Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

cấu trúc cú pháp của câu tiếng việt chủ -vị hay đề - thuyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.49 KB, 17 trang )

CẤU TRÚC CÚ PHÁP CỦA CÂU TIẾNG VIỆT:
CHỦ -VỊ HAY ĐỀ - THUYẾT? [*]
PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn
Trong Việt ngữ học hiện đang tồn tại hai quan niệm bất đồng về việc
phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt: phân tích theo quan hệ
chủ - vị hay phân tích theo quan hệ đề - thuyết. Sự bất đồng này kéo theo
những hệ lụy nhất định, gây khó khăn cho việc việc dạy và học tiếng Việt như
một bản ngữ và như một ngoại ngữ. Vì vậy, dù muốn hay không, giới Việt ngữ
học cũng phải tiếp tục tìm cách giải quyết bất đồng này nhằm tìm ra được
một cách tiếp cận thỏa đáng đối với việc phân tích cấu trúc cú pháp tiếng Việt
để ứng dụng vào thực tiễn dạy và học tiếng Việt. Bài viết này là một cố gắng
đi theo hướng đó. Nội dung của bài viết gồm 2 phần: Phần một trình bày tổng
quan các quan niệm khác nhau về phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu
tiếng Việt và những bất cập của các quan niệm này đối với việc phân tích cú
pháp tiếng Việt. Phần hai đề xuất một cách tiếp cận mới về vấn đề hữu quan,
trong đó xác nhận vai trò của cấu trúc chủ - vị với tư cách là cấu trúc cú pháp
của cú nhằm mã hóa nghĩa biểu hiện của nó và vai trò của cấu trúc đề -
thuyết với tư cách là cấu trúc cú pháp của câu nhằm tổ chức và truyền đạt
một thông điệp.

1. Các hướng phân tích cấu trúc cú pháp của cú/câu tiếng Việt.
1.1 Hướng phân tích theo quan hệ chủ -vị.
Đây là hướng phân tích cấu trúc cú pháp câu tiếng Việt phổ biến ở Việt
Nam, hiện vẫn được sử dụng trong ngữ pháp nhà trường. Hướng phân tích
này chịu ảnh hưởng cách tích phân tích cấu trúc câu theo quan hệ chủ - vị
của ngữ pháp truyền thống châu Âu, đặc biệt là ngữ pháp tiếng Pháp. Trong
các công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên đi theo hướng này
(Trần Trọng Kim 1936, Phan Khôi 1948, Bùi Đức Tịnh 1952), cấu trúc cú
pháp của câu thường được mô tả qua khái niệm mệnh đề với nòng cốt là cấu
trúc chủ - vị. Theo Trần Trọng Kim (1936) thì: “phép đặt câu là phép đặt các
tiếng thành mệnh đề và đặt các mệnh đề để lập thành câu” và “câu lập thành


do một mệnh đề có nghĩa lọn hẳn, hoặc do hai hay nhiều mệnh đề”. Mệnh đề
bao gồm hai thành phần chính là chủ từ (tiếng đứng làm chủ) và động từ hay
tính từ (chỉ cái dụng hay cái thể của chủ từ); ngoài ra còn có túc từ phụ thêm
cho chủ từ, động từ, tính từ (tr. 21-29). Để mô tả cấu trúc cú pháp của câu
đơn, Phan Khôi (1948) đã xác định một danh sách thành phần câu đầy đủ
hơn (gồm 6 thành phần: chủ ngữ, vị ngữ, tân ngữ, bổ túc ngữ, hình dung phụ
gia ngữ và phó từ phụ gia ngữ) trong đó chủ ngữ và vị ngữ được coi là hai
thành phần chủ yếu của câu: chủ ngữ “nói về cái gì, ấy tức là “chủ thể” trong
câu”, còn “vị ngữ thì” thuật thuyết “cái thế nào” về chủ ngữ ấy”. (tr.196-197).
Điều đáng lưu ý là Phan Khôi đã thay thế các thuật ngữ chủ từ/động từ bằng
các thuật ngữ chủ ngữ/vị ngữ, phản ánh đúng hơn bản chất ngữ pháp (chức
năng chứ không phải từ loại) và tính cấp độ (ngữ chứ không phải là từ) của
các thành phần câu hữu quan. Bùi Đức Tịnh (1952) cũng cho rằng câu có
một mệnh đề (tức câu đơn -NHC) gồm có hai phần: 1. Chủ ngữ: chỉ người hay
vật được nói đến, 2. Tuyên ngữ: những gì để nói về người hay vật ấy” (tr.409).
Quan điểm cho rằng cấu trúc cú pháp của câu (đơn) tương ứng với cấu
trúc chủ -vị của mệnh đề ngữ pháp (cú) được các nhà Việt ngữ học kế thừa và
phát triển theo những hướng khác nhau. Hầu hết các nhà nghiên cứu vẫn
tiếp tục hướng lưỡng phân cấu trúc cú pháp của mệnh đề/câu đơn theo quan
hệ chủ -vị và dùng các thuật ngữ cụm từ chủ -vị (Nguyễn Kim Thản 1964), kết
cấu chủ - vị (Hoàng Trọng Phiến 1980), cụm chủ -vị (Diệp Quang Ban 1984)
hay câu chủ -vị (Lê Xuân Thại 1994) để chỉ kiểu cấu trúc này. Tuy nhiên, một
số tác giả khác lại cho rằng cấu trúc cú pháp của câu không phải là một kết
cấu chủ -vị mà là một kết cấu tiêu điểm (focal construction) có vị ngữ làm
trung tâm và các bổ ngữ tiêu điểm (focal complement), trong đó chủ ngữ
cũng chỉ là một loại bổ ngữ (L.C Thompson 1965), hoặc là một cấu trúc nòng
cốt tối giản gồm vị ngữ cùng các tham tố của nó là chủ ngữ và bổ ngữ bắt
buộc (Nguyễn Minh Thuyết & Nguyễn Văn Hiệp 1998).
Mặc dù thống nhất dùng chủ ngữ và vị ngữ là hai thành phần chính
của câu đơn/mệnh đề nhưng các tác giả theo hướng phân tích này chưa

