Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường học trong công tác giáo dục đạo đức học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.08 KB, 22 trang )

Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò vô cùng quan trọng của quá trình giáo dục học
sinh,được xem như là người cha người mẹ thứ hai trong cộng đồng trường học. Họ
đóng vai trò quyết định thành công đến sự hình thành nhân cách học sinh kể từ khi học
sinh bắt đầu đặt chân đến trường học, thông qua nhân cách của giáo viên chủ nhiệm mà
học sinh có thể xem đó là tấm gương để soi rọi mình mỗi khi làm một việc gì sai trái.
Giáo viên chủ nhiệm(GVCN) lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định
quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. GVCN lớp là người
vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế hoạch và theo dõi,
đánh giá việc thực hiện của các học sinh(HS). GVCN lớp phải biết phối hợp với các
GV bộ môn, chỉ huy quản lý học sinh trong lớp học tập, lao động, công tác. Chủ nhiệm
cũng là người phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong trường trong đó quan hệ nhiều ở
cấp THPT là đoàn trường, chi đoàn GV, hội CMHS, để làm tốt công tác dạy- học- giáo
dục HS trong lớp phụ trách.
Thế mà, trong thực tế có những quan niệm sai lầm trong nhận thức về chức vụ
giáo viên chủ nhiệm lớp chưa tương xứng với tầm quan trọng của chức vụ này chưa
đúng với các văn bản luật cũng như các văn bản quản lí giáo dục quy định và thậm chí
có cả những phương pháp giáo dục lỗi thời…Ở đâu đó, còn tồn tại chuyện học sinh
đánh thầy cô giáo chủ nhiệm của mình; giáo viên chủ nhiệm lớp nóng nảy, thô bạo đã
mắc phải những sai lầm nghiêm trọng như đuổi hàng chục học sinh ra khỏi giờ học, rút
dép đánh học trò trong lớp, cho cán bộ lớp dùng roi dâu đánh bạn học hàng giờ, bắt học
trò liếm ghế, bắt học sinh đi bằng đầu gối 100 vòng quanh lớp, bắt viết 100 bản tự kiểm
điểm v.v Ngược lại có những giáo viên chủ nhiệm lớp quá dễ dãi, buông lỏng quản
lý, thiếu trách nhiệm với lớp, với chức năng đã được giao, để cho học sinh tự do hư đốn
v.v
Vì vậy, trong năm học 2012 - 2013, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Vai trò
của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường học trong công tác giáo dục đạo đức học
sinh”.
II. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu


1. Mục tiêu.
SKKN Năm học: 2012-2013
1
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò của GVCN lớp trong công tác
giáo dục đạo đức HS để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức HS và góp phần hoàn thiện nhân cách HS ở trường THCS.
2. Nhiệm vụ.
- Nghiên cứu lý luận về các GVCN lớp đã thể hiện vai trò của mình như thế nào trong
công tác giáo dục đạo đức HS và đã đạt kết quả như thế nào?
- Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể việc áp dụng nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức HS trong trường THPT.
- Tôi đã rút ra được những bài học kinh nghiệm từ việc trải nghiệm thực tế.
III. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Khách thể.
- Thực trạng và giải pháp cho vai trò của GVCN lớp trong công tác giáo dục đạo đức
HS.
2. Đối tượng.
- Nghiên cứu quá trình chủ nhiệm lớp.
3. Phạm vi nghiên cứu.
- Do thời gian nghiên cứu có hạn nên tôi chỉ vận dụng ở lớp 9C trường THCS Cao
Viên.
4. Giả thuyết khoa học.
- Việc nghiên cứu trên nếu áp dụng đại trà thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục
toàn diện trong trường THCS.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Thu thập những thông tin lý luận của vai trò của người GVCN lớp trong công tác
giáo dục đạo đức HS trên các tập san giáo dục, các bài tham luận trên Internet.
- Phương pháp quan sát:

+ Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của HS.
- Phương pháp điều tra:
+ Trò chuyện, trao đổi với các GVBM, HS, hội cha mẹ học sinh(CMHS), bạn bè và
hàng xóm của HS.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
SKKN Năm học: 2012-2013
2
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
+ Tham khảo những bản báo cáo , tổng kết hàng năm của nhà trường.
+ Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn.
+ Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác trong trường
mình.
- Phương pháp thử nghiệm:
+ Thử áp dụng các giải pháp vào công tác giáo dục đạo đức học sinh ở lớp 9c Trường
THCS Cao Viên.
6. Thời gian thực hiện.
- Bắt đầu : 15/ 08 / 2012
- Kết thúc : 31 / 05 / 2013
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Vài nét về vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường THCS
Trước hết, ta cần xác định rõ vai trò của GVCN lớp:
-Người lãnh đạo lớp: người GVCN nhận mệnh lệnh từ hiệu trưởng có nhiệm vụ lãnh
đạo tập thể học sinh thực hiện kế hoạch dạy học giáo dục đề ra, làm cho tập thể này
đồng thuận biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục.
-Người điều khiển lớp học: GVCN giúp hiệu trưởng điều phối công việc của các giáo
viên bộ môn giảng dạy đối với học sinh mình phụ trách sao cho các môn học diễn ra
đồng bộ hài hòa.
-Người làm công tác phát triển lớp học.
-Người làm công tác tổ chức lớp học( đặc biệt là họt động ngoài giờ lên lớp).
-Người giúp hiệu trưởng giám sát lớp học: giám sát tư vấn, giám sát hỗ trợ, giám sát

