Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn các dạng bài tập luyện từ và câu lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.06 KB, 22 trang )

Hà Thị Luân
Chuyên Viên Phòng GD&ĐT Thọ Xuân
Môn: Tiếng Việt- Tiểu học.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Như chúng ta đã biết, mục tiêu của giáo dục Tiểu học là nhằm giúp học
sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học
Trung học cơ sở.
Môn Tiếng Việt lớp 3 nằm trong hệ thống các môn học ở Tiểu học, với mục
tiêu nhằm hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt
(đọc, viết, nghe, nói) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của
lứa tuổi. Thông qua việc dạy học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư
duy. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt, về tự nhiên,
xã hội và con người, về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi
dường tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu
đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa cho học sinh.
Qua mục tiêu của môn Tiếng Việt lớp 3, ta có thể nhận thấy rằng chương
trình Tiểu học mới về môn Tiếng Việt đã đặt mục tiêu rèn luyện kĩ năng lên
hàng đầu. Chương trình còn qui định rõ ở lớp 3, về kiến thức không có tiết học
riêng. Do đó phù hợp với đặc điểm và trình độ nhận thức của học sinh .
Mục tiêu rèn luyện tư duy ở môn Tiếng Việt lớp 3 được coi trọng. Thông
qua các bài học, bài tập phát triển kĩ năng sử dụng ngôn ngữ, giáo viên chỉ tập
trung rèn luyện cho học sinh một số thao tác tư duy cơ bản như so sánh, phân
tích, tổng hợp. Việc rèn luyện kĩ năng và trang bị kiến thức nhằm tới mục tiêu
tổng quát của giáo dục là hình thành, phát triển tư tưởng, tình cảm, nhân cách
cho học sinh.
Trong chương trình Tiểu học hiện nay, phân môn Luyện từ và câu lớp 3,
không có bài học riêng về kiến thức, chỉ trình bày các kiến thức ( về từ gồm cả
thành ngữ, tục ngữ dễ hiểu về lao động sản xuất, văn hoá, xã hội, bảo vệ Tổ
quốc; kiến thức về ngữ pháp như từ chỉ sự vật, hiện tượng, đặc điểm, tính chất;


Câu trần thuật đơn và hai bộ phận chính của câu; Dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu
chấm than, dấu phẩy, dấu hai chấm. Học sinh nhận biết sơ giản về các biện pháp
tu từ so sánh, nhân hoá ) học sinh cần làm quen và nhận biết thông qua các bài
tập thực hành. Vì vậy dạy phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3 là trên cơ sở lấy
quan điểm giao tiếp làm định hướng cơ bản và dạy theo tinh thần quan tâm đến
việc tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hành làm bài tập.Qua thực tế dự giờ thanh
tra hoạt động sư phạm của giáo viên dạy lớp 3 ở các trường tiểu học trong
1
huyện, qua dự giờ thao giảng giáo viên giỏi, tôi thấy nhiều giáo viên còn lúng
túng và gặp khó khăn trong vấn đề này. Vậy làm thế nào để giúp giáo viên dạy
tốt phân môn Luyện từ và câu.
Với tư cách là một cán bộ phụ trách, chỉ đạo chuyên môn cấp Tiểu học, tôi
luôn băn khoăn trăn trở và đã nghiên cứu, đưa ra một số phương án, cách thức tổ
chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 3 để
chỉ đạo, tư vấn, hướng dẫn cho giáo viên giảng dạy ở các trường Tiểu học trên
địa bàn nhằm năng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
B. THỰC TRẠNG VỀ DẠY HỌC PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU
Ở LỚP 3:
1. Thuận lợi:
- Luyện từ và câu là sự tích hợp kiến thức từ ngữ và ngữ pháp. Hệ thống
kiến thức trong chương trình sách giáo khoa được xây dựng ở dạng các bài tập,
do đó giáo viên và học sinh thực hiện tương đối dễ dàng trong quá trình dạy học.
Hệ thống các kiến thức này học sinh đã được làm quen từ các phân môn khác
như Tập đọc, Chính tả, Tập viết
- Đến lớp 3, kĩ năng đọc, viết của học sinh đã tương đối vững chắc nên
việc dạy kiểu câu trần thuật đơn theo mẫu tương đối thuận lợi
- Về đội ngũ giáo viên : 100% giáo viên có trình độ đào tạo đạt chuẩn và
đã được tham gia bồi dưỡng tập huấn về đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông, do đó thuận lợi trong việc tiếp cận nội dung và vận dụng đổi mới phương

pháp trong giảng dạy.
- Trang thiết bị, đồ dùng dạy học tương đối đầy đủ và hiện đại đảm bảo
phục vụ cho hoạt động giảng dạy của giáo viên.
2. Khó khăn:
- Trong chương trình Luyện từ và câu ở lớp 3, giáo viên và học sinh được
tiếp cận với một mảng kiến thức mới, đó là các biện pháp tu từ nhân hoá, so
sánh. Các biện pháp tu từ này trong chương trình Tiếng Việt lớp 3 được đưa ra
dưới dạng bài tập, không trực tiếp giới thiệu khái niệm so sánh, nhân hoá ( với
tư cách là một biện pháp tu từ ), nếu giáo viên không nghiên cứu kĩ, hiểu rõ bản
chất của các biện pháp tu từ này thì sẽ gặp khó khăn trong việc giúp học sinh
hiểu và sử dụng nó một cách nhuần nhuyễn, tự nhiên trong khi nói và viết.
- Đối với các bài tập về dấu câu, giáo viên còn lúng túng, gặp nhiều khó
khăn trong việc giúp học sinh nhận biết căn cứ để đặt dấu câu.
- Một số bài tập mà sách giáo khoa cung cấp khó xác định mục tiêu cụ thể.
Nếu giáo viên không xác định rõ mục tiêu, không biết cụ thể hoá và phân chia
thời lượng cho từng đơn vị kiến thức một cách phù hợp thì tiết dạy đó sẽ đạt
hiệu quả không cao.
2
Xuất phát từ những vấn đề trên đây, tôi xin đưa ra biện pháp chỉ đạo giúp
giáo viên dạy tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 3.
C. BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO DẠY HỌC LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 3:
Thông qua các lớp chuyên đề, hội thảo, qua thanh tra hoạt động sư phạm
của nhà giáo, qua thao giảng, tôi đã chỉ đạo, tư vấn, hướng dẫn giáo viên cách
dạy từng loại bài tập Luyện từ và câu ở lớp 3 cụ thể như sau:
I. Cách dạy bài tập về từ:
1. Loại bài tập mở rộng vốn từ:
Loại bài tập mở rộng vốn từ chiếm tỉ lệ cao nhất so với các loại bài tập từ
ngữ khác ( khoảng 50% ). Loại bài tập này có các kiểu sau đây:
a. Bài tập mở rộng vốn từ theo chủ điểm: Các từ ngữ cùng chủ điểm có
thể tìm trong văn bản đã học hoặc ở ngoài các văn bản ấy. Sách giáo khoa không

