Luận văn tốt nghiệp đại học
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong các loại hình văn hoá dân gian, ca dao là một kho tri thức độc đáo không
chỉ về nội dung, mà cả về hình thức nghệ thuật, trong đó có như ngôn ngữ. Ca dao
Việt Nam là lời ăn, tiếng nói của nhân dân đã khắc sâu trong tâm trí con người Việt
Nam từ xưa đến nay. Trải qua biết bao thế hệ người Việt Nam đấu tranh dựng nước
và giữ nước, nhân dân ta đã gìn giữ tiếng nói của dân tộc mình qua nền văn học dân
gian, đặc biệt là thể loại ca dao.
Trong lịch sử văn học, những nhà nghiên cứu Việt Nam đã có những công trình
rất hay, rất bổ ích về ca dao. Các nhà nghiên cứu đã khảo sát ca dao trên nhiều
phương diện: nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật… Trong đó, về hình thức nghệ
thuật, yếu tố ngôn ngữ trong ca dao cũng được nhiều nhà nghiên cứu bàn đến trong
nhiều công trình. Là một trong những loại hình sáng tác của, những người bình dân
lao động, nên ca dao rất gần gũi với lời ăn, tiếng nói của con người, nên khi nghiên
cứu câu tiếng Việt, vấn đề cấu trúc cú pháp của ca dao cũng được nhiều người quan
tâm.
Với mong muốn khám phá giá trị của kho tàng ca dao Việt Nam trên bình diện
ngôn từ, người viết chọn đề tài: “Tìm hiểu cấu trúc cú pháp của ca dao Việt Nam
theo quan điểm ngữ pháp chức năng”. Thực hiện đề tài này cũng là dịp người viết
trao dồi và cũng cố thêm vốn hiểu biết của mình về ngôn ngữ, đặc biệt là tri thức ngữ
pháp tiếng Việt theo quan điểm chức năng - một quan điểm ngữ pháp mới trong việc
nghiên cứu câu tiếng Việt.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Về ngữ pháp chức năng
Ở Việt Nam, ngành Ngôn ngữ học ra đời muộn hơn so với các nước trên thế
giới, đặc biệt là lĩnh vực ngữ pháp nói chung và ngữ pháp chức năng nói riêng. Ở
Việt Nam, việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt theo quan điểm chức năng xuất hiện
vào những năm của thập niên 80 của thế kỷ XX qua một số bài viết mang tính chất
giới thiệu như: Giới thiệu lý phân đoạn thực tại câu của Lý Toàn Thắng (1981); Vấn
đề thành phần câu của Hoàng tuệ (1988).
1
Luận văn tốt nghiệp đại học
Đến đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, xuất hiện công trình nghiên cứu về ngữ
pháp tiếng Việt theo quan điểm chức năng có hệ thống đầu tiên. Đó là quyển Tiếng
Việt: Sơ thảo ngữ pháp chức năng, quyển 1 của Cao Xuân Hạo [5] (Đến năm 2004,
công trình này đã được Nhà xuất bản Giáo dục tái bản). Trong quyển sách này, Cao
Xuân Hạo đã xem xét câu tiếng Việt trên ba bình diện là cú pháp, ngữ nghĩa và
ngữ dụng. Về cú pháp, Cao Xuân Hạo đã phủ nhận quan hệ chủ − vị trong câu tiếng
Việt. Trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của một số nhà nghiên cứu nước
ngoài, Cao Xuân Hạo cho rằng cấu trúc cú pháp câu của tiếng Việt phản ánh sát sao
hành động nhận định của tư duy. Ông đã tiếp thu và ứng dụng khái niệm đề − thuyết
vào miêu tả cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt. Cao Xuân Hạo đã chia phần đề
thành nội đề và ngoại đề. Theo ông, phần ngoại đề nằm ngoài thành phần cơ bản của
câu nêu ông chỉ nhắc qua; phần nội đề thì ông đặc biệt chú ý tới vì nó là cấu trúc cú
pháp cơ bản của câu tiếng Việt. Phần nội đề, đã được chia ra làm hai loại: chủ đề và
khung đề. Bên cạnh cấu trúc đề − thuyết mang tính chất miêu tả, thuật sự, ông còn
đưa ra khái niệm đề tình thái và thuyết tình thái.
Đến năm 1998, Cao Xuân Hạo cho xuất bản một quyển sách khác, do ông làm
chủ biên. Đó là quyển Ngữ pháp chức năng, quyển 1: câu trong tiếng Việt: cấu trúc
− ngữ nghĩa − công dụng [2]. Quyển sách này dựa trên nền tảng lý thuyết của quyển
Tiếng Việt: Sơ thảo ngữ pháp chức năng , quyển 1, được giản lược, dễ hiểu, dễ đọc
hơn.
Năm 2005, Nhà xuất bản Giáo dục đã cho xuất bản tiếp quyển Ngữ pháp chức
năng tiếng Việt, quyển 2: Ngữ đoạn và từ loại, do Cao Xuân Hạo làm chủ biên.
Quyển sách này đi sâu hơn vào việc phân loại các loại ngữ đoạn chức năng và từ
loại theo quan điểm ngữ pháp chức năng.
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu khác liên quan đến ngữ pháp chức
năng như:
Vị từ hành động tiếng Việt và các tham số của nó của Nguyễn Thị Quy.
Quyển sách này miêu tả vị từ hành động của tiếng Việt và các vai nghĩa gắn liền với
các loại hành động.
Tiếng Việt: Mấy vấn đề ngữ âm − ngữ pháp − ngữ nghĩa [4] của Cao Xuân
Hạo.
2
Luận văn tốt nghiệp đại học
Tiếng Việt − văn Việt − người Việt [3] của Cao Xuân Hạo.
Sang đầu thế kỷ XXI, xuất hiện công trình: “Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng
Việt: mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống” của Hoàng Văn Vân.
Như vậy, tính từ công trình nghiên cứu đầu tiên có hệ thống xuất hiện vào năm
1991 đến nay, việc nghiên cứu cấu trúc câu tiếng Việt theo quan điểm ngữ pháp chức
năng ở Việt Nam chỉ mới trải qua 18 năm. Tuổi đời một ngành khoa học còn trẻ như
thế thì chưa thể nói đến những thành tựu rực rỡ nhất của nó. Và nhìn chung, các công
trình về ngữ pháp chức năng hiện nay đều tiếp thu kết quả nghiên cứu của Cao Xuân
Hạo.
2.2 Về ca dao Việt Nam
Việc nghiên cứu câu trong tiếng Việt theo quan điểm ngữ pháp chức năng xuất
hiện ở Việt Nam muộn, nên vấn đề nghiên cứu cấu trúc cú pháp của ca dao theo quan
điểm ngữ pháp chức năng còn rất mới mẻ. Trong các công trình nghiên cứu về ca
dao, cũng đã có một số tác giả đã vận dụng quan điểm ngữ pháp chức năng để tìm
hiểu cấu trúc của ca dao. Tuy nhiên, những công trình như thế chưa nhiều, chưa cụ
thể và chưa đưa ra cái nhìn toàn diện và hệ thống về cú pháp ca dao Việt Nam theo
quan điểm ngữ pháp chức năng.
