Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

NGHIÊN cứu đặc điểm lâm SàNG, THíNH lực đồ và đánh giá kết QUả điều trị điếc đột ngột bằng phương pháp bơm DEXAMETHASONE vào hòm NHĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.95 MB, 71 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Điếc đột ngột (ĐĐN) là một cấp cứu trong tai mũi họng mà vấn đề
chẩn đoán xác định nguyên nhân và điều trị vẫn còn nhiều tranh luận. Theo
các tác giả nghiên cứu về điếc đột ngột trên toàn thế giới đều thống nhất về
định nghĩa của điếc đột ngột như sau: Điếc đột ngột là một điếc tiếp
nhận,thính lực giảm từ 30 dB trở lên với ít nhất ở 3 tần số liên tiếp nhau và
mới xuất hiện trong vòng 3 ngày (72giờ) ở những bệnh nhân không có tiền sử
bệnh về tai [38], [46]. Theo tác giả Trần Bá Huy và một số tác giả Pháp thì
điếc đột ngột là một điếc tiếp nhận ở một bên tai, xảy ra trong vòng 24 giờ, thính
lực giảm trên 30 dB ở 3 tần số liên tiếp và không có nguyên nhân [57], [58] .
Điếc đột ngột thường xuất hiện ở một tai [3], [52] nhưng đôi khi cũng
xuất hiện cả hai tai chiếm khoảng 2% [26], [30] và thường kết hợp với các
triệu chứng khác như ù tai, cảm giác đầy nặng trong tai,chóng mặt đây lại
là những triệu chứng buộc bệnh nhân đến khám và điều trị.
Theo kết quả của nhiều nghiên cứu thì điếc đột ngột chiếm tỷ lệ từ 5 – 20
cas/100.000 người/năm [46], [51]. Tại Hoa Kỳ tỷ lệ mắc bệnh hàng năm
khoảng 5- 20 cas/100.000 dân [28], [37]. Theo một nghiên cứu tại bệnh viện
Tai Mũi Họng Tp Hồ Chí Minh (2005-2006) có 450 trường hợp [10].
Đến nay nguyên nhân trực tiếp gây bệnh vẫn chưa xác định rõ ràng và
đều được coi là bệnh vô căn. Các nguyên nhân gợi ý của điếc đột ngột vô căn
bao gồm: Nhiễm virus, tổn thương mạch máu, bệnh tự miễn của tai trong,do
vỡ màng ốc tai(màng Ressness). Trong số các nguyên nhân kể trên thì nguyên
nhân do virus chiếm từ 25-65 %, và cơ chế điếc đột ngột là do kháng thể chéo
với virus ở cơ quan Corti của tai trong, cho nên corticoid được xem là chủ lực
cho bệnh cảnh này [10], [36]. Đặc biệt sử dụng corticoid xuyên màng nhĩ sẽ
thấm qua cửa sổ bầu dục vào tai trong,giảm gắn kết kháng nguyên- kháng thể
1
Điếc đột ngột gây ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống sinh hoạt và giao
tiếp của con người.
Do căn nguyên và bệnh sinh của điếc đột ngột vẫn chưa rõ ràng và vấn
đề điều trị còn nhiều tranh luận. Với phương pháp điều trị mới bằng tiêm


Dexamethasone vào hòm tai và dùng thuốc giãn mạch toàn thân. Chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài này với 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và thính lực đồ của bệnh nhân điếc đột
ngột.
2. Đánh giá kết quả điểu trị bằng phương pháp tiêm Dexamethasone
vào hòm nhĩ.
2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
- Lâm sàng của điếc đột ngột được mô tả lần đầu tiên vào năm 1906 bởi
Cornet và Escat [58].
- Sau đó năm 1922 Kobrak đã giành nhiều công sức để nghiên cứu về
điếc đột ngột,nhưng ông cũng phải công nhận rằng việc xác định nguyên nhân
gây ra điếc đột ngột là rất khó khăn [58].
- Nhiều năm tiếp theo,các tác giả như Citelli (1926), Collet (1933),
Derleyn(1944), Fowler (1950), Hilger (1950) cũng đã dâỳ công nghiến cứu về
điếc đột ngột. Họ nhận thấy có một sự liên quan giữa điếc đột ngột và thiếu
máu mê nhĩ [25], [27], [31] .
- Bên cạnh đó các công trình nghiên cứu của các nhà tai học khác như :
Belal A. (1980), Byn F.M (1984), Byrre (1987), John Booth (1987), Gulya
(1994) [23], [24], [27], đã góp phần làm cho bệnh cảnh lâm sàng của điếc đột
ngột được mô tả ngày càng đầy đủ hơn.
- Năm 1980 tác giả Wilson lần đầu tiên dùng corticoid đối với điếc đột
ngột.Sau đó có nhiều nghiên cứu cũng đã chứng minh hiêụ quả của corticoid
trong hồi phục thính lực [53],[55].
- Năm 1991 Itoh là người đầu tiên đưa ra báo cáo về việc điều trị bệnh
Meniere bằng phương pháp tiêm corticoid xuyên màng nhĩ. Sau đó 5 năm
Silverstein đưa ra báo cáo về việc điều trị điếc đột ngột bằng cách tiêm
corticoid xuyên màng nhĩ [45].

