Luận văn
Thị trường tài chính và vai trò
của thị trường tài chính trong
việc góp phần thúc đẩy sản
xuất phát triển và nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn
tài chính
LỜI NÓI ĐẦU
Thị trường tài chính - một thị trường đang trên đà hình thành là nơi diễn ra các
hoạt động luân chuyển, đầu tư các nguồn lực xã hội, cung ứng các nguồn vốn cho
hoạt động kinh tế. Điều này đã góp phần làm thay đổi sâu sắc, từ những thói quen
tiêu dùng, tiết kiệm tiền nhãn rỗi trong tiêu dùng đến những bước phát triển vĩ mô
đánh dấu sự hoàn thiện của nền kinh tế thị trường. Nó góp một phần đắc lực cho
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tạo thế và lực mới cho dân tộc ta
bước vào thế kỷ XXI.
Tuy vậy, sau 15 năm đổi mới, thị trường tài chính còn là một vấn đề khá mới
mẻ khi mà phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính là một tất yếu khách quan
cho phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Những hình thành ban đầu còn nhỏ bé,
manh mún, chưa thực sự tạo được động lực cho phát triển. Chúng ta không chỉ tụt
hậu so với sự phát triển hàng trăm năm của thị trường tài chính thế giới mà còn so
với cả sự phát triển của khu vực.
Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực năm 97 xảy ra còn
để lại nhiều hậu quả nặng nề buộc chúng ta phải nhận thấy rằng vấn đề phát triển và
hoàn thiện thị trường tài chính càng trở nên quan trọng hơn, cấp thiết hơn cho việc
xây dựng một thị trường tài chính lành mạnh, ổn định, năng động.
Để có thể góp một ý kiến chung vào việc tìm hiểu, đánh giá nghiên cứu phạm
trù "Thị trường tài chính" cũng là để nâng cao hơn nữa khả năng về chuyên ngành
mình đang học, em đã chọn đề tài " Thị trường tài chính và vai trò của thị trường
tài chính trong việc góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao hiệu quả
sử dụng các nguồn tài chính".
Bài viết chủ yếu đưa ra các vấn đề xung quanh thị trường tài chính từ đó có
những đánh giá, nhìn nhận và các giải pháp cho sự phát triển hoàn thiện thị trường
tài chính Việt Nam.
2
Đề tài gồm có các phần như sau (Mục lục):
Lời nói đầu.
Nội dung
Phần I: Tổng quan về TTTC:
I/ Khái niệm chung về TTTC.
1. Tiền đề ra đời, tồn tại của TTTC.
2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của TTTC.
3. Cấu trúc TTTC.
4. Các công cụ trên TTTC
II. Thị trường tài chính thế giới.
Phần II. TTTC Việt Nam.
I. Khái quát sơ lược về TTTCVN
1. Các điều kiện hình thành TTTCVN
2. Đặc điểm của TTTC Việt Nam hiện nay.
3. Chức năng của TTTCVN.
II. Thực trạng của TTTCVN hiện nay.
1. Thị trường tiền tệ.
2. Thị trường vốn.
III. Phát triển hoàn thiện TTTCVN giai đoạn hiện nay.
1. Hoàn thiện TTTC là tất yếu khách quan.
2. Các giải pháp chung cho phát triển, hoàn thiện TTTC.
3. Xây dựng mô hình cho các loại thị trường VN.
Kết luận chung.
3
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1. Tiền đề ra đời và tồn tại của thị trường tài chính.
Tài chính, thị trường tài chính (TTTC) chỉ ra đời và tồn tại trong những điều
kiện lịch sử nhất định, khi mà những hiện tượng kinh tế xã hội khách quan xuất
hiện, tồn tại.
Như vậy, phạm trù TTTC cần được đánh giá xem xét như là một vấn đề kinh
tế xã hội khách quan, nó có tính kinh tế và lịch sử.
Cùng với sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, phân công lao động xã hội
và chế độ tư hữu phát triển bước đầu hình thành nên một nền kinh tế hàng hoá giản
đơn. Tiền tệ cũng xuất hiện như một đòi hỏi khách quan để có thể trao đổi, mua bán
hàng hoá.
Chủ nghĩa tư bản trải qua quá trình hình thành và phát triển đã đưa kinh tế
hàng hoá lên thành kinh tế thị trường, đưa ra những tiền đề cần thiết để nảy sinh,
hình thành TTTC. Như vậy sự phát triển của kinh tế thị trường sự tham gia của tiền
tệ vào hoạt động kinh tế, sự tích lũy tập trung tư bản là những tiền tệ quan trọng
hình thành TTTC.
Các nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển và
hoàn thiện TTTC, từ việc in ấn, phát hành đều lưu thông, huy động tiền tệ và các
nguồn lực sản xuất quốc gia đến việc phân bổ các nguồn lực tài chính ra toàn xã hội
và còn vượt qua khỏi phạm vi quốc gia hình thành nên TTTC quốc tế.
Những nhân tố trên đã tạo điều kiện cho sự phát triển của TTTC và ngược lại,
đến lượt mình, TTTC đã làm cho nền kinh tế xã hội phát triển ở bước cao hơn.
Ngày nay, trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hoá các nền kinh tế, TTTC đã
mở rộng ra phạm vi toàn thế giới và đang ngày càng đóng góp và nền kinh tế thế
giới. Chính xu thế toàn cầu hoá đã hội nhập các TTTC lại với nhau biến các TTTC
nhỏ bé độc lập thành những TTTC khổng lồ, hoạt động phụ thuộc lẫn nhau và tạo
động lực cho nhau cùng phát triển.
Việt Nam chúng ta cần đánh giá đúng bản chất ra đời, tồn tại của TTTC từ đó
mà dựa trên các quy luật khách quan để xây dựng một TTTC hợp lý, từng bước phát
triển, hội nhập vào quốc tế, khu vực.
4
2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của TTTC.
TTTC là nơi diễn ra các hoạt động luân chuyển vốn trực tiếp từ các tổ chức cá
nhân có vốn sang các tổ chức cá nhân cần vốn đảm bảo cho các hoạt động kinh tế
xã hội hàng ngày.
Mọi nền kinh tế đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và phát triển vào có
thể được huy động từ nhiều nguồn nhà nước, ngân hàng và cuối cùng là qua trung
gian TTTC - một công cụ hết sức quan trọng của nền kinh tế thị trường về phương
diện cung cấp và luân chuyển vốn.
Nếu như trên thị trường hàng hoá, đối tượng mua bán là các loại sản phẩm
hàng hoá dịch vụ thì trên TTTC, đó là vốn, một loại hàng hoá đặc biệt. Người bán
dư thừa tiền đem nhượng đi với tư cách là vốn - hàng hoá nhằm thu một khoản tiền
lãi nhất định đáp ứng được vốn cho người mua để phát triển mở rộng kinh doanh,
đầu tư hoặc tiêu dùng. Thực chất của mua, bán trên TTTC là mua bán quyền sử
dụng vốn.