Trong quyển Thi pháp ca dao [13], tác giả Nguyễn Xuân Kính có đề cập đến cấu
trúc cú pháp của ca dao. Trong công trình này, tác giả đã đề cập một số khía cạnh về
ca dao theo quan điểm ngữ pháp chức năng. Xem xét chức năng phản ánh phán đoán
của ca dao, Nguyễn Xuân Kính đã chỉ ra vai trò của các phán đoán và các dạng mô
hình của nó (thông qua những cách kết hợp khác nhau để tạo ra lời). Từ việc chỉ ra sự
sắp xếp, tổ chức của các phán đoán, Nguyễn Xuân Kính đã rút ra một số kết cấu của
ca dao trên một số phương diện, đặc biệt là chức năng của từng thành tố (ngữ đoạn)
được kết hợp lại bằng các phương tiện để tạo thành lời ca dao. Mặc dù Nguyễn Xuân
Kính có dựa trên quan điểm ngữ pháp chức năng để tìm hiểu ca dao, nhưng ông
không có mục đích đi sâu phân tích cấu trúc cú pháp của ca dao. Tác giả chỉ dùng nó
làm phương tiên, cơ sở để ông nghiên cứu ca dao về mặt thi pháp.
Cũng trên quan điểm ngữ pháp chức năng, Trương Thị Thuyết, trong Giáo trình
ngôn ngữ thơ [15], cũng đã nêu lên một số vấn đề về cấu trúc cú pháp của ca dao.
Tác giả đã dựa vào “thao tác lựa chọn” và “thao tác kết hợp” giữa các yếu tố dựa trên
3
Luận văn tốt nghiệp đại học
một khả năng nào đó của ngôn ngữ. Tuy nhiên, tác giả vẫn chưa trình bày rõ ràng và
có hệ thống theo quan điểm ngữ pháp chức năng.
Trên thực tế hiện nay, cấu trúc cú pháp của ca dao Việt Nam đã được một số nhà
nghiên cứu nói đến. Nhưng nhìn chung, việc nghiên cứu cấu trúc cú pháp của ca dao
Việt Nam còn sơ lược, trong khi ca dao là một kho tàng văn học vô giá cần được bàn
đến trên nhiều phương diện.
3. Mục đích yêu cầu
Ngôn ngữ ca dao Việt Nam có thể được nghiên cứu trên nhiều phương diện: từ
vựng, ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng. Nếu nghiên cứu ca dao Việt Nam trên bình
diện ngữ pháp, về mặt lý thuyết, người nghiên cứu có thể tiếp cận ca dao theo hai
quan điểm: ngữ pháp cấu trúc và ngữ pháp chức năng. Nhưng trên thực tế nghiên
cứu, tiếp cận ca dao Viêt Nam theo quan điểm ngữ pháp cấu trúc sẽ gặp nhiều bất
cập. Vì trong ca dao, có những câu hầu như không có chủ ngữ theo cách hiểu
thông thường. Nhận thấy được những ưu điểm của ngữ pháp chức năng trong việc
phân tích cấu trúc câu tiếng Việt, nên người viết sẽ vận dụng quan điểm ngữ pháp
chức năng để tìm hiểu và phân tích cấu trúc cú pháp của ca dao Việt Nam. “Tìm hiểu
cấu trúc cú pháp của ca dao Việt Nam theo quan điểm ngữ pháp chức
năng” là một thể nghiệm. Qua đề tài này, người viết muốn thử làm sáng tỏ cấu trúc
cú pháp của ca dao Việt Nam theo quan điểm ngữ pháp chức năng.
4. Giới hạn vấn đề
Do phạm vi nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu cấu trúc cú pháp của ca dao Việt
Nam nên ở đề tài này, người viết chỉ dừng lại, tập trung vào việc phân tích cấu trúc
của ca dao Việt Nam chứ không quan tâm nhiều đến nội dung, cũng như nghệ thuật
biểu hiện của từng câu ca dao.
Về vấn đề chọn ngữ liệu để thực hiện đề tài, trên thị trường sách vở có nhiều
tuyển tập về ca dao, trong đó có những câu ca dao có nhiều dị bản khác nhau. Để
thống nhất về ngữ liệu, trong luận văn này, người viết dựa vào hai quyển sách. Đó là
quyển Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập IV, quyển 1: Tục ngữ − ca dao [14]
của Viện văn học, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia ấn hành và
quyển Tục ngữ - ca dao Việt Nam [12] của Mã Giang Lân.
4
Luận văn tốt nghiệp đại học
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu ngôn ngữ, có thể sử dụng nhiều phương pháp. Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện đề tài này, người viết chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp và các thao tác, thủ pháp kỹ thuật phụ trợ cho hai phương
pháp phân tích, tổng hợp là khái quát hoá, trừu tượng hoá và mô hình hoá. Đây là hệ
phương pháp chính mà người viết sử dụng để tìm hiểu cấu trúc cú pháp của ca dao
Việt Nam. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài này, người viết còn sử dụng
phương pháp so sánh và phương pháp hệ thống hoá khi cần thiết, nhưng đó là những
phương pháp phụ trợ.
5
Luận văn tốt nghiệp đại học
Chương 1
HÁI LUẬN VỀ CA DAO VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về ca dao Việt Nam
Trong kho tàng văn học dân tộc nói chung và văn học dân gian nói riêng, ca
dao là một thể loại độc đáo. Ca dao Việt Nam đã làm giàu thêm, phong phú hơn cho
nền văn học Việt Nam và văn học thế giới cả về số lượng lẫn về chất lượng. Ca dao
Việt Nam thể hiện cách nhìn, quan niệm, tình cảm của con người Việt Nam về cuộc
sống, về con người, cách đối nhân xử thế của con người trong xã hội.
Có thể nói, ca dao là tấm gương tốt để chúng ta soi mình vào đó, để tắm mình
trong những nét đẹp giản đơn, mộc mạc thuần khiết mà không lạc hậu, quê mùa. Ca
dao là nơi để người Việt Nam thể hiện những tâm tư, tình cảm của mình.
Ca dao Việt Nam, từ xưa đã được nhân dân ta sáng tạo, lưu truyền và phát
triển cho tới ngày nay. Nó thể hiện cái hay, nét đẹp truyền thống của con người Việt
Nam trong các hoạt động văn hóa xã hội, giao tiếp... Đồng thời, ca dao còn là thứ tài
sản tinh thần vô giá của con người Việt Nam.
Rất nhiều nhà nghiên cứu về văn học nói chung và văn học dân nói riêng đã đưa
ra một số khái niệm về ca dao. Người viết xin điểm qua quan niệm của một số nhà
nghiên cứu về khái niệm của ca dao:
Trong quyển Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã giải thích khái
niệm ca dao: “Ca dao là những bài hát ngắn, không có chương khúc…” [17; tr.20]
Cũng bàn về khái niệm ca dao, trong quyển Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2 của
tập thể tác giả, Bùi Văn Nguyên (chủ biên) đã nêu: “Ca dao là những bài hát có hoặc
không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần của dân tộc (thường là thể lục bát)
để miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn đạt tình cảm”. [11; tr.38]
Vũ Ngọc Phan, khi phân biệt giữa ca dao và dân ca cũng đã giải thích: “Ca dao
là một loại thơ dân gian, có thể ngâm được như các loại thơ khác”. [16; tr.42]
Mã Giang Lân quan niệm: “Ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân
gian”. [12; tr.9]
6
Luận văn tốt nghiệp đại học
Như vậy, cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa có sự thống nhất về khái
niệm của ca dao. Nguyên do của việc chưa thống nhất trên là khi nghiên cứu thể loại
ca dao, các nhà nghiên cứu đứng trên nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, những
công trình nghiên cứu đó đã nêu ra chi tiết các biểu hiện của ca dao trên các mặt nội
dung và hình thức nghệ thuật.