đánh giá.
-Người giúp hiệu trưởng kiểm tra sự tu dưỡng rèn luyện của họ sinh lớp mình.
-Người có trách nhiệm phản hồi tình hình lớp: tình hình tổng hợp về rèn luyện của cả
lớp và từng học sinh đến gia đình học sinh đến các bộ phận khác của nhà trường.
Với tất cả các chức năng công việc trên có thể khẳng điịnh GVCN là một nhà quản lí,
nhà quản lí không có dấu đỏ trong nhà trường phổ thong có sứ mệnh rất thiêng liêng.
Đó là người thắp sáng nhân cách toàn vẹn của thế hệ trẻ.
Khoa học giáo dục đã chứng minh các em học sinh trong quá trình giáo dục và hình
thành nhân cách luôn chịu sự tác động của ba yếu tố: gia đình- nhà trường- xã hội. Mỗi
SKKN Năm học: 2012-2013
3
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
yếu tố có chức năng riêng nhưng lại có quan hệ chặt chẽ bổ sung hỗ trợ cho nhau.
GVCN nằm trong yếu tố nhà trường. Ở gia đình bố mẹ là người nuôi dương con từ khi
còn trong “trứng” nên bố mẹ là người rất hiểu tính nết, sở thích, sức khỏe của con mình
nhưng không phải bố mẹ nào cũng đủ kinh nghiệm, thời gian, tri thức, phương pháp
dạy con. Chẳng thế mà có câu “Dao sắc không gọt được chuôi”. Ở trường GVCN là
người được giao nhiệm vụ theo dõi quản lí học sinh lớp mình. Do đó GVCN cũng là
người thứ hai sau cha mẹ học sinh hiểu học sinh mình nhất. Trong những năm làm công
tác chủ nhiệm tôi nhần thấy rằng: người GVCN nào chăm lo tới lớp của mình và có
năng lực tổ chức quản lí lớp thì lớp đó bao giờ cũng ngoan hơn.Đúng là”Mẹ nào con
đó, tướng nào quân ấy”.Giáo viên đứng lớp nào cũng cấn chữ “Uy”. Nhưng chữ ‘Uy”
của GVCN đối với học sinh thì cần hơn.Chữ ‘Uy’ ở đây là uy tín, là long kính trọng tin
yêu, long khâm phục, lòng ngưỡng mộ đối với thầy Thầy có chữ ‘Uy” thì thầy bảo,
thầy nói thầy dạy trò mới vâng theo. Theo tôi chữ ‘Uy” được hình thành từ cái nhỏ
nhất. Đó là lời nói, việc làm, hành động, trang phục, tư thế tác phong, cách cư xử và
sự hấp dẫn trong từng tiết học của thầy của GVCN. Bên cạnh chữ “Uy” thì phải nói đến
chữ “Tâm” của GVCN.Chữ “Tâm” ở đây được hiểu là long thương yêu trẻ đích thực là
tâm huyết với công việc của mình.Người GVCN cần phải quản lí lớp giáo dục học sinh
bằng tình yêu thương. Kinh nghiệm của bản than tôi: học sinh yêu quý thầy cô nào thì

thích học thích vâng nghe theo lời thầy cô ấy.Một vấn đề khác đặt ra với GVCN là
công tác tổ chức quản lí lớp.Trong công tác tổ chức có nhiều việc phải làm, nhưng theo
tôi xây dựng “Vai trò tự quản của học sinh” là giường cột của vấn đề. Tại sao tôi nói
như vậy? Vì: không có một GVCN nào suốt ngày ở lớp để quản lí học sinh. Chỉ có các
em học sinh với các em hoci sinh ở bên nhau dài nhất. Các em sẽ biết mợi chuyện xảy
ra ở lớp ở trường nếu ta biết phát huy vai trò tự quản của học sinh của từng tổ trong
lớp thì mọi hoạt động của học sinh sẽ tốt hơn.Qúa trình thực hiện vai trò tự quản chính
lá quá trình thi đua tự hoàn thiện chính mình.( Một lần tôi đến trường muộn do hỏng xe.
Vậy mà không giáo viên nào biết. Không có giáo viên mà lớp vẫn trật tự, lại có cán sự
học tập chữa bài cho lớp. Tôi thầm nghĩ phong trào tự quản của lớp đã phát huy tác
dụng.Phong trào tự quản từ đâu mà có? Nó được sinh ra từ GVCN lớp, do GVCN lớp
giáo dục điều hành. Cái khó của phong trào tự quản là việc phát triển xây dựng nguồn
SKKN Năm học: 2012-2013
4
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
đội ngũ cán bộ lớp, là việc xây dựng tổ chức thi đua lớp nào có phong trào tự quản
tốt thì GVCN của lớp đó rất nhàn.
Từ nhận thức về vai trò của GVCN trên nên tôi nghĩ người GVCN như người mẹ thứ
hai, người mẹ ấy là một nhân tố vô cùng quan trọng trong việc hình thành phát triển
nhân cách học trò.
Nhưng thực tế nhiều người đã coi nhẹ và lẫn lộn họ với các giáo viên bộ môn(GVBM)
khác. Ví dụ: hàng năm không làm nhiệm vụ bổ nhiệm chức vụ chủ nhiệm lớp, không
công bố quyết định đó trước toàn trường, trước hội phụ huynh của trường, hiện nay gọi
là ban đại diện hội CMHS mà chỉ ghi ở thời khóa biểu như mọi GV bình thường khác
có giờ dạy. Đáng lẽ phải làm đúng quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm tuỳ theo
thành tích hoặc sai phạm mà họ mắc phải. Về mặt đánh giá xếp loại GV, nhiều cán bộ
quản lý chỉ coi trọng chuyên môn mà chưa coi trọng hiệu quả công tác quản lý lớp ở
GVCN, lại có biểu hiện lệch lạc khi lớp có khuyết điểm thì quy trách nhiệm cho họ, khi
lớp có thành tích thì lẫn lộn giữa thành tích đoàn thể với thành tích chính quyền, cụ thể
là công của các cán bộ ngành dọc chứ chưa hẳn là của tập thể lớp do GVCN lãnh đạo.

Tuy vậy cũng cần phải thấy trong thực tế có những GVCN yếu, vai trò của mình mờ
nhạt nên dấu ấn của công tác đoàn thể sâu đậm hơn, vai trò của chính quyền bị lấn át, từ
đó càng tạo ra sự nhìn nhận thiên lệch. Có nhiều GVCN lớp đặc biệt là chủ nhiệm trẻ
chưa biết mình có một quyền hạn nên chưa ai dám làm là đi dự giờ các GVBM trong
lớp khi mình thấy cần. GVCN được xếp loại học sinh, được thi hành kỉ luật học sinh
theo quy định, được hưởng giờ công tác theo định mức quy định, có chăng loại sổ sách
làm việc pháp quy trong hệ thống sổ sách của nhà trường. Từ đó nếu có nhiều chủ
nhiệm lớp trong trường có năng lực và bản lĩnh thì công cuộc giáo dục sẽ đạt được
nhiều thành tựu đáng kể.
II. Những yếu tố của GVCN lớp
1. Tố chất để làm nên một GVCN lớp tốt.
Vì GVCN là cán bộ quản lý lớp cho nên người dạy giỏi và người chủ nhiệm giỏi
không nhất thiết là một. Có đồng thuận, có lệch pha trong thực tế là bình thường. Tố
chất quan trọng của GVCN là tố chất của một con người hành động. Cũng như hiệu
trưởng, GVCN lớp phải nghiêm túc và cần một bộ óc kế hoạch hoá. Đối tượng quản lý
trường học, lớp học là con người phải giáo hoá do đó không thể có một chương trình
SKKN Năm học: 2012-2013
5
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
cài đặt sẵn. Phải lao vào làm. Thấy đúng thì tổng kết và áp dụng tiếp, thấy sai phải điều
chỉnh kế hoạch kịp thời hoặc huỷ bỏ theo quy trình: xây dựng kế hoạch - thực hiện kế
hoạch - kiểm tra kế hoạch - tổng kết và vạch kế hoạch mới. Rất cần ở chủ nhiệm lớp
các phẩm chất nhiệt tình, sâu sát, cần cù trí nhớ tốt, quan sát tinh, tâm lí giỏi, có khả
năng xây dựng đội ngũ cán bộ HS. GVCN phải vừa là thầy vừa là bạn của học
trò.Muốn làm tốt công tác chủ nhiệm, trước hết GVCN phải xây dựng kế hoạch chủ
nhiệm. Không ít GVCN chỉ coi việc xây dựng kế hoạch chủ nhiệm là một hình thức “
Đối phó”. GVCN là người quyết định chất lượng các hoạt động giáo dục của lớp khi và
chỉ khi GVCN có sự định hướng tư vấn và chia sẻ tâm tư tình cảm… kipf thời trong
quá trình tự rèn luyện của học sinh.
Việc làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, tôi không thể không nói tới sự phối hợp đầy trách