thống nhất với nhau về chức năng của chủ ngữ và vị ngữ. Một số tác giả cho
rằng cấu trúc-chủ vị biểu hiện một sự tình, trong đó chủ ngữ thường biểu thị
chủ thể của hành động (quá trình hay trạng thái) còn vị ngữ biểu thị hành
động (quá trình, trạng thái của chủ thể). Chẳng hạn, theo Trần Trọng Kim
(1936), “chủ từ” (chủ ngữ) biểu thị “cái thể của chủ từ” (tức chủ thể), còn tính
từ và động từ thì chỉ “cái thể” (tính chất, trạng thái) và “cái dụng” (hành
động, quá trình) của chủ từ (tr.21-29). Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê
(1964) quan niệm câu đơn cú là câu diễn tả một sự tình, trong đó chủ từ biểu
thị các chủ thể hay là “chủ sự” của sự tình. Tương tự, Diệp Quang Ban
(1984) coi chủ ngữ là thành phần chính “chỉ ra cái đối tượng mà câu nói đề
cập đến và hàm chứa hoặc có thể chấp nhận cái đặc trưng (hành động, trạng
thái, tính chất,v.v…) sẽ được nói ở vị ngữ” (tr.119), còn vị ngữ là thành phần
chính “nói lên cái đặc trưng vốn có ở vật hoặc có thể áp đặt hợp lý cho vật nói
ở chủ ngữ” (tr. 142). Nói tóm lại, theo cách tiếp cận này cấu trúc chủ -vị có
chủ ngữ (ngữ pháp) trùng với chủ thể lôgich (của sự tình).
Theo một số tác giả khác thì cấu trúc chủ -vị không chỉ có chức năng
biểu hiện sự tình mà còn có chức năng truyền tải một thông điệp (hay biểu
hiện một phán đoán, nói theo cách nói của lôgich học), thậm chí chức năng
chủ yếu của nó là truyền tải thông điệp. Khi nói về câu, Bùi Đức Tịnh (1948)
cho rằng câu: 1. Cho biết người hay vật được nói đến. 2. Trình bày một việc
xảy ra cho người ấy hay vật ấy hoặc một ý kiến của ta về người hay vật ấy.
(Tôi nhấn mạnh –NHC). Trên cơ sở đó, tác giả đã định nghĩa chủ ngữ và vị
ngữ bằng chức năng của chúng trong việc tổ chức thông điệp chứ không phải
bằng chức năng biểu hiện sự tình: 1. Chủ ngữ: chỉ người hay vật được nói tới,
2. Tuyên ngữ: những gì để nói về người hay vật. Theo cách hiểu này thì kết
cấu chủ -vị có chủ ngữ không chỉ trùng với chủ thể lôgich mà cả với chủ thể
tâm lý (“cái được nói tới”) của phán đoán. Sau Bùi Đức Tịnh, nhiều tác giả
khác cũng nhấn mạnh đến chức năng tổ chức thông điệp của cấu trúc chủ -vị
khi cho rằng chủ ngữ biểu hiện “sở đề” hay “cái nói đến” còn vị ngữ biểu thị
“sở thuyết” hay “thuyết minh cho chủ ngữ” (Nguyễn Kim Thản 1964, Lê Xuân

Thại 1994). Với cách nhìn này, hướng phân tích theo cấu trúc chủ -vị tiến gần
đến hướng phân tích câu theo cấu trúc đề- thuyết. Tuy nhiên ngay cả khi thay
đổi cách nhìn về chức năng của cấu trúc chủ -vị, mở rộng hơn ngoại diên của
chủ ngữ và bổ sung thêm các chức năng khác như chủ đề, hay khởi ngữ…cách
phân tích câu theo quan hệ chủ vị cũng chỉ bao quát được một phạm vi rất
hạn hẹp các kiểu câu của tiếng Việt mà theo đánh giá của một số tác giả là
khoảng 25% , thậm chí chỉ khoảng 15% (Tiểu ban tiếng Việt nhà trường, Hội
Ngôn ngữ học TpHCM, 2004).

1.2. Hướng phân tích theo quan hệ đề - thuyết.
Hướng phân tích câu theo cấu trúc đề-thuyết xuất hiện trong Việt ngữ
học trước hết do sự bất cập của hướng phân tích theo cấu trúc chủ -vị. Khi
chuyển từ việc coi kết cấu chủ ngữ - vị ngữ có chức năng biểu thị sự tình sang
chức năng truyền tải thông điệp (biểu thị một phán đoán hay nhận định),
nhiều người nhà nghiên cứu theo quan điểm chủ -vị đã thấy rằng bên cạnh
các kết cấu chủ -vị có chủ ngữ trùng với chủ thể tâm lí (ví dụ: “Giáp biết
chuyện ấy”. “Họ giỏi lắm”) cũng có những trường hợp, chủ ngữ không trùng
với chủ thể tâm lý, ví dụ: “Cái gì Giáp cũng biết”, “Bộ đội họ giỏi lắm”, “Miệng
ông ông nói, đình làng ông ngồi…. Để phân biệt các chủ thể tâm lí không
trùng với chủ ngữ (chủ thể ngữ pháp), các nhà nghiên cứu đã đề xuất thêm
một thành phần câu mới là “chủ đề” (Trương Văn Chình- Nguyễn Hiến Lê
1964: 536), “khởi ngữ” (Nguyễn Kim Thản 1964), “đề ngữ” (Diệp Quang Ban
1984). Như vậy, thực chất việc đưa thêm các khái niệm “chủ đề”, “đề ngữ”
hay “khởi ngữ”…chỉ là một giải pháp tình thế nhằm khắc phục sự chênh nhau
giữa chủ ngữ (ngữ pháp) và chủ thể tâm lí, và điều đó cũng cho thấy sự hạn
chế của kết cấu chủ -vị nói chung và khái niệm chủ ngữ nói riêng.
Để tránh những bất cập này của cách tiếp cận chủ -vị, với quan niệm coi
câu là “một ngữ đoạn kết thúc, mang một thông báo hoàn chỉnh”, Lưu Vân
Lăng (1970, 1986) đã đề xuất cách phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết
thay cho cấu trúc chủ -vị, trong đó khái niệm đề được mở rộng, bao gồm