1.2. Đặc điểm của ca dao Việt Nam
Tìm hiểu thể loại ca dao, không thể không làm sáng tỏ giá trị nội dung. Mặt khác,
sẽ thiếu sót rất lớn nếu chúng ta không quan tâm đến ngôn ngữ biểu đạt, trong đó có
cấu trúc cú pháp của thể loại này.
1.2.1. Về nội dung
Ca dao Việt Nam chứa đựng nhiều nội dung khác nhau, phản ánh hiện thực đa
dạng của đời sống nhân dân, những tâm trạng, những tư tưởng và tình cảm phong
phú của con người trong nhiều mối quan hệ phức tạp với thiên nhiên và xã hội.
“Ca dao là tấm gương trung thực về cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của nhân
dân. Tóm lại, cũng như những thể loại văn học dân gian khác, qua ca dao, ta có thể
thấy rõ hiện thực, tức là cái vốn có trong cuộc sống”. [12; tr.8]
Nội dung của ca dao Việt Nam được thể hiện trên hai mặt chính: nội dung trữ
tình và nội dung thế sự.
1.2.1.1 Nội dung trữ tình
Theo Mã Giang Lân trong quyển Tục ngữ - ca dao Việt Nam thì “Ca dao là một
thể loại trữ tình của văn học dân gian. Những tác phẩm này nói lên mối quan hệ của
con người trong lao động, trong sinh hoạt gia đình xã hội hoặc nói lên những kinh
nghiệm sống và hành động… thì bao giờ cũng bộc lộ thái độ chủ quan của con người
đối với những hiện tượng khách quan, chứ không phải miêu tả khách quan
những hiện tượng, những vấn đề. Cho nên ở ca dao, cái tôi trữ tình được nổi lên rõ
nét”. [12; tr.9]
Ca dao là tiếng hát trữ tình của con người Việt Nam. Đó là tiếng hát của tình
yêu, tiếng hát của người phụ nữ đau khổ nhưng giàu tinh thần hi sinh và đấu tranh
dũng cảm trong quan hệ gia đình, của người nông dân, người lính… trong lao động
7
Luận văn tốt nghiệp đại học
và trong đấu tranh xã hội,… Tiếng hát trữ tình của những con người đó chứa đựng
nhiều nét tiêu biểu của tâm hồn và tính cách dân tộc ta.
Trong nội dung trữ tình, ca dao về tình yêu nam nữ là bộ phận phong phú nhất. Ca
dao trữ tình về tình yêu nam nữ hay nói đến những cuộc gặp gỡ của trai gái trong
khung cảnh lao động. Tình cảm gắn bó giữa trai gái, do đó, thường được biểu hiện
trong mối quan hệ khăng khít với cuộc sống của nhân dân lao động.
Nội dung ca dao trữ tình về sinh hoạt trong gia đình phản ánh những mối quan hệ
giữa các thành viện trong gia đình. Nhân vật chính thường xuất hiện trong nội
dung này là những người phụ nữ lao động Việt Nam.
Ca dao trữ tình lấy đề tài trong đời sống xã hội phản ánh những tâm trạng đau
khổ, uất ức, thái độ phản kháng của nhân dân lao động bị đè nặng dưới ách
thống trị nặng nề của giai cấp địa chủ và chính quyền phong kiến.
Khi nói đến nội dung trữ tình của ca dao Việt Nam, Vũ Ngọc Phan đã nhận xét
“Trong ca dao, khi thể hiện tình cảm và ý nghĩ của mình, nhân dân thường cụ thể
hoá tình cảm, ý nghĩ của họ, chính là vì họ là người đấu tranh trực tiếp trong
sản xuất, trong xã hội…”. [16; tr.16]
1.2.1.2 Nội dung thế sự
Bên cạnh nội dung trữ tình, ca dao phản ánh nội dung thế sự cũng chiếm một
số lượng đáng kể và đạt được những giá trị to lớn về chất lượng.
Nội dung thế sự chủ yếu mà ca dao thường nói đến là lịch sử. Theo của Chu Xuân
Diên, “Ca dao lịch sử là những câu và những bài ca ngắn lấy đề tài ở những sự kiện
lịch sử. Những biến cố lịch sử được ghi lại trong ca dao lịch sử là những biến cố ít
nhiều có ảnh hưởng đến đời sống nhân dân đương thời”. [7; tr.358]
Khi đề cập đến một hiện tượng lịch sử cụ thể, ca dao lịch sử không làm công việc
miêu tả, kể chuyện chi tiết, nghĩa là không phản ánh hiện tượng lịch sử trong quá
trình diễn biến của nó. Trong ca dao lịch sử, nhân dân chỉ nhắc đến dự kiện lịch sử để
nói lên thái độ, quan điểm của mình.
Ca dao lịch sử còn phản ánh lịch sử với ý nghĩa lịch sử - xã hội nói chung. Về mặt
này, ca dao là một kho tài liệu phong phú về phong tục, tập quán của nhân dân ta ở
8
Luận văn tốt nghiệp đại học
nông thôn thời xưa. Ngôn ngữ nghệ thuật của ca dao Việt Nam dựng lên một bức
tranh nhiều màu sắc và hình nét đa dạng về đất nước Việt Nam.
1.2.2. Về hình thức nghệ thuật
Với tư cách là một thể loại thơ ca, ca dao đã vận dụng mọi khả năng của ngôn
ngữ dân tộc để biểu hiện một cách chính xác, tinh tế cuộc sống và hơn nữa để biểu
hiện một cách sinh động và giàu hình tượng, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân trong
cuộc sống.
Nói về tính hoàn chỉnh của một bài ca dao, Chu Xuân Diên đã đưa ra nhận
định: “Mỗi bài ca dao đều thể hiện một ý trọn vẹn và thường là cô đọng. Do đó,
ca dao thường là những bài, những câu thơ ngắn có biện pháp kết cấu nghệ thuật
dần dần trở thành truyền thống, làm khuôn mẫu cho việc thể hiện thi hứng của
nhân dân”. [7; tr.410]
Hình thức nghệ thuật của ca dao được thể hiện trên nhiều phương diện:
1.2.2.1 Thể thơ
Nói về số lượng của các câu trong một bài ca dao, Vũ Ngọc Phan đã nhận
định: “Ca dao là những bài hát thường thường ngắn, hoặc hai, hoặc bốn, sáu hay
tám câu, âm điệu lưu loát và phong phú”.[16; tr.62]
Đặc điểm của ca dao về hình thức là vần vừa sát, lại vừa thanh thoát, không gò
ép, giản dị, tươi tắn. Nó có vẻ như lời nói thường mà lại nhẹ nhàng, gọn gàng, chải
chuốt, miêu tả được những tình cảm sâu sắc. Ca dao của ta đã tận dụng tính nhạc của
tiếng Việt ở những tiếng đơn, tiếng kép, tiếng ghép, nên tả người, tả cảnh rất tài tình.