nhiệm của BGH nhà trường,Ban đoàn đội, của hôi cha mẹ học sinh, của bạn bè đồng
nghiệp đã rất nhiệt tình và có trách nhiệm giáo dục học sinh. Ngoài ra GVCN cần tự
xem xét điều chỉnh để có thể không ngừng thể hiện mình trong mắt học sinh.Cần nhận
thức rõ giáo dục một học sinh là cả một thế hệ, là một quá trình không có điểm cuối
cùng. Vì thế người GVCN không bao giờ được chủ quan, nóng vội trước mọi sai lầm
của học sinh.GVCN cần hết sức bình tĩnh, bao dung và độ lượng để xem xét và xử lí
vấn đề. Vậy nên làm trong sạch môi trường xã hội,làm trong sạch văn hóa học đường,
làm bình yên cuộc sống gia đình mới tạo điều kiện cho những phẩm chất của các em
như cây non lớn lên lành mạnh.
Biết bao công việc nhọc nhằn mà người thầy cần làm vì sự ổn định xã hội, vì tương lai
con trẻ mà chúng ta những người thầy giáo, cô giáo đang và luôn phấn đấu để thực sự
trở thành “Tấm gương sáng”cho học sinh noi theo.Bác Hồ, người thày vĩ đại của dân
tộc đã dạy “Vì hạnh phúc mười năm phải trồng cây.Vì hạnh phúc trăm năm phải trồng
người”.Và cố tổng bí thư Lê Duẩn đã nói “ Càng yêu người bao nhiêu càng yêu nghề
bấy nhiêu”.Tôi xin trích mấy vần thơ trong bài “Trồng cây xanh” của Định Hải, nhà thơ
có nhiêu tác phẩm thành công viêt cho tuổi học trò:
“ Những hàng cây xanh tôi trồng tôi tưới
Đang bắt rễ vào long đất phì nhiêu
Đang cuốn nhựa xanh lên cành lá mới
Những học trò tôi đó rất thương yêu.”
SKKN Năm học: 2012-2013
6
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
2. GVCN lớp là tấm gương sáng cho HS noi theo.
Trong lớp học, GVCN là người để các em noi theo. Cách hành động, suy nghĩ, cư xử
của GV sẽ ảnh hưởng rất nhiều về quan niệm của học sinh và phụ huynh về GV. Bản
thân tôi vừa là GVCN đồng thời là GV VĂN. Vì vậy, khi đến trường hoặc lên lớp, tôi
đều có những tác phong làm gương cho học sinh.
Soạn bài trước khi đến lớp. Theo tôi, chỉ khi nào thầy cô cảm thấy hứng thú với bài
dạy thì sự hứng thú đó mới lây truyền sang HS. Sự hứng thú này đi đôi với sự soạn bài

trước và có một chương trình trước cho những gì phải làm trong giờ học thay vì một
thái độ "tùy cơ ứng biến". GV cần chuẩn bị đầy đủ tài liệu, đồ dùng dạy học trước khi
dạy. Người dạy càng tận tâm thì các em càng cố gắng học.
Khi lên lớp, theo tôi, GV cần có lời nói gọn, rõ ràng, dứt khoát. Khi nói nhìn thẳng
vào học sinh, nói thẳng với các em chứ đừng nói như nói với chính mình hay nói khơi
khơi giữa lớp. Dùng từ, câu dễ hiểu , hợp với trình độ học sinh. Biết lắng nghe học sinh
nói. Mỗi khi các em phát biểu ý kiến hay nói một điều gì, thầy cô dù bận rộn cũng phải
lắng nghe các em nói. Có như vậy khi thầy cô nói các em mới chú ý nghe trở lại.
Bên cạnh đó, GVCN biết thông cảm và chia sẻ những khó khăn của các em. Trả lời
những câu hỏi của các em một cách thấu đáo (nếu chưa có câu trả lời, hứa sẽ tìm câu trả
lời chính xác). Cho các em biết là các em có thể điện thoại cho thầy cô để nói chuyện
hay hỏi bài vở (cách làm bài, giải thích chữ khó, cách trả lời )Hỏi các em về những
khó khăn trong đời sống, những khó khăn ở trường giúp các em giải quyết những khó
khăn này. Trong lớp học hay ngoài lớp học, thầy cô còn phải đóng vai người anh, người
chị mà các em có thể tin tưởng, nhờ cậy được. Qua đó, các em sẽ biết sống nhẫn nại,
kiên trì và giàu lòng nhân ái.
III. Đặc điểm lớp
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thị trường, trong thời kì hội nhập của đất nước vì gánh nặng vì kinh tế gia đình
mà phụ huynh học sinh trông chờ chủ yếu vào GVCN trong việc nuôi dạy con. Sự du
nhập nền văn hóa thời mở cửa, ảnh hưởng không ít tới tâm sinh lí học sinh.Sự rổng ruột
về kiến thức của một số học sinh trong những năm học cấp dưới và sự đua đòi chạy
theo mốt sống hiện đại của một số bộ phận học sinh nên năm học trước(2011 - 2012)
lớp 8C là lớp học có tỉ lệ học sinh yếu kém về học lực và hạnh kiểm khá cao(hơn 10
SKKN Năm học: 2012-2013
7
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
em thi lại và rèn luyện trong hè). Lớp xếp vị thứ 20/20 lớp trong tổng kết thi đua cuối
năm. Nhờ sự giúp đỡ, quan tâm của BGH và GVCN, GVBM rèn luyện thêm cho các
em trong hè nên kết quả lên lớp được 9 em.