Giá cả trên TTTC chính là lợi tức tiền cho vay hay lợi tức cổ phần và giá cả
này nhiều khi không được xác định trước (như lợi tức cổ phần) và đem lại sự hấp
dẫn cũng như rủi ro là rất cao.
Như vậy, TTTC là một thực thể trừu tượng gắn liền với việc phân bổ sử dụng
các nguồn lực tài chính với các loại hàng hoá đặc biệt, đó là vốn, quyền sử dụng
vốn. Các công cụ chủ yếu trên TTTC là các loại chứng khoán có giá đưa lưu hành
qua lại trong các hoạt động tài chính.
Thị trường tài chính có một số vai trò chủ yếu sau:
+ TTTC đóng vai trò to lớn trong việc thu hút các nguồn lực tài chính nhàn rỗi
trong xã hội tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Vốn là tiền đề, là cơ sở cho
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, là một trong ba yếu tố
đầu vào quan trọng nhất của sản xuất (lao động, kỹ thuật), thiếu vốn lại là trở ngại
chính kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt là giai đoạn CNH, HĐH. Nền
kinh tế phát triển nhanh đòi hỏi phỉa sử dụng tối đa các nguồn lực tài chính. Thông
qua cơ chế hoạt động của TTTC đã thu hút tất cả những nguồn vốn nhỏ bé, phân tán
rải rác thành những nguồn lực to lớn tài trợ kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế.
+ TTTC đóng vai trò quan trọng nâng cao hiệu quả vốn tài chính, tạo điều kiện
thuận lợi dễ dàng cho việc luân chuyển vốn từ lĩnh vực kém hiệu quả sang lĩnh vực
kinh doanh đạt hiệu quả cao.
5
Sử dụng vốn - hàng hoá luộn phải trả một giá nhất định, điều đó buộc người sử
dụng vốn phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng đồng vốn đảm bảo phương án kinh
doanh tối ưu, đưa ra các biện pháp từ đa giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất
và trả lãi của vốn. Mặt khác, do sự tự do lựa chọn hình thức đầu tư, sự dễ dàng mua
đi bán lại giúp luân chuyển vốn trong nền kinh tế được linh hoạt hơn.
+ TTTC đóng vai trò quan trọng để thực hiện các chính sách tiền tệ và chính
sách tài chính, điều hoà các hoạt động kinh tế xã hội, thực hiện giám sát điều chỉnh
nền kinh tế vĩ mô.
Thông qua việc sử dụng các công cụ tài chính trên thị trường, các hệ thống
giám sát của nhà nước có thể theo dõi sát sao các hoạt động không chỉ trong lĩnh
vực tài chính tiền tệ mà cả sản xuất kinh doanh.
Chính phủ có thể điều tiết lượng cung - cầu tiền tệ đảm bảo bình ổn hoạt động
của nền kinh tế, bù đắp thâm hụt kích cầu tiêu dùng. Mặt khác, nhà nước có thể
thông qua chính sách lãi suất hướng hoặc hạn chế vào một số lĩnh vực sản xuất, ưu
tiên các ngành hướng về xuất khẩu, mũi nhọn v.v
+ TTTC tạo điều kiện thuận lợi trong hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước
ngoài.
Do việc hình thành và phát triển TTTC quốc gia hàng năm ngoài xu thế quốc
tế hoá. TTTC tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc dân hoà nhập vào nền kinh tế thế
giới, giúp các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn mua cổ phiếu trực tiếp trên thị trường,
góp vốn liên doanh đầu tư sản xuất Thông qua hệ thống luật hoàn chỉnh và tính
chất "mở cửa" có thể cho phép nới lỏng, thu hẹp hoạt động đầu tư nước ngoài. Điều
đó đảm bảo tính hợp lý cho phát triển kinh tế đối ngoại.
Như vậy, TTTC đóng một vai trò hết sức to lớn trong phát triển kinh tế xã hội
vai trò đó chỉ được phát huy khi nó được hình thành trong một điều kiện thích hợp
và hoạt động trong một cơ chế linh hoạt, lành mạnh.
Tuy vậy, bản thân nền KTTT cũng như TTTC đều có những khuyết tật của nó
đòi hỏi phải nắm vững cơ chế vận hành của TTTC, có những biện pháp hữu hiệu
giám sát và thúc đẩy hoạt động của nó.
3. Cấu trúc của TTTC.
Là một thực thể trừu tượng, đa dạng, TTTC có thể được xem xét, đánh giá
dưới nhiều góc độ khác nhau. Mỗi góc độ đưa ra một đặc trưng riêng trong sự đa
dạng của TTTC.
6
1. Dựa trên phương thức huy động vốn: Thị trường nợ và thị trường vốn cổ
phần:
a. Thị trường nợ:
Là một bộ phận của TTTC, ở đó diễn ra việc trao đổi mua bán các công cụ nợ.
Công cụ nợ là sự thoả thuận có tổ chức như một hợp đồng vay mượn mà người đi
vay cam kết trả.
Trên thị trường nợ, người đi vay sẽ cam kết trả cho người cho vay cả gốc và
lãi trong một kỳ hạn nhất định với phương thức thoả thuận.
Thông qua cơ chế hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian, các công cụ
nợ được huy động từ những nguồn lực tài chính nằm rải rác, thậm chí là rất nhỏ bé
về mặt giá trị. Từ những nguồn vốn huy động được, tổ chức tài chính cho vay đối
với doanh nghiệp sản xuất, tiêu dùng của chính phủ, dân chúng, việc cho vay được
dựa trên sự thoả thuận của hai bên và cung cầu trên thị trường là cơ sở ấn định giá
của vốn - hàng hoá.
Tuỳ vào mục đích vay mà có thể có những kỳ hạn khác nhau, mỗi kỳ hạn
thường có lãi suất ổn định cho cả kỳ vay. Tuy vậy, các khoản vay dài hạn thường có
lãi suất cao hơn các khoản vay ngắn hạn do được sử dụng đầu tư vào các ngành lâu
dài và ổn định lực, tuy vậy rủi ro cũng cao hơn. Các khoản vay dài hạn (thường từ
trên 3 đến 5 năm) cần được khuyến khích để đầu tư vào xây dựng các công trình lớn
đòi hỏi vốn lớn, dài hạn, chậm thu hồi nhưng rất cần thiết cho nền kinh tế.
Hoạt động trên thị trường nợ phản ánh mối quan hệ giữa người cho vay và
người đi vay, tuy vậy mối quan hệ đó là rất phức tạp, chồng chéo và có thể diễn ra
nhiều lần cho cùng một khoản vốn. Một cá nhân, tổ chức có thể vừa là người đi vay,
cũng lại là người cho vay, chẳng hạn như các tổ chức tài chính trung gian, các công
ty sản xuất
Lãi suất trên thị trường tác động lớn vào hoạt động của thị trường nợ, nó quyết
định đến cung cầu vốn nợ và cả thời hạn của các khoản vay. Điều chỉnh một mức lãi
suất ổn định, hợp lý sẽ làm cơ sở cho tính ổn định thị trường.
b. Thị trường vốn cổ phần.