Bàn về hình thức thể loại của ca dao, Hoàng Trinh đã nhận xét: “Về hình thức
thơ, đối ngẫu là hình thức phổ biến trong ca dao dưới mọi thể loại: đối ngẫu từ ngữ,
đối ngẫu ngữ pháp, đối ngẫu ngữ nghĩa, đối ngẫu hai chiều, đối ngẫu đối lập và
phản đề…” [13; tr.132]
Khi sáng tác ca dao, tác giả dân gian đã sử dụng nhiều thể thơ khác nhau. Trong
đó, thể lục bát gồm câu sáu, câu tám được dùng rất phổ biến.
Thể song thất lục bát gồm hai câu bảy chữ, một câu sáu chữ và một câu tám
chữ.
9
Luận văn tốt nghiệp đại học
Thể vãn gồm câu có bốn hoặc năm chữ, thường được sử dụng trong đồng dao.
Ngoài ra, ca dao cũng sử dụng hợp thể: thể thơ bốn chữ, năm chữ và thường kết
hợp với lục bát biến thể.
Các thể thơ phong phú của ca dao đã diễn tả được nhiều sắc thái tình cảm của
nhân dân lao động
Cũng như nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, Mã Giang Lân cũng đã nhận xét
về nhịp điệu của ca dao “Nói đến ca dao, tức là nói đến thơ, về mặt hình thức, trước
hết phải nói đến nhịp điệu. Đó là đặc điểm có tính chất thể loại, một động lực của
thơ”. Ông đã dẫn lời của Maiacốpxki: “Nhịp điệu là sức mạnh cơ bản, năng lực cơ
bản của câu thơ không giải thích được nó đâu, chỉ có thể nói về nhịp điệu như nói về
từ lực hay điện. Từ lực hay điện – đó là những dạng của năng lượng”. Song song đó,
ông còn nhấn mạnh đến yếu tố ngắt nhịp của ca dao “Ca dao ngắt nhịp hai là phổ
biến, nhưng nhiều trường hợp, ca dao ngắt nhịp rất sáng tạo”.[12; tr.15]
1.2.2.2 Cấu tứ
Ca dao Việt Nam có những kiểu cấu tứ rất phong phú và độc đáo.
Cấu tứ theo lối ngẫu hứng, không có chủ đề nhất định:
(1)
Cái sáo mặc áo em lao,
Là tổ cây cà,
Làm nhà cây chanh.
Cấu tứ theo lối đối thoại rất phổ biến trong ca dao:
(2)
Bây giờ mận mới hỏi đào:
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?...
Cấu tứ theo lối phô diễn thiên nhiên. Đây là kiểu kết cấu quen thuộc trong ca
dao:
(3)
Một đàn cò trắng bay lung,
Hai bên nam nữ ta cùng hát lên.
1.2.2.3 Ngôn ngữ
10
Luận văn tốt nghiệp đại học
Tiếp cận ca dao từ góc độ ngôn ngữ học, Trương Thị Thuyết đã nhận định:
“Sử dụng đặc trưng giống nhau của các đơn vị ngôn ngữ, ca dao Việt Nam đã xây
dựng nên một hệ hình của mô típ “thân em” thật rộng lớn gồm nhiều hình ảnh
tương ứng như: “dải lụa đào”, “hạt mưa sa”… Phát hiện nghệ thuật bắt đầu khi
người nghệ sĩ dân gian đặt được dấu bằng giữa các tín hiệu ngôn ngữ trong cùng
một hệ hình. Muốn thành công, người nghệ sĩ phải bắt đầu bằng việc xác định cho
được các tiêu chí tạo nên đặc trưng của từng yếu tố”. [15; tr.45]
Cấu trúc so sánh là một cấu trúc tu từ được sử dụng rộng rãi. Tác giả dân gian
dùng những tín hiệu chỉ dẫn: như, bằng, tựa… với chức năng như dấu bằng trong
toán học. Các tín hiệu này là những khớp nối để tác giả tạo dựng những thông báo
hoàn chỉnh.
Cấu trúc so sánh của ca dao có mô hình chung như sau:
A + tín hiệu so sánh + B
Mô hình của cấu trúc so sánh được diễn đạt như sau:
- A thường là cái trừu tượng.
- B thường là cụ thể.
Đây là kiểu làm việc trên chất liệu ngôn ngữ mang tính phổ biến của ca dao.
Bên cạnh việc xác lập các yếu tố trong ca dao trên hai thao tác lựa chọn và kết
hợp, Trương Thị Thuyết còn lưu ý thêm: “Mỗi ngữ đoạn đã được mã hoá thành
một chỉnh thể, rồi toàn bộ cấu trúc cũng trở thành một chỉnh thể nữa”. [15; tr.60]
Nhờ những yếu tố ngôn ngữ, cấu tứ và các biện pháp nghệ thuật được dùng
trong ca dao mà ca dao có những cái hay rất đặc sắc và đa dạng. Có những lời ca
dao giản dị, cụ thể. Bên cạnh đó cũng có những bài ca dao rất điêu luyện, tinh tế.
(4)
Sông Cầu nước chảy lơ thơ,
Đôi ta thương nhớ bao giờ cho nguôi.
(5)
Em ơi chua ngọt đã từng,
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.
1.2.2.4 Các biện pháp nghệ thuật
11
Luận văn tốt nghiệp đại học
So sánh, ẩn dụ, nhân hoá, chơi chữ,… là những biện pháp nghệ thuật rất tiêu
biểu trong ca dao.
(6)
Thân em như cây sầu đâu…
(7)
Thuyền ơi có nhớ bến chăng…
Ca dao Việt Nam thường lấy việc khai thác các yếu tố đồng nghĩa lâm thời làm
phương tiện biểu hiện cơ bản. Nó làm việc chủ yếu trên thao tác lựa chọn. Vì vậy,
hình tượng ngôn ngữ trong ca dao trước hết là những hình ảnh ẩn dụ tính.
Chính việc tập trung vào khai thác thao tác lựa chọn đã làm cho ca dao Việt
Nam rất ít sử dụng hệ kết hợp một cách mỹ học. Các kết hợp ca dao hầu như đều là
những kết hợp theo hình tuyến. Các hình ảnh xuất hiện theo quy tắc “Từ bình diện
này đến bình diện khác” theo thời gian.
Ca dao Việt Nam thường hay dùng lối so sánh ví von để xây dựng hình tượng,
biểu đạt ý tứ. Trong cách so sánh, những liên từ “giống như”, “như là”, “như thể”…
hay được dùng để thể hiện mối quan hệ về mặt hình ảnh giữa chủ thể với những sự
vật và những hiện tượng được dùng để do sánh.
(8)
Đôi ta như thể con tằm,
Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong.
Song song với biện pháp so sánh, biện pháp ẩn dụ cũng rất thường được sử
dụng trong ca dao. Trong biện pháp này, chủ thể nhập làm một với sự vật, hiện
tượng dùng để so sánh. Nhiều sự vật, hiện tượng quen thuộc đã trở thành những hình
tượng so sánh cổ truyền trong ca dao Việt Nam:
(9)
Gặp đây mận mới hỏi đào:
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Biện pháp nhân hoá cũng là một biểu hiện tế nhị của biểu đạt trong ca dao Việt
Nam
Nói đến vai trò của các thủ pháp nghệ thuật trong việc hình thành nên hình
tượng trong ca dao và trong thơ, Trương Thị Thuyết đã giải thích: “So sánh, liên
tưởng có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nên hình tượng trong
ca dao và trong thơ. Ẩn dụ là nơi có mối liên tưởng không bị quy định bởi tín hiệu
12
Luận văn tốt nghiệp đại học
thông báo cũng như bởi nội dung của tín hiệu được kêu gọi nên đã trở thành vô cùng
linh hoạt, đa dạng, cho phép tác giả đi hết chiều sâu năng lực hình tượng của mình.