1. Thuận lợi:
-Được sự động viên quan tâm theo dõi kịp thời của BGH nhà trường.
-Công nghệ thong tin phát triển nên hầu hết PHHS đều có số điện thoại riêng,sự liên lạc
giữa gia đình, nhà trường và GVCN dễ dàng hơn.
- Bản thân tôi đã chủ nhiệm nhiều năm nên ngay từ đầu năm học này tôi giành nhiều
thời gian tiếp cận với từng học sinh để cô trò sớm hiểu nhau.
- Nhiều HS ngoan hiền, có ý thức học tập và rèn luyện đạo đức.
- HS trong lớp có ý thức xây dựng tập thể lớp .
- Giữa GVCN, phụ huynh học sinh và BGH luôn phối hợp chặt chẽ trong công tác giáo
dục.
2. Khó khăn:
-Sự thiếu quan tâm của đại bộ phận PHHS vì lo gánh nặng kinh tế gia đình.
-Sự bùng nổ công nghệ thông tin làm cho một bộ phận học sinh sử dụng Internet sai
mục đích giáo dục
-Sự suy đồi đạo đức lối sống của tầng lớp thanh thiếu niên đã ảnh hưởng không nhỏ
đến đạo đức học sinh.
- Nhiều HS có hoàn cảnh gia đình khó khăn thuộc diện xóa đói giảm nghèo:
- Nhà ở xa trường học
- Một số học sinh thiếu thốn tình cảm(chỉ ở với mẹ hoặc bố, cha mẹ làm ăn xa, mồ côi):
- ý thức tự giác học tập rèn luyện của học sinh chưa tốt, còn ỷ lại.
IV. Biện pháp thực hiện
1. Lựa chọn ban cán sự lớp.
a) Cơ sở lựa chọn:
- Căn cứ vào hồ sơ học bạ của HS.
- Căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp qua việc bình bầu dân chủ đầu mỗi năm học.
b) Phân công nhiệm vụ cho ban cán sự lớp:
- Ban cán sự lớp đại diện cho lớp, chịu trách nhiệm trước Nhà trường về toàn bộ hoạt
động học tập, rèn luyện, đời sống của lớp trong thời gian học. Ban cán sự lớp do tập thể
SKKN Năm học: 2012-2013
8

Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
lớp bầu ra, được GVCN quyết định công nhận. Nhiệm kỳ của Ban cán sự lớp là một
năm.
- Cơ cấu của Ban cán sự lớp:
- Nhiệm vụ của lớp trưởng: Lớp trưởng là người điều hành, quản lý toàn bộ các hoạt
động của lớp và từng thành viên trong lớp, cụ thể:
+ Tổ chức, quản lý lớp thực hiện các nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo quy định của Bộ
Giáo dục và Ðào tạo, Sở GD & ĐT và Nhà trường;
+ Theo dõi, đôn đốc lớp chấp hành đầy đủ và nghiêm chỉnh quy chế, quy định, nội quy
về học tập và sinh hoạt của Bộ Giáo dục và Ðào tạo, Sở GD & ĐT và Nhà trường. Xây
dựng và thực hiện nề nếp tự quản trong HS;
+ Tổ chức, động viên giúp đỡ những HS gặp khó khăn trong học tập, rèn luyện và đời
sống;
+ Chịu sự điều hành, quản lý trực tiếp của GVCN lớp;
+ Chủ trì các cuộc họp lớp để đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, bình xét học bổng, đề
nghị thi đua khen thưởng đối với tập thể và cá nhân HS trong lớp.
- Nhiệm vụ của các lớp phó:
+ Ðôn đốc sinh viên đi học đầy đủ, đúng giờ, đảm bảo học tập nghiêm túc;
+ Ðiểm danh, ghi sổ đầu bài đầy đủ, kịp thời;
+ Lập danh sách HS thuộc diện đối tượng ưu tiên, hoàn cảnh khó khăn, báo cáo với
giáo viên chủ nhiệm;
+ Tổ chức và quản lý HS thực hiện lao động XHCN và các hoạt động liên quan đến
sinh hoạt đời sống vật chất và tinh thần của lớp;
+ Tổ chức động viên, thăm hỏi những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, ốm đau, tai
nạn
+ Thực hiện các phong trào ủng hộ, quyên góp… do huyện Đoàn Thanh Oai,lien đội
trường thcs Cao Viên và tập thể lớp phát động.
- Nhiệm vụ của Ban cán sự bộ môn:
+ Thực hiện và duy trì sinh hoạt 15 phút đầu giờ theo chủ đề lớp đã chọn từng tuần và
từng tháng.


SKKN Năm học: 2012-2013
9
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
DANH SÁCH BAN CÁN SỰ LỚP
2. Lập sơ đồ tổ chức lớp học.
- Căn cứ vào học lực của HS: HS yếu kém, chậm tiến ngồi trước; HS khá giỏi ngồi sau.
- Căn cứ vào tình trạng sức khỏe của HS: HS thấp trước, cao sau; HS mắt yếu ngồi gần
bảng.
- Căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp: ngồi giữa và sau.
3. Vai trò của GVCN trong việc kết hợp nhà trường - gia đình - xã hội.
a) Cơ sở lí luận:
Vai trò nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống cho học sinh.
Các phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của con người nói chung, HS nói riêng
được hình thành và phát triển trong các môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội. Lúc
sơ sinh vai trò của gia đình là chủ đạo, tuổi học mầm non gia đình và nhà trường góp
phần quyết định, tuổi học phổ thông (từ tiểu học tới trung học) càng lớn vai trò của nhà
trường, gia đình và xã hội càng cân đối. Để làm tốt việc giáo dục phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống cho HS THCS phải kết hợp chặt chẽ với gia đình.
Nhà trường, gia đình và xã hội có vai trò giáo dục khác nhau đối với sự hình thành và
phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, nhan cach của HS. Trong mối quan hệ
đó thì nhà trường được xem là trung tâm, chủ động, định hướng tich cuc trong việc
phối hợp với gia đình và xã hội. Nhà trường là môi trường giáo dục toàn diện nhất, là
cơ quan nhà nước thực hiện chức năng giáo dục chuyên nghiệp nhất nên nhà trường là
lực lượng giáo dục có hiệu quả nhất, hội tụ đủ những yếu tố cần thiết để có thể huy
động sức mạnh giáo dục từ phía gia đình và xã hội.
Có một thực trạng tồn tại là các tệ nạn xã hội như đề đóm, cờ bạc, nghiện hút v.v …
cũng xuất hiện, làm đảo lộn vẩn đục môi trường giáo dục đạo đức, không ngừng ảnh
hưởng đến đạo đức, nhân cách và lối sống của HS. Nhà trường dù là một pháo đài vững