không chỉ các chủ ngữ ngữ pháp điển mẫu (trùng với chủ thể lôgic và chủ thể
tâm lí) mà cả một số trường hợp được các tác giả khác coi là khởi ngữ hay đề
ngữ (Cái gì, anh giáp cũng biết) thậm chí là trạng ngữ (Xã bên, lúa tốt). Cấu
trúc đề - thuyết được Lưu Vân Lăng phân biệt với cấu trúc thông tin cũ –mới
của Lí thuyết phân đoạn thực tại và được áp dụng không chỉ cho câu mà cho
cả cú. (Lưu Vân Lăng 1970/1998: 17). Chúng tôi sẽ quay trở lại vấn đề này ở
phần sau khi đề cập đến mối quan hệ giữa cấu trúc chủ vị và cấu trúc đề-
thuyết.
Các tác giả cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (UBKHXH 1983) cũng cho rằng
nòng cốt cú pháp của câu đơn được xây dựng trên quan hệ đề- thuyết, bởi vì:
- Xét về quá trình tư duy, quan hệ đề thuyết …biểu thị một phán đoán,
một sự phản ánh tương đối của thực tại nhất định vào nhận thức. Phán đoán
gồm 2 yếu tố là sự vật, hiện tượng hay chủ đề và điều thấy được, biết được
nhận thức về chủ đề.
- Xét về quá trình thông báo, quan hệ đề -thuyết…biểu thị một thông báo
trong một hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Thông báo cũng bao gồm hai yếu
tố: yếu tố thứ nhất chỉ ra người nói “nói về gì” và yếu tố thứ hai chỉ ra người
nói “nói gì”. (UBKHXH Việt Nam 1983/2002:209)
Tuy nhiên khi áp dụng vào thực tế phân tích câu thì các tác giả lại
không đưa những trường hợp Lưu Vân Lăng cho là đề ngữ vào phần đề mà
coi nó là thành phần tình huống (ví dụ, Xã bên, lúa tốt. - tr 239), hoặc thành
phần khởi ý (ví dụ, Quyển sách này, tôi chỉ thấy bán ở đây. - tr.243). Vì vậy,
cấu trúc đề - thuyết ở Ngữ pháp tiếng Việt của UBKHXH Việt Nam không khác
nhiều lắm với cấu trúc chủ -vị theo quan niệm của nhiều tác giả.
Cao Xuân Hạo là người đầu tiên áp dụng một cách triệt để quan hệ đề -
thuyết vào việc phân tích cấu trúc cú pháp câu tiếng Việt. Trong công trình
“Tiếng Việt – Sơ thảo Ngữ pháp chức năng” (1991) Cao Xuân Hạo cho rằng
cần phải thay cách phân tích câu tiếng Việt theo quan hệ chủ vị mà theo tác
giả là đã được bê nguyên xi từ tiếng Pháp vào tiếng Việt do tư tưởng “dĩ Âu vi
trung” bằng cách phân tích theo quan hệ đề- thuyết cho phù hợp với đặc điểm

loại hình của tiếng Việt là một ngôn ngữ thiên chủ đề. Theo đó, câu với tư
cách là đơn vị “thông báo một mệnh đề” hay “phản ánh một nhận định” được
cấu trúc hóa thành hai phần đề và thuyết, trong đó “đề là điểm xuất phát, là
cái cơ sở, cái điểm tựa làm bàn đạp cho đà triển khai của câu” ở phần thuyết
(Cao Xuân Hạo 1991/2004: 50-51). Với cách hiểu này, trong cấu trúc đề -
thuyết của Cao Xuân Hạo, phần đề không chỉ bao gồm các chủ ngữ điển mẫu
(Tôi xem phim này rồi), chủ đề hay khởi ngữ (ví dụ, Tôi tên là Nam, Phim này
tôi xem rồi) mà cả những trường hợp các tác giả khác coi là trạng ngữ (Mai,
mẹ về. Ở đây mọi người đều làm việc), tình thái ngữ (Theo tôi, Nam thế nào
cũng trúng cử), thành phần câu ghép (Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy) hoặc bị
gạt sang một bên như những trường hợp ngoại lệ (Chó treo, mèo đậy. Cần
tái, cải nhừ) vv. Cách phân tích theo quan hệ đề - thuyết như vậy được Cao
Xuân Hạo không chỉ áp dụng cho câu mà cả ngữ đoạn dưới câu là tiểu cú.
Mặc dù còn nhiều tranh cãi nhưng không thể không thừa nhận rằng cách
phân tích cấu trúc câu theo quan hệ chủ -vị của Cao Xuân Hạo đã giải quyết
được hàng loạt các trường hợp bế tắc nếu phân tích theo quan hệ chủ vị
(theo đánh giá của những người ủng hộ quan niệm này thì các câu kiểu này
có thể lên tới 86%) và mở ra khả năng ứng dụng vào việc dạy viết và chữa
lỗi câu tiếng Việt cho người Việt và người nước ngoài theo một cách tiếp cận
mới.
Tuy nhiên, chấp nhận cách phân tích cú/câu tiếng Việt theo cấu trúc
đề -thuyết nhưng lại loại bỏ hoàn toàn cấu trúc chủ -vị và các chức năng cú
pháp truyền thống như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ…ra khỏi hệ thống ngữ pháp
tiếng Việt chưa hẳn là một giải pháp thỏa đáng, đặc biệt khi xem xét vấn đề
dưới góc độ loại hình và phổ niệm ngôn ngữ. Bởi vì, thứ nhất, giải pháp này
vạch ra một ranh giới quá rạch ròi, thậm chí gần như đối lập giữa tiếng Việt
và các ngôn ngữ được coi là chỉ có chủ đề mà không có chủ ngữ với các ngôn
ngữ chỉ có chủ ngữ mà không có chủ đề, một sự đối lập mà ngay cả các tác
giả đề xuất phân biệt các loại hình “thiên chủ ngữ” và “thiên chủ đề” cũng
chưa nói tới. Thứ hai, nếu xem xét cấu trúc chủ -vị dưới góc độ lí thuyết điển