- Ở Việt Nam những nghiên cứu về vấn đề này còn rất ít. Năm 1966 lần
đầu tiên tác giả Lê Sỹ Nhơn đã đưa ra một trường hợp lâm sàng của một bệnh
nhân nữ 19 tuổi bị điếc đột ngột tại khoa TMH bệnh viện Bạch Mai Hà Nội
được đăng trong cuốn “ Tai Mũi Họng tài liệu nghiên cứu ” [15] .
3
- Sau đó năm 2000 tác giả Phạm Trường Minh đã nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng và đánh giá kết quả của điều trị điếc xảy ra đột ngột tại Viện TMH [21].
Đến năm 2006 tác giả Nguyễn Thuý Vân đã nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và đánh
giá hiệu quả điều trị điếc đột ngột bằng corticoid đường toàn thân và thuốc giãn
mạch tại Viện TMH Trung ương.Tác giả đã đưa ra các phương pháp xác định vị trí
tổn thương ở ốc tai hay sau ốc tai qua đo OAE và ABR [21].
- Trong một báo cáo trên tạp chí Tai Mũi Họng số 3 năm 2008, Nguyễn
Minh Hảo Hớn và cộng sự lần đầu tiên đánh giá việc điều trị điếc đột ngột ở
người lớn bằng tiêm Corticoid xuyên màng nhĩ tại bệnh viện TMH Tp Hồ Chí
Minh đã nhận thấy Corticoid xuyên màng nhĩ vẫn còn hiệu quả với bệnh nhân
mà phác đồ kinh điển thất bại. Năm 2010 Hồ Xuân Trung và cộng sự sau khi
nghiên cứu điều trị bệnh nhân điếc đột ngột tại khoa TMH bệnh viện Đà Nẵng
bằng tiêm Dexamethasone vào hòm nhĩ kết hợp với thuốc điều trị toàn thân
cũng có nhận xét như trên.
- Trong nghiên cứu này chúng tôi sau khi đã xác định vị trí tổn thương
tại ốc tai bước đầu tiến hành đánh giá hiệu quả của phương pháp điều trị tiêm
Dexamethasone xuyên màng nhĩ.
1.2. SƠ LƯỢC GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ CỦA TAI.
Tai là một cơ quan có cấu trúc phức tạp, về mặt giải phẫu thì tai gồm có
3 phần là tai ngoài, tai giữa và tai trong [18], [40].Trong đó tai ngoài và tai
giữa có chức năng hứng,hướng,khuyếch đại và dẫn truyền âm thanh vào tai
trong.Còn tai trong có chức năng tiếp nhận âm thanh,bên cạnh chức năng
nghe tai trong còn tham gia vào việc điều chỉnh thăng bằng cho cơ thể.
1.2.1. Tai ngoài
Tai ngoài gồm có vành tai và ống tai ngoài.

1.2.1.1 Vành tai
Vành tai là một cái loa bằng sụn, ngoài có da bao bọc.Vành tai có
những chỗ lồi và chỗ lõm.
4
Những chỗ lồi tính từ chu vi về tâm, là : luân nhĩ, gờ đối luân, đối bình
tai và bình tai hay nắp tai.
Những chỗ lõm là hố thuyền, rãnh luân nhĩ, loa tai và cửa tai.
Phần dưới của vành tai không có sụn, chỉ có da và mỡ, dược gọi là dái tai.
1.2.1.2 Ống tai ngoài
Ống tai ngoài là một cái ống tịt bắt đầu từ lỗ tai và tận cùng ở màng nhĩ.
Ống này gồm có hai đoạn : đoạn ngoài bằng sụn, đoạn trong bằng xương.
Trong tư thế bình thường đoạn sụn và đoạn xương có một cái khuỷu hơi cong.
Thiết diện ngang của ống tai ngoài hình bầu dục, hẹp theo chiều trước sau.
Các quan hệ của ống tai ngoài :
- Thành trước quan hệ với khớp thái dương hàm.
- Thành sau quan hệ với đường dây thần kinh số VII và với xương chũm.
- Thành trên với hố não giữa.
- Thành dưới với hố mang tai.
chức năng của tai ngoài : Vành tai có tác dụng hứng lấy các song âm Viba
trong không khí. Ống tai ngoài có nhiệm vụ đưa song Viba vào đến màng
nhĩ. Có tác giả cho rằng nhờ sự cộng hưởng ở ống tai ngoài áp lực song Viba
có thể tăng lên gấp 3 lần.
Tai ngoài còn giúp chúng ta định hướng tiếng âm, thí dụ phân biệt được
tiếng động ở bên phải hay bên trái, ở phía trước hay phía sau.
1.2.2. Tai giữa
Tai giữa là hệ thống các khoang rỗng chứa khí nằm giữa tai ngoài và tai
trong gồm: Hòm nhĩ, vòi nhĩ và các tế bào xương chũm.
Trong phần giải phẫu tai giữa này chúng tôi chỉ giới hạn trình bày phần
hòm nhĩ , màng nhĩ và vòi nhĩ.
1.2.2.1. Hòm nhĩ

