Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.51 KB, 46 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
LỜI CẢM ƠN
Trước khi bắt đầu bài viết chuyên đề tốt nghiệp này em xin gửi lời cảm ơn
chân thành tới trường “Đại Học Công Nghiệp TP.Hồ Chí Minh”. Nơi mà trong
suốt thời gian qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho em được học tập, rèn luyện và tìm
hiểu thêm những kiến thức mới những trí thức mới.
Và em xin được gửi lời cám ơn chân thành và lời tri ân sâu sắc đến thầy cô
giáo trường Đại Học Công Nghiệp TP.Hồ Chí Minh chi nhánh Thanh Hóa, đã
truyền đạt những kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm bổ ích trong suốt quá trình
học tập, đặc biệt cô giáo Trần Thị Hường là những người đã trực tiếp tham gia
giảng dạy, tận tình quan tâm hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt
nghiệp.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Khánh
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường



























CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
BL……………………………………………………….………………….Bảo lãnh
NH……………………………………………………….……………….Ngân hàng
NHNN……………………………………………… Ngân hàng Nhà nước
NHTM………………………………………………… …Ngân hàng Thương mại
TCTD………………………………………………………….… Tổ chức tín dụng
WTO………………………………………………… Tổ chức thương mại quốc tế
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU……………………………………………………………… 5
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
1. Lý do chọn đề tài ………………… …………………………………….…5
2. Mục đích và phương pháp viết chuyên đề……………………………….
… 5
3. Nội dung chuyên đề………………………………………………………….6

PHẦN II: NỘI DUNG…………………………………………………………….8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
VIỆT NAM……………………………………………………………………… 7
1.1 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM………………………… 7
1.2 Nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM…………………… 9
1.3 Sự cấp thiết và nội dung xử lý nợ xấu trong hệ thống NHTM……………11
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM VIỆT
NAM……………………………………………………………… 16
2.1 Thực trạng và nguyên nhân nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam… 16
2.1.1 Thực trạng nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam……………… 16
2.1.2 Nguyên nhân nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam…………… 21
2.2 Đánh giá chung về tình hình nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam… 24
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP XỬ LÍ NỢ XẤU VÀ PHÒNG NGỪA, HẠN CHẾ
NỢ XẤU GIA TĂNG TRONG HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM ………….27
3.1 NHTM chủ động xử lý nợ xấu ………………………………………….27
3.2 Giải pháp đối với khách hàng vay vốn của NHTM……………………29
3.3 Giải pháp về cơ chế chính sách……………………… …………………30
3.4 Giải pháp về thanh tra giám sát………………………………………….43
3.5 Thành lập công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam theo
đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt…………………………….44
PHẦN III: KẾT LUẬN………………………………………………………….46
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….47
PHẦN I. MỞ ĐẦU
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
1. Lý do chọn đề tài
Sau 20 năm đổi mới, chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng kể.
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là có tốc độ tăng trưởng cao, ổn
định, có môi trường đầu tư an toàn trong khu vực và trên thế giới. Đóng góp vào sự