Năng lực mã hoá các đơn vị ngôn ngữ của ẩn dụ là to lớn đến mức cho phép tác
giả dễ dàng vượt giới hạn các câu ngữ pháp:
Ví dụ: Như trong trường hợp sau đây:
(10)
Cực lòng mẹ lắm con ơi!
Một con chim chích mấy nơi đan lồng”. [15; tr.67]
Trên đây là một số đặc điểm quan trọng trong cấu tứ của thơ trữ tình dân gian,
và những truyền thống nghệ thuật do những đặc điểm cấu tứ ấy tạo nên trong ca dao
Việt Nam. Những truyền thống nghệ thuật này không chỉ tồn tại dưới dạng những
đặc điểm về thủ pháp nghệ thuật mà còn tồn tại dưới dạng những câu hát có sẵn được
dùng vào trong những tác phẩm mới. Sự hình thành nên một kho văn liệu thơ ca
dân gian phong phú và việc sử dụng thường xuyên kho văn liệu đó trong sáng tác ca
dao là một đặc điểm của sự sáng tạo nghệ thuật trong văn học dân gian.
1.3. Phân biệt ca dao và các thể loại gần gũi
Ở Việt Nam, ngôn ngữ học tuy có phát triển muộn, các nhà nghiên cứu trên
phương diện này cũng rất quan tâm tới đặc điểm các mặt của ca dao. Trên cơ sở đó,
các tác giả đã nêu ra một số kiến giải về ca dao để phân biệt với các thể loại văn học
khác.
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu ca dao Việt Nam, muốn hiểu được
khái niệm cũng như những biểu hiện cụ thể của nó, ngoài việc chỉ ra được dấu hiệu
đặc trưng của nó, chúng ta còn phải đặt nó trong mối tương quan với các sản phẩm
ngôn từ khác có liên quan để thấy được những nét tương đồng cũng như khác biệt
giữa chúng. Những sản phẩm ngôn từ có liên quan rất dễ nhầm lẫn với ca dao là tục
ngữ và dân ca. Trong thực tiễn nghiên cứu, việc phân định ranh giới giữa các thể loại
là điều không phải dễ dàng.
Do phạm vi và yêu cầu của đề tài nêu ra, người viết không chú ý nhiều đến nội
dung và ý nghĩa của từng thể loại mà chỉ quan tâm đến hính thức và ngôn ngữ thể
hiện của chúng.
13
Luận văn tốt nghiệp đại học
Để đưa ra các tiêu chí nhận diện ca dao, chúng ta phải xét nó trong mối tương
quan với hai thể loại văn học dân gian khác: tục ngữ và dân ca.
1.3.1 . Ca dao và dân ca
Cao Huy Đỉnh trong Lối đối đáp trong ca dao trữ tình khi chỉ ra mối quan hệ giữa
ca dao và dân ca Việt Nam đã giải thích về mối quan hệ giữa ca dao và dân ca: “Ngày
xưa, phần lớn ca dao trữ tình làm ra để hát. Rồi từ những bài hát có những câu tách
ra thành ca dao. Ca dao sinh ra, còn lại, truyền đi và biến đổi chủ yếu thông qua
sinh hoạt dân ca. Chính vì vậy mà trên phần lớn ca dao trữ tình còn in đậm rất rõ
dấu ấn của dân ca…” [17; tr.7]
Theo Vũ Ngọc Phan, “Ca dao là một loại thơ dân gian có thể ngâm được như các
loại thơ khác và có thể xây dựng thành các giai điệu dân ca” [16; tr.42]. Còn
“Dân ca là câu hát đã thành khúc điệu. Dân ca là những bài hát có nhạc điệu nhất
định, nó ngả về nhạc nhiều ở mặt hình thức”[16; tr.43].
Khi phân biệt ca dao và dân ca, Đặng Văn Lung đã chỉ ra nguồn gốc của chúng:
“Các cụ ngày xưa có nói bỏ ca đi thì còn lại dao, có nghĩa là ca dao và dân ca ra đời
cùng một lúc. Nhưng cũng không phải tất cả câu hát của dân ca là ca dao. Đi sâu
vào nghiên cứu thì thấy dân ca phát triển rất nhiều, còn ca dao chỉ có một số
chức năng nhất định”. Điều này đã gây khó khăn cho việc phân biệt hai thể loại.
Khi phân biệt giữa ca dao và dân ca, Chu Xuân Diên dựa vào tiêu chí chức
năng:
().a Nếu xét dân ca Việt Nam với tư cách là những tác phẩm kết hợp chặt chẽ
các phương tiện nghệ thuật âm thanh, nhịp điệu và ngôn ngữ, được diễn xướng
trong một sinh hoạt ca hát nhất định thì việc phân loại chủ yếu gắn liền với dân
ca.
(b). Nếu xét dân ca Việt Nam với tư cách là những tác phẩm ngôn ngữ, đặc
biệt là khi được ghi lại bằng văn tự thì việc phân loại căn cứ vào đối tượng phản
ánh của tác phẩm. Trong trường hợp này, nó là ca dao.
Ca dao được thể hiện dưới hình thức của những câu lục bát ngắn, hàm súc, là
những lời thơ dân gian. “Ca dao người Việt thường được cấu tạo bằng hai câu lục
14
Luận văn tốt nghiệp đại học
bát, một thể thơ rất âm điệu tiếng Việt. Khi có nhiều câu ca dao kết thành một đoạn
ngắn và kết hợp với những thể thức hát nhất định nữa thì thành dân ca”. [9; tr.355]
Theo Chim Văn Bé (qua trao đổi cá nhân), ca dao và dân ca khác nhau như sau:
“Dân ca là những bài hát của dân gian, là những chỉnh thể nghệ thuật với sự gắn bó
máu thịt giữa ca từ, làn điệu, giai điệu, gắn liền với môi trường diễn xướng cụ thể”.
Còn “Ca dao là văn bản nghệ thuật, không mang làn điệu và giai điệu về âm nhạc và
không gắn bó trực tiếp với môi trường diễn xướng, được lưu truyền phổ biến bằng
hình thức ngâm, đọc”.
Nói cách khác, ca dao là văn bản nghệ thuật phái sinh từ ca từ của dân ca khi
tiếng đế, tiếng đệm, tiếng láy bị lược bỏ. Nhưng không phải bài dân ca nào cũng trở
thành ca dao.