5
Hòm nhĩ là một hốc rỗng nằm trong phần đá của xương thái dương, có
hình thấu kính lõm 2 mặt, có 6 thành, phía trước thông với thành bên họng
mũi bởi vòi nhĩ, phía sau thông với hệ thống bào xương chũm bởi một cống
nhỏ gọi là sào đạo. Hòm nhĩ chứa hệ thống xương con.
Hình 1.1. Thiết đồ cắt ngang tai ngoài, hòm nhĩ và tai trong []
* Các thành của hòm nhĩ:
Thành ngoài: gồm 2 phần:
Phần trên: là tường xương gọi là tường thượng nhĩ, có dây chằng cổ
xương búa chia làm 2 ngăn: ngăn trên là Kretschman, ngăn dưới là Prussack.
6
Phần dưới: là màng nhĩ là màng mỏng,có màu xám, trong, có tính chất
dai và cứng. Màng nhĩ được chia làm 2 phần: phần trên là màng chùng
(Shrapnell) quan hệ trực tiếp với túi Prussack. Phần dưới là màng căng chiếm
¾ diện tích màng nhĩ. Đây là phần rung động của màng nhĩ.
Hình 1.2. Thành ngoài hòm nhĩ []
Thành trong hay thành mê nhĩ:
Giữa lồi lên gọi là ụ nhô do vòng thứ nhất ốc tai tạo nên.
Dưới ụ nhô: có lỗ của thần kinh Jacobson
Cửa sổ bầu dục: ở phái sau trên ụ nhô có đế xương bàn đạp gắn vào.
Hố nằm giữa cửa sổ tròn và cửa sổ bầu dục gọi là ngách nhĩ.
Lồi ống thần kinh mặt: do đoạn II của ống thần kinh mặt tạo nên, nằm
vắt ngay phía trên của cửa sổ bầu dục.
7
Hình 1.3. Thành trong hòm nhĩ [ ]
Để phục vụ cho mục tiêu của đề tài nghiên cứu, chúng tôi xin trành bày
thêm về giải phẫu và chức năng của cửa sổ tròn.
 Cửa sổ tròn : cửa sổ tròn cùng với cửa sổ bầu dục là hai miệng để
vào tai trong.Cửa sổ tròn nằm ở dưới và sau một chút so với cửa sổ bầu dục,
giữa cửa sổ tròn và cửa sổ được phân cách bởi sườn sau của ụ nhô.Vị trí của

cửa sổ tròn chính là đáy của một lõm hình phễu(hố cửa sổ tròn)mà xung
quanh là xương của ốc tai xương. Ở trạng thái bình thường cửa sổ tròn được
đậy bởi một màng, còn được gọi là màng nhĩ phụ hay màng cửa sổ tròn.Từ
hòm nhĩ có thể nhìn thấy phần trung tâm màng cửa sổ tròn bị lõm, và lồi về
phía ốc tai so với viền cửa sổ.
Màng nhĩ phụ hay màng cửa sổ tròn được cấu tạo bởi 3 lớp sau :
- Lớp ngoài hay còn được biết là lớp niêm mạc, nó có nguồn gốc là
lớp niêm mạc của hòm nhĩ.
- Lớp giữa là lớp xơ.
- Lớp trong chính là màng lót của ốc tai.
8
Cả hai cửa sổ bầu dục và cửa sổ tròn có kích cỡ tương tự nhau, xấp xỉ
2,5 mm
2
.Lối vào của hố cửa sổ tròn thì thường nhỏ hơn so với kích cỡ này.
chức năng của cửa sổ tròn
Sự dẫn truyền qua chuỗi xương con làm thay đổi áp lực ở cửa sổ bầu dục, tạo
nên sự di chuyển của ngoại dịch từ vịn tiền đình đến vịn nhĩ. Sự lệch pha của
cửa sổ bầu dục và màng nhĩ phụ(Scarpa) ở cửa sổ tròn tạo nên sự dịch chuyển
của ngoại dịch, gây nên các rung động.Các rung động này được truyền tiếp
đến cơ quan Corti, hoạt động điện sinh học của cơ quan Corti tập hợp thành
các kích thích nghe được chuyển qua thần kinh VIII lên vỏ não.
Hình 1.4.Hình ảnh minh họa cơ chế hoạt động của ốc tai
Thành trên: còn gọi là trần hòm nhĩ, là một lớp xương mỏng ngăn cách
hòm nhĩ với hố não giữa, do xương trai và xương đá tạo thành.
Thành dưới hay thành tĩnh mạch cảnh: là một mảnh xương mỏng hẹp
ngăn cách hòm tai với hố tĩnh mạch cảnh. Sàn thấp hơn thành dưới ống tai
ngoài độ 1-2 mm
9
Thành trước hay thành động mạch cảnh: thành này có ống cơ căng