SKKN Năm học: 2012-2013
TT Họ và tên Nhiệm vụ
1 Bùi Thị Kim Anh Lớp Trưởng-Chi đội trưởng
2 Lê Văn Long Lớp phó học tập
3 Nguyễn Văn Hiệp Lớp phó lao động
4 Nguyễn Thị Hoa Lớp phó văn nghệ
5 Nguyễn Thị Lan Tổ trưởng tổ 1
6 Đỗ Thị Hân Tổ trưởng tổ 2
7 Nguyễn Thị Hạnh Tổ trưởng tổ 3
8 Bùi Thị Hằng Tổ trưởng tổ 4
10
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
chắc nhưng vẫn có thể bị "tập kích" từ phía ngoài. Nhà trường không phải là một ốc
đảo tách khỏi xã hội, tách xa thực tiễn. Thực tiễn cuộc sống, nhất là cuộc sống xã hội
đang có các nhân tố của kinh tế thị trường tác động đến nhà trường, có lúc nhẹ nhàng,
có khi sôi động dồn dập. Xã hội ô nhiễm, luồng văn hoá ngoại lai, đồi truỵ, bạo lực
len lỏi vào mọi tầng lớp nhân dân nen rất dễ gây ấn tượng và phản ảnh sâu đậm đối với
trẻ.
GVCN biết kết hợp và phát huy nhằm giáo dục về tình hình và nhiệm vụ của đất
nước, tình hình thời sự, chính trị trong nước và thế giới (có định hướng chính trị rõ
ràng); giáo dục về tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội - chính trị trong hệ
thống chính trị ở Việt Nam, về quyền tự do, dân chủ và trách nhiệm công dân; bồi
dưỡng một số kỹ năng sinh hoạt chính trị - xã hội cần thiết.
b) Biện pháp thực hiện nhằm giáo dục HS cá biệt và tránh tình trạng HS bỏ học:
- Thực trạng:
+ Hầu như trường nào, lớp học nào cũng có học sinh cá biệt, mà những học sinh này đa
số gây không ít khó khăn cho GVCN, đôi khi họ rất mệt mỏi vì nói hoài mà các em
không nghe, càng phạt thì càng lỳ hơn hoặc các em sẽ co lại và phá phách hoặc chống
đối ngầm. Điều này không những khó khăn cho GV mà còn có thể ảnh hưởng đến
chuyện thi đua của cả lớp nữa.

+ GVCN thường là người đứng ra giải quyết mọi chuyện do HS gây ra, nhưng chỉ ở
mức độ là khuyên bảo, dạy kèm ngoài giờ cho HS quá yếu kém, còn đối với HS cá biệt
về đạo đức thì răn đe, xử phạt, thậm chí còn hù dọa, nhưng hầu hết đều chỉ có hiệu quả
tức thời thôi rồi đâu lại vào đó, HS vẫn trở lại như cũ vì do GV không hiểu được
nguyên nhân sâu phát xuất từ tâm lý của trẻ.
+ Cũng có GVCN mời phụ huynh đến để thông báo về thuc trạng của trẻ với mong
muốn gia đình kết hợp cùng nhà trường để giáo dục cho các em tốt hơn, có phụ huynh
thì tiếp thu và cũng có phụ huynh lại bực tức con mình và đánh con trước mặt giáo viên
rồi dẫn con về cho nghỉ học luôn vì cảm thấy xấu hổ. Điều này đã cho thấy chính phụ
huynh cũng bất lực trước con mình
+ HS không có tội, nếu sống trong một gia đình lành mạnh thì HS sẽ có một nhân cách
tốt và ngược lại, vì thế HS chỉ là nạn nhân mà thôi.
- Tìm hiểu nguyên nhân:
SKKN Năm học: 2012-2013
11
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
+ Lâu nay, chỉ thường nghe cụm từ “học sinh cá biệt” - ám chỉ những đứa trẻ có vẻ
khác thường, khó dạy, thậm chí hư hỏng. Trong trường, HS dạng cá biệt về đạo đức
thường quậy phá, đánh lộn, trộm cắp, nổi bật vai trò thủ lĩnh, lập băng nhóm nhẹ hơn
một chút là dạng nữa về học tập, HS không học bài, làm bài, HS chậm hiểu và rất mau
quên Và HS bị gọi "cá biệt" là HS có khiếm khuyết về tâm lý, do HS bị ảnh hưởng từ
trong gia đình của HS, đa số chúng ta khi thấy hành động khác thường, không ngoan
của HS thì cho là cá biệt và xử lý trên hành động do HS gây ra mà quên là cần phải tìm
cho ra nguyên nhân. Đôi khi sự cá biệt của những HS ấy lại do từ cha mẹ chúng cuộc
sống vợ chồng không hoà thuận, từ đó có ảnh hưởng đến đặc điểm tâm sinh lý của HS.
+ Không phải tự nhiên mà trẻ trở thành "cá biệt", đó là hậu quả của các vết thương tâm
lý mà vô tình người lớn chúng ta đã gieo vào đầu óc non nớt của trẻ lúc sống trong môi
trường gia đình cũng như ở trường học.
+ Gia đình khó khăn; một số học sinh bị bệnh và điều đáng lưu tâm là một số học sinh
ham chơi, học kém, chán học, bỏ học

- Giải pháp:
+ Trước hết, chúng ta hãy thương yêu HS, cố gắng để giúp HS vượt qua những biến cố,
những vấn đề đã xảy trong quá trình sống và nó đã trở thành vết thương tâm lý khó phai
mờ trong tâm hồn HS.
+ HS cá biệt thì tôi cần gặp gỡ trao đổi các em để biết thêm những mong muốn, những
khó khăn, những điều các em chưa hiểu. Khi có hiện tượng mất đoàn kết, hành vi
không đúng mực xảy ra giữa các nhóm học sinh Tôi gặp gỡ lớp , từng nhóm, từng đối
tượng để thu thập thông tin, lắng nghe và tạo cơ hội cho các em có cơ hội nói lên những
suy nghĩ của mình về bạn bè và thầy cô Bất kể đó là học sinh giỏi hay học sinh cá biệt
chứ không thiên vị quy kết tất cả các nguyên nhân lỗi lầm cho học sinh. Bình tĩnh, nắm
bắ tình hình, phân loại, tìm ra nguyên nhân để xử lí cho phù hợp, không nghe và xử lí
tình huống từ một phía. Chính điều đó đã làm cho các em tin tưởng vào tôi để bộc bạch.
Đó là những cơ hội tốt cho GVCN như tôi giáo dục uốn nắn các em những lệch lạc
trong cách cư xử trong lối sống sinh hoạt của mình sao cho đạt kết quả mong muốn.
+GVCN thường xuyên quan tâm chặt chẽ mọi hoạt động của lớp nhưng không làm thay
học sinh mà cũng không kè kè bên cạnh học sinh để các em dễ bề ỷ lại hoặc giả dối đối
phó.
SKKN Năm học: 2012-2013
12
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
+ GVCN cần có nề nếp kỷ cương để HS tự nhận thức, tự khép mình trong những nội
quy, quy chế chặt chẽ nhưng luôn được dân chủ bàn bạc, trao đổi, thỏa sức đóng góp.
Tuân theo tập thể và cống hiến cho tập thể; luôn gắn lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể,
chính là một trong những chuẩn mực, điều kiện để giáo dục HS. Trong trường cần có
dân chủ đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà
phát biểu. Điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải
kính Thầy, Thầy phải quí trò. Chúng ta phải hiểu dân chủ trong trường học trước hết là
do nhu cầu sống chính của nhà giáo, của HS và CMHS.
+ Tổ chức vận động các gia đình, các đoàn thể XH cùng phối hợp, thống nhất nội dung,
mục đích, biện pháp giáo dục HS trong trường và cụm dân cư.