Như vậy, điểm khác biệt rõ nhất của ca dao và dân ca và ca dao là ở chỗ: ca dao là
một thể loại được sáng tạo trên cơ sở hình thức thơ lục bát còn dân ca là lời ca ngắn
có giai điệu. Vì thế, dân ca thường được nghiên cứu trên phương diện văn hoá nghệ
thuật còn ca dao có thể được nghiên cứu trên nhiều phương diện: văn học, ngôn ngữ
học…
1.3.2. Ca dao và tục ngữ
So sánh về đặc tính của ca dao và tục ngữ, nhà nghiên cứu Hoa Bằng đã nhận
định: “Đặc tính của tục ngữ là đem những điều kinh nghiệm về thiên thời, về nhân
sự, về thế thái, về tục tình, về cách xử lý, về phương tiếp vật mà nêu lên những bài
học thuộc phạm vi nhân cách,… tuỳ theo trình độ và hoàn cảnh thời đại. Đặc tính
của ca dao là khoác hình thức văn chương bình dị và thiết thực mà trau dồi cái ý
bóng bẩy, tư tưởng thâm trầm, khiến cho nghe dễ lĩnh hội vì lời văn nhẹ nhàng, giản
dị, tiện ghi nhớ…”
[17; tr.52]
Xét về mặt ngôn ngữ học, Nguyễn Xuân Kính trong Thi pháp ca dao cho rằng
“Tục ngữ là những đơn vị thông báo, là những câu đơn hoặc câu ghép, là một hay
nhiều phán đoán” [13; tr.47], “Ca dao thường được sáng tác theo thể lục bát” [13;
tr.49]
Xét về cả hai mặt nội dung và hình thức, căn cứ vào thời gian xuất hiện, Vũ
Ngọc Phan cho rằng “Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian đã phát triển trước
15
Luận văn tốt nghiệp đại học
ca dao”. Ông đưa ra lý do của nhận định như sau “Tục ngữ là những câu ngắn, có
câu chỉ là một lời nói xuôi tai, không vần vè. Còn ca dao, ngay ở những bài được coi
là cổ thì nhạc điệu cũng đã rất phong phú, lời rất vững chắc, biểu hiện những diễn
biến, tiến sâu theo nhiều cung bậc”.[16; tr.53]
Về mặt hình thức ngôn ngữ, Mã Giang Lân đã nêu: “Ở tục ngữ, tư tưởng thường
được biểu hiện qua hình thức ngôn ngữ ngắn gọn. Ở ca dao, tư tưởng và tình cảm
một mặt được cô đúc dưới hình thức ngôn ngữ vững chắc và mặt khác lại còn được
diễn đạt trong sự vận động rất phong phú và đa dạng của ngôn ngữ học”. Ông còn
nói rõ hơn: “Thông qua việc sáng tác ca dao, nhân dân đã đưa ngôn ngữ văn học đến
trình độ nghệ thuật cao”. [12; tr.14]
Bàn về sự khác nhau giữa ca dao và tục ngữ, Mã Giang Lân đã đưa ra nhận xét:
“Nếu như tục ngữ thiên về lý trí, đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống thì ca dao lại
thiên về tình cảm (nội dung trữ tình)”.[12; tr.7]
Mã Giang Lân, khi bàn về đặc điểm chất thơ được thể hiện trong ca dao và tục
ngữ, trong quyển Tục ngữ - ca dao Việt Nam, ông đã nêu: “…Tục ngữ cũng là một
dạng thơ. Tuy nhiên, chất thơ có thể thấy một cách đầy đủ, toàn diện trong ca
dao. Sở dĩ như thế một phần là vì trong ca dao, hiện thực được phản ánh một
cách cô đúc hơn là trong ngôn ngữ hàng ngày”. [12; tr.8]
Trên đây, người viết đã đưa ra một số quan điểm nghiên cứu và kiến giải về ca
dao Việt Nam của những nhà nghiên cứu tiêu biểu. Trên tinh thần đó, các nhà
nghiên cứu đã trình bày quan điểm của mình trên góc độ ngôn ngữ học. Do
đứng trên những lập trường nhìn nhận khác nhau và trên những góc độ nhìn nhận
khác nhau nên những kiến giải có khi còn chưa nhất quán. Tuy nhiên, các nhà
nghiên cứu cũng đã có những đóng góp đáng kể cho sự bảo tồn và phát huy nét đẹp
của văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng trên nhiều phương diện, ngôn ngữ
cũng như văn học.
Cũng như thành ngữ, tục ngữ thường được thể hiện trong khuôn khổ một dòng
trên văn bản viết. Còn ca dao được thể hiện bằng nhiều dòng và hình thức thể hiện
của nó đa phần là những câu lục bát (câu 6 chữ và câu 8 chữ). Những câu tục ngữ sau
đây được thể hiện trên khuôn khổ một dòng thì ít khi bị nhầm lẫn với ca dao:
(11)
Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa.
16
Luận văn tốt nghiệp đại học
(12)
Có công mài sắt, có ngày nên kim.
Như vậy , các sản phẩm ngôn từ dân gian được thể hiện ngắn gọn trên một dòng,
có nội dung đúc kết kinh nghiệm đời sống chính là tục ngữ. Những trường hợp này
rất dễ nhận diện.
Bên cạnh đó là những trường hợp ca dao và tục ngữ giao thoa, xâm nhập lẫn
nhau, gây khó khăn cho việc nhận diện, phân biệt hai thể loại. Điều này cũng đã được
một số nhà nghiên cứu lưu ý: “Nhưng thực ra, giữa hai thể loại tục ngữ và ca dao
không phải là không có những trường hợp xâm nhập lẫn nhau. Trong ca dao cũng có
xen tục ngữ và cũng có những câu ca dao chỉ có hình thức ca dao còn nội dung là
tục ngữ”. [12; tr.9]
Đặc biệt là khi những sản phẩm ngôn từ dân gian có yếu tố cảm xúc và được thể
hiện bằng một cặp lục bát thì việc xác định nó là ca dao hay tục ngữ trở nên rất phức
tạp. Điển hình như trong những trường hợp sau đây:
(13)
Chim khôn chưa bắt đã bay,
Người khôn ít nói, ít hay trả lời.
(14)
Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
(15)
Ai ơi! chẳng chóng thì chầy,
Có công mài sắt, có ngày nên kim.
Bên cạnh đó, lại có những bài ca dao nêu lên những nhận định về con người, xã
hội, nên chúng mang dáng dấp tục ngữ. Mã Giang Lân cũng đã đề cập đến hiện
tượng này: “Do nội dung cô đọng, hàm súc, nhiều câu ca dao, chủ yếu là những câu
ca dao nhận định về con người và việc đời thì ca dao lại được dùng như tục ngữ”
[12; tr.9]:
(16)
Tranh quyền cướp nước gì đây,
Coi nhau như bát nước đầy thì hơn.
(17)
Gánh cực mà đổ lên non,
17
Luận văn tốt nghiệp đại học
Còng lưng mà chạy, cực còn chạy theo.
Trên đây là những trường hợp gây khó khăn cho việc phân biệt ca dao và tục
ngữ. Tuy nhiên, những trường hợp tương tự như thế không xuất hiện nhiều. Nhưng
sự có mặt của chúng cũng gây nhiều khó khăn cho các nhà nghiên cứu trong việc
phân định ranh giới của chúng.