thành công đó phải kể đến là ngành Ngân hàng. Với sự chỉ đạo của Ngân hàng
Trung ương cũng như sự phát triển và hoạt động có hiệu quả của các ngân hàng
thương mại mà đã huy động được một lượng vốn lớn, đáp ứng được nhu cầu phát
triển của đất nước, cũng như cung cấp các dịch vụ, tiện ích về Ngân hàng - Tài
chính cho khách hàng góp phần đưa đất nước phát triển theo hướng hiện đại, theo
kịp với trình độ của thế giới. Tuy nhiên do sự chuyển đổi cơ chế còn chậm, trình
độ còn kém nên ngành Ngân hàng cũng đã gặp nhiều khó khăn trong chính sách
cũng như quản lý và hoạt động, đặc biệt là vấn đề "nợ xấu" gây ảnh hưởng tới sự
phát triển của ngành, làm cho tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại trở
nên yếu kém, khả năng cạnh tranh giảm sút. Nhất là hiện nay khi chúng ta trở
thành thành viên chính thức của WTO thì vấn đề này đã gây ra nhiều thách thức
trong việc cạnh tranh với nước ngoài, tăng rủi ro trong hoạt động ngân hàng, giảm
lòng tin khách hàng và tất nhiên ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước.
Thời gian gần đây, vấn đề này đã trở thành vấn đề nóng hơn bao giờ hết trong nền
kinh tế Việt Nam. Với lí do trên, em đã chọn đề tài: "Xử lý nợ xấu trong hệ thống
Ngân hàng Thương mại Việt Nam" để làm đề tài cho môn Chuyên đề tốt nghiệp.
2. Mục đích và phương pháp viết chuyên đề
• Mục đích viết chuyên đề
- Chính vì thời gian gần đây, “nợ xấu” đã trở thành vấn đề nóng hơn bao giờ hết
trong nền kinh tế Việt Nam nên em viết chuyên đề “Xử lý nợ xấu trong hệ thống
Ngân hàng Thương mại Việt Nam” với mục đích hi vọng rằng nó sẽ giúp giải
thích phần nào nguyên nhân, thực trạng và giải pháp về vấn đề này.
• Phương pháp viết chuyên đề
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
- Phương pháp thu thập: Thu thập thông tin thứ cấp từ Internet, sách vở và tài liệu
- Phương pháp phân tích tổng quát: Đưa ra nhận xét chung về vấn đề phân tích để
đánh giá một cách tổng quát vấn đề.
- Phương pháp phân tích chi tiết: Đánh giá cụ thể từng phần riêng biệt trong tổng
thể để đưa ra giải pháp cho từng phần.

3. Nội dung chuyên đề
Chuyên đề gồm 3 chương sau:
• Chương 1: Cơ sở lý luận về nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam
• Chương 2: Thực trạng nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam
• Chương 3: Giải pháp xử lí nợ xấu và phòng ngừa, hạn chế nợ xấu gia tăng
trong hệ thống NHTM Việt Nam
PHẦN II. NỘI DUNG
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG
NHTM VIỆT NAM
1.1 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM
1.1.1 Khái niệm rủi ro
Rủi ro là một sự cố không chắc chắn xảy ra hoặc ngày giờ xảy ra không chắc
chắn.
Tuy nhiên, không phải sự không chắc chắn nào cũng là rủi ro. Chỉ có những
tình trạng không chắc chắn có thể ước đoán được xác suất xảy ra mới được xem là
rủi ro.
Nguyên nhân gây rủi ro trong hoạt động NHTM: Nguồn tiền của các NHTM
đang thay đổi mạnh mẽ do gia tăng cạnh tranh trong hệ thống NH, giữa các NH với
các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn vốn do
ngân hàng huy động được ngày càng di chuyển một cách dễ dàng từ ngân hàng này
sang ngân hàng khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Sự thay đổi của tỷ giá
hối đoái, lãi suất làm phá vỡ sự ổn định của thị trường vốn và thị trường tiền tệ và
có khả năng gây ra rủi ro cho hoạt động NHTM.
1.1.2 Bản chất của rủi ro tín dụng
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dung là hoạt động kinh doanh
đem lại lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn rủi ro
rất lớn. Các thống kê và nghiên cứu cho thấy rủi to tín dụng chiếm đến 70% trong
tổng rủi ro hoạt động ngân hàng. Mặc dù hiện nay đã có sự chuyển dịch trong cơ