+ Giáo dục trong tập thể và bằng tập thể lớp, trường, địa phương.
+ Thuyết phục bằng lời lẽ có lý, có tình, bằng tình cảm và phép tắc tác động lên nhận
thức và tình cảm của HS như: trò chuyện, nêu gương tốt, thưởng việc tốt.
+ Đưa các em vào hoạt động tập thể thực tiễn như hoạt động tập thể trong và ngoài nhà
trường, vui chơi, thăm quan du lịch… qua đó hiểu thêm HS, gắn bó học sinh với tập
thể, xoá đi những thiếu sót.
+ Khuyến khích khen chê đúng mục đích, đúng việc, đúng lúc, tế nhị mà hiệu quả.
+ Xây dựng nếp sống văn minh, văn hoá thanh lịch, xây dựng tình thương yêu đoàn kết.
+ Nhà trường, các đoàn thể, các ngành các gia đình cùng tổ chức giáo dục đạo đức cho
HS.
+ Đầu tư cho con em học tập, vui chơi thoả đáng.
+ Không nên chỉ mời CMHS khi thấy cần thiết hay xảy ra sự cố trong trường học, lớp
học mà nên xem việc gặp gỡ, trao đổi với CMHS là chuyện bình thường.
c) Xây dựng tiêu chí đánh giá, xếp loại hạnh kiểm HS:
- Ngay từ buổi họp mặt với CMHS đầu năm, chúng tôi đã cùng nhau thảo luận và đi
đến thống nhất những tiêu chí để xếp loại hạnh kiểm HS(có thông qua tập thể HS ở tiết
sinh hoạt chủ nhiệm) như sau:
1. Loại tốt:
a) Thực hiện nghiêm túc nội quy nhà trường; chấp hành tốt luật pháp, quy định về trật
tự an toàn xã hội, trật tự an toàn giao thông; tích cực tham gia đấu tranh với các hoạt
động tiêu cực, phòng chông tội phạm, tệ nạn xã hội.
SKKN Năm học: 2012-2013
13
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
b) Luôn kính trọng thầy giáo, cô giáo, người lớn tuổi; thương yêu giúp đỡ các em nhỏ
tuổi; có ý thức xây dựng tinh thần đoàn kết được các bạn tin yêu.
c) Tích cực rèn luyện phẩm chất đạo đức, có lối sống lành mạnh, giản dị, khiêm tốn,
chăm lo giúp đỡ gia đình.
d) Hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ học tập, có ý thức vươn lên, trung thực trong cuộc
sống, học tập.

đ) Tích cực rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường.
e) Tham gia đầy đủ các hoạt động giáo dục, các hoạt động do nhà trường tổ chức; tích
cực tham gia các hoạt động của Đội TNTP HCM, Đoàn thanh niên cộng sản HCM.
g) Có thái độ và hành vi đúng đắn trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống theo nội dung
môn GDCD.
2. Loại khá:
Thực hiện những quy định tại khoản một điều này nhưng chưa đạt đến mức độ của loại
tốt, còn có thiếu sót nhưng kịp thời sửa chữa sau khi thầy cô và các bạn góp ý.
3. Loại trung binh:
Có một số khuyết điểm trong việc thực thực hiện các quy định tại khoản một điều này
nhưng mức độ chưa nghiêm trọng; sau khi được nhắc nhở, giáo dục, đaz tiếp thu sửa
chữa nhưng tiến độ còn chậm.
4. Loại yếu:
Chưa đạt tiêu chí xếp loại trung bình hoặc có một trong các khuyết điểm sau đây:
a) Có sai phạm với tính chất nghiêm trọng hoặc lặp lại nhiều lần trong việc thực hiện
quy định tại khoản 1 điều này, được giáo dục nhưng chưa sửa chữa.
b) Vô lễ, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể của giáo viên, nhân viên
nhà trường; xúc phạm danh dự nhân phẩm của bạn hoặc của người khác.
c) Gian lận trong học tập, kiểm tra, thi.
d) Đánh nhau gây rối trật tự trị an trong nhà trường hoặc ngoài xã hội, vi phạm an toàn
giao thông gây thiệt hại tài sản công, tài sản của người khác.
* Chú ý : GVCN phải luôn luôn bám sát vào nội dung của thông tư 23/29 v/v hướng
dẫn đánh giá, xếp loại học sinh THCS - Bộ GD & ĐT; chủ trương, nội quy HS của Nhà
trường, Đoàn trường đã đề ra. Xếp hạnh kiểm HS theo từng tháng, trong tiết sinh hoạt
chủ nhiệm, bình xét công khai dân chủ, có biên bản kèm theo.
SKKN Năm học: 2012-2013
14
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
4. Giáo dục đạo đức HS thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm.
Theo qui định, tiết chủ nhiệm chỉ dành khoảng 15 phút để GV tổng kết tình hình học

tập, vệ sinh, chuyên cần của lớp; 30 phút còn lại tổ chức cho HS sinh hoạt Mỗi tiết
sinh hoạt chủ nhiệm đều phải có biên bản(mẫu ở trang 16).
Giờ sinh hoạt bắt đầu bằng những tóm tắt kết quả học tập và rèn luyện của cả lớp
trong tuần của ban cán sự lớp. Thông qua sổ đàu bài, sổ cờ đỏ của Đoàn trường, các
GVBM, tôi nhận xét, đánh giá từng HS. Tôi luôn luôn nhắc nhở và động viên tinh thần
các em, tạo động lực giúp cả lớp cố gắng hơn(dù lớp tôi thường xuyên xếp thứ nhất).
Mọi việc tổ chức điều hành buổi sinh hoạt lớp, tôi đều suy nghĩ, tỉ mỉ tới từng việc
tưởng như nhỏ bé bình thường xong lại không thể thiếu. Tôi phác thảo kế hoạch tới
từng học sinh, từng tổ, từng nhóm, từng cán bộ lớp, từng ngày, từng tuần, từng tháng.
Người giáo viên chủ nhiệm cũng phải là người vào cuộc dàn xếp “Cầm cân nảy mực”
trước những điều bất hợp lí xảy ra trong lớp.
Kế hoạch đặt ra là cả một quá trình không nói hết bằng lời. Ngoài ra khi gia đình học
sinh hoặc bản thân học sinh đau ốm. Nhẹ thì tôi vận động học sinh thân thiết đến thăm
nhau. Nặng đi viện thì phối hợp với hội cha mẹ học sinh cùng cán bộ lớp và GVCN đến
thăm hỏi kịp thời để từ đó giáo dục học sinh trong lớp có trách nhiệm, tinh thần tương
thân, tương ái, thân thiện với nhau, biết quan tâm đồng cảm, chia sẻ buồn vui.
Tôi chưa thể khẳng định 100% là học sinh trong lớp tôi trung thực dũng cảm, giàu tình
yêu thương, quý mến nhau. Nhưng nhìn chung các em học sinh trong lớp tôi chủ nhiệm
đều bộc lộ sự thẳn thắn, khá đoàn kết trong mọi việc làm của mình.
Đối với HS lớp cuối cấp THCS nên việc học như thế nào, học khối gì là rất quan
trọng quyết định cho ngành nghề tương lai từng HS. GVCN phải thật sự gắn bó, quan
tâm tới lớp mới nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý và tình hình học tập của từng em. Từ kết
quả học tập, năng khiếu, tính cách của mỗi HS mà GVCN góp ý kiến với từng HS về
việc lựa chọn nghề nghiệp cho mình thật phù hợp.
Qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm, các HS sẽ tự tin không bỡ ngỡ trong việc lựa chọn nghề
theo lực học của mình,theo sở thích… rồi chọn đúng ngành để đi…
Tôi luôn dạy các em cách học làm người, cách sống, cách ứng xử với mọi người. Có
những hôm tôi không nói gì cả mà chỉ kể cho các em nghe một mẩu chuyện trong sách,
báo, internet mà tôi sưu tầm được để các em tự rút ra bài học cho mình.
SKKN Năm học: 2012-2013