Là một bộ phận của TTTC, hoạt động thông qua việc phát hành mua bán cổ
phiếu, trái phiếu. Các cổ phiếu, trái phiếu là các chứng từ công nhận quyền góp vốn
của cổ đông.
Thông qua cơ chế hoạt động huy động vốn của các công ty cổ phần, các công
ty này phát hành cổ phiếu, trái phiếu mà hiện nay chủ yếu là trên TTCK, các nguồn
7
vốn nhãn rỗi sẽ trực tiếp đầu tư vào hoạt động ở các công ty. Vốn được thu hút từ
mọi nguồn cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và được thu hút vào các công ty cổ phần
các ngân hàng, tổ chức tài chính và cả chính phủ.
Đặc trưng của cổ phiếu trái phiếu là không có một thời hạn cụ thể, sự đóng
góp vốn vào công ty có thời hạn phụ thuộc vào việc lưu giữ cổ phiếu của người sở
hữu và cả tình hình kinh doanh của công ty, thông thường sau một kỳ hạn nhất định
(thường là một năm) chủ sở hữu cổ phần được chia lợi tức.
Hoạt động trên thị trường vốn cổ phần không phản ánh mối quan hệ giữa
những người đi vay và người cho vay về ở đây không được đặc trưng bởi sự vay
mượn các công cụ nợ. Nó là mối quan hệ giữa những người chủ sở hữu trong công
ty cổ phần họ cùng tham gia góp vốn đầu tư vào các công ty và thu lợi nhuận. Điều
đó lý giải tại sao cổ phiếu, trái phiếu không có một thời hạn cụ thể.
Như vậy, mỗi cá nhân, tổ chức mua cổ phiếu, trái phiếu sẽ là một nhà đầu tư
do đó, họ sẽ không được hưởng lợi đầu tư như những nhà cho vay. Lợi nhuận sau
thuế được phân bổ trả lãi thuế vốn, tài sản, tái đầu tư, thuê lao động sau đó mới
chia cho các cổ đông. Nếu có rủi ro xảy ra, họ phải cùng liên đới chịu trách nhiệm
hữu hạn ứng với phần vốn đã đóng góp.
Diễn biến kinh tế trên thị trường vốn cổ phần phụ thuộc vào lợi nhuận kinh
doanh của công ty. Lãi suất chỉ có tác động gián tiếp vì mỗi mức lãi suất sẽ tác động
đến đầu tư, thu nhập và lợi nhuận ròng của công ty. Còn lợi nhuận ảnh hưởng trực
tiếp đến trị giá cổ phiếu mà mỗi cổ đông có thể nhận được khi đầu tư vào công ty cổ
phần. Nếu tình hình kinh doanh thấp kém, các nhà đầu tư để đồng loạt bán ra cổ
phiếu, trái phiếu ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn công ty.
Như vậy, việc huy động vốn trên thị trường nào, nợ hay vốn cổ phần là tuỳ
thuộc vào tình hình mỗi công ty cũng như sự quy định của luật doanh nghiệp.
Thông thường, các doanh nghiệp huy động vốn cơ bản chủ yếu là trên thị trường nợ
đảm bảo nguồn vốn lớn, tập trung cho đầu tư sản xuất. Còn khi muốn mở rộng sản
xuất, tăng vốn điều lệ hoặc để nâng cao hình ảnh của mình thì có thể thamgia huy
động trên thị trường vốn cổ phần.
2. Dựa vào kỳ hạn của các công cụ tài chính: Thị trường tiền tệ và thị
trường vốn.
a. Thị trường tiền tệ.
Là một bộ phận của TTTC mua bán các công cụ ngắn hạn.
8
Các công cụ nợ ngắn hạn có đặc trưng cơ bản là: Có tính lỏng cao, thời gian
lưu hành luân chuyển ngắn và chi phí chuyển về tiền mặt thấp.
Các công cụ này tham gia trên thị trường tiền tệ ít rủi ro do thời gian ngắn. Do
đó, giá cả trong thị trường tiền tệ là khá ổn định.
Trong thị trường tiền tệ, tiền là một hàng hoá đặc biệt, nó phụ thuộc vào sự
phát triển của kinh tế thị trường mà ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian
cùng tham gia hoạt động. Lãi suất của nó phụ thuộc vào cung cầu tiền tệ trên thị
trường và kiểm soát tiền tệ luôn luôn là công việc của chính phủ và mọi ngân hàng
trung ương.
Tham gia vào thị trường tiền tệ gồm có các ngân hàng thương mại, các tổ chức
tài chính phi ngân hàng, kho bạc, NHTW, các doanh nghiệp, chính phủ
Thị trường tiền tệ đóng vai trò:
+ Tạo môi trường đầu tư sinh lời cho các cá nhân và các tổ chức tài chính đầu
tư ngắn hạn.
+ Đảm bảo tính hiệu quả hệ thống, ổn định của các ngân hàng thương mại
+ Giúp NHTW thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Các bộ phận chủ yếu của thị trường tiền tệ.
Thị trường tín phiếu kho bạc chủ yếu là chính phủ phát hành trái phiếu nhằm
bù đắp phần bội chi ngân sách và nhu cầu chi tiêu của mình.
Thị trường nội tệ - liên ngân hàng nhằm đảm bảo điều hoà về vốn hoạt động
trong hệ thống ngân hàng.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tổ chức mua bán ngoại tệ giữa các ngân
hàng được kinh doanh ngoại tệ.
Thị trường tín dụng thể hiện quan hệ vay mượn sử dụng vốn lẫn nhau giữa các
pháp nhân, thể nhân trong nền kinh tế.
Ngoài ra còn thị trường thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng chủ yếu tham gia
phát hành các công cụ vay ngăn hạn.
b. Thị trường vốn:
Là một bộ phận của TTTC diễn ra việc mua bán, trao đổi các công cụ nợ
trung, dài hạn và cổ phiếu.
9
Các công cụ lưu hành có tính lỏng kém, thời gian lưu hành dài. Do đó hoạt
động trên thị trường vốn mang tính rủi ro cao và giá cả biến đổi phức tạp do kỳ hạn
dài.
Thị trường vốn xét về mặt bản chất phản ánh các quan hệ mua bán không phải
là số lượng nhất định các khoản tiền mặt, các tư liệu sản xuất mà là các quyền sở
hữu về tư liệu sản xuất và vốn tiền mặt. Như vậy, thị trường vốn là một bộ phận của
TTTC được chuyên môn hoá đối với các nguồn lực tài chính và trao quyền sử dụng
dài hạn. Do đó, các nguồn lực tài chính này chủ yếu là được đầu tư dài hạn vào đầu
tư sản xuất kinh doanh.
Khi lãi suất không ổn định, xu hướng lạm phát cao, hoạt động của thị trường
vốn bị thu hẹp và phải nhường chỗ cho thị trường tiền tệ vì lúc đó tham gia thị
trường vốn có độ rủi ro rất cao. Do đó, tính ổn định của nền kinh tế thị trường ảnh
hưởng lớn đến hoạt động của thị trường vốn.
