với sự phát triển nhanh của công