mẫu, chúng ta có thể thấy rằng có hàng loạt các câu tiếng Việt tương ứng với
câu có cấu trúc chủ -vị trong các ngôn ngữ khác, mặc dù giữa chúng có thể
khác nhau về hình thức đánh dấu hay trật tự từ, và đó chính là cơ sở cho các
nghiên cứu về loại hình học hình thái cách (phân biệt các ngôn ngữ đối cách
với các ngôn ngữ khiển cách, tuyệt cách, tam phân hay trung hòa) hay loại
hình trật tự từ (phân biệt các ngôn ngữ SVO, SOV, VOS, v.v) mà tiếng Việt
không phải là một ngoại lệ về mặt loại hình. Thứ ba, nếu đối lập một cách
triệt để cách phân tích cú pháp câu tiếng Việt với câu của các ngôn ngữ khác
sẽ tạo ra những khó khăn nhất định về mặt ứng dụng, đặc biệt là trong việc
dạy và học ngoại ngữ cũng như dạy và học tiếng Việt như một ngoại ngữ.
Chính vì vậy chúng tôi cho rằng cần phải tìm một giải pháp mô tả cấu
trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt trong đó có sự kế thừa cả hai hướng
phân tích theo quan hệ chủ -vị và phân tích theo quan hệ đề - thuyết. Do
khuôn khổ bài viết có hạn, duới đây chúng tôi chỉ trình bày những suy nghĩ
bước đầu của giải pháp này.

2. Thử tìm một giải pháp cho việc phân tích cấu trúc cú pháp của cú/câu
tiếng Việt
2.1 Cơ sở của giải pháp.
Thực ra các giải pháp kết hợp cả hai hướng tiếp cận chủ - vị và đề -
thuyết để phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt cũng đã được
một số nhà ngôn ngữ học đề cập đến. Trần Ngọc Thêm (1985), chẳng hạn, đã
đưa ra giải pháp phân tích cấu trúc câu theo quan hệ đề - thuyết trong đó cấu
trúc chủ - vị đóng vai trò như các cấu trúc nòng cốt bộ phận của cấu trúc đề -
thuyết. Tác giả đã xác định 4 kiểu cấu trúc đề - thuyết nòng cốt là: nòng cốt
đặc trưng (C→V đ), nòng cốt quan hệ (C→Vq − B), nòng cốt tồn tại (Tr →Vt −
B), và nòng cốt qua lại (xV → y V’), trong đó có 2 nòng cốt chủ vị hoàn chỉnh
(nòng cốt đặc trưng và nòng cốt quan hệ) và một nòng cốt chủ vị không có
chủ ngữ (nòng cốt tồn tại). Tuy nhiên, giải pháp này chỉ khác với cách phân
tích theo quan điểm chủ -vị chỉ ở chỗ cấu trúc qua lại được coi như là câu đơn

có một nòng cốt đề-thuyết chứ không phải là một câu ghép với hai nòng cốt
chủ vị theo quan điểm truyền thống. Vì vậy, trên thực tế, giải pháp này chưa
tiến xa hơn cách tiếp cận chủ - vị được bao nhiêu, đặc biệt là với những kiểu
câu không phân tích được theo quan hệ chủ vị mà Cao Xuân Hạo và các cộng
sự đã chỉ ra.
Một cố gắng khác nhằm kết hợp hai cách phân tích chủ -vị và đề
-thuyết được trình bày trong công trình “Ngữ pháp tiếng Việt” mới xuất bản
gần đây của Diệp Quang Ban (2005). Trong công trình này, Diệp Quang Ban
đã áp dụng mô hình ngữ pháp chức năng của M.A.K Halliday vào ngữ liệu
tiếng Việt, theo đó cấu trúc câu tiếng Việt được phân tích thành 4 kiểu cấu
trúc gồm 3 kiểu cấu trúc thực hiện chức năng (cấu trúc nghĩa biểu hiện với vị
tố và các tham thể; cấu trúc thức với biểu thức thức và phần dư, và cấu trúc
đề - thuyết với hai thành tố đề và thuyết) và cấu trúc cú pháp (gồm chủ ngữ,
vị tố và các loại bổ ngữ, đề ngữ và gia ngữ); Ứng với các kiểu cấu trúc cú
pháp, cầu trúc nghĩa biểu hiện và cấu trúc đề thuyết, theo cách nhìn của
Halliday, tác giả phân biệt ba kiểu chủ thể có mặt trong câu: chủ thể ngữ
pháp (chủ ngữ), chủ thể lôgich và chủ thế tâm lí (Diệp Quang Ban 2005: 50-
51). Chúng tôi cho rằng việc phân biệt các bình diện phân tích cấu trúc theo
cách của Halliday là hoàn toàn cần thiết để tìm hiểu tính đa diện của cấu
trúc câu, tuy nhiên sử dụng theo lối lồng ghép cả ba bình diện diện với 4 kiểu
cấu trúc để phân tích cấu trúc câu tiếng Việt như Diệp Quang Ban đã tiến
hành chỉ làm cho việc phân tích câu thêm rắc rối. Mặt khác như sẽ chỉ ra dưới
đây, chức năng chủ yếu của câu không phải là biểu hiện sự tình mà là thông
báo, vì vậy tiến hành phân tích cấu trúc nghĩa biểu hiện (với vị tố và các tham
thể) và hình thức bề mặt tương ứng của nó cấu trúc cú pháp (gồm vị tố và
các chức năng cú pháp) ở cấp độ câu chưa hẳn là một giải pháp đúng đắn.
Vậy, có thể lựa chọn một giải pháp như thế nào cho việc phân tích cấu
trúc cú và câu tiếng Việt dựa trên sự kết hợp hai cách tiếp cận chủ - vị và đề -
thuyết. Từ các cách tiếp cận trên đây, chúng tôi thấy rằng trong việc phân
tích cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt đã có một số sự nhầm lẫn hoặc mơ