cung cấp hay áp đặt cho học sinh một danh sách từ có sẵn để các em học thuộc
lòng mà chỉ nêu định hướng để các em dựa vào những văn bản đã học hoặc huy
động vốn từ tiềm tàng của bản thân và bạn bè trong lớp để đưa ra các từ ấy vào
một hệ thống để kiểm soát và vận dụng.
Ví dụ: Tìm các từ
a. Chỉ trẻ em. M: thiếu niên
b. Chỉ tính nết của trẻ em. M: ngoan ngoãn
c. Chỉ tình cảm hoặc sự chăm sóc của người lớn đối với trẻ em. M: thương
yêu
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Đối với loại bài tập này, khi dạy, trước hết giáo viên cần phải dựa vào từ
mẫu cho sẵn ở sách giáo khoa để hướng dẫn học sinh tìm các từ ngữ cùng loại,
cùng nằm trong một trường nghĩa, một chủ điểm ( hoặc một phương diện của
chủ điểm ). Cuối cùng, xây dựng bảng tổng hợp kết quả làm bài tập.
Ví dụ: Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 22, nêu yêu cầu: dựa vào những
bài tập đọc và chính tả đã học ở các tuần 21,22, tìm các từ ngữ chỉ trí thức ( M:
bác sĩ ) và hoạt động của trí thức ( M: nghiên cứu )
Học sinh xây dựng bảng tổng hợp kết quả như sau:
Văn bản Từ ngữ tìm được
Chỉ trí thức Chỉ hoạt động của trí thức
Ông tổ nghề thêu tiến sĩ đọc sách, học, quan sát
Lê Quý Đôn tiến sĩ, nhà bác học đọc, viết, sáng tác
Nhà bác học và bà cụ nhà bác học chế ra tàu điện, chế tạo xe điện
- Nếu việc mở rộng vốn từ gắn với những văn bản đã học thì các từ ngữ cần
tìm là một hệ thống đóng, với số lượng từ ngữ cụ thể, rõ ràng.
3
- Trong trường hợp mở rộng vốn từ không gắn với những văn bản đã học
thì tập hợp các từ cần tìm là một hệ thống mở. Giáo viên cũng dựa vào các từ
mẫu cho sẵn trong sách giáo khoa để gợi ý, hướng dẫn học sinh tìm từ. Nhưng
việc gợi ý hướng dẫn ở đây cần linh hoạt, cụ thể hơn. Giáo viên có thể tổ chức

cho học sinh thảo luận nhóm hoặc chơi trò đố từ để các em có thể dựa vào nhau
mà khơi gợi vốn từ tiềm tàng của mình. Số lượng từ học sinh tìm được có thể
không xác định và in dấu ấn của sự tìm tòi, sáng tạo của cá nhân học sinh.
Trong quá trình giáo viên hướng dẫn học sinh tìm từ, có thể có hiện tượng
học sinh nêu những từ “ lạc hệ thống ”, không đúng với yêu cầu bài tập, giáo
viên cần kịp thời phát hiện những từ này và chỉ rõ chỗ chưa phù hợp của từng
từ.
Ví dụ: Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 24, nêu yêu cầu: Tìm từ ngữ chỉ
những người hoạt động nghệ thuật. Bên cạnh những từ ngữ mà học sinh tìm
đúng như: diễn viên, ca sĩ, nghệ sĩ múa, nghệ sĩ điện ảnh, nhà soạn kịch, biên
đạo múa, nhà quay phim , học sinh có thể đưa ra những từ lạc hệ thống như:
đóng phim, quay phim, nặn tượng… ( các từ ngữ này chỉ các hoạt động nghệ
thuật chứ không chỉ những người hoạt động nghệ thuật ); điện ảnh, kịch nói,
xiếc, ảo thuật ( chỉ các môn nghệ thuật ); nhạc cụ, đàn, sáo, chiêng, trống ( chỉ
dụng cụ trong biểu diễn nghệ thuật ).
b. Bài tập mở rộng vốn từ theo ý nghĩa khái quát: Kiểu bài tập này giúp
học sinh mở rộng, phát triển theo các từ loại danh từ, động từ, tính từ. Đây cũng
là một hình thức luyện tập để củng cố kiến thức về từ loại mà học sinh đã được
học ở lớp 2.
Cách dạy loại bài tập này, trước hết giáo viên có thể đề nghị học sinh giải
thích hoặc tự mình giải thích cho học sinh nghe các khái niệm sự vật ( bao gồm
người, đồ vật, con vật, cây cối… ), hoạt động, trạng thái ( cử chỉ, động tác, tư
thế, tình trạng của người, vật…), đặc điểm ( hình dáng, tính tình, màu sắc… của
người, vật ). Trên cơ sở đó, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm các từ ngữ thuộc
từng loại trên trong các văn bản. Vì từ là một khái niệm khó, học sinh lớp 3 lại
chưa được học lí thuyết, do đó giáo viên không nên đòi hỏi các em phải tìm
được những lời giải hoàn toàn chính xác.
Ví dụ: Đối với yêu cầu tìm từ ngữ chỉ sự vật trong khổ thơ:
Tay em đánh răng
Răng trắng hoa nhài

Tay em chải tóc
Tóc ngời ánh mai
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Khi làm bài tập này, học sinh có thể cho tay em là một từ chỉ sự vật hay tay
và em là hai từ, mỗi từ chỉ một sự vật khác nhau đều được. Cái chính là các em
4
phân biệt được sự vật với từ chỉ sự vật với hoạt động, trạng thái, đặc điểm và từ
chỉ hoạt động, trạng thái, đặc điểm.
c. Bài tập mở rộng vốn từ theo cấu tạo từ: Loại bài tập này trong sách
giáo khoa Tiếng Việt 3 chiếm tỉ lệ không nhiều nhưng là mô hình bài tập đáng
chú ý. Giáo viên phải hiểu rõ rằng mở rộng vốn từ theo cấu tạo từ nghĩa là dựa
vào một yếu tố cấu tạo từ cho sẵn, để tạo ra các từ có cùng kiểu cấu tạo, trong đó
có chứa yếu tố cấu tạo từ cho sẵn ấy. Loại bài tập này có tác dụng lớn trong việc
giúp học sinh mở rộng vốn từ.
Cách dạy: Giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào từ mẫu cho sẵn trong
sách giáo khoa để tìm các từ có cùng kiểu cấu tạo, đáp ứng được yêu cầu của bài
tập.
Ví dụ: Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 29 yêu cầu: Kể tên các môn thể
thao bắt đầu bằng các tiếng bóng ( M: bóng đá ), chạy ( M: chạy vượt rào), đua (
M: đua xe đạp), nhảy ( M: nhảy cao ). Theo cách làm trên, học sinh có thể tìm
được các từ ngữ sau:
- Bóng: bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, bóng ném, bóng nước, bóng bàn…
- Chạy: chạy vượt rào, chạy việt dã, chạy vũ trang, chạy ma-ra-tông…
- Đua: đua xe đạp, đua thuyền, đua ô tô, đua mô tô, đua ngựa, đua voi…
- Nhảy: nhảy cao, nhảy xa, nhảy sào, nhảy ngựa, nhảy cầu, nhảy dù…
d. Bài tập mở rộng vốn từ qua trò chơi giải ô chữ: Loại bài tập này cũng
có mục đích giúp học sinh mở rộng vốn từ. Hình thức bài tập này có tính trực
quan, lại là một trò chơi học tập, nên dễ cuốn hút học sinh. Các từ ngữ cần tìm
và cần điền vào ô chữ thường nằm trong cùng một chủ điểm, một trường nghĩa.
Do đó tác dụng giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ theo hệ thống của dạng