Nhìn chung, người ta phân biệt sự khác nhau của ca dao và tục ngữ ở chỗ: “Tục
ngữ thiên về lý trí, tục ngữ cung cấp cho người nghe những triết lý dân gian, tri thức
dân gian, ca dao thiên về tình cảm, có nội dung trữ tình dân gian”. [13; tr.50]
Trên phương diện môi trường giao tiếp, Nguyễn Xuân Kính còn đưa ra tiêu chí
phân biệt: “Trong hoạt động sinh hoạt văn hoá, ca dao là những lời thơ dân gian
được dùng để hát, để ngâm. Tục ngữ được dùng trong khi nói. Trong hoạt động nói
năng, mỗi câu tục ngữ là một câu nói đặc biệt được dùng xen vào giữa những câu
nói bình thường khác”. [13; tr.50]
Chương 2
18
Luận văn tốt nghiệp đại học
CẤU TRÚC CÂU TIẾNG VIỆT
THEO QUAN ĐIỂM NGỮ PHÁP CHỨC NĂNG
2.1. Khái niệm về cấu trúc đề - thuyết
Theo quan điểm chức năng, cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt được chia
thành hai thành phần trực tiếp: phần đề và phần thuyết. Cao Xuân Hạo đã định nghĩa
đề và thuyết như sau: “Đề là thành tố trực tiếp của câu nêu rõ phạm vi ứng dụng của
điều được nói bằng thành tố trực tiếp thứ hai: phần thuyết” [5; tr.41].
Ở đây, chúng tôi tiếp thu định nghĩa: “Đề là thành phần trực tiếp thứ nhất của
câu nêu lên phạm vi hiệu lực của nội dung được triển khai trong thành phần trực tiếp
thứ hai: phần thuyết”.[6]
Ta xét các ví dụ sau:
(18)
Cụ bà cắn môi nghĩ ngợi. (Vũ Trọng Phụng)
ĐT T
(19)
Đèn ghi đã ra kia rồi. (Thạch Lam)
ĐT T
(20)
Cả đình đổ xô trông ra. (Ngô Tất Tố)
ĐT T
Ở ví dụ
(18)
, “Cụ già” là phần đề nêu lên một đối tượng mang tính chất cá nhân,
ngữ đoạn “cắn môi nghĩ ngợi” là phần thuyết. Phần thuyết triển khai nội dung nhận
định về phần đề đã nêu ra.
Trong ví dụ
(19)
, “Đèn ghi” là phần đề nêu lên một đối tượng mang tính chất sự vật
- cá thể; ngữ đoạn “đã ra kia rồi” là phần thuyết. Phần thuyết này triển khai nội dung
nhận định về phần đề đã nêu ra.
Và ví dụ
(20)
có phần đề là “Cả đình”. Phần đề này nêu lên một đối tượng có tính
chất cá thể. Phần ngữ đoạn còn lại là thuyết. Phần thuyết này triển khai nội dung
được nói ở phần đề.
2.2. Phân loại đề
19
Luận văn tốt nghiệp đại học
Trong quyển Ngữ pháp chức năng quyển 1, Câu trong tiếng Việt: Cấu trúc − ngữ
nghĩa − công dụng, Cao Xuân hạo đã chia đề thành nội đề và ngoại đề, trong đó,
ngoại đề không thuộc cấu trúc cú pháp cơ bản của câu còn nội đề là thành phần cấu
trúc cơ bản của câu tiếng Việt.
Ví dụ:
(21)
Tôi nghĩ thầm trong bụng như thế. Còn lão Hạc, lão / nghĩ gì? (Nam Cao)
Ngoại đề nội đề
Nội đề được chia thành chủ đề và khung đề. Hai loại đề này được định nghĩa như
sau:
Chủ đề: là thành phần câu nêu cái được nói đến trong phần thuyết của câu. Nó thu
hẹp phạm vi ứng dụng của phần thuyết vào một đối tượng. Đối tượng đó có thể là
một cá nhân, một tập hợp hay một sự tình [5; tr.42].
Khung đề: là thành phần câu nêu rõ những điều kiện làm thành cái khung về tình
huống, thời gian, không gian. Trong đó, điều kiện được nói ở phần thuyết có hiệu
lực [5; tr.42].
Trong hai loại đề mà Cao Xuân Hạo đã nêu, chúng tôi băn khoăn về khái niệm
“chủ đề”. Khái niệm “chủ đề” theo cách dùng của Cao Xuân Hạo dễ gây chồng
chéo với khái niệm “chủ đề” trong lĩnh vực văn học. Vì vậy, chúng tôi tiếp thu quan
niệm chia phần đề thành hai loại: đề tài và đề khung (đổi vị trí của khung đề thành đề
khung để có sự đối xứng nghĩa với đề tài).
2.2.1. Đề tài
Đề tài là loại đề nêu lên đối tượng mang tính chất cá nhân, cá thể, hay mang tập
hợp, chủng loại mà phần thuyết sẽ triển khai.[6]
Ví dụ:
(22)
Cái xe đạp / đã hỏng.
(23)
Tôi / xồng xộc chạy vào. (Nam Cao)
(24)
Hai mươi hai cầu thủ / đang chạy trên sân bóng.
20
Luận văn tốt nghiệp đại học
(25)
Rắn / là một loài bò sát, không chân.
Ba ví dụ trên, ví dụ
(22)
có đề tài nêu lên đối tượng là một cá thể. Ví dụ
(23)
có đề
tài nêu lên đối tượng là một cá nhân. Ví dụ
(24)
có đề tài nêu lên đối tượng là một tập
hợp (một tập hợp gồm hai mươi hai người). Ví dụ
(25)
có đề tài nêu lên đối tượng là
một chủng loại.
2.2.2. Đề khung
Đề khung là loại đề nêu lên một giới hạn về không gian, thời gian hay điều kiện
mà nội dung được triển khai ở phần thuyết có hiệu lực.[6]
Ví dụ:
(26)
Năm nay / thì đói to đấy.
(27)
Trong vườn / trồng toàn cam.
(28)
Con này (hễ) đã lên tiếng / (thì) y như là có kẻ gian vào nhà.
Ví dụ
(26)
, “Năm nay” là một đề khung nêu lên giới hạn một phạm vi về thời
gian.
Ví dụ
(27)
, “Trong vườn” là một đề khung nêu lên giới hạn một phạm vi về không
gian.
Ví dụ
(28)
, “Con này hễ đã lên tiếng” là phần đề khung nêu lên một điều kiện có
tính chất khẳng định.
2.3. Mở rộng cấu trúc đề - thuyết theo quan hệ ngữ đoạn
Câu tiếng Việt có thể được cấu tạo bằng một cấu trúc đề − thuyết. Bên cạnh đó,
cấu trúc câu còn có thể mở rộng theo quan hệ ngữ đoạn bằng cách thêm vào cấu trúc
đề − thuyết đã có một, một vài phần đề, một, một vài phần thuyết, hay một, một vài
cấu trúc đề - thuyết. Kết quả thu được của việc mở rộng cấu trúc cú pháp theo
quan hệ ngữ đoạn là các hiện tượng ghép: ghép đề, ghép thuyết, ghép đề −
thuyết, mà phương thức ngữ pháp được sử dụng ở đây là trật tự tuyến tính hay kết
từ. [6]
Khi câu có hiện tượng ghép đề − thuyết mà một vế là mỗi cấu trúc đề - thuyết thì
mỗi cấu trúc đó là một cú (cú là cấu trúc đề − thuyết dưới bậc câu).