15
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
Mẫu biên bản sinh hoạt chủ nhiệm
A. Yêu cầu giáo dục:
-Kiểm điểm hoạt động tuần 7 và phương hướng kế hoạch tuần 8.
-Các tổ tự nhận xét đánh giá việc thực hiện kế hoạch tuần trước, đưa ra nguyên nhân và
biện pháp khắc phục cho tuần sau.
-Rèn cho học sinh kỹ năng tổ chức, hoạt động đánh giá, tổng kết, tham gia ý kiến xây
dựng tập thể lớp.
-Nâng cao ý thức trách nhiệm đối với phong trào của lớp.
B. Nội dung sinh hoạt:
*Đánh giá hoạt động:
1. Các tổ trưởng đọc và nhận xét kết quả thi đua của từng thành viên trong tổ.
2. Tổ trưởng nhận xét đánh giá chung.
3. Giáo viên đánh giá nhận xét:
a) Đặc điểm nề nếp:
- Ưu điểm:
+ Các học sinh đã có nhiêu tiến bộ trong việc thực hiện các nội quy quy định của
trường lớp: đồng phục, khăn đỏ, ra vào lớp đúng thời gian, vệ sinh trong ngoài lớp sạch
sẽ…
+ Không có hiện tượng học sinh vô lễ với thầy cô, đánh nhau gây mất đoàn kết trong
tập thể.
+ Không có hiện tượng học sinh ăn quà vặt xả rác bừa bãi.
- Hạn chế:
+ Vẫn chưa tổ chức được sinh hoạt đầu giờ một cách có hiệu quả.
+ Hiện tượng nói chuyện vẫn còn diễn ra trong các lớp học.
b) Học tập:
*Ưu điểm:
+ Đa số học sinh đều có đầy đủ sách vở đồ dung học tập.
+ Một số học sinh có ý thức tốt trong việc học bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp.

+ Nhiều học sinh đã tham gia phát biểu xây dựng bài rất sôi nổi: Hân, Kim Anh,
Huynh, Hiệp, Long, Lan …v v…
*Hạn chế:
SKKN Năm học: 2012-2013
16
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
+ Hiện tượng học sinh thiếu sự chuẩn bị bài vẫn còn nhiều, hầu như các tiết học chỉ có
vài em học bài cũ và làm bài tập trước khi đến lớp.
+ Đa số học sinh nam không tập trung trong các tiết học.
c) Các hoạt động khác:
* Ưu điểm:
+ Thể dục giữa giờ tham gia đầy đủ, thực hiện khá đều.
+ Tổ trực nhật làm tốt công tác vệ sinh trong và ngoài lớp.
+ Một số học sinh đã hoàn thành các khoản tiền đầu năm.
+ Đã tiến hành đại hội chi đội, bầu ban chấp hành chi đội mới và đại biểu dự đại hội
liên đội.
+ Có 1 bạn được bầu vào ban chấp hành lien đội: Kim Anh.
* Hạn chế:
+ Một số học sinh chưa có tinh thần ý thức trong việc xây dựng chỉ tiêu năm học.
+ Một số học sinh chưa thực hiện tốt việc thu nộp và ủng hộ: Bằng, Thuận, Sơn.
II. Kế hoạch tuần 8:
+ Tiếp tục ổn định nề nếp học tập, sinh hoạt.
+ Khắc phục các mặt hạn chế tuần trước.
+ Thực hiện nghiêm túc nội quy của trường lớp.
+ Ban chấp hành chi đội mới lên kế hoạch hoạt động.
+ Mỗi học sinh phải nâng cao ý thức lên kế hoạch học tập nghiêm túc.
+ Bổ sung sách vở, dụng cụ học tập và đồ dung lớp.
+ Tiếp tục kế hoạch lao động vệ sinh và chăm sóc cây xanh đã được phân công…
V. Kết quả
Sau khi thực hiện những biện pháp trên với lớp 9C, chỉ qua một học kì I năm học

2012-2013 nhưng lớp đã đạt được nhiều kết quả khả quan.
Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng HS trong Ban cán sự lớp đã đem lại
hiệu quả trong việc quản lí nề nếp và chất lượng học tập. Các em thực hiện nhiệm vụ
đầy đủ với tinh thần trách nhiệm cao. Có những trường hợp GVCN không cần có mặt
nhưng các em vẫn quản lí lớp tốt. Đây là một trong những nhân tố quyết định thành
tích lớp 9C đạt được.
SKKN Năm học: 2012-2013
17
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
Cùng với việc duy trì nề nếp sinh hoạt 15 phút đầu giờ đã giúp HS chủ động trong
học tập.
Lập sơ đồ lớp như trên đã đưa lại hiệu quả rõ rệt trong học tập của học sinh.
Những em trong Ban cán sự lớp ngồi sau có thể quản lí, theo dõi, nhắc nhở các bạn
trong các giờ học. Những em học sinh yếu kém ngồi đầu được GVBM quan tâm theo
dõi và giúp đỡ nên đã có nhiều tiến bộ. Vì vậy, đã giúp HS từ bỏ thói quen thụ động,
trông chờ, ỷ lại trong học tập, góp phần vào công cuộc đổi mới chống tiêu cực trong thi
cử mà ngành giáo dục đang thực hiện.
GVCN đã thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm trong việc phối hợp với các tổ chức,
đoàn thể trong và ngoài nhà trường có hiệu quả về công tác giáo dục đạo đức cho HS
yếu kém, HS cá biệt và loại bỏ được nguy cơ bỏ học giữa chừng. Ví dụ: HS Bùi Văn
Sơn ,Nguyễn Viết Đạt, Nguyễn Xuân Dần, Lê Văn Tú. Lớp 9C đảm bảo sĩ số. Theo
thời gian, những bài học về đạo đức, nhân cách trong tiết sinh hoạt lớp giúp HS luôn
nhớ, vững bước hơn trước những khó khăn trong cuộc sống.
Trong học kì I của năm học này, lớp 9C đạt được những thành tích như sau:
- Giải nhất thi đua đợt 2 do Đoàn trường phát động nhân dịp chào mừng ngày 20-11;
- Được chọn tham gia công diễn văn nghệ chào mừng ngày 20-11;
- Kết quả xếp loại thi đua toàn trường trong học kì I lớp đạt giải nhất;
- Kết qủa xếp loại thi đua trong 2 tuần đầu học kì II : nhất và nhì;
- Lớp 9C là một trong những chi đội vững mạnh của Liên đội trường.
PHẦN III. KẾT LUẬN