Vai trò của thị trường vốn:
Đảm bảo nguồn tài trợ vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế, cho các tổ chức tín
dụng ngân hàng đầu tư vào các lĩnh vực dài hạn.
Tạo cơ hội kinh doanh cao cho các nhà đầu tư.
Nhà nước có thêm vốn đầu tư vào các công trình lớn, cơ sở hạ tầng. Các bộ
phận của thị trường vốn:
+ Thị trường trái phiếu chính phủ chủ phát hành các công cụ nợ có mệnh giá
cao, khối lượng lớn của chính phủ, lãi suất thấp không có rủi ro.
+ Thị trường trái phiếu công ty do các công ty phát hành trái phiếu, lãi suất tuỳ
thuộc vào tình hình công ty song có độ rủi ro cao.
+ Thị trường cổ phiếu bằng các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu trên
TTCK, lãi suất hấp dẫn song không cố định, rui ro rất cao.
3. Dựa vào cơ chế hoạt động của TTTC: Thị trường tài cấp I và cấp II.
a. Thị trường cấp I: (sơ cấp).
Là nơi phát hành các công cụ tài chính, được bán trong phạm vi hẹp giữa các
nhà phát hành và những người mua đầu tiên.
Trong quá trình phát hành, người phát hành nhìn chung không giao dịch trực
tiếp với người mua mà cần thông qua các trung gian xử lý, tức là những người môi
giới. Do đó thị trường cấp I là thị trường phát hành các công cụ tài chính lần đầu
tiên và còn được gọi là thị trường môi giới thông thường, người mua đầu tiên là các
10
ngân hàng, các công ty kinh doanh chứng khoán, các nhà môi giới và các nhà kinh
doanh khác.
Phát hành trên thị trường sơ cấp mới là mục đích tài trợ cho nhu câùa vốn của
công ty phát hành. Tuy nhiên, phạm vi trên thị trường sơ cấp thường diễn ra hẹp,
thông tin mua bán ít và chủ yếu là dành cho các nhà chuyên môn kinh doanh ở thị
trường sơ cấp. Hoạt động phát hành không diễn ra ở một trụ sở cố định và hầu như
mang tính nội bộ.
Tuy vậy, giá cả, số lượng trên thị trường cấp I lại là cơ sở cho thị trường cấp II
hoạt động vì các công cụ tài chính không chỉ được phát hành một lần, nó còn được
tiếp tục mua đi bán lại trên thị trường cấp II.
b. Thị trường cấp II:
Diễn ra các hoạt động mua đi bán lại các công cụ tài chính đã được phát hành
trên thị trường cấp I.
Các chứng khoán ở đã được mua ở thị trường cấp I do nhiều nguyên nhân đã
được các nhà đầu, môi giới thu hút sự chú ý của nhiều cá nhân, tổ chức khác. Đây
mới chính là nơi giao dịch hàng ngày mua đi lại - bán lại kiếm lời trên TTCK.
Lúc này, người bán là các nhà đầu tư đầu tiên, người mua là tất cả các cá nhân,
tổ chức muốn đầu tư, kinh doanh kiếm lời.
Phát hành trên thị trường cấp II nói chung không có mục đích tài trợ vốn cho
công ty phát hành, nhưng phạm vi diễn ra rộng lớn và thông tin phong phú, phổ
biến. Thị trường cấp II như là một dấu hiệu theo dõi công việc kinh doanh không
chỉ của doanh nghiệp mà còn của cả nền kinh tế. Hoạt động đã diễn ra khỏi nội bộ
các nhà kinh doanh và liên quan đến hoạt động, chú ý của dân chúng.
Cả hai thị trường phụ thuộc vào nhau. Thị trường cấp II ảnh hưởng đến thị
trường cấp I, việc định giá cả, khối lượng ở thị trường cấp II vừa quy định, vừa phụ
thuộc vào hoạt động của thị trường cấp I.
Thông thường không tồn tại ranh giới rõ rệt giữa hai thị trường, các hoạt động
đan xen hoà lẫn vào nhau. Thị trường cấp I là cơ sở cho thị trường cấp II, còn thị
trường cấp II lại là động lực cho thị trường cấp I.
4. Các công cụ trên TTTC:
a. Các công cụ của thị trường tiền tệ:
+ Trái phiếu kho bạc là công cụ vay nợ ngắn hạn do chính phủ phát hành
nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách tạm thời và tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của mình.
11
Trái phiếu kho bạc có độ an toàn cao nhất vì khả năng vỡ nợ của chính phủ là
gần như không thể xảy ra, tuy vậy lại có lãi suất thấp nhất và được trả cùng với gốc
(lãi suất chính phủ là lãi suất cơ sở của thị trường). Khách hàng của trái phiếu kho
bạc là nhân dân, ngân hàng thương mại, NHTW các tổ chức tài chính trung gian.
+ Các chứng chỉ tiền gửi là việc chứng nhận cho tiền gửi vào các ngân hàng
thương mại của các nhân, tổ chức.
Phổ biến nhất là hình thức sổ tiết kiệm, séc thanh toán có thể dùng các
chứng chỉ này để thanh toán, tuỳ thuộc vào mức độ chấp nhận thanh toán của dân
cư, nền kinh tế và quy định của các tổ chức.
+ Các thương phiếu kỳ phiếu do các ngân hàng thương mại phát hành chủ yếu
là để huy động vốn tạm thời, ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách của các ngân
hàng, lãi suất cao song thời gian rất ngắn.
b. Các công cụ của thị trường vốn:
+ Cổ phiếu là một chứng chỉ chứng nhận quyền góp vốn của các cổ đông, nó
không phải là một công cụ vay nợ trên TTTC.
Cổ phiếu có mệnh giá trên cổ phiếu song không có lãi suất, tỷ lệ lợi tức cố
định mà hoạt động dựa trên khả năng thu lợi nhuận của công ty vào một giai đoạn
nhất định. Cổ phiếu có khả năng thu lợi tức cao, hấp dẫn song cũng có mức độ rủi
ro rất cao.
Gồm có cổ phiếu ký danh, vô danh, ưu đãi và thông thường. Mỗi loại có
những thuận lợi kvà ràng buộc riêng.
+ Trái phiếu là công cụ vay nợ dài hạn của chính phủ, doanh nghiệp trái phiếu
chính phủ, vay để thu hút nguồn vốn trung và dài hạn, đặc biệt là dài hạn cho nhu
cầu xây dựng, đầu tư các công trình lớn của nền kinh tế, lãi suất cao hơn lãi suất trái
phiếu kho bạc do vay dài hạn và củng cố độ an toàn khá cao. Đầu tư vào trái phiếu
chính phủ là đầu tư mang tính dài hạn và an toàn.
Trái phiếu doanh nghiệp do các công ty phát hành, lãi suất hấp dẫn nhưng có
độ rủi ro khá cao. Đây cũng là khoản đầu tư dài hạn của những người cho vay mạo
hiểm.