21
Luận văn tốt nghiệp đại học
(Để dễ dàng trong cách trình bày cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt bằng
sơ đồ, chúng tôi quy ước về chữ viết tắt:
Đề tài bậc câu, cú thì được ký hiệu là: ĐT
Đề tài bậc tiểu cú thì được ký hiệu là: đt
Đề khung bậc câu, cú thì được ký hiệu là: ĐK
Đề khung bậc tiểu cú thì được ký hiệu là: đk
Đề tình thái bậc câu, cú thì được ký hiệu là: ĐTh
Đề tình thái bậc tiểu cú thì được ký hiệu là: đth
Thuyết bậc câu, cú thì được ký hiệu là: T
Thuyết bậc tiểu cú thì được ký hiệu là: t
Thuyết tình thái bậc câu, cú thì được ký hiệu là: TTh
Thuyết tình thái bậc tiểu cú thì được ký hiệu là: tth
Cú được ký hiệu là: C’
Cú thứ nhất của câu được ký hiệu là: C’
1
Cú thứ hai của câu được ký hiệu là: C’
2
Cú thứ ba của câu được ký hiệu là: C’
3
Cú thứ tư của câu được ký hiệu là: C’
4
).
Ta xét các ví dụ sau:
(29)
Lý cựu, phó lý, thủ quỹ châu đầu trên lớp bát đĩa đầy nhặng xanh. (Ngô Tất
Tố)
ĐT
1
ĐT
2
ĐT
3
T
Ví dụ này có ba phần đề, mỗi phần đề có một chức năng ngang nhau và độc lập
với nhau. Cả ba phần đề đều là 3 đề tài, mỗi đề tài nêu lên một đối tượng về một
cá nhân. “Lý cựu” là đề tài thứ nhất, “phó lý” là đề tài thứ hai, “thủ quỹ” là đề tài
thứ ba. Đây là câu có hiện tượng ghép đề.
(30)
Đồng đăng có phố Kỳ Lừa, có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
(Ca dao)
22
Luận văn tốt nghiệp đại học
ĐT T
1
T
2
T
3
Trong ví dụ này, phần thuyết được mở rộng theo quan hệ ngữ đoạn thành ba
phần: “có phố Kỳ Lừa” là thuyết một, “có nàng Tô Thị” là thuyết hai, “có chùa
Tam Thanh” là thuyết ba. Đây là hiện tượng ghép thuyết.
(31)
Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch. (Nam
cao)
ĐT T ĐT T ĐT T
C’
1
C’
2
C’
3
Ví dụ này có ba cú, có quan hệ ngữ pháp đẳng lập, được ghép với nhau bằng trật
tự tuyến tính.
2.4. Phức tạp hoá cấu trúc đề - thuyết theo quan hệ đối vị
Cấu trúc đề − thuyết trong câu có thể được phức tạp hóa theo quan hệ đối vị mà
kết quả thu được là hiện thượng phức: phức đề, phức thuyết, phức đề − thuyết. Khái
miện “phức” ở đây được hiểu theo nghĩa: phần đề, thuyết hay cả cấu trúc đề
thuyết được cấu tạo bằng hay bao chứa trong nó cấu trúc đề − thuyết dưới bậc, được
gọi là tiểu cú. [6]
Ta xét các ví dụ sau:
(32)
Hắn uống rượu với cái gì cũng ngon. (Nam Cao)
đt t
ĐT T
Trong ví dụ này, phần đề “Hắn uống rượu với cái gì” được phức tạp hoá theo
quan hệ đối vị thành một tiểu cú, trong đó, “hắn” là đề tài, “uống rượu với cái gì” là
thuyết của tiểu cú. “Cũng ngon” là thuyết của câu. Đây là hiện tượng phức tạp hóa
đề bằng một tiểu cú.
(33)
Môn nào nó học cũng giỏi.
đt t
23
Luận văn tốt nghiệp đại học
đt t
ĐT T
Trong ví dụ này, phần thuyết được phức tạp hoá thành một tiểu cú. Phần đề tài
của tiểu cú đó lại được phức tạp hoá một bậc nữa thành một cấu trúc đề - thuyết bậc
tiểu cú nhỏ hơn. Đây là hiện tượng phức thuyết.
(34)
(Nếu) Nguyệt đã hy sinh thật (thì) tôi sẽ ôm mối hận mãi mãi. (Nguyễn Minh
Châu)
đt t đt t
ĐT T
Trong ví dụ này, cả phần đề và phần thuyết đều được phức tạp bằng một cấu
trúc đề - thuyết bậc tiểu cú. phần đề của câu là đề khung, nêu lên một điều kiện. Điều
kiện này được triển khai ở phần thuyết có hiệu lực. Đây là hiện tượng phức tạp hóa
cả cấu trúc đề - thuyết.
2.5. Đề tình thái và thuyết tình thái trong câu tiếng Việt
2.5.1. Khái niệm về nghĩa tình thái và sự thể hiện nghĩa tình thái trong
câu
Nghĩa của câu gồm hai thành phần: nghĩa miêu tả và nghĩa tình thái. Nghĩa miêu
tả là thành phần nghĩa phản ánh sự tình trong thế giới bên ngoài câu. Nghĩa tình thái
là thành phần nghĩa phản ánh thái độ, sự nhìn nhận, đánh giá của người nói, người
nghe về sự tình được câu biểu đạt.
Nội dung tình thái biểu thị sự nhìn nhận, đánh giá của người nói xoay quanh các
tính chất: tính hiện thực, chân thực, khả năng; tính chân lý, hợp lý, đạo lý; tính tất
yếu; tính may rủi; tính tích cực, tiêu cực.
(35)
Giá tôi có ở nhà thì đâu đến nỗi. (Nam Cao)
(36)
Thiếu chút nữa (thì) ta giết oan một người vô tội.
Nội dung tình thái của câu có thể được cấu trúc hoá thành phần đề hay phần
thuyết. Khi nội dung tình thái được cấu trúc hoá thành phần đề thì ta có đề tình thái.
Khi nội dung tình thái được cấu trúc hoá thành phần thuyết thì ta có thuyết tình thái.
24
Luận văn tốt nghiệp đại học
2.5.2. Đề tình thái
Đề tình thái là loại đề nêu lên sự nhìn nhận, đánh giá của người nói về sự tình hay
sở thuyết được nêu tiếp theo. Nội dung đánh giá xoay quanh các tính chất: tính hiện
thực, chân thực, khả năng; tính chân lý, hợp lý, đạo lý; tính tất yếu; tính may rủi; tính
tích cực, tiêu cực. Đề tình thái có thể thuộc nhiều bậc: câu, cú, tiểu cú. [6]
Ta xét các ví dụ sau:
(37)
Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ! (Nam Cao)
đt t
ĐTh T
Trong ví dụ này, “ông giáo ạ!” là hô ngữ gọi, nằm ngoài cấu trúc cú pháp cơ bản
của câu. “Có lẽ” là đề tình thái. Phần đề tình thái này nêu ra khả năng trỏ thành hiện
thực của sự tình được nêu tiếp theo. “Tôi bán con chó” là phần thuyết biểu thị một sự
việc mà người nói là chủ thể.
(38)
May ra (thì) họ không chết đói. (Kim Lân)
đt t
ĐTh T
Trong ví dụ này, “may ra” là đề tình thái nêu lên một nhận định của người nói về
sự tình được nêu tiếp theo là kết quả trong tương lai. “Họ không chết đói” là phần
thuyết (được cấu tạo bằng một tiểu cú), là sự tình có khả năng xảy ra. Giữa đề tình
thái và thuyết là tác tử “thì” dùng để phân giới.
(39)
Thật ra (thì) lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị (là) ai. (Kim Lân)
đt t
đt t
đk t
25