bài tập này cũng rất cao.
Về cấu tạo, bài tập giải ô chữ thường có hai phần: phần ô chữ và phần lời
gợi ý. Phần ô chữ gồm nhiều dòng, mỗi dòng lại có nhiều ô. Học sinh cần điền
các từ ngữ theo dòng, mỗi chữ cái tạo nên từ ngữ ấy điền vào một ô. Phần lời
gợi ý cung cấp nghĩa họăc những dấu hiệu giúp học sinh tìm ra từ ngữ cần điền
vào từng dòng. Nếu biết phối hợp yêu cầu và gợi ý của hai phần với nhau thì
chắc chắn học sinh sẽ tìm ra được từ ngữ thích hợp, qua đó mở rộng được vốn từ
và nắm được nghĩa của từ.
Cách dạy bài tập này: Giáo viên cho học sinh đọc yêu cầu của bài tập, rồi
dựa vào chữ điền mẫu và phần lời gợi ý, hướng dẫn học sinh tìm từ cần điền ở
từng dòng ngang.
Ví dụ: Qua bài tập giải ô chữ trong tiết Luyện từ và câu tuần 6, học sinh
được mở rộng vốn từ về chủ điểm Trường học, với các từ ngữ cụ thể sau: lên
lớp, sách giáo khoa, thời khoá biểu, cô giáo, giảng bài, ra chơi, thông minh, học
giỏi, lười học…
5
2. Bài tập về nghĩa của từ: Loại bài tập này chiếm tỉ lệ không nhiều và có
cấu tạo đơn giản.
Ví dụ: Chọn nghĩa thích hợp ở cột B cho các từ ở cột A:
A B
Lễ Hoạt động tập thể có cả phần lễ và phần hội.
Hội Cuộc vui tổ chức cho đông người dự theo
phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt.
Lễ hội Các nghi thức nhằm đánh dấu hoặc kỉ niệm
một sự kiện có ý nghĩa.
( Tiếng Việt 3, tập 2 )
Ở bài tập này, từ và nghĩa của từ đều đã cho sẵn, học sinh chỉ cần xác lập sự
tương ứng giữa từ và nghĩa của từ trong từng trường hợp. Đây là dạng bài tập có
yêu cầu đơn giản nhất, phù hợp với trình độ của học sinh ở giai đoạn đầu cấp
tiểu học. Ngoài tác dụng giúp học sinh nắm nghĩa của từ, dạng bài tập này còn

hình thành ở học sinh ý thức về vấn đề nghĩa của từ, vấn đề sử dụng từ sao cho
đúng nghĩa.
Cách dạy bài tập này: Giáo viên hướng dẫn học sinh lần lượt thử ghép, nối
từng từ với từng nghĩa cho sẵn. Nếu có sự tương ứng, hợp lí giữa từ và nghĩa
của từ thì có nghĩa là học sinh làm được. Sự so sánh, đối chiếu giữa các nghĩa
khác nhau của các từ cho sẵn giúp học sinh nhận biết được các nét nghĩa, các sắc
thái nghĩa khác nhau trong nghĩa của từng từ.
Theo cách làm này, đối với bài tập trên, kết quả đạt được như sau:
- Lễ: Các nghi thức nhằm đánh dấu hoặc kỉ niệm một sự kiện có ý nghĩa.
- Hội: Cuộc vui tổ chức cho đông người dự theo phong tục hoặc nhân dịp
đặc biệt.
- Lễ hội: Hoạt động tập thể có cả phần lễ và phần hội.
3. Bài tập sử dụng từ: Sử dụng từ là lựa chọn và kết hợp các từ ngữ với
nhau để tạo thành câu, thành đoạn… theo những qui tắc nhất định. Mục đích của
loại bài tập này là tích cực hoá vốn từ của học sinh, nghĩa là chuyển những từ
học sinh đã tích luỹ được thành những từ sống, luôn luôn được huy động vào
hoạt động giao tiếp và tư duy. Trong sách giáo khoa Tiếng Việt 3, các bài tập
giúp học sinh luyện tập sử dụng từ có hai dạng cơ bản: Điền từ vào chỗ trống và
thay thế từ.
a. Dạng bài điền từ vào chỗ trống:
Ví dụ: Chọn từ thích hợp trong ngoặc đơn để điền vào chỗ trống:
1. Đồng bào miền núi thường trồng lúa trên những thửa ruộng…
2. Những ngày lễ hội, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thường tập trung
bên… để múa hát.
6
3. Để tránh thú dữ, nhiều dân tộc miền núi thường làm… để ở.
4. Truyện “ Hũ bạc của người cha” là truyện cổ của dân tộc…
( nhà rông, nhà sàn, Chăm, bậc thang )
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Dạng bài tập điền từ thể hiện yêu cầu luyện tập sử dụng từ ở mức độ đơn

giản. Hình thức bài tập cho sẵn từ cần điền như bài tập trên lại càng đơn giản.
Hình thức bài tập này cũng có tác dụng trong việc giúp học sinh rèn kĩ năng lựa
chọn từ và kết hợp từ.
Cách dạy, trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh đọc các câu văn có chỗ
trống, để học sinh sơ bộ nắm được nội dung của từng câu, làm cơ sở cho việc
lựa chọn từ cần điền. Sau đó, giáo viên hướng dẫn học sinh lần lượt thử điền
từng từ cho sẵn vào từng chỗ trống trong câu. Trong các từ thử điền vào chỗ
trống, từ nào có sự tương hợp về nghĩa, phù hợp về quan hệ ngữ pháp với những
từ ngữ trong câu thì lựa chọn từ đó, lựa chọn phương án điền từ đó.
Theo cách làm này, ở bài tập trên, học sinh có thể chọn các từ trong ngoặc
đơn để diền vào chỗ trống như sau:
1, Đồng bào miền núi thường trồng lúa trên những thửa ruộng bậc thang.
2. Những ngày lễ hội, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên thường tập trung
bên nhà rông để múa hát.
3. Để tránh thú dữ, nhiều dân tộc miền núi thường làm nhà sàn để ở.
4. Truyện “ Hũ bạc của người cha” là truyện cổ của dân tộc Chăm.
b. Dạng bài tập thay thế từ:
Ví dụ: Tìm từ ngữ trong ngoặc đơn có thể thay thế cho từ quê hương ở
đoạn văn sau:
Tây Nguyên là quê hương của tôi. Nơi đây, tôi dã lớn lên trong địu vải
thân thương của má, trong tiếng ngân vang của dòng thác, trong hương thơm
ngào ngạt của núi rừng.
( quê quán, quê cha đất tổ, đất nước, giang sơn, nơi chôn rau cắt rốn )
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Dạng bài tập này giúp học sinh rèn kĩ năng lựa chọn từ và kết hợp từ. Cụ
thể ở vị trí của từ quê hương trong ngữ cảnh cho sẵn, học sinh phải lựa chọn
những từ ngữ đồng nghĩa với từ quê hương có thể thay thế cho từ quê hương
(nghĩa là phải có sự tương hợp về nghĩa, phù hợp về quan hệ ngữ pháp với
những từ ngữ đứng trước và đứng sau trong chuỗi lời nói). Ngoài ra sự thay thế
đó còn phải phù hợp về âm điệu của câu văn, không làm thay đổi nội dung câu

văn, đoạn văn.
Cách dạy loại bài tập này, giáo viên hướng dẫn học sinh lần lượt thử dùng
từ cho sẵn trong ngoặc đơn thay thế cho từ quê hương. Nếu từ nào có sự tương
hợp như đã nói ở trên thì thay thế được.
7
Theo cách làm này, ở bài tập trên, có các từ ngữ sau đây có thể thay thế cho
từ quê hương: quê quán, quê cha đất tổ, nơi chôn rau cắt rốn.
4. Bài tập phân loại, hệ thống hoá vốn từ: Loại bài tập này chiếm tỉ lệ
khoảng 10% trong sách Tiếng Việt 3. Các từ ngữ cho sẵn trong mỗi bài tập đều
thuộc cùng một chủ điểm cũng có nghĩa là cùng liên quan tới việc biểu thị một
phạm vi sự vật, hiện tượng nào đó trong thực tế khách quan. Vì vậy, phân loại
các từ này cũng chính là chia các từ thành các trường nghĩa nhỏ hơn, thành các
tiểu hệ thống. Sự phân loại này phải dựa trên một tiêu chí nhất định. Tiêu chí ở
đây chính là một hoặc một số nét đồng nhất nào đó về ngữ nghĩa, về phạm vi sử
dụng.
Ví dụ 1: Xếp các từ sau đây vào nhóm thích hợp: đất nước, dựng xây nước
nhà, giữ gìn, non sông, gìn giữ, kiến thiết, giang sơn.
a. Những từ cùng nghĩa với Tổ quốc.
b. Những từ cùng nghĩa với bảo vệ.
c. Những từ cùng nghĩa với xây dựng.
( Tiếng Việt 3, tập 2 )
Ví dụ 2: Chọn và xếp các từ ngữ sau vào bảng phân loại: bố/ ba, mẹ/ má,
anh cả/ anh hai, quả/ trái, hoa/ bông, dứa/ thơm/ khóm, sắn/ mì, ngan/ vịt xiêm.
Từ ngữ ở miền Bắc Từ ngữ ở miền Nam
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Ở ví dụ 1, điểm đồng nhất về nghĩa được sử dụng để phân loại các từ ngữ
cùng biểu thị một sự vật, hiện tượng. Còn ở ví dụ 2, điểm đồng nhất chính là
phạm vi sử dụng từ ngữ.
Cách dạy loại bài tập này, khi hướng dẫn học sinh phân loại từ ngữ, giáo
viên cần nắm chắc các tiêu chí phân loại, đồng thời là căn cứ, chỗ dựa phân loại.

Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng các tiêu chí này để xử lí, phân loại từng
từ cho sẵn.
Theo cách làm này, ở 2 bài tập trên ta được kết quả như sau:
Ví dụ 1:
a. Những từ cùng nghĩa với Tổ quốc: đất nước, nước nhà, non sông, giang
sơn.
b. Những từ cùng nghĩa với bảo vệ: giữ gìn, gìn giữ
c. Những từ cùng nghĩa với xây dựng: dựng xây, kiến thiết.
Ví dụ 2
Từ ngữ ở miền Bắc Từ ngữ ở miền Nam
8
Bố, mẹ, anh cả, quả, hoa, dứa, sắn,
ngan
Ba, má, anh hai, trái, bông, thơm,
khóm, mì, vịt xiêm
II. Cách dạy biện pháp tu từ:
1. Biện pháp tu từ so sánh: So sánh là biện pháp tu từ trong đó người ta
đối chiếu hai hay nhiều đối tượng khác nhau nhưng giống nhau ở một điểm nào
đó, để hiểu rõ hơn đối tượng được nói đến.
So sánh bao gồm:
- Đối tượng được so sánh
- Phương diện so sánh
- Từ biểu thị quan hệ so sánh ( như, như thể, như là, giống, giống như, tựa
như, không khác gì, bằng, là )
- Đối tượng đưa ra làm chuẩn để so sánh.
So sánh có tác dụng như sau:
- Về nhận thức: Qua so sánh, đối tượng nói đến được hiểu rõ hơn.
- Về biểu cảm: Hình ảnh so sánh làm tăng thêm tính biểu cảm cho câu văn.
Bài tập về so sánh có hai loại nhỏ :
a. Bài tập nhận biết phép tu từ so sánh: Như đã trình bày ở trên, sách

Tiếng Việt lớp 3 không trực tiếp giới thiệu khái niệm so sánh ( với tư cách là
một biện pháp tu từ ) cho học sinh, mà thông qua hàng loạt bài tập, dần dần hình
thành ở học sinh khái niệm này. Hình thức bài tập thường là nêu câu văn, câu
thơ,đoạn văn trong đó có sử dụng biện pháp tu từ so sánh; yêu cầu học sinh chỉ
ra các hình ảnh so sánh, các sự vật được so sánh với nhau trong câu văn, câu
thơ, đoạn văn ấy.
Ví dụ:
1. Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành.
2. Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch.
3. Cánh diều như dấu “ á ”
Ai vừa tung lên trời.
4. Ơ, cái dấu hỏi
Trông ngộ ngộ ghê,
Như vành tai nhỏ
Hỏi rồi lắng nghe.
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Cách dạy loại bài tập này, trước hết giáo viên cho một học sinh đọc thành
tiếng toàn bộ bài tập. Các em khác vừa nghe, vừa nhìn vào bài tập trong sách
giáo khoa. Ấn tượng thính giác kết hợp với ấn tượng thị giác giúp các em dễ
nhận ra hiện tượng so sánh ẩn chứa trong các câu thơ, câu văn. Sau bước nhận
9
biết sơ bộ đó, giáo viên hướng dẫn học sinh đi vào phân tích từng trường hợp,
tìm các sự vật được so sánh hoặc các hình ảnh so sánh theo yêu cầu của bài tập.
Theo cách làm này, ở bài tập trong ví dụ nói trên, học sinh dễ dàng tìm
được những sự vật được so sánh với nhau. Cụ thể ở ví dụ 1: hai bàn tay em được
so sánh với hoa đầu cành; Trong ví dụ 2: mặt biển được so sánh với tấm thảm
khổng lồ; Trong ví dụ 3: cánh diều được so sánh với dấu á; Trong ví dụ 4: dấu
hỏi được so sánh với vành tai nhỏ.
b.Bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh: Dạng bài tập này có tác

dụng rất lớn đối với việc làm văn miêu tả, kể chuyện của học sinh. Nó gồm hai
dạng bài tập nhỏ.
- Dạng 1: Sách giáo khoa đã cung cấp sẵn nội dung so sánh qua các tranh
vẽ từng cặp sự vật có đặc điểm giống nhau ( hoặc gần giống nhau ) về hình thức.
Ví dụ : Quan sát từng cặp sự vật được vẽ dưới đây rồi viết những câu có
hình ảnh so sánh các sự vật trong tranh.
( Tiếng Việt 3, tập 1, trang126 )
Cách dạy: Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định đối tượng được so sánh
và đối tượng đưa ra làm chuẩn để so sánh ở từng cặp. Sau đó, xác lập quan hệ so
sánh giữa hai đối tượng rồi đặt câu có chứa hình ảnh so sánh ấy. Như vậy là sau
khi đã hình thành được ý, học sinh phải tự tìm ra cấu trúc thích hợp.
Theo cách làm này, ở bài tập trong ví dụ nói trên, học sinh sẽ viết được
những câu có hình ảnh so sánh các sự vật trong tranh như sau:
- Cặp 1: Trăng đêm rằm tròn như quả bóng.
- Cặp 2: Bé cười tươi như hoa.
- Cặp 3: Đèn điện sáng như sao trên trời.
- Cặp 4: Đất nước ta cong cong như hình chữ S.
- Dạng 2: Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 đã đưa ra cấu trúc câu cho sẵn, dựa
vào các yếu tố đã cho sẵn, học sinh có thể tìm được đối tượng so sánh.
Ví dụ: Tìm từ ngữ thích hợp với mỗi chỗ trống:
a. Công cha nghĩa mẹ được so sánh như… như…
b. Trời mưa, đường đất sét trơn như…
c. Ở thành phố có nhiều toà nhà cao như…
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Ở đây yếu tố 1,2,3 đã cho sẵn, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm yếu tố 4
(Đối tượng đưa ra làm chuẩn để so sánh ) để điền vào chố trống ấy. Dựa vào các
yếu tố đã cho, học sinh tìm ra đối tượng so sánh. Cụ thể ở bài tập này học sinh
có thể tìm được từ ngữ thích hợp để diền vào chỗ trống như sau:
a. Công cha nghĩa mẹ được so sánh như núi Thái sơn, như nước trong
nguồn chảy ra.