Các loại trái phiếu gồm có: trái phiếu vay đơn, tiền gốc và lãi được thanh toán
một lần khi vào ngày đáo hạn.
Trái phiếu trả cố định sẽ thanh toán các khoản cố định đều nhau cho người
mua trong suốt kỳ hạn trái phiếu.
12
Trái phiếu coupon, tiền lãi trả hàng năm, tiền gốc trả vào ngày đáo hạn sẽ
được thanh toán theo mệnh giá.
Trái phiếu vĩnh cưủ: Người mua sẽ nhận một khoản thu nhập hàng năm cố
định đến lúc chết và không được rút tiền gốc, không thừa kế.
13
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT SƠ LƯỢC VỀ TTTC VIỆT NAM:
1. Các điều kiện để hình thành TTTC Việt Nam.
TTTC là một thị trường hàng hoá đặc biệt, là sản phẩm của nền kinh tế phát
triển cao. Do đó, để hình thành TTTC Việt Nam cần phát triển một nền kinh tế thị
trường XHCN dựa trên chế độ đa dạng hoá sở hữu, mở rộng phát triển các thành
phần kinh tế.
Nền kinh tế thị trường đó phải được phát triển ổn định trong một thời gian
dài, ổn định cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng an ninh.
Chuyển sang kinh tế thị trường nhưng phải luôn luôn khẳng định vai trò của
nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước trong việc định hướng phát triển của nền
kinh tế, tạo điều kiện thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động tài chính - tiền tệ.
Nền kinh tế phải có những chuyển biến tích cực, bắt đầu có tích luỹ và xuất
hiện nhu cầu gửi tiền dư thừa cũng như đầu tư trong dân chúng.
Đã xây dựng được một mạng lưới cơ sở hạ tầng kinh tế cũng như hệ thống
thông tin liên lạc rộng khắp, hiện đại, đồng bộ trong cả nước tạo thành một thể
thống nhất từ TW đến địa phương.
Các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng được phép hoạt động độc lập tự chủ,
hoạt động trong phạm vi khuôn khổ pháp luật. Nới lỏng và tiến đến tự do hoá lãi
suất tín dụng.
Đã xây dựng được một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh làm cơ sở cho quản lý
điều hành đất nước.
2. Đặc điểm của TTTC Việt Nam hiện nay:
Trước hết, cần khẳng định TTTC Việt Nam là một TTTC Xã hội chủ nghĩa
chính vì vậy mà nó có nhiều điểm tương đồng và khác biệt so với TTTC của thế
giới TBCN.
Cơ sở tồn tại và xây dựng TTTC Việt Nam được xây dựng chủ yếu dựa trên
chế độ công hữu về TLSX, có mối quan hệ bình đẳng hợp tác cùng có lợi giữa các
loại hình, thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp và người lao động. Ngân hàng TW
là chủ thể của cơ cấu tài chính, của TTTC. Điều này rất khác biệt so với TTTC
14
TBCN xây dựng trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thể hiện ở mối quan hệ người
bóc lột người.
Thứ hai, mục đích của TTTC Việt Nam là nhằm phục vụ làm sống động các
hoạt động tài chính - kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường chủ
yếu dưới sự chỉ đạo có kế hoạch của nhà nước. Trong khi đó TTTC TBCN chịu sự
tác động của quy luật giá trị và mục đích là giá trị thặng dư TBCN.
Thứ ba, TTTC Việt Nam huy động vốn, lưu thông tiền tệ dưới sự chỉ đạo có
kế hoạch của nhà nước, tự giác vận động các quy luật khách quan đảm bảo ổn định
của nền kinh tế. Trong khi đó, TTTC TBCN phát triển nhiều khi mang tính tự phát
hay xảy ra khủng hoảng cơ cấu gây nhiều chấn động cho nền kinh tế.
Thứ tư, các chủ thể tham gia trên TTTC Việt Nam là độc lập, bình đẳng, toàn
bộ thị trường chịu sự giám sát và quản lý của ngân hàng nhà nước, trong khi đó chủ
thể trên TTTC TBCN thường là các nhà tư bản, tài phiệt, thị trường hay bị thao túng
bởi họ.
Thứ năm, TTTC Việt Nam hoạt động căn cứ vào phương châm chính sách của
chính phủ, thống nhất được các hoạt động tài chính từ TW đến địa phương. Còn
TTTC TBCN mang tính chất phân tán, nhiều khi không có sự thống nhất, vô kế
hoạch.
Thứ sáu, TTTC Việt Nam là TTTC độc lập, tự chủ không chịu sự can thiệp
của bất kỳ tổ chức tài chính quốc tế nào, căn cứ vào nhu cầu xây dựng đất nước để
mở rộng cửa ra bên ngoài song luôn thi hành các biện phaps bảo đảm đúng bản chất
của mình. Còn TTTC TBCN chịu ảnh hưởng tương đối lớn của TTTC quốc tế.
3. Chức năng của TTTC Việt Nam:
+ Tích lũy và huy động tất cả mọi nguồn lực tài chính trong xã hội, từ đó lưu
thông vốn cho nền kinh tế điều tiết từ người có vốn sang người cần vốn TTTC Việt
Nam tạo nên một chu trình cấp vốn thông qua chức năng của thị trường sơ cấp. Từ
thị trường này, các nguồn vốn nhỏ bé, phân tán của các hộ gia đình, các nguồn vốn
trong các tổ chức dư thừa chuyển thành vốn dài hạn cho các xí nghiệp. Thực tiễn tại
Việt Nam, nhu cầu vốn là rất lớn, giai đoạn 1996 - 2000 cần 41 tỷ cho đầu tư sản
xuất phát triển kinh tế. Trong nhân dân, do đời sống ngày càng được cải thiện, đã
xuất hiện lượng tiền dư thừa, nếu lượng tiền này được huy động sẽ là nguồn lực rất
lớn, vừa tạo thu nhập từ nguồn vốn nhàn rỗi cho người dân, vừa giúp nhiều doanh
nghiệp thiếu vốn hiện nay có đủ vốn hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các
doanh nghiệp tư nhân.
15
Hiện nay, vẫn còn nhiều bất cập trong hoạt động của hệ thống doanh nghiệp tư
nhân do những ràng buộc về việc huy động vốn từ ngân hàng thương mại, nếu phát
huy tốt nguồn lực này trong dân chúng sẽ là cơ sở cho các doanh nghiệp này mở
rộng, nâng cao năng lực sản xuất.
+ Thông qua việc hoàn trả lãi và vốn, đảm bảo yêu cầu sử dụng vốn có hiệu
quả cao, đầu tư vào các ngành trọng điểm.