màng nhĩ ở trên, lỗ thông hòm nhĩ với vòi tai ở dưới. Dưới lỗ thông hòm nhĩ
với vòi tai là vách xương mỏng ngăn cách hòm tai với động mạch cảnh trong.
Thành sau hay thành chũm:
Ở trên có một ống thông với sào bào gọi là sào đạo. Trên thành trong
của sào đạo là lồi ống bán khuyên ngoài.
Mỏm tháp nằm ngay sau cửa sổ bầu dục và trước đoạn 3 của dây thần
kinh mặt, có gân cơ bàn đạp chui ra bám vào cổ xương bàn đạp.
* Các tầng hòm nhĩ: Hòm nhĩ được chia thành 3 tầng
Thượng nhĩ: Thượng nhĩ được chia làm 2 phần ngoài và trong. Chỉ có
thượng nhĩ trong thông với hạ nhĩ còn thượng nhĩ ngoài không thông với hạ
nhĩ. Thượng nhĩ rất kém thông khí, là nơi chứa xương con.
Hạ nhĩ: Là phần tai giữa nằm phía dưới sàn của ống tai xương.
Trung nhĩ: Nằm giữa thượng nhĩ và hạ nhĩ.
1.2.2.2.Màng nhĩ
Là một màng mỏng nhưng dai và chắc, che ở phía ngoài hòm nhĩ, ngăn
cách ống tai ngoài và tai giữa. Màng nhĩ có mầu hơi xám, sáng bóng.Màng
nhĩ có 2 hình dạng cơ bản, hình tròn và bầu dục.
Kích thước của màng nhĩ trung bình ở người Việt Nam:
Đường kính dọc: 8,65 ± 0,85 mm. Đường kính ngang qua rốn nhĩ :
7,72 ± 0,52 mm.
Mặt trong của màng nhĩ được gắn chặt với cán của xương búa cho tới
tận rốn nhĩ, điểm mà màng nhĩ nhô về phía hòm nhĩ.
10
Hình 1.4. Màng nhĩ [7]
Cấu tạo: Màng nhĩ gồm 2 phần là màng chùng và màng căng.
Màng chùng: là màng mỏng có hình tam giác ngăn cách với màng căng
bởi dây chằng nhĩ búa trước và nhĩ búa sau, qua rãnh Rivinus gắn trực tiếp
vào phần xương thành trên ống tai. Màng chùng cấu tạo gồm 2 lớp: lớp ngoài
tế bào biểu mô liên tiếp với tế bào biểu mô vảy của ống tai ngoài, lớp trong là
lớp tế bào trụ có lông chuyển.

Màng căng: có 3 lớp
Lớp ngoài: liên tiếp với lớp biểu mô ống tai ngoài.
Lớp giữa: lớp sợi gồm có sợi tia, sợi vòng, sợi bán nguyệt và sợi parabol.
Lớp trong: là lớp niêm mạc liên tục với niêm mạc của hòm nhĩ.
Chức năng của màng nhĩ: Màng nhĩ có 2 chức năng:
Dẫn truyền âm thanh từ môi trường ngoài dưới dạng sóng Viba thành
chuyển động cơ học qua hệ thống xương con, để truyền tới cửa sổ bầu dục và đi
vào môi trường dịch của tai trong. Ngoài ra màng nhĩ còn khuếch đại âm thanh.
11
Chức năng bảo vệ: ngăn chặn sự viêm nhiễm từ tai ngoài vào tai giữa.
1.2.2.3. Vòi nhĩ
Vòi nhĩ (Eustachi) nối liền hòm nhĩ với họng – mũi. Đây là một cái ống
dài độ 35 mm và gồm có hai đoạn : đoạn sau bằng xương (1/3 chiều dài) và
đoạn trước bằng sụn (2/3 chiều dài).
Hai đầu của vòi nhĩ thì rộng còn chỗ nối của hai đoạn thì hẹp và được
gọi là eo vòi (kt 2mm x 1mm).
Hướng đi của vòi nhĩ là từ trên xuống dưới, từ sau ra trước và từ trong
ra ngoài. Vòi nhĩ tận cùng ở thành bên họng- mũi bằng một cái loa hình dấu
mũ gọi là loa vòi. Loa này có hai mép: mép trước gọi là mép vòi - khuẩu cái,
mép sau gọi là vòi họng. Ở sau loa vòi có một cái hố gọi là hố Rosenmuller.
Bình thường thì vòi nhĩ đóng kín do hai thành sụn khép lại. Nhưng khi
cơ màn hầu co lại thì lòng của vòi Eustachi mở ra.
Niêm mạc của vòi Eustachi chứa đựng nhiều nang lympho. Những nang
này tập hợp lại chung quanh loa vòi thành một khối gọi là Amydan vòi của
Gerlach.
chức năng của vòi nhĩ
Bình thường màng nhĩ đóng lại, không có sự thong thương giữa hòm
nhĩ và vòm mũi họng. Khi chúng ta nuốt hoặc ngáp thì vòi nhĩ mở ra cho
không khí ở mũi vào hòm nhĩ.
Sự có mặt của không khí trong hòm nhĩ là rất cần thiết cho sự rung