cấu lợi nhuận của ngân hàng, theo đó thu nhập từ hoạt động tín dụng có xu hướng
giảm xuống và thu dịch vụ có xu hướng tăng lên nhưng thu nhập từ tín dụng vẫn
chiếm từ ½ đến 2/3 thu nhập ngân hàng. Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi
ro, theo đuổi lợi nhuận với rủi ro.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về rủi ro tín dụng như sau:
- Theo Thomas P.Fitch: rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay không
thanh toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ trả
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
nợ. Cùng với rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro chủ yếu trong
hoạt động cho vay của NH.
- Theo Henneie van Greuning- Sonja B rajovic Bratanovic: rủi ro tín dụng được
định nghĩa là nguy cơ người đi vay không thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc
so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Điều này gây ra sự cố đối với
dòng chu chuyển tiền tệ và điều này ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân
hàng.
- Theo PGS.TS Phan Thị Cúc: rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh khi một trong các
chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng không có khả năng thanh toán cho các chủ thể
còn lại. Đối với bản thân NHTM rủi ro tín dụng gây nên hậu quả là NH không thu
được đầy đủ cả gốc và lãi của các khoản cho vay hoặc là thời hạn nhận lại nợ gốc
và lãi kéo dài so với hợp đồng đã ký kết giữa ngân hàng và khách hàng.
Căn cứ vào Khoản 01 Điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng (Ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005) thì:
“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy
ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không
thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.”
Như vậy có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan
hệ mà trong đố NH là chủ nợ, mà khách hàng nợ lại không thực hiện hoặc không
đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho

vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo
lãnh, bao thanh toán của NH.
Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi
ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của NH.
Bản chất
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất
của NHTM. Khi quyết định thực hiện một khoản tài trợ NH xét xét phân tích nhằm
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
đảm bảo độ an toàn cao nhất cho khoản vay. Tuy nhiên khả năng hoàn trả tiền vay
của khách hàng chịu sự tác động của nhiều yếu tố những yếu tố bất ngờ không thể
dự đoán trước. Mặt khác việc phân tích tín dụng còn phụ thuộc vào khả năng hay
các yếu tố củ quan của cán bộ NH. Vì vậy có thể nói rủi ro tín dụng là không thể
tránh khỏi và tồn tại khách quan gắn liền với hoạt động kinh doan của NH, nó chỉ
có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. Rủi ro tín dụng chính là khoản lỗ
tiềm tàng vốn có, được tạo ra khi NH cấp tín dụng.
1.2 Nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM
• Theo quan điểm quốc tế
Ở các nước trên thế giới khái niệm về nợ quá hạn ( Non- Performing Loan) là
khoản nợ mà NH không thu hồi được khi đến hạn. Nợ xấu ( Bad Debt) là khoản nợ
mà hầu như không có khả năng thanh toán, nợ tồn đọng dây dưa khó có thể thu
hồi.
Theo chuẩn quốc tế, nợ xấu là những khoản nợ quá hạn không đòi được và
không được tái cơ cấu.
Các NH lớn trên thế giới hiện nay phân loại nợ xấu gắn với nguyên nhân xảy ra
để xác định mức độ rủi ro tương ứng. Theo một số tiêu chí của NHTW Liên Minh
Châu Âu, có thể xác định nợ xấu của các NHTM như sau:
- Những khoản nợ không thể thu hồi được:
+ Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc không có căn cứ bồi thường.
+ Người mắc nợ bỏ trốn hoặc mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ.

+ Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ nhưng phần
còn lại không thể đền bù hoặc những khoản nợ được thanh toán bằng cách bán tài
sản thế chấp nhưng vẫn chưa trang trải toàn bộ nợ.
+ Những khoản nợ mà người mắc nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh hoặc bị kinh
doanh thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
- Những khoản nợ có thể không thanh toán toàn bộ cho Ngân hàng
+ Những khoản nợ mà không thể liên lạc với người mắc nợ hoặc không thể tỉm
được người mắc nợ.
+ Những khoản nợ mà người trả nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu sắp xếp lại lịch trả
nợ trong thời gian thỏa thuận.
+ Những khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ và hoàn trả khi đến hạn
hoặc tài sản thế chấp ở NH không hợp pháp và hoạt động kinh doanh của người
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
mắc nợ bị thua lỗ trong một vài năm hoặc việc kinh doanh bị chấm dứt, hoặc đang
trong quá trình thanh lý tài sản và điều đó cho thấy khách hàng không thế trả nợ
cho NH đầy đủ.
+ Những khoản nợ đến hạn thanh toán và hoàn cảnh cho thấy sự can thiệp của Tòa
án hoặc Tòa án can thiệp buộc phải trả nợ.
+ Những khoản nợ mà Tòa Án tuyên bố người mắc nợ bị phá sản và NH đã yêu
cầu trả nợ và cho rằng phần bồi hoàn sẽ ít hơn dư nợ.
• Theo quan điểm của Việt Nam:
- Các khoản nợ phát sinh trong hoạt động kinh doanh của NH bao gồm: các khoản
cho vay, ứng trước, thấu chi, cho thuê tài chính, các khoản chiết khấu, tái chiết
khấu giấy tờ có giá, các khoản bao thanh toán và các hình thức tín dụng khác.
Trong đó nợ xấu là các khoản nợ mang đặc trưng:
+ Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi cam kết này đến hạn.
+ Tình hình tài chính của khách hàng đang có chiều hướng xấu dẫn đến việc NH
có thể không thu hồi được cả vốn lẫn lãi .
+ Tài sản đảm bảo ( thế chấp, cầm cố, bảo lãnh…) được đánh giá là giá trị phát