Điều này là rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Đi vào kinh tế
thị trường song nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước vẫn còn giữ
nguyên cơ chế làm việc của nền kinh tế bao cấp kế hoạch hoá, chưa tự hoạch toán
thu chi, mà vẫn trông chờ, ỷ lại vào nguồn vốn của nhà nước. Thông qua việc vay
vốn, hoàn trả lãi buộc các doanh nghiệp phải tự đổi mới hoạt động sản xuất kinh
doanh, sử dụng hạch toán trong kinh doanh lại không làm lãng phí nguồn lực xã
hội. Mặt khác, cơ chế hoàn trả này giúp chúng ta đầu tư được vào các ngành có
trọng điểm. Giai đoạn đầu, áp đặt một tỷ lệ lãi suất khá cao giúp các doanh nghiệp
phải sử dụng đầu tư vào các ngành vốn ít, sử dụng nhiều lao động, sau đó hạ dần tỷ
lệ lãi suất đảm bảo đầu tư dài hạn, ổn định, đầu tư vào các ngành yêu cầu hàm
lượng vốn và kỹ thuật cao. Có thể hạ lãi suất, áp dụng lãi suất ưu đãi cho các ngành
công nghệ mũi nhọn, các ngành hướng về xuất khẩu như công nghịep điện tử - tin
học, chế biến, may mặc
+ Hướng cho nền kinh tế vĩ mô hoạt động an toàn có hiệu quả. Nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam mới đi vào hoạt động, còn nhiều yếu kém chưa thể khắc phục
được ngay. Thông qua vai trò điều tiết cung cầu tiền tệ bằng lãi suất sẽ đảm bảo cho
nền kinh tế an toàn, có hiệu quả, từ việc huy động mọi nguồn lực xã hội đến việc
yêu cầu sử dụng vốn tối ưu của mọi doanh nghiệp.
Thực tiễn ở Việt Nam giai đoạn cuối những năm 80 đầu 90, nền kinh tế Việt
Nam bị lạm phát trầm trọng. (Năm 87: 429%; Năm 88: 682%; Năm 89: 348% )nhà
nước đã kịp thời khắc phục bội chi ngân sách, giảm cung ứng tiền tệ đặc biệt là
thông qua chính sách lãi suất cao (như lãi suất kỳ hạn 3 tháng giai đoạn 87 - 88:
8,0%/tháng, năm 89: 12%/tháng ) từ đó đẩy lùi siêu lạm phát, bình ổn được nền
kinh tế, ổn định đời sống nhân dân.
+ Tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao và cải thiện tình hình phân phối thu
nhập cho đại bộ phận dân cư. Hoạt động của TTTC Việt Nam có thể trực tiếp hoặc
gián tiếp tạo ra công ăn việc làm. Các nghiệp vụ hoạt động tài chính yêu cầu có các
nhân viên quản lý, làm việc như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm Mặt khác và cũng
là điều chủ yếu là, thông qua các hoạt động thu hút và luân chuyển vốn trong nền
16
kinh tế, đảm bảo phát triển mở rộng sản xuất, từ đó nâng cao được công ăn việc làm
góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động.
Các hoạt động tài chính - tín dụng - bảo hiểm cũng góp phần nâng cao thu
nhập (thông qua nghiệp vụ gửi tiền tín dụng, đầu tư chứng khoán ) và phân phối lại
thu nhập cho người lao động, cho đại bộ phận dân cư khi mà mức thu nhập của họ
còn thấp.
Điều này càng có nghĩa khi mà hàng năm chúng ta có thêm từ 1,5 - 1,7 triệu
người tham gia vào thị trường lao động.
+ Góp phần đắc lực vào tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam
hiện nay. Chúng ta bước vào công nghiệp hoá cũng như bước vào xây dựng CNXH
từ một khởi điểm rất thấp, lại bị tụt hậu xa so với thế giới và khu vực. Để có thể
hoàn thành công nghiệp hoávào năm 2020, không chỉ cần đủ vốn cho đầu tư phát
triển mà còn đảm bảo phát huy mạnh mẽ tất cả mọi năng lực sản xuất sẵn có, thu
hút công nghệ qua đầu tư. Điều này chỉ có thể thành hiện thực khi chúng ta phát
triển hoàn thiện một TTTC và hoà nhập được vào quốc tế, khu vực. Thông qua việc
tham gia vào hội nhập còn giúp chúng ta tiếp thu được năng lực sản xuất quốc tế,
tăng tích cạnh tranh phát huy lực lượng sản xuất. Do toàn cầu hoá buộc mỗi quốc
gia phải tranh thủ hết các nguồn lực, đầu tư vào các ngành mũi nhọn, đối với Việt
Nam còn giúp đi tắt, đón đường giảm bớt sự tụt hậu về khoảng cách phát triển.
+ Thông qua việc hội nhập, Việt Nam có thể tham gia vào TTTC quốc tế, giúp
phát triển kinh tế đối ngoại, khai thác được cả nguồn lực ngoài nước (về vốn, khoa
học công nghệ), tránh bị tụt hậu và thôn tính trong xu thế toàn cầu hoá.
II. THỰC TRẠNG CỦA TTTC VIỆT NAM HIỆN NAY:
Cơ chế thị trường XHCN đang dần dần hình thành phát triển tạo tiền đề cho
một TTTC ở Việt Nam. Cùng với đã tăng trưởng của nền kinh tế, TTTC Việt Nam
ngày càng đóng một vai trò to lớn và đạt được nhiều thành tựu. Song với chúng ta,
phạm trù TTTC vẫn còn là một điều mới mẻ, bước đầu đi vào hoạt động còn nhiều
hạn chế cả về số lượng và chất lượng.
1. Thị trường tiền tệ:
+ Thị trường tiền gửi tín dụng ngắn hạn, ra đời cùng với sự hoạt động của hệ
thống tín dụng ngân hàng, hoạt động chưa có hiệu quả. Các nguồn lực trong dân
chúng chưa được khai thác tối đa. Đặc biệt hiện nay, do hạ lãi suất chiết khấu nhằm
nâng cao đầu tư đã kéo theo sự trì trệ của hoạt động tín dụng.
17
Theo thống kê, nguồn vốn trong dân thì 44% mua vàng, ngoại tệ, 28% mua
nhà đất, 17% gửi tiết kiệm ngắn hạn và 19% cho các dự án ngắn hạn.
Trong khi mà TTTC chưa phát triển, hoạt động tín dụng ngắn hạn còn đóng
một vai trò to lớn cho huy động vốn cho nền kinh tế, thì sự lãng phí nguồn lực, sự
trì trệ trong hệ thống tín dụng ngân hàng là một vấn đề lớn đối với chúng ta. Nhất là
khi mà hiện nay, mặc dù lãi suất thấp song các ngân hàng lại không cho vay được
hết phần vốn huy động kéo theo sự thua lỗ cho rất nhiều ngân hàng thương mại
hoặc hoạt động thu hẹp. Nhiều doanh nghiệp vẫn thiếu vốn, còn nhân dân chỉ coi tín
dụng ngắn hạn là biện pháp chống lại lạm phát đồng tiền.
+ Thị trường nội tệ liên ngân hàng đi vào hoạt động từ tháng 7/93, hiện nay
đang hoạt động dưới sự tổ chức và điều hành của Nhà nước. Thông qua quan hệ
hợp tác đã đảm bảo cho việc sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn, có đủ khả năng
chi trả thanh toán khi gặp khó khăn.