động của màng nhĩ. Nếu không khí ở đấy giảm xuống thì sẽ làm cho màng nhĩ
bị lõm và rung động kém, tai sẽ nghe kém hoặc có tiếng ù.
1.2.3 Tai trong
12
1.2.3.1 Ốc tai xương
Là một ống xoắn ốc, hình nón cao khoảng 5 ly, đáy có đường kính xấp
xỉ 9 ly ở giữa có trụ ốc,xung quanh có ống xoắn ốc quấn thành hình xoắn,dài
32 ly.Nó gồm 2 vòng rưõi, xoắn quanh một hình chóp nón rỗng gọi là trụ ốc.
Ốc tai được chia làm 2 vịn:
-Vịn tiền đình ở trên, vịn nhĩ ở dưới, hai vịn này thông với nhau ở
chỏm của ốc tai. Vịn tiền đình có cửa sổ bầu dục và đế xương bàn đạp bịt
lại,trong vịn tiền đình có chứa ống ốc tai, trong ống ốc tai có chứa nội dịch.
- Vịn nhĩ lồi vào tai giữa thành ụ nhô,ở bên có cửa sổ tròn, có màng nhĩ
phụ bịt kín [3], [18], [40].
Hình 1.5. Mê nhĩ xương bên phải đã phẫu tích: mê nhĩ màng đã lấy đi[ ]
13
Ốc tai xương bọc ngoài ốc tai màng,có cấu trúc in khớp, giữa ốc tai
xương và ốc tai màng có chứa ngoại dịch.
Ốc tai cho ta biết cường độ và âm sắc của tiêng động.
1.2.3.2 Ốc tai màng
Còn gọi là ống ốc tai, chứa đựng bộ phận chủ yếu tiếp nhận âm thanh là
cơ quan Corti.
Ống ốc tai có hình trụ tam giác, nằm trong vịn tiền đình, có ba thành.
- Thành trên là màng Reissner
Hình 1.6. Thiết đồ cắt ngang ống ốc tai.[ ]
- Thành dưới là màng đáy dài khoảng 30-35mm, ở đáy ốc tai hẹp và dầy,
càng lên cao càng rộng và mỏng (chiều rộng ở đáy khoảng 150 micro met, ở
đỉnh ≈ 450 µm). Cấu trúc như vậy làm hco nó tiếp nhận âm thanh theo tần số
14
sóng âm ở từng vùng. Nhìn chung âm thanh có tần số cao được tiếp nhận ở

vùng đáy, còn âm có tần số âm trầm tiếp nhận ở vùng đỉnh.
- Thành ngoài là mảnh vòng quanh, ở đây cốt mạc dầy và gồ thành dây
chằng xoắn ngoài, phía trong có lớp vân mạch,với nhiều mạch máu và một
lớp biểu mô tầng [3], [18], [40]
* Cơ quan Corti
Hình 1.7. Cơ quan Corti [ ]
Là bộ phận chủ yếu của cơ quan thính giác, nằm trong nội dịch của ống
ốc tai, ở trên màng đáy và có cấu trúc phức tạp, bao gồm các thành phần:
+ Màng mái: Là một phần của màng xoắn trên toàn bộ chiều dài cuă cơ
quan Corti, có chiều rộng và dày tăng dần từ đáy lên đỉnh ốc tai. Phía trong
màng mái có mọt trụ rung chuyển, trụ này lệch vào phía trong so với trụ màng
15
Tế bào
Hầm Corti
đáy để tạo ra sự di chuyển các lông của tế bào thần kinh ở màng mái. Màng
mái nằm dựa nhẹ lên các tế bào lông của cơ quann Corti, có một khoảng cách
để đảm bảo sự rung động của các long tế bào thần kinh này.
+ Các trụ: Tạo thành khung ở giữa cơ quan Corti, được sắp xếp thành
hai dãy trụ: Các trụ trong và trụ ngoài, các trụ này khi lên treen chúng hội tụ
lại thành một khoang hình tam giác gọi là đường hầm Corti[3], [18].
+ Các tế bào nâng đỡ gồm:
- Tế bào nâng đỡ trong: Đi từ chân màng mái tới tựa vào trụ trong. Đầu
trên của tế bào này cùng với đầu trên của trụ trong tạo thành yếu tố
nâng đỡ bao quanh tế bào lông trong.
- Các tế bào nâng đỡ ngoài: Ở ngoài trụ ngoài gồm các lớp tế bào :
* Tế bào Deiters
* Tế bào Hansen
* Tế bào Claudius
+ Các tế bào giác quan: Gồm các tế bào lông trong và tế bào lông
ngoài.