I. Bài học kinh nghiệm
Sáng kiến kinh nghiệm(SKKN) này, qua trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy rằng
giáo dục đạo đức HS thành công hay thất bại còn phụ thuộc vào yếu tố khác nữa.
Chúng ta không nên áp dụng rập khuôn máy móc bấc kỳ một phương pháp giáo dục
tiên tiến nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là “con người”.
Để đạt được mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát thích hợp với
đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng HS,…
Muốn duy trì tốt thành quả giáo dục cần có sự phối hợp chặt chẽ với các phong
trào khác, những hoạt động khác, và đặc biệt cần phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với
Chi Hội CMHS, được sự quan tâm lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể và
SKKN Năm học: 2012-2013
18
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
nhân dân địa phương để tạo sức mạnh đồng bộ, toàn xã hội cùng giáo dục thế hệ trẻ
đồng thời giữ vững được hướng đi đúng .
Sự thành công trong công tác chủ nhiệm lớp, một nhân tố quan trọng mà chúng ta
nên thận trọng cân nhắc khi quyết định lựa chọn, đó chính là “lớp truởng”.
Muốn làm tốt được những điều trên đòi hỏi người GVCN lớp phải là người có uy
tín, toàn diện, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ, dám làm đi trước, đề xuất
được các vấn đề giá trị, tập hợp được sức mạnh tổng hợp, vai trò con chim đầu đàn là
yếu tố có phần lớn lao, tạo nên sự thành công hay thất bại ở mỗi HS, mỗi lớp học, mỗi
trường học…
Sau một thời gian thực hiện và áp dụng SKKN này tôi nhận thấy một vấn đề cần
phải nghiên cứu, đó là: “Vai trò giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc nâng cao chất
lượng học tập của học sinh cuối cấp THCS”.
II. Kiến nghị
Đây là lần đầu tiên tôi viết SKKN về đề tài công tác GVCN lớp nên thật sự tôi gặp
không ít khó khăn, nhưng chính khó khăn ấy lại là một điều hay bởi qua đó tôi đã
trưởng thành hơn trong nghề nghiệp với công tác này. Bởi vậy, năm học sau, tôi xin đề
nghị, thầy hiệu trưởng nên chỉ đạo, khuyến khích mỗi GV viết SKKN(không nhất thiết

1 SKKN/1GV).
GVCN lớp đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách HS.
Thực tế ở các nhà trường vẫn có những GVCN tốt và giỏi tuy nhiên chưa có nhiều
GVCN tốt như ta mong muốn. Điều này làm hạn chế thành tựu giáo dục và tăng thêm
các lo lắng. Khi ngày nay đang gia tăng bạo lực học đường, sự tha hóa học đường mà
chỉ vì sự non nớt trong phong cách quản lí của GVCN đã dẫn đến kết quả xấu trước dư
luận xã hội.
Nêu ra điều này chúng tôi muốn kiến nghị: Lãnh đạo nghành, cục nhà giáo và cán
bộ quản lí giáo dục, các vụ nghành học cần phối hợp chỉ đạo biên soạn tài liệu nghiệp
vụ cho công tác giáo viên chủ nhiệm. Phải coi tài liệu này quan trọng như hoặc hơn tài
liệu giáo khoa bộ môn.
Học viện quản lí giáo dục, các khoa quản lí các trường sư phạm, các trường ĐH
Sư Phạm cần phối hợp với nhau thực hiện được các lớp tập huấn về công tác ngày trên
cả phương pháp luận về giáo dục học và phương pháp luận về quản lí giáo dục.
SKKN Năm học: 2012-2013
19
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
Phương pháp luận về quản lí giáo dục trong các tài liệu bồi dưỡng các GVCN hiện
nay vẫn chưa đủ “độ”. Do vậy tài liệu còn thiếu cuốn hút cần thiết.
Nên kịp thời tổng kết các cương giáo viên làm công tác GVCN tốt và phổ biến các
gương này đến đông đảo các nhà trường.
GVCN cần phải quan niệm là những người quản li không có dấu đỏ xong lực
lượng này lại vô cùng mạnh mẽ vì họ gần gũi với học sinh, gia đình học sinh tạo nên
nhân cách- nhân lực cho đất nước đi vào hội nhập.
Không nên xem nhẹ lực lượng này và không nên hài long với việc bồi dưỡng họ
như ta đang làm. Việc cải thiện chính sách cho GVCN cũng nên lưu tâm hơn, đặc biệt
là sự khen thưởng với các GVCN hết long về sự tiến bộ của học sinh.
Trên đây là một vài ý kiến của tôi trong quá trình giáo dục đạo đức HS trong vai
trò GVCN lớp. Tôi rất mong nhận được sự góp ý quý báu của Hội đồng xét duyệt
SKKN cùng các đồng nghiệp .

Xin trân trọng cám ơn Hội đồng và các bạn đồng nghiệp đã dành thời gian để đọc
bài viết này của tôi!
Cao Viên ngày, 25/3/2013
GV viết SKKN
Đào Thị Thanh Thúy

SKKN Năm học: 2012-2013
20
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Wedsite :


2. Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục - Hà Nội 1996 - PTS. Phạm Viết Vượng.
3. Tâm lí học đại cương - Hà Nội 1995 - PGS. Nguyễn Quang Uẩn(chủ biên).
4. Giáo dục học đại cương II - Hà Nội 1996 - GS. Đặng Vũ Hoạt.
5. Thực hành về giáo dục học - Hà Nội 1995 - PTS. Nguyễn Đình Chỉnh.
6. Điều lệ trường trung học - Bộ GD & ĐT.
7. Thông tư 23/29 v/v hướng dẫn đánh giá, xếp loại học sinh THPT - Bộ GD & ĐT.
8. Luật GD 2005 - Bộ GD & ĐT.
9. Pháp lệnh cán bộ công chức - Bộ GD & ĐT.
SKKN Năm học: 2012-2013
21
Trường THCS Cao Viên GV: Đào Thị Thanh Thúy
MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lý do chọn đề tài 01
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 02
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Vài nét về vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường THPT 04
Đặc điểm lớp 12/5 06
Biện pháp thực hiện 07
Sơ đồ tổ chức lớp 09
Vai trò của GVCN trong việc kết hợp nhà trường - gia đình - xã hội 10
Tiêu chuẩn xếp loại hạnh kiểm… 14
Giáo dục đạo đức HS thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm 15
Mẫu biên bản sinh hoạt chủ nhiệm 16
Kết quả 17
PHẦN III. KẾT LUẬN
Bài học kinh nghiệm 19
Kiến nghị 20
Tài liệu tham khảo 21
Mục lục 22
SKKN Năm học: 2012-2013
22

×