hồ mà nếu không làm sáng tỏ thì khó có thể có được một giải pháp phân tích
cấu trúc câu hợp lí. Trước hết đó là sự nhầm lẫn trong việc xác định chức
năng và cấu trúc cú pháp của hai đơn vị ngữ pháp hữu quan là câu và cú
(mệnh đề ngữ pháp). Cho đến nay, hầu như tất cả các nhà nghiên cứu, dù
theo quan điểm chủ -vị hay đề thuyết, đều cho rằng cú và câu có chức năng và
cấu trúc cú pháp giống nhau, sự khác biệt chỉ nằm ở chỗ câu thì hoàn toàn
độc lập (là một cú độc lập hoặc do nhiều cú kết hợp lại với nhau), còn cú có
thể độc lập (câu đơn) hoặc không độc lập (bộ phận của câu ghép). Vì vậy,
thậm chí nhiều tác giả cho rằng việc phân biệt cú và câu là không cần thiết,
nên đã thay thế cú bằng thuật ngữ “nòng cốt” để phân biệt câu đơn (câu có
một nòng cốt) và câu ghép (câu có hai nòng cốt) (UBKHXH 1983, Trần Ngọc
Thêm 1985, Nguyễn Minh Thuyết Nguyễn Văn Hiệp 1998), hoặc đồng nhất cú
với câu (Diệp Quang Ban 2005). Có lẽ chỉ có Lưu Vân Lăng và Cao Xuân Hạo
chú ý đến sự khác biệt giữa cú và câu. Theo Lưu Vân Lăng câu và cú giống
nhau ở chỗ đều là những ngữ đoạn thuyết ngữ tính (phân biệt với ngữ không
có thuyết ngữ tính) có cấu trúc đề - thuyết nhưng khác nhau về chức năng: cú
là một “ngữ đoạn chưa kết thúc”, mới “ít nhiều có chức năng thông báo”, còn
câu là một “ngữ đoạn kết thúc, mang một nội dung thông báo hoàn chỉnh”
(Lưu Vân Lăng 1975/1998: 16-18). Cao Xuân Hạo cũng cho rằng cú có cấu
trúc đề - thuyết như câu nhưng khác câu “ ở chỗ nó không phản ánh một
hành động nhận định, được thực hiện ngay khi phát ngôn để đưa ra một
mệnh đề, mà biểu thị một cái gì được coi như có sẵn…” (Cao Xuân Hạo
1991/2004: 42). Như vậy, cả Lưu Vân Lăng và Cao Xuân Hạo đều có chú ý
đến sự khác biệt về chức năng của cú và câu nhưng lại không phân biệt
chúng về mặt cấu trúc khi cho rằng cả hai đơn vị đều có cấu trúc đề- thuyết.
Xuất phát từ quan điểm cho rằng các đơn vị ngôn ngữ khác nhau ở
chức năng, và cấu trúc của một đơn vị bao giờ cũng được xây dựng để thực
hiện chức năng của nó, chúng tôi thấy rằng để phân tích cấu trúc cú pháp của
câu và cú, cần xét xem chúng giống nhau hay khác nhau về mặt chức năng.
Hiện nay, các nhà Việt ngữ học có nhiều cách hiểu khác nhau về chức năng

của câu. Một số cho rằng câu có chức năng chủ yếu là biểu hiện sự tình (Trần
Trọng Kim 1936, Trương Văn Chình- Nguyễn Hiến Lê 1964), một số khác cho
rằng chức năng chủ yếu của câu là biểu hiện một tư tưởng trọn vẹn, một
phán đoán hay một thông báo (Nguyễn Kim Thản 1964, Diệp Quang Ban
1980/1987, UBKHXH 1983, Lê Xuân Thại 1994). Gần đây, dưới ảnh hưởng
của cách tiếp cận chức năng, nhiều nhà nghiên cứu nói đến tính đa chức
năng, đa bình diện của câu, theo đó câu có cả chức năng biểu hiện và chức
năng thông báo (liên nhân hay trao đổi). Về chức năng của cú, ngoài các ý
kiến của Lưu Vân Lăng và Cao Xuân Hạo đã đề cập ở trên, các nhà nghiên cứu
khác có đề cập đến khái niệm này đều mặc nhiên coi nó giống với câu.
Chúng tôi cho rằng với tư cách là 2 đơn vị ngữ pháp cú và câu có chức
năng khác nhau về cơ bản. Câu là đơn vị ngôn ngữ được người nói tạo lập
trong các hoàn cảnh giao tiếp, vì vậy chức năng quan trọng nhất của câu là
chức năng truyền đạt một thông báo chứ không phải là chức năng biểu hiện
phán đoán hay biểu hiện sự tình. Khi người ta nói một câu là người ta đưa ra
một thông báo (thông điệp): thông báo đó có thể là một phán đoán hay nhận
định (trong câu tường thuật: Trời mưa/Trời không mưa), một câu hỏi (trong
câu nghi vấn: Trời có mưa không?), một lời cầu khiến (trong câu cầu khiến:
Trời mưa đi!) hay cảm thán (trong câu cảm thán: Trời mưa to quá!), v.v. Cần
phải phân biệt chức năng thông báo của câu nói chung với chức năng biểu
hiện mệnh đề lôgich (phán đoán hay nhận định) của câu tường thuật. Chúng
ta biết rằng, tiêu chí để phân biệt một câu có biểu hiện mệnh đề hay không là
dựa vào giá trị chân ngụy. Theo đó, chỉ có câu tường thuật phi ngôn hành
mới có chức năng biểu hiện mệnh đề, còn các kiểu câu khác (câu tường thuật
ngôn hành, câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm thán) chỉ có chức năng thông báo
mà không có chức năng biểu hiện mệnh đề (mặc dù ý nghĩa của chúng có liên
quan đến nội dung mệnh đề). Vì vậy, nói câu có chức năng biểu hiện thông
báo là đúng và như vậy là bao hàm cả chức năng biểu hiện mệnh đề của câu
tường thuật, còn nói câu có chức năng biểu hiện mệnh đề là không ổn vì trên
thực tế đó chỉ là chức năng thông báo riêng của một kiểu câu (câu tường