- Tế bào lông trong: Có khoảng 4500 tế bào, đó là các tế bào hình trụ,
đầu nhỏ xếp thành một dãy ở phía trong trụ trong.
- Tế bào lông ngoài: Có khoảng 12.000 – 20.000 tế bào, hình trụ đầu to,
xếp thành 3 dãy ở phía ngoài trụ ngoài.
Ốc tai được chi phối bởi 3 sợi dây thần kinh: Tự động,hướng tâm và ly
tâm. Thần kinh tự động thường đi kèm với các mạch máu và thần kinh của trụ
ốc tai và mảnh xoắn.
16
- Tế bào lông trong và tế bào lông ngoài của cơ quan Corti được chi
phối bởi hai loại thần kinh là hướng tâm và ly tâm.
Có 90% các sợi hướng tâm tạo Synape trực tiếp với đáy tê bào lông
trong còn lại 10 % cho tế bào lông ngoài.
Các sợi ly tâm tạo Synape trực tiếp với tế bào lông ngoài, không trực
tiếp với tế bào lông trong mà nó tạo Synape với phần tận cùng của sợi hướng
tâm. Vai trò của các sợi ly tâm là ức chế những điểm khác nhau của cơ quan
Corti, điều này giúp ta có thể hướng sự chú ý vào các âm nhất định và bỏ qua
các âm khác.
1.2.3.3. Dịch mê nhĩ
+ Ngoại dịch: Nằm trong khoang ngoại dịch giữa mê nhĩ xương và mê
nhĩ màng,tức là nằm xung quanh ống bán khuyên màng, xung quanh cầu
nang, xoan nang, ở vịn tièn đình và vịn nhĩ.
+ Nội dịch: Ở trong mê nhĩ màng, trong xoan nang, trong cầu nang,
trong ống và túi nội dịch,trong ống ốc tai, ống bán khuyên màng.Nội dịch
được sản xuất bởi vân mạch [13], [40].
1.2.4. Động mạch cấp máu cho ốc tai
Động mạch tai trong có thể tách trực tiếp từ động mạch thân nền hoặc
từ một nhánh một nhánh của động mạch than nền là động mạch tiểu não trước
dưới. Sau khi cấp máu cho dây thần kinh số VIII, động mạch tai trong đi tiếp
bằng một mạch máu nhỏ đường kính khoảng 200 micromet rồi phân thành 3
nhánh tận cấp máu cho mê nhĩ màng [23], [40].

- Động mạch tiền đình: Cấp máu cho phần sau trên của cầu nang và
xoan nang đầu bóng của 2 ống bán khuyên nằm và đứng.
17
- Động mạch tiền đình _ốc tai: Cấp máu cho xoan nang và phần lớn
cầu nang rồi chia làm 2 nhánh, một nhánh chạy vào thân và phần
sau của xoan nang, đầu và bong của ống bán khuyên đứng ngang,
một nhánh đến vòng xoắn ốc tai.
- Động mạch ốc tai : Đi vào trụ ốc cấp máu cho ốc tai và cho một
nhánh nối với động mạch tiền đình_ốc tai.
Ốc tai được cấp máu bởi một mạch máu nhỏ và rất ít nhánh nối, do đó
phần ốc tai có thể bị đe doạ khi một trong những động mạch sau bị thiếu máu:
Động mạch tai trong, động mạch tiểu não trước dưới, động mạch thân nền
hoặc đọng mạch đốt sống.
1.2.5. Dây thần kinh ốc tai
+ Dây thần kinh ốc tai: Dây thần kinh ốc tai có nguyên uỷ từ các hạch
xoắn, từ các hạch này các tế bào hướng tâm 2 cực cho sợi đi ra các tế bào
lông trong và tế bào lông ngoài để cảm giác âm thanh, còn các sợi đi vào tạo
thành các dây nhỏ qua trụ ốc tai tới đáy ống tai trong tụ họp thành dây thần
kinh ốc tai.
Phần ốc tai và tiền đình của dây VIII nằm trong một bao chung trong
ống tai trong, có liên quan đến dây thần kinh mặt, sau đó thoát ra ở lỗ tai
trong rồi đến hành tuỷ [3], [33], [34] .
18
Hình 1.8. Thần kinh thính giác [ ]
1.3 SINH LÝ NGHE
Sinh lý nghe có 2 phần cơ bản là:
- Sinh lý nghe truyền âm .
- Sinh lý nghe tiếp âm.
Trong phạm vi này chúng tôi chỉ giới hạn trình bày phần sinh lý nghe
tiếp âm.

Sinh lý nghe tiếp âm:
• Sự pháp sịnh xung động từ ốc tai:
Trong loa đạo luôn có điện thế thường xuyên, khi kích thích âm sẽ xuất
hiện điên thế vi âm và điện thế tập hợp dẫn đến sự giải phóng các chất trung
gian hoá học trong các tế bào long làm xuất hiện điện thế hoạt động ở khớp
thần kinh. Điện thế hoạt động truyền qua sợi thần kinhvà chuyển thành luồng
thần kinh.
• Đường dẫn truyền thần kinh thính giác:
Sau khi năng lượng của song âm được truyền vào ngoại dịch của tai
trong qua cửa sổ bầu dục, năng lượng của song âm này sẽ tác động lên cơ
quan Corti và cơ quan Corti sẽ chuyển chúng thành các xung động thần
19
kinhtheo các sợi trục của các tế bào long, tập trung về hạch Corti rồi dẫn
truyền theo bó loa đạo của dây thần kinh số VIII, đi trong ống tai trong vào
than não than não. O than não,bó loa đạo chia làm nhiều bó nhỏ đi dến nhiều
nhân thần kinh như nhân ốc lưng, nhân ốc bụng, phức hợp tram trên, củ não
sinh tư dưới và cuối cùng tập trung lại đi theo thuỳ thái dương một và hai của
vỏ não, đó là trung khu phân tích thính giác[3], [13], [40] .
1.4 BỆNH HỌC ĐIẾC ĐỘT NGỘT
1.4.1 Nguyên nhân điếc đột ngột
Điếc đột ngột có thể xảy ra do tổn thương tại ốc tai hoặc dây thần kinh
thính giác hay tổn thương thần kinh trung ương.
1.4.1.1 Nguyên nhân do ốc tai
Đến nay đã có rât nhiều công trình nghiên cứu về nguyên nhân gây ra
điếc đột ngột nhưng vấn đề này vẫn còn nhiều khó khăn, phần lớn các trường
hợp không tìm thấy nguyên nhân.Một số giả thuyết về nguyên nhân bệnh sinh
được nhiều tác giả nhắc đến đó là: Thuyết do virus, dp mạch máu, do miễn
dịch…
• Do virus:
Wilson và cộng sự (1983) [55] nghiên cứu trên 122 bệnh nhân bị điếc