mãi không đủ trang trải nợ gốc lẫn lãi.
+ Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất 90 ngày.
- Theo Quyết định 493/2005/QĐ- NHNN của Thống đốc NHNN thì nợ xấu được
hiểu như sau: Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4,5 bao gồm:
+ Nợ dưới tiêu chuẩn ( nợ nhóm 3): các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày; các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu
lại. Các khoản nợ này được TCTD đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc
và lãi khi đến hạn và có khả năng tổn thất một phàn nợ gốc và lãi.
+ Nợ nghi ngờ ( nợ nhóm 4): gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360, các
khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn đã
được cơ cấu lại. Các khoản nợ này được TCTD đánh giá là khả năng tổn thất cao.
+ Nợ có khả năng mất vốn ( nhóm 5): gồm các khoản nợ quá hạn trên 360, các
khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ
quá hạn trên 180 ngày theo thời gian đã được cơ cấu lại. Các khoản nợ này được
TCTD đánh giá là không còn khả năng thu hồi vốn, mất vốn.
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
Ngoài ra, trong trường hợp 1 khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với
TCTD mà có bất cứ khoản nợ nào chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao thì TCTD bắt
buộc phải phân loại khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào nhóm nợ rủi ro cao
hơn tương ứng với mức độ rủi ro; trường hợp các khoản nợ ( kể cả các khoản nợ
trong hạn theo thời hạn nợ cơ cấu lại) mà TCTD có đủ cơ sở để đánh giá khả năng
trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì TCTD chủ động tự quyết định phân loại các
khoản nợ đó vào nhóm nợ rủi ro cao hơn.
1.3 Sự cấp thiết và nội dung xử lý nợ xấu trong hệ thống NHTM
1.3.1 Ảnh hưởng của nợ xấu đến hoạt động của ngân hàng thương mại
Nếu các khoản nợ xấu này lớn, tức là khả năng thu hồi các khoản nợ khách
hàng của NH thấp. Do đó NH phải dùng vốn để trang trải cho các khoản thất thoát
này thì đến một chừng mực nào đó sẽ không thể thực hiện việc "xóa sổ" những
khoản thất thoát này, ngân hàng có thể bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh

toán cho người gửi tiền. Ngân hàng là ngành kinh tế nhạy cảm, phụ thuộc vào
những lòng tin, do đó khi thông tin khả năng trả nợ ngân hàng là không chắc chắn,
người gửi tiền sẽ đổ xô đi rút tiền làm ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản. Ngoài
ra ngân hàng Trung ương của bất kì quốc gia nào cũng đều có nhiệm vụ bảo đảm
hệ thống ngân hàng hoạt động một cách an toàn và ổn định. Vì nếu có sự thất thoát
trong hoạt động tín dụng nào đó dù chỉ là 1 ngân hàng và ở 1 mức độ nhất định nào
đó cũng sẽ đe doạ tới sự tan toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Thế giới hiện nay là thế giới của toàn cầu hoá và hội nhập hoá Việt Nam
cũng không nằm ngoài quy luật này bởi vì ngày 11/06/2007 Việt Nam chính thức
gia nhập WTO - Tổ chức thương mại thế giới, đánh dấu bước ngoặt lớn của nền
kinh tế Việt Nam khi bước vào một sân chơi mới đồng thời đặt ra nhiều cơ hội
nhưng cũng đầu thách thức. Cải cách khu vực ngân hàng thương mại là một trong
những chủ trương cải cách khu vực Ngân hàng thương mại là một trong những chủ
trương cải cách hàng đầu mà Chính phủ luôn theo đuổi với mục tiêu từng bước hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Bởi vậy vấn đề nợ xấu lớn trong các Ngân
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
hàng thương mại là một thách thức trên con đường hội nhập. Có xử lí được vấn đề
này, năng lực cạnh tranh của các NHTM mới được cải thiện. Từ năm 2010, các
hạn chế, phân biệt giữa ngân hàng trong và ngoài nước đã được xoá bỏ, chấm dứt
sự bảo hộ ở nhà nước, các NHTM thực sự đang chịu sự cạnh tranh khốc liệt. Do
đó, giải quyết những tồn tại, hạn chế trong hệ thống Ngân hàng thương mại là rất
cần thiết, đặc biệt là vấn đề xử lý nợ xấu cần được quan tâm, chú ý hơn.
1.3.2 Nội dung xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại
Khi xử lí các khoản nợ xấu, NHTM có 2 sự lựa chọn tổng quan: khai thác
hoặc thanh lí khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoán
cho vay được trả một phần hay toàn bộ người không dựa vào các công cụ pháp lí
để ép buộc thu ngân thanh lí là ép người vay tuân theo các điều khoản của hợp
đồng cho vay, áp dụng và thực hiện tất cả biện pháp pháp lí để đạt mục tiêu. Các
yếu tố chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn mà NH sẽ theo đuổi để xử lí những khoản

cho vay. Nổi bật nhất là khó khăn trong việc thu ngân và tổn thất có thể xảy ra đối
với khoản cho vay, trong trường hợp này NH phải áp dụng hình thức thu ngân bắt
buộc theo luật. Bên cạnh đó có các yếu tố như sự thật thà và thái độ của người vay
đối với các khoản nợ, sức mạnh tài chính là khả năng chi trả của người vay, mặc
dù cần thiết thời gian đáng kể, giá trị của người vay đối với NH, chi phí kèm theo
việc thu NH khôi phục cho người vay và phương pháp nào sẽ đem lại lợi ích lớn
nhất cho ngân hàng trên số vốn đã và đang bị khó khăn. Một yếu tố cuối cùng cần
phải quan tâm là thái độ của chủ nợ, mà điều này xảy ra rất nhiều. Trong việc xử lí
ngoài phạm vi của toà án, sự sắp xếp các việc phải làm cần được những người liên
quan chấp nhận. Một người phản đối có thể làm cho kế hoạch không được thực
hiện phải thuyết phục của chủ nợ này rằng, họ được lợi bằng cách cộng tác với một
kế hoạch được đề nghị hơn là hoạt động đơn phương
Khi người vay gặp khó khăn về tài chính, NH thường tham gia tổ chức khai
thác, dĩ nhiên phải đặt trong giả thuyết người vay thật thà thái độ của họ đối với
khoản nợ và chi trả là thoả đáng. Điều này đặc biệt đúng, nếu như người vay có
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
vốn lớn trong doanh nghiệp, một số tài sản cố định có giá trị, một tổ chức có thể
tạo lợi nhuận đủ số lượng để hoàn trả khoản vay đáng nghi vấn, cũng như những
khoản cho vay khác cần cho việc duy trì doanh nghiệp, nếu người vay không thể
trả nợ theo nghĩa sự vỡ nợ thì NH nên thực hiện thanh lí. Hầu hết các khoản cho
vay khó đòi tại NHTM được xử lí bằng phương pháp khai thác, nghĩa là người vay
được phép tự khắc phục khó khăn tài chính và hoàn trả các khoản nợ NH càng
nhanh càng tốt. Vì tổ chức khai thác không phải là một công cụ pháp lí, nó có thể
có một số hình thức khác nhau giữa những khoản cho vay các biện pháp có thể bao
gồm lời khuyên trên nhiều chủ đề nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu lợi tức
của người vay, gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay để giảm bớt quy mô
hoàn trả cấp phát thêm vốn nhằm tạo cho người vay có được vị thế tài chính mạnh
hơn NH nắm phần chủ động trong hoạt động kinh doanh nó, cho đến khi bảo đảm
rằng, khoản cho vay sẽ được hoàn trả. Khi bất cứ khoản cho vay nào đến giai đoạn