b. Trời mưa, đường đất sét trơn như bôi mỡ.
10
c. Ở thành phố có nhiều toà nhà cao như trái núi.
2. Biện pháp tu từ nhân hoá: Nhân hoá là biện pháp gán cho đồ vật, cây
cối, con vật… những tình cảm, đặc điểm. tính chất của người, nhằm làm cho đối
tượng được miêu tả trở nên gần gũi, sinh động. Bài tập về phép tu từ nhân hoá
có 2 loại nhỏ:
a. Bài tập nhận biết phép tu từ nhân hoá:
Ví dụ: Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi:
ĐỒNG HỒ BÁO THỨC
Bác kim giờ thận trọng
Nhích từng li, từng li
Anh kim phút lầm lì
Đi từng bước, từng bước
Bé kim giây tinh nghịch
Chạy vút lên trước hàng
Ba kim cùng tới đích
Rung một hồi chuông vang.
1. Trong bài thơ trên, những vật nào được nhân hoá?
2. Những vật ấy được nhân hoá bằng cách nào?
3. Em thích hình ảnh nào? Vì sao?
( Tiếng Việt 3, tập 2 )
Cách dạy loại bài tập này: Trên cơ sở nắm chắc khái niệm nhân hoá, giáo
viên gợi ý, hướng dẫn học sinh làm các bài tập nhận biết nói trên, từng bước
hình thành cho học sinh hiểu biết về biện pháp tu từ này. Giáo viên có thể đặt
những câu hỏi, cụ thể hoá yêu cầu của bài tập để gợi ý học sinh. Chẳng hạn
trong bài tập trên ở câu hỏi 1 có thể gợi ý: trong bài thơ trên, những vật nào
mang đặc điểm, tính cách như người?; ở câu hỏi 2 dựa trên hiểu biết của học
sinh về cách nhân hoá đã được hình thành qua nhiều bài tập trước, giáo viên có
thể gợi ý cụ thể hơn cho các em: Những chiếc kim đồng hồ được gọi bằng gì?

Hoạt động trạng thái của những chiếc kim ấy được miêu tả bằng những từ ngữ
như thế nào? Theo cách làm này, ta được kết quả như sau:
Những vật
được nhân
hoá
Cách nhân hoá
Được gọi như
người
Được tả bằng từ ngữ tả người
Kim giờ bác thận trọng, nhích từng li, từng li
Kim phút anh lầm lì, đi từng bước, từng bước
Kim giây bé tinh nghịch, chạy vút lên trước hàng
11
b.Bài tập vận dụng biện pháp tu từ nhân hoá: Sử dụng biện pháp nhân
hoá vào việc dùng từ đặt câu không thật xa lạ đối với học sinh. Trong các bài tập
làm văn ( nhất là văn miêu tả ), các em đã ít nhiều sử dụng biện pháp nhân hoá.
Bài tập về nhận biết phép tu từ nhân hoá có 2 dạng nhỏ.
- Dạng 1: Sử dụng biện pháp nhân hoá để viết một đoạn văn
Ví dụ: Hãy viết một đoạn văn ngắn ( từ 4 đến 5 câu ) trong đó có sử dụng
phép nhân hoá để tả bầu trời buổi sớm hoặc một vườn cây.
( Tiếng Việt 3, tập 2 )
Ở bài tập này, cái khó đối với học sinh là việc tìm ý và sắp xếp ý cho thành
đoạn văn hoàn chỉnh có sử dụng phép nhân hoá.
- Dạng 2: Cảm nhận được cái hay của phép nhân hoá.
Ví dụ: Đoạn thơ dưới đây tả những sự vật và con vật nào? Cách gọi và tả
chúng có gì hay?
Những chị lúa phất phơ bím tóc
Những cậu tre bá vai nhau thì thầm đứng học
Đàn cò áo trắng
Khiêng nắng

Qua sông
Cô gió chăn mây trên đồng
Bác mặt trời đạp xe qua ngọn núi.
( Tiếng Việt 3, tập 2 )
Ở bài tập trên, cái khó đối với học sinh không phải là cảm nhận cái hay của
hình tượng mà là diễn đạt cảm nhận ấy thành lời.
Cách dạy, giáo viên có thể mời một, hai học sinh khá làm mẫu một phần bài
tập rồi tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm để các em tự giúp nhau chọn
cách diễn đạt đúng nhất cảm nhận của mình. Những bài tập ứng dụng như trên
nếu học sinh được rèn luyện nhiều thì kĩ năng sử dụng phép nhân hoá trong bài
tập làm văn nói riêng và năng lực sử dụng tiếng Việt nói chung của học sinh dần
dần sẽ được nâng lên.
Theo cách làm này, kết quả thu được như sau:
Tên các sự
vật, con vật
Các sự vật,
con vật
được gọi
Các sự vật, con vật được tả Cách gọi và tả
sự vật, con vật.
Lúa chị phất phơ bím tóc
Làm cho các sự
vật, con vật trở
nên sinh động,
gần gũi, đáng
Tre cậu bá vai nhau thì thầm đứng
học
Đàn cò áo trắng, khiêng nắng qua
sông
12

Gió cô chăn mây trên đồng
Mặt trời bác đạp xe qua ngọn núi
III. Cách dạy bài tập về câu: Nhiệm vụ rèn luyện về câu của học sinh lớp
3 là củng cố các kiến thức và kĩ năng đã hình thành ở lớp 2.
1. Cách dạy các kiểu câu Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào?
Để dạy tốt các kiểu câu này, trước hết giáo viên phải nắm vững cách phân
loại câu: Câu có nòng cốt do một cụm C-V tạo thành thì đó là câu đơn; còn nếu
câu có nòng cốt do hai hoặc nhiều cụm C-V tạo thành thì đó là câu ghép. Trong
sách Tiếng Việt tiểu học, câu đơn bình thường phân thành câu luận, câu kể và
câu tả:
- Câu kể, vị ngữ thường là động từ, cụm động từ chỉ hoạt động, trả lời câu
hỏi Làm gì?
Ví dụ: Chúng em học vẽ.
- Câu tả, vị ngữ thường là động từ , cụm động từ chỉ trạng thái; tính từ, cụm
tính từ hay cụm C-V, trả lời cho câu hỏi Thế nào?
Ví dụ: - Hoa nở.
- Bạn em rất hiền.
- Cái bút này ngòi trơn lắm.
Cách dạy bài tập về các kiểu câu trên, giáo viên tổ chức cho học sinh lần
lượt giải từng bài tập trong sách giáo khoa theo các bước:
- Giáo viên giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập ( bằng câu hỏi,
bằng lời giải thích ).
- Giáo viên giúp học sinh chữa một phần của bài tập để làm mẫu ( một
học sinh chữa mẫu trên bảng lớp hoặc cả lớp làm bài vào vở hay bảng con ).
- Giáo viên tổ chức cho học sinh làm bài tập.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh trao đổi, nhận xét về kết quả, rút ra
những điểm ghi nhớ về tri thức.
Ví dụ 1: Bài tập về kiểu câu Ai là gì?
Tìm các bộ phận của câu
- Trả lời câu hỏi Ai ( cái gì, con gì )?

- Trả lời câu hỏi Là gì?
a. Thiếu nhi là măng non của đất nước.
b. Chúng em là học sinh tiểu học.
c. Chích bông là bạn của trẻ em.
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện bài tập theo các bước đã nêu ở
trên, kết quả thu được như sau:
13
Ai ( cái gì, con gì )? Là gì?
a. Thiếu nhi là măng non của đất nước
b. Chúng em là học sinh tiểu học
c. Chích bông là bạn của trẻ em
Ví dụ 2: Bài tập về kiểu câu Ai làm gì?
Tìm các bộ phận của câu
- Trả lời câu hỏi Ai ( cái gì, con gì )?
- Trả lời câu hỏi Làm gì?
a. Đàn sếu đang sải cánh trên cao.
b. Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về.
c. Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi.
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Tương tự như cách làm ở ví dụ 1, ta được kết quả như sau:
Ai ( cái gì, con gì )? Làm gì?
a. Đàn sếu đang sải cánh trên cao
b. đám trẻ ra về
c. Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi
Ví dụ 3: Bài tập về kiểu câu Ai thế nào?
Tìm các bộ phận của câu
- Trả lời câu hỏi Ai ( cái gì, con gì )?
- Trả lời câu hỏi Thế nào?
a. Anh Kim Đồng rất nhanh trí và dũng cảm.