đột ngột và thấy rằng có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm bị nhiễm virus và
nhóm chứng.
Những nghiên cứu trên xương thái dương của Schuknecht[41] cho thấy
rằn có mối lien quan giữa điếc đột ngột và tình trạng nhiễm virus. Người ta đã
tìm thấy virus hoặc kháng thể kháng virus trong ngoại dịch của bệnh nhân bị
điếc đột ngột.
20
Trên thế giới đã có tác giả phân lập và nuôi cấy được virus quai bị
trong ngoại dich của bệnh nhân bị điếc đột ngột, huyết thanh học chẩn đoán
cũng đã được tiến hành và khoảng 6 % các trương hợp đã tìm thấy kháng thể
IgM kháng loại virus này.Nghiên cứu của Albers và Schirm trên động vật thí
nghiệm cũng cho thấy sự thay đổi của cơ quan Corti, màng đáy, vân mạch,
thần kinh ốc tai và cơ quan tiền đình, khi ngừng cung cấp máu cho tai trong
[31].Các bệnh lý có thể gây ra điếc đột ngột như : Quai bị, thuỷ đậu,
Zona,HIV, nhiễm khuẩn bạch cầu đơn nhân…
Trước đây khi chưa có vacxin, tỷ lệ điếc do sởi cỏ thể chiếm tới 5-10%
nhưng từ khi có vacxin phòng bệnh thì tỷ lệ sởi gây biến chứng điếc giảm
xuống đáng kể chỉ còn 1%[52].
David và Johnson [31] đã chứng minh khả năng virus cúm và quai bị
có thể tác động vào tai trong.
• Do mạch máu:
Nghiên cứu của Kimura và Perlman (1957) [48] cho thấy rằng ngừng
cung cấp máu của động mạch tai trong ở chuột lang trên 30 phút sẽ dẫn tới
mất chức năng của ốc tai không thể hồi phục.Suga và cộng sự nhấn mạnh
những thử nghiệm gây tắc mạch của động mạch ốc tai gây nên hiên tượng mất
của ốc tai trong vòng 60 giây[48].
Nhiều bằng chứng thuyết phục về nguyên nhân của điếc đột ngột được
rút ra từ những so sánh mô bệnh học của xương thái dương người với những
mẫu động vật.
Các bệnh lý mạch máu có thể gây điếc đột ngột như:

- Tăng huyết áp
- Bẹnh Berger
- Bệnh máu tăng đông
- Tăng độ nhớt của máu
21
Các bệnh lý này có thể gây ra hiện tượng tắc mạch,co thắt mạch, hoặc
vỡ mạch ở ốc tai dẫn đến điếc đột ngột.
• Do nguyên nhân miễn dịch:
Điếc đột ngột có thể gặp trên những bệnh nhân bị Luput, viêm nút
quanh động mạch hay hội chứng Cogan.Theo McCabe điếc đột ngột có lien
quan đến bệnh tư miễn ở tai trong.Test ức chế miễn dịch dương tính ở những
bệnh nhân nghiên cứu, và việc điều trị bằng corticoid có kết quả tốt cũng
chứng minh cho giả thuyết này.
• Do nhiễm độc:
- Nhiễm độc do thuốc đứng hang đầu, trong đó chủ yếu là nhiễm độc
kháng sinh nhóm Aminozid.Do sự lắng đọng của thuốc trong nội
dịch tai tronggây ra những hậu quả kéo dài ngay cả khi đã ngừng sử
dụng thuốc.
- Nhiễm độc do rượu
- Nhiễm độc do thuốc lá
• Do rối loạn chuyển hoá:
Các nguyên nhân gây ra rối loạ chuyể hoá toàn thể:
- Suy thận
- Nhiễm toan máu do nguyên nhân tại thận
- Đái tháo đường
- Tăng lipid máu
- Suy giáp trạng
Các rối loạn chuyển hoá thường đưa đến ting trạng thiếu máu của tai
trong hoặc gây tình trạng nhiễm độc tai trong.
• Do các bệnh máu