khó khăn, lập tức NH áp dụng biện pháp để bảo đảm thế chấp và một thoả thuận
bảo đảm trên mọi tích sản khả dụng của người cho vay. Nếu NH thấy rõ là việc tổ
chức khai thác không tiện lợi, sự thanh lí dưới 1 trong vài hình thức có thể được
coi là cách hay nhất để xử lí một khoản cho vay đã trở thành nghi ngờ và nợ có khả
năng mất vốn (thuộc nhóm 4, 5). Khi phương pháp này được lựa chọn, có nghĩa là
NH đã quyết định sau khi cần nhất tất cả mọi yếu tố kể trên người nhận thấy rằng
khả năng cải thiện tình hình tài chính của người vay là xa vời, việc gia hạn hợp
đồng cho vay hay cấp thêm vốn là mạo hiểm NH sẽ bớt được một tỷ lệ % vốn cấp
phát, biện pháp thanh lí là tối ưu nhất. Sự thanh lí nhanh chóng được thực hiện
trong những trường hợp tư tưởng không sẵn lòng chi trả đã rõ, hành động lừa đảo
hay không thật thà đã bộc lộ, tình trạng vỡ nợ đã hiện ra, tình hình tài chính của
người vay là vô vọng, hay không có ý muốn trả nợ. Có một số biện pháp thực hiện
việc thanh lí: Nếu khoản cho vay được bảo đảm, có thể bán nó đi, thường thì nó
không đem lại mức giá thị trường hợp lí. Trong trường hợp khối lượng nhận được
từ việc bán vật thế chấp không đủ thanh toán nợ, NH có thể nhận phán quyết của
toà án về khoản chênh lệch phán quyết như thế cho phép NH quyền thu thêm nếu
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
người vay có các tích sản. Nhân việc NH có thể thực hiện thanh lí với sự giúp đỡ
của chuyên gia tư vấn pháp luật của NH hay bộ phận liên quan đến những khoản
cho vay có vấn đề và thành viên của bộ phận tham mưu có chuyên môn về lĩnh vực
này. Cuối cùng một nhân viên thanh lí chuyên nghiệp được NH thuê xử lí việc
thanh lí. Một hình thức thanh lí khác là tái sở hữu các hàng hoá tiêu dùng lâu bền
trong một số trường hợp tư liệu sản xuất, được bán theo hợp đồng bán có điều kiện
và mua lại từ một nhà buôn. Quá trình này được thực hiện bằng cách giữ lại hàng
hoá sau đó tiến hành bán với giá nào đó hy vọng có thể trả hết nợ. Trong trường
hợp ngân hàng quyết định sử dụng biện pháp xử lý để thu hồi số nợ vay không bảo
đảm, phán quyết cần phải có từ toà án thích hợp. Phán quyết này cho phép nắm giữ
người bán tài sản của người thiếu nợ với số lượng phù hợp với quyết định của toà
án hay trừ vào lương theo mức được luật pháp cho phép. Nếu NH là một trong số