b. Những hạt sương sớm long lanh như những bóng đèn pha lê.
c. Chợ hoa trên đường Nguyễn Huệ đông nghịt người.
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Tương tự như cách dạy ở kiểu bài tập về hai kiểu câu trên, ta thu được kết
quả như sau:
Ai ( cái gì, con gì )? Thế n oà ?
a. Anh Kim Đồng nhanh trí và dũng cảm
b. Những hạt sương sớm long lanh như những bóng đèn pha lê
c. Chợ hoa đông nghịt người
2. Cách dạy các kiểu bài đặt và trả lời câu hỏi Khi nào?, Ở đâu?, Như
thế nào?, Vì sao?, Để làm gì?, Bằng gì?
Mục đích của kiểu bài này là dạy học sinh cách dùng trạng ngữ của câu.
14
Ở Tiểu học, chưa đặt vấn đề phân biệt trạng ngữ của câu với phụ ngữ của
cụm từ. Giáo viên lớp 3 không cần sử dụng các thuật ngữ này. Có thể coi tất cả
các bộ phận câu bổ sung ý nghĩa thời gian, nơi chốn, cách thức, nguyên nhân,
mục đích, phương tiện đều là trạng ngữ.
Yêu cầu đối với học sinh lớp 3 khi học về trạng ngữ là ôn lại cách đặt câu
và trả lời câu hỏi đã học ở lớp 2 và học thêm cách đặt và trả lời câu hỏi bằng gì?
( Hỏi về phương tiện thực hiện những điều được nói trong câu ).
Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 đưa ra các loại bài tập như sau:
1. Trả lời câu hỏi:
Ví dụ:
Dựa vào nội dung bài tập đọc Hội vật, hãy trả lời các câu hỏi sau:
a. Vì sao người tứ xứ đổ về xem vật rất đông?
b. Vì sao lúc đầu keo vật xem chừng chán ngắt?
c. Vì sao ông Cản Ngũ mất đà chúi xuống?
d. Vì sao Quắm Đen thua ông Cản Ngũ?
( Tiếng Việt 3, tập 2 )
2. Tìm bộ phận câu trả lời cho những câu hỏi nhất định:

Ví dụ: Tìm bộ phận câu trả lời cho câu hỏi Khi nào?
a. Anh Đom Đóm lên đèn đi gác khi trời đã tối.
b. Tối mai, anh Đom Đóm lại đi gác.
c. Chúng em học bài thơ “ Anh Đom Đóm ” trong học kì 1.
( Tiếng Việt 3, tập 2 )
3. Đặt câu hỏi cho một bộ phận của câu:
Ví dụ: Đặt câu hỏi cho bộ phận được in đậm:
a. Trương Vĩnh Kí hiểu biết rất rộng.
b. Ê- đi- xơn làm việc miệt mài suốt ngày đêm.
c. Hai chị em thán phục nhìn chú Lí.
d. Tiếng nhạc nổi lên réo rắt.
( Tiếng Việt 3, tập 2 )
4. Hỏi – đáp theo mẫu:
Ví dụ:
Trò chơi: Hỏi đáp với bạn em bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi có cụm từ
Bằng gì?
( Tiếng Việt 3, tập 2 )
Khi dạy các kiểu bài tập này, giáo viên hướng dẫn để học sinh biết đặt và
trả lời các câu hỏi về thời gian, nơi chốn, cách thức, nguyên nhân, mục đích,
phương tiện…. Giáo viên không cần và không nên giảng lí thuyết cho học sinh,
không dùng các thuật ngữ trạng ngữ, phụ ngữ.
15
Với cách làm trên, kết quả thực hiện các bài tập ở 4 loại trên của học sinh
như sau:
1. Trả lời câu hỏi:
Học sinh trả lời được câu hỏi vì sao như sau:
a. Vì ai cũng muốn biết ông Cản Ngũ trông như thế nào, vật tài như thế nào.
b. Vì Quắm Đen thì lăn xả vào đánh rất hăng, còn ông Cản Ngũ thì lớ ngớ,
chậm chạp, chỉ chống đỡ./ Vì mọi người thấy ông Cản Ngũ không vật hăng, vật
giỏi như người ta tưởng.

c. Vì ông bước hụt, / Vì ông muốn đánh lừa Quắm Đen.
d. Vì anh mắc mưu ông./ Vì cả về mưu trí, kinh nghiệm và sức lực anh đều
kém xa ông Cản Ngũ
2. Tìm bộ phận câu trả lời cho những câu hỏi nhất định:
Học sinh tìm được bộ phận câu trả lời cho câu hỏi Khi nào?
a. khi trời đã tối.
b. Tối mai
c. trong học kì 1.
3. Đặt câu hỏi cho một bộ phận của câu:
Học sinh đặt câu hỏi cho bộ phận được in đậm như sau:
a. Trương Vĩnh Kí hiểu biết như thế nào?
b. Ê- đi- xơn làm việc như thế nào?
c. Hai chị em nhìn chú Lí như thế nào?
d. Tiếng nhạc nổi lên như thế nào?
4. Hỏi – đáp theo mẫu:
Trò chơi: Hỏi đáp với bạn em bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi có cụm từ
Bằng gì?
Cách dạy bài tập này, giáo viên hướng dẫn học sinh trao đổi theo cặp: em
hỏi – em trả lời. Sau đó giáo viên hướng dẫn cho từng cập học sinh tiếp nối nhau
thực hành hỏi - đáp trước lớp.
Ví dụ:
- Học sinh 1 hỏi: Hàng ngày, bạn đến trường bằng gì?
- Học sinh 2 đáp: Mình đi bộ. / Mình đi xe đạp. / Mẹ mình đèo.
2. Cách dạy kiểu bài tập về các dấu câu: Khi dạy kiểu bài tập về các dấu
câu giáo viên cần lưu ý một số vấn đề cụ thể như sau:
a. Bài tập về dấu phẩy: Dấu phẩy được dùng để đánh dấu ranh giới giữa
các bộ phận của câu. Cụ thể là:
- Đánh dấu ranh giới giữa các thành phần phụ của câu với chủ ngữ và vị
ngữ:
Ví dụ: Từ nay, mỗi khi em Hoàng định chấm câu, anh Dấu Chấm cần

yêu cầu Hoàng đọc lại câu văn một lần nữa. Được không nào?
16
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
- Đánh dấu ranh giới giữa các từ ngữ có cùng chức vụ trong câu:
Ví dụ: Giáo lao, cung nỏ, rìu búa, khiên mộc cuồn cuộn tràn theo bóng
voi ẩn hiện của Hai Bà.
( Tiếng Việt 3, tập 2 )
- Đánh dấu ranh giới giữa một từ ngữ với bộ phận chú thích của nó.
Ví dụ: Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. mẹ
tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp.
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
- Đánh dấu ranh giới giữa các vế câu của một câu ghép:
Ví dụ: Bình minh, mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt
biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt.
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Sách giáo khoa Tiếng Việt 3, đưa ra các dạng bài tập về dấu phẩy như sau:
a.1. Đặt dấu phẩy vào chỗ thích hợp để đánh dấu ranh giới giữa trạng
ngữ với chủ ngữ và vị ngữ.
Ví dụ: Em đặt dấu phẩy vào chỗ nào trong mỗi câu sau?
1. Ở nhà em thường giúp bà xâu kim.
2. Trong lớp Liên luôn luôn chăm chú nghe giảng.
3. Hai bên bờ sông những bãi ngô bắt đầu xanh tốt.
4. Trên cánh rừng mới trồng chim chóc lại bay về ríu rít.
( Tiếng Việt 3, tập 2 )
Kiểu bài này thường đi liền sau bài tập về từng loại trạng ngữ.Vì vậy, khi
dạy nếu xét thấy cần thiết, giáo viên có thể yêu cầu học sinh xác định bộ phận
câu trả lời câu hỏi Ở đâu? ( Khi nào?, Như thế nào?, Vì sao?, Để làm gì?, Bằng
gì? ) rồi đặt dấu phẩy sau bộ phận ấy.
Theo cách làm này, kết quả bài tập trên thu được như sau:
1. Ở nhà, em thường giúp bà xâu kim.