- Bệnh của hệ thống tạo máu
- Bệnh đa hồng cầu (Vaquez)
22
- Bệnh hồng cầu hình liềm
- Bệnh đông globulin
Sự thiếu máu và chứng nghẽn mạch sẽ gây nên sự thiếu hụt máu ở
trong ốc tai và sẽ dẫn đến thiếu máu thứ phát của các tế bào long và vân mạch
là nguyên nhân gây nên điếc tai trong.
• Nguyên nhân do chấn thương
Chấn thương làm rách mê nhĩ màng, gây rò ngoại dịch, vỡ xương đá,
chấn thương do áp lực, do chấn động âm quá lớn, hoặc sau phẫu thuật vào
vùng cửa số tròn và cử sổ bầu dục.Cũng có thể gặp điếc đột ngột sau khi bị
điện giật, Sau khi điều trị tia xạ…
• Rò mê đạo: Các nguyên nhân gây rò ngoại dịch tai trong bao gồm
- Do chấn thương chủ yếu là vỡ xương đá.
- Do sang chấn vào vùng khớp bàn đạp tiền đình: Sang chấn này có
thể gặp trong phẫu thuật thay thế xương bàn đạp.
- Do Cholesteatoma trong bệnh lý tai xương chũm, gây tổn thương
ống bán khuyên ngang và cửa sổ tròn
- Rò mê đạo sau một kích thích âm quá mạnh.
- Rò mê đạo có thể gặp sau một viêm do lao, giang mai
1.4.1.2 Nguyên nhân sau ốc tai
Tổn thương sau ốc tai có thế do bệnh lý ở dây thần kinh thính giác hoặc
hệ thống thần kinh trung ương.
• Do tổn thương dây thần kinh thính giác
- U dây thần kinh số VIII.
- U góc cầu tiểu não
- Viêm dây thần kinh thị giác.
23
• Do tổn thương hệ thống thần kinh trung ương

- Thiểu năng tuần hoàn : Động mạch cột sống than nền
- Khối u hành não cầu
- U củ não sinh tư
- Bệnh xơ cưng rải rác
1.4.1.3 Điếc đột ngột không tìm thấy nguyên nhân (Idiopathic)
Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu về nguyên nhân điếc đột ngột, nhưng
phần lớn các trường hơp không tìm thấy nguyên nhân. Người ta ước tính có
tới 90 % các trường hợp điếc độy không tìm thấy nguyên nhân.Nhưng có một
số giả thuyết về nguyên nhân bệnh sinh được nhiều người nhắc đến là: Thuyết
do virus, do mạch máu, do rách màng ốc tai và do nguyên nhân tự miễn.
1.4.2. Chẩn đoán
1.4.2.1 Lâm sàng
- Nghe kém: là triệu chứng chủ yếu, nghe kém ở 1 hoặc 2 bên tai, xuất
hiện một cách đột ngột. Người bệnh mô tả một cach chính xác ngày giờ họ
thấy xuất hiện nghe kém. Bệnh thường xảy ra vào ban đêm hoặc lúc buỏi sang
ngủ dậy. Đa số nghe kém xuất hiện và tiến triển nhanh trong vòng vài phút đến
vài giờ. Cũng có khi nghe kém xuất hiện rồi tăng dần trong vòng một vài ngày.
Nghe kém ở nhiều mức độ khấc nhau, đa số là điếc nặng có khi là điếc đặc.
- Các triệu chứng đi kèm:
*Ù tai: Ù tai là triệu chứng gây khó chịu nhất cho người bệnh, có thể ù
tai tiếng trầm, nhưng đa số là ù tai tiếng cao như tiếng ve kêu, tiếng còi tàu…
Ù tai thường xuất hiện cùng với nghe kém nhưng có khi ù tai xuất hiện
trước nghe kém
24
• Chóng mặt: Có thể có bệnh nhân bị chóng mặt quay thật sự nếu có
tổn thương ở phần tiiền đình ngoại biên, hoặc chỉ có thể là mất cảm
giác thăng bằng hay bồng bềnh như say song nếu tổn thương phần
tiền đình trung ương.
• Cảm giác đầy tai: Người bệnh mô tả như bị đút nút tai.
• Ngoài ra có thể gặp : Đau tai, sốt, đau đầu

1.4.2.2 Cận lâm sang
- Đo thính lực bằng âm thoa: Cho thấy là một điếc tiếp nhận Weber lan
về bên lành.
- Thính lực đồ đơn âm: Điếc tiếp nhận ở các mức độ khác nhau.
Ngưỡng nghe đường khí và đường xương đều tăng, nhưng ở mỗi tần số
ngưỡng nghe đường khí và đường xương không quá lệch nhau 10 dB, biểu đồ
dường khí và đường xương luôn song hành.
1.4.3 Định khu tổn thương
- Những tổn thương ở ốc tai có thể phát hiện được nhờ đo phản xạ cơ
bàn đạp, đo âm ốc tai hoặc đo trren ngưỡng tìm hôì thính (Recruitment)
• Âm ốc tai (OAE-Oto Acoustic Emissions)
OAE là những tín hiệu âm thanh thu được ở ống tai, chúng có nguồn
gốc từ những dao động trong ốc tai tạo nên. Tuy những âm thanh này rất yếu,
nhưng vẫn có thể thu được.
Sở dĩ ta thu được tín hiệu âm thanh này là do cơ chế rung động tạo âm
thanh của màng nhĩ sau khi nhậnh được năng lượng bắt nguồn từ những dao
động trong ốc tai truyền qua hệ thống xương con đến màng nhĩ tạo nên.Do đó
các âm thanh này chỉ đo được khi tai giữa hoạt động bình thường.OAE chỉ
được tạo ra khi cơ quan Corti ở trạng thái bình thường hoặc gần như bình
thường. Chúng có thể xuất hiện một cách tự phát nhưng chủ yếu là sự xuât
hiện sau khi nhận được các tín hiệu âm thanh kích thích ở bên ngoài.
25

×