thuật) mà thôi. Vì vậy. khi nói đến ý nghĩa của câu trước hết phải nói đến ý
nghĩa thông báo chứ không phải chỉ là nội dung mệnh đề. Ý nghĩa này luôn
gắn với mục đích thông báo của người nói và mối quan hệ giữa người nói và
người nghe. Mặt khác, chức năng cơ bản của câu cũng không phải là biểu
hiện sự tình. Người nói nói ra một câu ở một tình huống nào đấy không phải
để mô tả hay phản ánh về sự tình ấy vào tư duy mà là đưa ra một thông điệp
về sự tình ấy cho người nghe (khẳng định, phủ định, hỏi, vv). Chức năng biểu
hiện theo chúng tôi là của cú.
Khác với câu, cú là đơn vị được tạo lập không phải để thông báo mà là
để biểu hiện các sự tình, gắn với chức năng biểu hiện của ngôn ngữ. Xét về
mặt chức năng, có thể nói cú giống với ngữ hơn là với câu: câu có chức năng
thông báo còn cú và ngữ chỉ có chức năng biểu hiện. Điểm khác biệt giữa cú
và ngữ chỉ là ở chỗ: cú biểu hiện các sự tình của thế giới ngoại ngôn và cấu
trúc hóa nó trong cấu trúc nghĩa biểu hiện với vị tố trung tâm và các tham
thể theo cách tri nhận của người bản ngữ, còn ngữ chỉ biểu hiện các phân
đoạn của sự tình với tư cách là thành tố (vị tố và các tham thể) của cấu trúc
nghĩa biểu hiện. Đó chính là lí do vì sao một số tác giả cho rằng cú không có
được “chức năng thông báo” hay “phản ánh một nhận định đầy đủ như câu”
(Lưu Vân Lăng 1975, Cao Xuân Hạo 1991: đã dẫn). Với tư cách là đơn vị cú
pháp có chức năng biểu hiện sự tình, cấu trúc nghĩa biểu hiện và cấu trúc cú
pháp của cú được tổ chức phụ thuộc vào thế giới ngoại ngôn (khách quan) và
phương thức tri nhận của một cộng đồng ngôn ngữ (chủ quan) hơn là phụ
thuộc vào người nói và mối quan hệ giữa người nói và người nghe. Vì vậy,
phân tích ý nghĩa biểu hiện và cấu trúc nghĩa biểu hiện với tư cách là sự phản
ánh các sự tình của thế giới ngoại ngôn vào ngôn ngữ qua tư duy của người
bản ngữ, nên bắt đầu từ cú chứ không phải từ câu. Thực tế nhiều nhà nghiên
cứu coi nghĩa biểu hiện là của câu và phân tích nghĩa biểu hiện ở cấp độ câu,
nhưng trong thực tế họ chỉ phân tích nghĩa biểu hiện của các câu tường
thuật điển mẫu, tức là các câu có ý nghĩa và hình thức gần với cú nhất, mà bỏ
qua việc phân tích cấu trúc nghĩa biểu hiện của các kiểu câu hỏi, cầu khiến

hay cảm thán vì ở những kiểu câu này các sự tình được phản ánh rất mờ
nhạt, phiến diện, (ở câu hỏi, nhiều tham thể không được xác định và không
được biểu hiện bằng một biểu thức qui chiếu, ví dụ: Ai nói đấy?, Anh làm gì?;
ở câu cấu khiến vai chủ thế loại trừ ngôi thứ nhất, ngôi thứ ba hoặc bất động
vật) thậm chí là không hề có (ví dụ trong các câu cảm thán: Ái. Ối). Vì vậy
chúng tôi cho rằng ý nghĩa biểu hiện gắn với chức năng biểu hiện là của cú.
Cú chỉ có chức năng thông báo và ý nghĩa thông báo khi được sử dụng như
một câu và được tổ chức về mặt cấu trúc như một câu, và khi đó tất nhiên cú
đã trở thành câu và vì vậy phải ứng xử với nó như câu.
Từ sự phân biệt chức năng của cú và câu như vậy chúng tôi đề xuất đề
xuất giải pháp phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt như sẽ
trình bày dưới đây.
2.2 Nội dung của giải pháp
2.2.1 Phân tích cấu trúc của cú tiếng Việt.
Xét theo quan điểm cấu trúc-chức năng, với tư cách là đơn vị ngữ
pháp có chức năng biểu hiện sự tình, cấu trúc cú pháp của cú phải được xác
lập phù hợp với chức năng đó. Vậy cấu trúc cú pháp đó của cú là gì: đề-
thuyết hay chủ -vị. Cấu trúc đề -thuyết rõ ràng không phù hợp với chức năng
này bởi vì nó được xác lập theo quan điểm thông báo: đề là “cái nói đến” hay
là “xuất phát điểm” của câu, còn thuyết là bộ phận “nói về” hay “mang các
thông tin” về đề. Còn cấu trúc chủ -vị thì sao? Các công trình nghiên cứu về
loại hình học và phổ niệm ngôn ngữ cho thấy, việc mã hóa cấu trúc nghĩa
biểu hiện của cú về mặt cú pháp ở các ngôn ngữ có những điểm tương đồng
và khác biệt. Điểm tương đồng đã được nhiều nhà nghiên cứu khái quát hóa
thành các phổ niệm là: ở tất cả các ngôn ngữ, vị tố thường được mã hóa
thành các vị ngữ (với trung tâm là vị từ), các tham thể thường được mã hóa
qua các chức năng cú pháp như chủ ngữ, bổ ngữ hay trạng ngữ (được biểu
hiện bằng danh ngữ, giới ngữ hay cú). Xét mối quan hệ giữa các chức năng cú
pháp là chủ ngữ (CN) và bổ ngữ (BN) với các vai nghĩa của các tham thể,
người ta nhận thấy có một xu hướng đồ chiếu (mapping) như sau:

Tác thể > Đối thể > Tiếp thể > Lợi thể > Công cụ > Vị trí > Thời gian
CN x > x > x > x > x > x > x
BN x > x > x > x > x > x
(Dik 1981: 109)
Thang độ trên cho thấy, các ngôn ngữ có xu hướng mã hóa tác thể
bằng chức năng chủ ngữ, và mã hóa đối thể bằng chức năng bổ ngữ. Nói
cách khác cấu trúc chủ - vị có chức năng mã hóa cấu trúc nghĩa biểu hiện chứ
không phải là biểu hiện một thông báo như cấu trúc đề-thuyết. Tuy nhiên, có
sự khác biệt về phương thức mã hóa cấu trúc biểu hiện bằng cấu trúc chủ -vị
ở các ngôn ngữ, biểu hiện ít nhất là ở hai phương diện: liên kết hình thái cú
pháp (morphosyntactic alignment) và trật tự từ (word order). Về mặt hình
thái-cú pháp, trên cơ sở nghiên cứu hình thức biểu hiện của ba chức năng cú
pháp chính là A (chủ ngữ tác thể, ví dụ: Tôi đọc sách), S (chủ ngữ nghiệm thể,
ví dụ: Tôi ngã) và O (bổ ngữ đối thể/bị thể, ví dụ: Tôi đọc sách), các nhà loại
hình học đã chỉ ra rằng cách thức mã hóa các chức năng cú pháp để biểu thị
các vai nghĩa là khác nhau ở các ngôn ngữ, trên cơ sở đó đã phân biệt 6 loại
hình liên kết hình thái-cú pháp là: đối cách (A=S≠O), tác cách (A≠S=O), chủ
cách ( A=O≠ S), tam phân (A≠S≠O) và trung hòa (A=S=O). Về mặt trật tự từ,
những khác biệt về trật tự từ của các thành tố cú pháp trong cấu trúc chủ -vị
(S, V, O) là cơ sở để các nhà loại hình học phân loại các loại hình trật tự từ
khác nhau như SVO, SOV hay OVS… (Comrie 1989, Song Jung 2001).
Quay trở lại với cú tiếng Việt, chúng tôi cho rằng cũng như ở các ngôn
ngữ khác, cú tiếng Việt có cấu trúc cú pháp là cấu trúc chủ -vị có chức năng
mã hóa cấu trúc nghĩa biểu hiện để phản ánh các sự tình ngoại ngôn. Cấu
trúc cú pháp nòng cốt của cú có thể được mô tả bằng ba chức năng ngữ pháp
cơ bản là chủ ngữ (CN), vị ngữ (VN) và bổ ngữ (BN), trong đó vị ngữ là
trung tâm, chủ ngữ là thành tố bắt buộc thứ nhất (có ở mọi kiểu cú) và bổ
ngữ là thành tố bắt buộc thứ hai (chỉ có ở một số kiểu cú). Cần lưu ý khái
niệm bổ ngữ ở đây được dùng như là thành tố bắt buộc thứ hai của vị ngữ về
mặt cú pháp nên nó không ràng buộc với một vai nghĩa nào, mặc dù bổ ngữ

điển mẫu thường có vai nghĩa là đối thể/bị thể. Các cú điển mẫu (không
đánh dấu) là các cú có các nòng cốt là cấu trúc chủ vị như sau:
1. CN – VN
1a. CN – VN (ĐT) Nó chạy
1b. CN – VN (TT) Trời đẹp
1c. CN - VN (DT) Nam 20 tuổi
2. CN – VN – BN
2a. CN – VN (ĐT) – BN: Nó đọc sách
2b. CN – CN (ĐT) – BN1 – BN2: Mẹ cho nó tiền
2c. CN – VN (là) - BN: Nam là sinh viên
3. BN – VN – CN
3a. BN – VN (ĐT) – CN: Trong túi có tiền
3b. BN – VN (là) – CN: Phía trước là núi
Các cú điển mẫu này có thể còn tiếp tục được phân chia thành thành
nhiều tiểu loại khác nhau dựa trên sự khác biệt về nghĩa biểu hiện và hình
thức của các thành tố cú pháp.
Khi tham gia vào câu, dưới ảnh hưởng của việc tổ chức câu, các cú
điển mẫu có thể thay đổi theo nhiều hướng khác nhau như: lược bớt các
thành tố (Tôi đọc sách > đọc sách > sách), mở rộng bằng các phụ ngữ (Hôm
qua, tôi đọc sách trong thư viện), thay đổi trật tự các thành tố (Tôi đọc quyển
sách này > Quyến sách này tôi đọc rồi), vv. Lúc đó, cú phải được phân tích từ
góc độ chức năng và cấu trúc câu.

2.2.2 Phân tích cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt
Khác với cú, câu là đơn vị có chức năng thông báo, tức là biểu hiện một
thông điệp (chứ không phải biểu hiện một phán đoán), do đó cấu trúc cú
pháp của câu cũng được xác lập phù hợp với chức năng này. Theo đó, chúng
tôi tán thành quan điểm cho rằng cấu trúc cú pháp của câu được tổ chức dựa
trên cấu trúc đề - thuyết, trong đó đề là bộ phận biểu thị “cái được nói đến”
hay là “xuất phát điểm” của thông điệp (chứ không phải chỉ sở đề của phán

đoán/mệnh đề lôgich) và thuyết là bộ phận mang thông tin mà người nói
muốn nói về đề (chứ không chỉ là sở thuyết của phán đoán/mệnh đề lôgich).
Cách phân tích đề-thuyết như vậy áo dụng cho tất cả các kiểu câu (tường
thuật, nghi vấn, cầu khiến, cảm thán) chứ không phải chỉ cho riêng cho câu
tường thuật như nhiều nhà nghiên cứu vẫn mặc định. Các vấn đề cụ thể khác
như đặc điểm của đề và thuyết, phương tiện đánh dấu quan hệ đề - thuyết,
cách thức xác định ranh giới đề- thuyết, các kiểu cấu trúc đề - thuyết của câu
tiếng Việt, về cơ bản chúng tôi tán thành các kiến giải của Cao Xuân Hạo
trong công trình Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng
(1991/2004).những ý kiến khác biệt chúng tôi sẽ trình bày trong một dịp
khác.
Có một câu hỏi đặt ra ở đây là câu có quan hệ như thế nào với cú? Ở
trên chúng tôi đã nói rằng cú có chức năng biểu hiện sự tình và có cấu trúc cú
pháp tương ứng với chức năng đó là cấu trúc chủ -vị. Đó là chúng ta xem xét
cú như một ngữ đoạn tĩnh trong sự độc lập tương đối với câu. Tuy nhiên
trong thực tế giao tiếp, khi người nói sử dụng các câu có nội dung thông báo
liên quan đến một sự tình nhất định do cú biểu thị (chẳng hạn đưa ra một
nhận định hay một câu hỏi về một sự tình), các cú điển mẫu có thể được tổ
chức lại theo mục đích phát ngôn của người nói. Chẳng hạn, một cú điển mẫu
CN – VN – BN như ‘Tôi uống cà phê” mô tả một sự tình “Tôi (Tác thể) uống (V
tác động), cơm (Bị thể), tùy theo điểm nhìn để lựa chọn điểm xuất phát của
người nói, có thể được tổ chức thành các câu có cấu trúc đề thuyết khác nhau
“Tôi//uống cà phê rồi”, “Tôi//thì uống cà phê rồi” hoặc “Cà phê// (thì) tôi
uống rồi”, hoặc thêm vào một đề ngữ để biến cả cú thành một thuyết ngữ
“Sáng nay//, tôi uống cà phê rồi”. Như vậy cấu trúc chủ vị và cấu trúc đề-
thuyết là khác nhau: cấu trúc chủ -vị là của cú gắn với chức năng biểu hiện,
còn cấu trúc đề- thuyết là của câu, gắn với chức năng thông báo. Cũng cần
nói thêm rằng ngay cả khi cú chưa được phát triển thành một câu độc lập
nhưng đã tham gia vào câu như một thành tố cú pháp (làm thành phần câu
đơn hay bộ phận của câu ghép) thì cấu trúc cú pháp của cú cũng đã bắt đầu