2. Trong lớp, Liên luôn luôn chăm chú nghe giảng.
3. Hai bên bờ sông, những bãi ngô bắt đầu xanh tốt.
4. Trên cánh rừng mới trồng, chim chóc lại bay về ríu rít.
a.2. Đặt dấu phẩy vào chỗ thích hợp để đánh dấu ranh giới giữa các
thành phần đồng chức năng ( những từ ngữ cùng giữ một chức vụ như
nhau trong câu ).
Ví dụ: Em đặt dấu phẩy vào chỗ nào trong đoạn văn sau?
Mỗi bản nhạc mỗi bức tranh mỗi câu chuyện mỗi vở kịch mỗi cuốn phim…
đều là một tác phẩm nghệ thuật. Người tạo nên tác phẩm nghệ thuật là các nhạc
sĩ hoạ sĩ nhà văn nghệ sĩ sân khấu hay đạo diễn. Họ đang lao động miệt mài say
17
mê để đem lại cho ta những giờ giải trí tuyệt vời giúp ta nâng cao hiểu biết và
góp phần làm cho cuộc sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
( Tiếng Việt 3, tập 2 )
Kiểu bài này đã được học sinh thực hiện nhiều lần từ lớp 2. Lên lớp 3, đôi
khi bài tập có hình thức trình bày phức tạp hơn ( như ví dụ trên ) nhưng nội dung
vẫn không thay đổi. Khi dạy giáo viên chỉ cần lưu ý để không bỏ sót các thành
phần đồng chức năng trong từng câu là học sinh sẽ thực hiện được trọn vẹn yêu
cầu của bài tập. Như vậy, ở ví dụ trên học sinh sẽ điền được dấu phẩy vào chỗ
thích hợp trong đoạn văn như sau:
Mỗi bản nhạc, mỗi bức tranh. mỗi câu chuyện, mỗi vở kịch, mỗi cuốn
phim… đều là một tác phẩm nghệ thuật. Người tạo nên tác phẩm nghệ thuật là
các nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà văn , nghệ sĩ sân khấu hay đạo diễn. Họ đang lao động
miệt mài, say mê để đem lại cho ta những giờ giải trí tuyệt vời, giúp ta nâng cao
hiểu biết và góp phần làm cho cuộc sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
b. Bài tập về dấu chấm: Dấu chấm là dấu dùng để đấnh dấu chỗ kết thúc
câu trần thuật. Nhiều khi, nó cũng được dùng ở cuối những câu khiến hoặc câu
cảm thán mà ý cầu khiến hay cảm thán không mạnh.
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3, chia bài tập về dấu chấm thành một số
kiểu sau:

1. Lựa chọn dấu chấm với các dấu câu khác để điền vào chỗ trống.
Ví dụ: Điền dấu chấm hay dấu phẩy vào mỗi ô trống trong đoạn văn sau:
Cà Mau đất xốp mùa nắng đất nẻ chân chim, nền nhà cũng rạn nứt
trên cái đất phập phều và lắm gió lắm dông như thế cây đứng lẻ khó
mà chống chọi nổi. Cây bình bát cây bần cũng phải quây quần thành chòm
thành rặng rễ phải dài phải cắm sâu vào trong lòng đất.
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Khi dạy loại bài tập này, giáo viên cần lưu ý: Việc phân biệt dấu chấm với
các dấu câu khác: dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm không khó, khó
nhất là lựa chọn giữa dấu chấm và dấu phẩy. Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc
lại câu văn xem đặt dấu chấm ở chỗ trống , câu đã đủ ý chưa; nếu chưa thì phải
đặt dấu phẩy. Giáo viên có thể giải thích nếu thấy học sinh lúng túng trong khi
làm bài như sau:
- Dấu chấm hỏi đặt ở cuối câu hỏi, dấu chấm than đặt cuối câu khiến hoặc
câu cảm. Cuối những câu không phải câu hỏi, câu khiến, câu cảm thì đặt dấu
chấm.
- Dấu hai chấm báo hiệu bộ phận đứng sau nó là lời nói của nhân vật hoặc
lời giải thích. Còn dấu chấm đánh dấu chỗ kết thúc câu.
Như vậy, học sinh có thể lựa chọn dấu câu thích hợp để điền vào chỗ trống
như sau:
18
Cà Mau đất xốp. Mùa nắng, đất nẻ chân chim, nền nhà cũng rạn nứt. Trên
cái đất phập phều và lắm gió lắm dông như thế, cây đứng lẻ khó mà chống chọi
nổi. Cây bình bát, cây bần cũng phải quây quần thành chòm, thành rặng. Rễ phải
dài, phải cắm sâu vào trong lòng đất.
2. Điền dấu chấm vào chỗ thích hợp để ngắt câu:
Ví dụ: Ngắt đoạn văn dưới đây thành 5 câu và chép lại cho đúng chính tả:
Trên nương, mỗi người một việc người lớn thì đánh trâu ra cày các bà mẹ
cúi lom khom tra ngô các cụ già nhặt cỏ, đốt lá mấy chú bé đi bắc bếp thổi cơm.
( Tiếng Việt 3, tập 1 )

Đây là kiểu bài tập vào loại khó nhất trong các kiểu bài rèn luyện dấu câu ở
lớp 3. Khi dạy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh dựa vào những dấu hiệu có
trong đoạn văn để đánh dấu cho đúng. Cụ thể đối với bài tập ở ví dụ trên học
sinh có thể dựa vào các từ ngữ chỉ những nhóm người khác nhau ( mỗi người,
người lớn, các bà mẹ, các cụ già, mấy chú bé ), hoặc những hoạt động khác nhau
( đánh trâu ra cày, lom khom tra ngô, nhặt cỏ, đốt lá, bắc bếp thổi cơm ) để ngắt
câu như sau:
Trên nương, mỗi người một việc. Người lớn thì đánh trâu ra cày. Các bà mẹ
cúi lom khom tra ngô. Các cụ già nhặt cỏ, đốt lá. Mấy chú bé đi bắc bếp thổi
cơm.
3. Chữa lỗi về dấu chấm:
Ví du: Bạn Hoa tập điền dấu câu vào ô trống trong truyện vui dưới đây.
Chẳng hiểu vì sao bạn ấy điền toàn dấu chấm. Theo em, dấu chấm nào dùng
đúng, dấu chấm nào dùng sai? Hãy sửa lại những chỗ sai.
ĐIỆN
- Anh ơi người ta làm ra điện để làm gì
- Điện quan trọng lắm em ạ, vì nếu đến bây giờ chưa phát minh ra điện thì
anh em mình phải thắp đèn dầu để xem vô tuyến
( Tiếng Việt 3, tập 2 )
Kiểu bài này giống bài tập lựa chọn dấu câu, giáo viên cần giúp học sinh
xem xét từng dấu chấm đã dùng bằng cách trả lời các câu hỏi sau:
- Câu đã diễn đạt trọn ý chưa?
- Có dấu hiệu nào xung quanh mách cho ta biết là câu đã kết thúc hay chưa
không? chẳng hạn: từ ngữ đứng sau ô trống có được viết hoa không?
- Nếu câu đã trọn ý thì câu ấy là câu hỏi, câu cảm, câu khiến hay câu thuật.
Theo cách này, học sinh có thể lựa chọn dấu câu bạn Hoa dùng đúng và dấu
dùng chưa đúng và sửa lại như sau:
ĐIỆN
- Anh ơi, người ta làm ra điện để làm gì?
19