Việc quy định hoạt động trong thị trường này còn nhiều hạn chế như yêu cầu
ngân hàng tham gia phải có tài khoản tại NHTW, có đại diện giao dịch tại trung tâm
giao dịch thị trường, đảm bào hệ thống thông tin nội bộ và nối mạng đặc biệt là
còn rất hạn chế cho một tổ chức tín dụng tham gia.
Điều đó làm cho hoạt động của thị trường chưa được rộng khắp và toàn diện,
chưa tạo được điều kiện thuận lợi cho nhiều ngân hàng thương mại và tổ chức tín
dụng cùng tham gia.
+ Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các
ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Đi vào hoạt động từ tháng 10/94 dưới sự
điều hành giám sát của nhà nước.
Thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ, giữa các ngân hàng đã tác động đến
cung - cầu tiền tệ, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngoại thương xuất - nhập
khẩu, vay thương mại, đầu tư nước ngoài
Điều kiện tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng còn khắt khe hơn
tham gia vào thị trường nội tệ, đặc biệt là chỉ cho phép các ngân hàng là ngân hàng
được phép kinh doanh tiền tệ. Điều đó làm hạn chế nhiều đến quy mô thị trường,
song bước đầu hoạt động của thị trường là khả quan, đảm bảo nguồn cung cầu về
ngoại tệ.
+ Thị trường tín phiếu kho bạc và các công cụ nợ ngắn hạn khác:
Tín phiếu kho bạc được phát hành từ đầu những năm 90, có kỳ hạn ngắn, đã
đáp ứng được nhu cầu chi tiêu chính phủ và bù đắp thâm hụt ngân sách. Giai đoạn
18
đầu, trái phiếu và tín phiếu kho bạc tăng nhanh, từ 220,5 nghìn tỷ năm 91 lên 6.186
tỷ năm 97 và có lãi suất từ 9 - 12%/năm.
Hiện nay, đặc biệt sau năm 98, thị trường đi vào hoạt động trì trệ, mặc dù đã
có lúc nâng đến một mức lãi suất rất cao chưa từng có 2,1%/tháng (25,2%/năm)
năm 93 nhưng vốn huy động vẫn còn nhỏ bé so với tiềm năng.
Đối với thị trường thương phiếu, kỳ phiếu hoạt động còn nhỏ bé, chủ yếu mới
trên thị trường sơ cấp.
2. Thị trường vốn:
+ Thị trường trái phiếu chính phủ: Đi vào hoạt động từ tháng 7.94 đã giúp Nhà
nước huy động được nguồn vốn dài hạn đầu tư xây dựng được một số công trình
lớn, trọng điểm quốc gia (đặc biệt là đường dây 500KV, đường Hồ Chí Minh (đang
thực hiện và nhiều công trình khác), với số vốn có thể lên đến hàng chục tỷ đồng.
Thời hạn của cả trái phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ hiện nay đang có
xu hướng tăng lên, lãi suất gắn liền với thị trường và có xu hướng giảm dần, làm
giảm gánh nặng trả lãi cho ngân sách nhà nước. Hoạt động của thị trường đang ngày
càng trở nên phong phú, đa dạng hơn và phổ biến trên cả nước.
Trong năm 1996, cả hai công trình thủy điện Yaly và Bình Thuận đã thu hút
được 196,6 tỷ đồng (loại kỳ hạn 1 năm), còn đường dây 500 KV tổng số là 334 tỷ.
Đây là kết quả bước đầu khả quan.
+ Thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Đi vào hoạt động từ năm 94, có đặc điểm chủ yếu là tồn tại duy nhất thị
trường sơ cấp, mà tại đó chỉ có một phần trái phiếu là được thanh ngắn, tỷ trọng trái
phiếu của các công ty kinh doanh còn rất nhỏ, chiếm khoảng 9% so với trái phiếu
do ngân hàng phát hành và chủ yếu là bán trực tiếp.
Hiện nay, trái phiếu doanh nghiệp có thời hạn dài nhất mới chỉ là 5 năm như
của công ty điện lạnh TP Hồ Chí Minh, nhà máy xi măng Anh Sơn.
+ Thị trường cổ phiếu.
Bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 6 - 2000, trước đó 9.94 đã được chính phủ
ban hành quy chế hoạt động. Theo đó, chỉ có các công ty cổ phần mới được phát
hành cổ phiếu.
Hiện tại đã có hơn 200 công ty cổ phần và nhiều doanh nghiệp đã phát hành cổ
phiếu mong chỉ được sở hữu mà chưa được đưa vào lưu thông do chưa được phép
niêm yết trên TTCK. Điều này đã gây nhiều khó khăn cho việc cung ứng với cho
19
nền kinh tế, làm chậm quá trình đổi mới. Đặc biệt là tiến trình cổ phần hoá diễn ra
còn chậm, kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hoá không được thông tin
hoạt động.
Tuy vậy, sự ra đời của TTCK với 4 công ty được niêm yết bắt đầu gây dựng
cơ sở cho TTCK sau này (REE, SACOM, HAPHACO, TRANSIMEX). Các phiên
giao dịch đã bắt đầu sôi động mặc dù còn nhỏ bé, hàng giao dịch còn ít. Trước đó,
năm 97m, SACOM nhờ phát hành cổ phiếu (240.000 cổ phiếu mệnh giá 500.000đ)
mà tăng tài sản lên 10 lần, thông qua hoạt động giao dịch trên TTCK, các công ty
trên đã mở rộng được sản xuất kinh doanh, nâng cao được uy tín vị thế của mình
trên thị trường cạnh tranh tạo được những hướng đi mới. Nhìn chung TTCK Việt
Nam còn mới mẻ song bước đầu đã tạo lòng tin cho nhân dân.
Thực trạng TTTC Việt Nam.
Nhìn về tổng thể, số vốn huy động được trên TTTC tăng, nhưng tổng giá trị tín
phiếu cổ phiếu giai đoạn 91 - 97 đạt 2,5% GDP. Nó còn quá nhỏ bé so với nhu cầu
kinh tế xã hội (trong khi ở các quốc gia phát triển, khoản vay trong nước chiếm hơn
50% GDP).
Kho bạc nhà nước, theo ước tính, mới chỉ huy động được 15% số tiền nhàn rỗi
trong dân, khi mà lượng tiền này ước đạt 25 - 30 nghìn tỷ đồng. Lãi suất trái phiếu
luôn cao hơn lãi suất như là một điều không thực tế so với nhiều nước trên trong mà
một nguyên nhân chính là do sự yếu kém của hệ thống ngân sách, do tài sản này của
họ thiếu, nợ khó đòi tăng, tình hình kinh doanh khó khăn buộc phải tăng lãi suất tiền
gửi lên cao hơn quy định, do đó mà người dân thích gửi tiền vào ngân sách hơn là
mua trái phiếu cổ phiếu và trái phiếu công ty. Để có thể thu hút cổ phiếu đã phải
nâng lãi suất lên rất cao.