chuyển hóa từ quan hệ chủ -vị sang quan hệ đề -thuyết bởi vì lúc đó cú không
phải được dùng với chức năng biểu hiện nữa mà bắt đầu được dùng với chức
năng thông báo (ví dụ: Trời mưa (cú điển mẫu) > Trời thì mưa mà vẫn phải
đi làm. Trời mà mưa thì tôi không đi làm). Lúc đó cú có tính chất nửa cú, nửa
câu nên có thể gọi là tiểu cú hoặc bán cú

Tóm lại, khác với hai quan niệm phân tích cấu trúc chủ -vị và cấu trúc
đề -thuyết đối lập nhau, xuất phát từ quan điểm cấu trúc-chức năng, chúng
tôi cho rằng cần phân biệt trong tiếng Việt hai kiểu cấu trúc cú pháp của hai
đơn vị khác biệt nhau về mặt cấu trúc- chức năng: Cấu trúc chủ - vị là cấu
trúc của cú hay mệnh đề (clause), đơn vị cú pháp có chức năng cơ bản là biểu
hiện các sự tình, gắn với chức năng biểu hiện của ngôn ngữ. Còn cấu trúc đề-
thuyết là cấu trúc cú pháp của câu, đơn vị cú pháp có chức năng cơ bản là
truyền đạt một thông báo, gắn liền với chức năng giao tiếp của ngôn ngữ.
Hai kiểu cấu trúc này nên được coi là bổ sung cho nhau chứ không loại trừ
nhau trong hệ thống cú pháp tiếng Việt. Theo hướng tiếp cận này, việc phân
tích cú pháp tiếng Việt đáp ứng được sự thỏa đáng trên cả hai phương diện
loại hình và phổ niệm ngôn ngữ.
Tài liệu tham khảo:
1. Bùi Đức Tịnh. Văn phạm Việt Nam. Sài Gòn, 1952.
2. Cao Xuân Hạo. Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng. Nxb KHXH,
Hà Nội 1991 (Nxb Giáo dục tái bản 2004).
3. Cao Xuân Hạo. Câu và kết cấu chủ-vị. T/c Ngôn ngữ, s.13/2002, tr. 1-20.
4. Dik S.C. Funtional Grammar. Foris Publications. Đordrecht – Holland/
Cinnaminson –USA, 1981.
5. Diệp Quang Ban. Cấu tạo câu đơn tiếng Việt. Trường ĐHSP Hà Nội,
1984.
6. Comrie B. Language universal and linguistic typology. Basil Blackwell,
1981/1989.
7. Croft, W. Typology and universals, Cambridge University Press, 1990.

8. Diệp Quang Ban . Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Giáo dục, Hà Nội 2005
9. Hoàng Trọng Phiến. Ngữ pháp tiếng Việt (câu). Nxb ĐH&THCN,
Hà Nội 1990.
10. LêXuân Thại. Câu chủ vị tiếng Việt. Nxb KHXH, Hà Nội,1994.
11. Lê Xuân Thại. Mấy suy nghĩ về quan niệm Đề- Thuyết của GS Cao Xuân
Hạo. T/c Ngôn ngữ, s.14/2002. tr 71-79.
12. Lưu Vân Lăng. Ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb KHXH, Hà Nội,1998.
13. Nguyễn Hồng Cổn. Bàn thêm về cấu trúc thông báo của câu tiếng Việt.
T/C
Ngôn ngữ, s.5/2001, tr.43-53.
14. Nguyễn Kim Thản: Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt.T2. Nxb KHXH,
Hà Nội 1964.
15. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp. Lý thuyết thành phần câu và
thành
phần câu tiếng Việt. Nxb ĐạHQG Hà Nội, 1998.
16. Phan Khôi. Việt ngữ nghiên cứu. Hà Nội, 1955 (Nxb Đà Nẵng tái bản
1997).
17. Song Jung. Linguistics Typology- Morphology and Syntax. Pearson
Education
Limited, 2001.
18. Thompson L.C. A Vietnamese Grammar. University of Washington Press.
Seatlte and London, 1965.
19. Tiểu ban Tiếng Việt trong nhà trường (Hội Ngôn ngữ học Tp HCM). Ngữ
pháp
chức năng, cấu trúc đề thuyết và ngữ pháp tiếng Việt. T/c Ngôn ngữ,
s.14/2005, tr 62-70 .
20. Trần Ngọc Thêm. Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Nxb ĐH &THCN,
Hà Nội, 1985.
21. Trần Trọng Kim. Việt Nam văn phạm. Hội Khai trí Tiến đức, Hà Nội 1936
(Nxb tái bản 2007).

22. Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê. Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam.
Đại học Huế, Huế 1963.
23. UBKHXHVN. Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb KHXH 1983 (tái bản 2002)

×