- Điện quan trọng lắm em ạ, vì nếu đến bây giờ chưa phát minh ra điện thì
anh em mình phải thắp đèn dầu để xem vô tuyến.
c. Cách dạy dấu chấm hỏi: Dấu chấm hỏi có công dụng đánh dấu chỗ kết
thúc câu hỏi:
Ví dụ: Hàng ngày, các em làm việc gì?
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Trong khi hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên lưu ý các em không
đặt dấu chấm hỏi ở cuối những câu không phải là câu hỏi, mặc dù nó có thể
chứa các từ ai, gì, nào, không, chưa…
Ví dụ:
- Cách viết đúng: Tôi không biết ai đã trồng cây này.
- Cách viết sai: Tôi không biết ai đã trồng cây này?
d. Bài tập về dấu chấm than: Dấu chấm than có công dụng đánh dấu chỗ
kết thúc câu cảm hoặc câu khiến.
Ví dụ 1:
Lũ làng nghe tới đó vui quá, đứng hết dậy:
- Đúng đấy ! Đúng đấy !
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Ví dụ 2:
Một ông ké đã chờ sẵn ở đấy. Ông mỉm cười hiền hậu:
- Nào, bác cháu ta lên đường!
Trong khi hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên hướng dẫn các em
đọc lại câu văn, căn cứ vào nội dung, mục đích diễn đạt, dấu hiệu của câu để
dùng dấu câu cho phù hợp.
e. Bài tập dấu hai chấm : Dấu hai chấm có công dụng dùng để báo hiệu:
bộ phận đứng sau nó là lời nói của nhân vật hoặc là lời giải thích cho bộ phận
đứng trước. Khi báo hiệu lời nói trực tiếp của nhân vật, dấu hai chấm được dùng
phối hợp với dấu ngoặc kép hoặc dấu gạch ngang đầu dòng.
Ví dụ 1:
Lập tức, sẻ nghe thấy tiếng reo từ trong gian phòng tràn ngập ánh nắng:

- Ôi, đẹp quá! Sao lại có bông bằng lăng nở muộn thế kia?
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Ví dụ 2:
Cảnh vật xung quanh tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học.
( Tiếng Việt 3, tập 1 )
Khi dạy loại bài tập này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc lại câu văn,
dựa vào dấu hiệu trong câu, trong đoạn văn ( nội dung , kiểu câu…) để điền dấu
cho đúng.
D. KẾT QUẢ:
20
Qua nhiều năm làm công tác phụ trách, chỉ đạo chuyên môn môn Tiếng
Việt ở Tiểu học, suy nghĩ, ý tưởng của bản thân tuy còn hạn chế về sự sáng tạo
nhưng những kinh nghiệm nhỏ trên đây đã đem lại kết quả khả quan. Chất lượng
dạy học môn Tiếng Việt đã được nâng lên rõ rệt, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện. Điều đó thể hiện ở kết quả giáo dục cuối năm học hàng năm
của đơn vị. Cụ thể trong mấy năm gần đây :
- Năm học 2009 - 2010, chất lượng đại trà môn Tiếng Việt của toàn huyện
đạt loại giỏi 30,84%, loại khá 43,60%, trung bình 24,33%, yếu 1,33%. Có 87
giáo viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp huyện. Có 402 học sinh đạt giải học
sinh giỏi cấp huyện. Có 13 học sinh đạt giải học sinh giỏi cấp tỉnh ( 2 Nhất, 4
Nhì, 4 Ba, 3 KK ). Đạt giải Ba toàn đoàn.
- Năm học 2010 - 2011, chất lượng đại trà môn Tiếng Việt của toàn huyện
đạt loại giỏi 34,4%, loại khá 43,4%, trung bình 20,9%, yếu 1,31%. Có 68 giáo
viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp huyện. Có 432 học sinh đạt giải học sinh
giỏi cấp huyện. Có 14 giáo viên, 28 học sinh đạt giải viết chữ đẹp cấp cấp tỉnh.
Đạt giải Nhì toàn đoàn.
Qua dự giờ thanh tra hoạt động sư phạm của nhà giáo, qua các kì thao
giảng giáo viên giỏi cấp huyện cho thấy: Giáo viên đã nắm tương đối vững về
mục dích yêu cầu, nội dung và phương pháp giảng dạy. Giáo viên không còn
lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh thực hiện các nội dung học tập. Đã

mạnh dạn, limh hoạt, tích cực vận dụng đổi mới phương pháp vào giảng dạy, giờ
dạy đạt hiệu quả cao.
Ví dụ: Năm học 2010- 2011, chúng tôi đã tiến hành thanh tra hoạt động sư
phạm của nhà giáo ở 15 trường tiểu học, tất cả các tiết dạy môn Tiếng Việt đều
đạt loại khá trở lên, trong đó có 11 tiết Luyện từ và câu lớp 3 đạt loại giỏi.
Trong kì thi Giáo viên giỏi cấp huyện năm học 2010 – 2011, có 8 tiết Luyện từ
và câu lớp 3 đạt loại giỏi. Đặc biệt năm học 2008- 2009, giáo viên của đơn vị
chúng tôi tham gia dự thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh có 11 giáo viên đạt danh
hiệu giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, có 1 giáo viên thực hành 1 tiết dạy Luyện từ và
câu lớp 3, đạt điểm cao, được xếp loại xuất sắc và được Sở Giáo dục và Đào tạo
tặng giấy khen. Toàn đoàn xếp thứ Nhất cấp tỉnh. Giáo dục Tiểu học của đơn vị
chúng tôi luôn nằm trong tốp đầu giáo dục Tiểu học của tỉnh.
E. KẾT LUẬN:
Muốn nâng cao chất lượng dạy học Luyện từ và câu lớp 3, nâng cao chất
lượng dạy học môn Tiếng Việt, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện ở trường tiểu học, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Theo tôi:
- Các nhà quản lí, chỉ đạo chuyên môn phải có tâm, có tầm, phải căn cứ vào
thực tiễn để đề ra các biện pháp chỉ đạo, tư vấn, điều chỉnh và hướng dẫn về nội
21
dung và phương pháp giảng dạy cụ thể ở từng phân môn, từng loại bài tập để
giáo viên thực hiện.
- Giáo viên phải có trình độ và năng lực chuyên môn vững vàng, có tâm
huyết, yêu nghề, mến trẻ, có tinh thần và ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng
cao nghiệp vụ, tay nghề.
Để giúp học sinh lớp 3 học Luyện từ và câu đạt hiệu quả cao, giáo viên cần
phải:
- Nghiên cứu kĩ tài liệu trước khi dạy để tìm ra vấn đề cốt lõi, trọng tâm và
kiến thức có liên quan.
- Khi tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các yêu cầu của bài tập, phải
nắm vững từng dạng bài tập, mục đích yêu cầu của từng bài tập. Trên cơ sở đó,

đưa ra hệ thống câu hỏi phù hợp, gợi mở, hướng dẫn học sinh thực hiện từng
thao tác khi làm bài tập.
- Giáo viên phải dự đoán trước những khó khăn, vướng mắc mà học sinh sẽ
gặp trong từng tiết dạy Luyện từ và câu để tìm cách tháo gỡ.
- Phải phát huy cao độ vai trò chủ thể của học sinh, quan tâm đến mọi đối
tượng học sinh trong hoạt động học tập.
- Phải đánh giá đúng kết quả học tập của học sinh.
Trên đây là kinh nghiệm mà bản thân tôi đã thực hiện để chỉ đạo dạy học
Luyện từ và câu lớp 3. Trong quá trình thực hiện, chắc chắn còn nhiều thiếu sót.
Rất mong nhận được góp ý, bổ sung của Hội đồng khoa học.
Thọ Xuân, tháng 5 năm 2011
Người viết
Hà Thị Luân
22

×