Hiện tại mới chỉ có khi bạc nhà nước và NHTW được quyền tham gia vào việc
phát hành vay nợ. Điều này, mặc dù thể hiện sự non yếu của thị trường về các thiết
chế thị trường khác vẫn chưa xuất hiện nhưng hiện tại là chấp nhận được.
Mặc dù còn nhiều yếu kém, bất cập, song về cơ bản, TTTC Việt Nam đã có
nhiều khởi sắc, đã thu hút được một lượng vốn nhất định cho đầu tư phát triển đất
nước. Bước đầu hình thành TTCK ở Việt Nam tạo cho mọi cá nhân tham gia, tiếp
xúc với một TTTC hiện đại, phát triển.
III. PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN TTTC Ở VIỆT NAM.
1. Hoàn thiện TTTC ở Việt Nam là một tất yếu khách quan.
20
Với bất cứ một quốc gia nào đi theo nền kinh tế thị trường, TTTC là "phong
vũ biểu", là dấu hiện đặc trưng của nền kinh tế. Các tín nhiệm trên TTTC có ảnh
hưởng lớn đến tâm lý tiêu dùng, đầu tư. TTTC lành mạnh, ổn định sẽ giúp, đảm bảo
cho các hoạt động kinh tế bền vững, an toàn, tạo một không khí yên tâm, thoải mái
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Xuất phát từ nhu cầu cấp bách hiện nay, chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, cần có một TTTC hoàn thiện nhằm phát huy mọi nguồn
nội lực và ngoại lực, tài trợ đủ vốn, công nghệ kỹ thuật cho quá trình phát triển hoàn
thành công nghiệp hoá đất nước.
Xuất phát từ thực trạng nhỏ bé, yếu kém của TTTC Việt Nam hiện nay cần
phải phát triển và hoàn thiện để có thể đáp ứng được yêu câùa đặt ra, từng bước
nâng cao vai trò của mình đối với nền kinh tế và hội nhập vào quốc tế, khu vực.
Xuất phát từ thực tiễn của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, hoàn
thiện TTTC luôn là một điều tất yếu khách quan do tầm quan trọng cũng như tính
nhạy cảm của nó. Đứng trước xu thế toàn cầu hoá, TTTC dễ chịu những cú sốc bên
ngoài. Dù TTTC có phát triển ở một trình độ cao như Nhật Bản, Hàn Quốc thì vẫn
chịu những hậu quả nặng nề từ cuộc khủng hoảng.
Chính vì vậy, phát triển, hoàn thiện TTTC ở Việt Nam luôn là tất yếu.
2. Các giải pháp chung cho phát triển, hoàn thiện TTTC ở Việt Nam.
+ Để phát triển TTTC cần dựa trên một nền kinh tế thị trường hoàn thiện đây
là điều hiển nhiên. TTTC vững mạnh góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, ngược
lại kinh tế thị trường hoàn thiện sẽ tác động ngược trở lại chính TTTC và làm nền
tảng cơ sở, làm môi trường cho TTTC phát triển bền vững.
Để phát triển hoàn thiện kinh tế thị trường, từ ngay bây giờ cần có các chính
sách cho phù hợp. Đường lối phát triển kinh tế đóng một vai trò quyết định bao
trùm lên cả sự phát triển, điều này phụ thuộc lớn vào hoạch định chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Phát triển đồng bộ các ngành, lĩnh vực dựa trên việc khai thác tối đa các nguồn
lực về tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào và giá nhân công
thấp. Mặc dù vậy vẫn phải hướng nền kinh tế vào mô hình hướng về xuất khẩu mà
nhiều nước châu á (Nhật Bản, các nước NICs) đã rất thành công; ưu tiên vào các
ngành mũi nhọn và ngành thế mạnh: chế biến nông lâm thủy sản, dệt may, dầu khí
và đặc biệt là điện tử - tin học, ngành học có nhiều triển vọng. Luôn luôn coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu do chúng ta có gần 80% dân số nông thôn, nâng cao thu
21
nhập cho họ sẽ là tăng thu nhập cho một bộ phận rất lớn dân cư, từ đó tăng được
tiêu dùng, tích lũy cho nền kinh tế và vượt được ra khỏi đường giới hạn khả năng
sản xuất.
Đối với Việt Nam, cần lưu ý rằng, phát triển hoàn thiện TTTC phải dựa trên
một nền kinh tế thị trường XHCN đề cao vai trò của Nhà nước và thành phần kinh
tế Nhà nước về quản lý kinh tế, dựa trên chế độ đa sở hữu song công hữu vẫn là ưu
thế, đại bộ phận nhân dân làm chủ.
+ Nâng cao vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước, đặc biệt là NHTW
cũng như kiện toàn hệ thống ngân hàng thương mại.
Đối với Nhà nước, cần có biện pháp quản hành chính song song với quản lý
kinh tế. Thông qua các chính sách tài khoá và tiền tệ có thể điều chỉnh ổn định nền
kinh tế vĩ mô.
Thực tiễn không chỉ đối với Việt Nam mà còn rất nhiều nhà nước khác, để đạt
được mục tiêu kinh tế này thì lại bị ảnh hưởng mục tiêu kinh tế khác. Chẳng hạn, để
giảm lạm phát thì có thể thất nghiệp tăng, để kích cầu nền kinh tế có thể dẫn đến
thâm hụt ngân sách, lạm phát tăng, hay tăng thuế thì giảm thâm hụt ngân sách song
kinh tế lại trì trệ vv Chính vì vậy, cần chú ý rằng nhà nước đang theo đuổi mục
tiêu vĩ mô nào, và khi thực thi sẽ ảnh hưởng như thế nào đến TTTC - tiền tệ, vì hầu
hết các chính sách vĩ mô đều tác động đến TTTC: lạm phát, tỷ giá hối đoái thâm hụt
ngân sách, lãi suất chiết khấu.v.v
Tuỳ theo chế độ tỷ giá hối đoái mà áp dụng chính sách tài khoá mạnh hay
chính sách tiền tệ mạnh. Ở nước ta, với NHTW cần từng bước nâng cao tính độc
lập tự chủ. Hiện tại, mô hình NHTW t rực thuộc chính phủ vẫn là tối ưu vì nền kinh
tế thị trường còn chưa phát triển, cần phát huy mạnh mọi nguồn lực xã hội. Tuy vậ y
tránh sự áp đặt hoạt động từ phía chính phủ, đặc biệt là chính phủ nên tự cân đối
ngân sách, trong trường hợp khẩn cấp mới dựa vào cơ chế phát hành tiền của
NHTW.
+ Tạo điều kiện cho mọi chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào
thị trường bình đẳng. Điều này là cần thiết cho một TTTC XHCN. Tạo cho tất cả
mọi chủ thể có cùng một cơ hội như nhau, khi đó sẽ tạo ra được môi trường cạnh
tranh hoàn hảo, tất cả mọi chủ thể sẽ phát huy được năng lực của mình, góp phần
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
22