các chủ nợ và ai cũng muốn lấy lại tiền và có vị thế mạnh tương ứng như NH thì
một uỷ ban chủ nợ có thể được thành lập. Cách giải quyết này không áp dụng cho
trường hợp phá sản và cũng có thể áp dụng phương pháp khai thác. Phá sản có 2
hình thức bồi thường cơ bản cho các chủ nợ, thanh lí và hồi phục. Phá sản có thể
miễn cưỡng hay cố ý. Nó là biện pháp cuối cùng theo quan điểm của các chủ nợ.
NH hay bất cứ chủ nợ nào khác bao giờ cũng mong muốn nhận được phần đáng kể
các khoản cho vay từ quá trình thanh lí nhưng thực tế thường không được như
mong muốn. Trong nhiều trường hợp, nó được áp dụng khi các chủ nợ không thể
đạt thoả thuận hợp lý liên quan đến các biện pháp phải thực hiện để thu hồi được
vốn vay, hay khi 1 chủ nợ nhỏ nào đó từ chối tiến hành một thoả thuận hợp tác hay
khi người vay từ chối làm việc với chủ nợ để cố gắng giải quyết khó khăn tài
chính.
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ XẤU TRONG
HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
2.1 Thực trạng và nguyên nhân nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam
2.1.1 Thực trạng nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam
Tình hình "nợ xấu" trong những năm gần đây đã được đề cập đến nhiều
nhưng hầu như bài toán hóc búa này chưa có lời giải cuối cùng.
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
Ta có thể thấy, tỷ lệ nợ xấu của các NHTM liên tục tăng từ năm 2009, và
đỉnh điểm là năm 2012, tỷ lệ nợ xấu đã lên đến 7,8% dư nợ của các NHTM và có
giảm nhẹ xuống 6% vào năm 2013.
Đến tận thời điểm này, tức là gần 21 tháng kể từ thời điểm Thống đốc
Nguyễn Văn Bình đưa ra một con số nợ xấu ước tính xấp xỉ 10% tại kỳ họp quốc
hội vào tháng 6/2012, NHNN vẫn chưa thể, hoặc chưa dám, công bố con số chính
thức và đáng thuyết phục về quy mô nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Thị trường đã tự có các ước tính của mình, và con số ước tính giao động trong

khoảng từ 12%-17%.
Gần đây nhất, hồi giữa tháng 2/2014, trong lần “phản pháo” lại báo cáo của
Moody’s cho rằng tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào khoảng
15%, một đại diện của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho rằng không có chuyện
nợ xấu cao thế, và lại đưa ra một con số ước tính khác là “chỉ khoảng 9%”.
Con số nợ xấu thấp hơn một nửa này không làm cho thị trường thấy lạc quan
hơn, bởi vì nó vẫn chỉ là một ước tính khác từ phía NHNN, và nó cũng cho thấy
một thực tế là các ngân hàng thương mại (NHTM) trong hệ thống vẫn đang giấu
nợ, bởi vì con số nợ xấu tổng hợp theo báo cáo tài chính của các NHTM đến thời
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
điểm cuối năm 2013 chỉ là 3,8%. Con số này chưa bao gồm những khoản nợ tái cơ
cấu theo quyết định 780/2012/QĐ-NHNN.
Về nguyên tắc hoạt động ngân hàng, nợ “tái cơ cấu” thì phải bị xếp vào
nhóm nợ xấu hơn. Tuy nhiên, quy định 780 đã cho phép các NHTM Việt Nam
được giữ nguyên nhóm nợ ban đầu, không phải chuyển xuống nhóm nợ xấu hơn
với nhiều khoản vay. Theo con số chính thức do NHNN công bố vào tháng
10/2013, thì số nợ tái cơ cấu này lên tới 317.000 tỷ đồng.
Như vậy, dựa trực tiếp vào hai con số chính thức từ phía NHNN, nợ xấu
theo báo cáo tài chính của các NHTM (khoảng 125.000 tỷ) và nợ “tái cơ cấu” theo
quyết định 780 (khoảng 317.000 tỷ), thì con số nợ xấu thực tế của hệ thống ngân
hàng Việt Nam phải vào khoảng 440.000 tỷ đồng, tương đương 20,8 tỷ USD, xấp
xỉ 13,6% tổng dư nợ tín dụng tính đến cuối năm 2013, và bằng khoảng 12,3%
GDP.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sai lệch này: (1) Các số liệu này xuất phát từ
các nguồn khác nhau: Một dựa vào các báo cáo của các TCTD để tập hợp lại, một
nguồn do cơ quan thanh tra của Ngân hàng Nhà nước tìm hiểu; (2) Thời điểm
thống kê cũng khác nhau: con số 4,47% đến 31/5/2012 được tập hợp từ báo cáo
của các TCTD qua hệ thống thống kê. Còn qua hệ thống giám sát từ xa của
NHNN, cụ thể là tới 31/3/2012, tỷ lệ nợ xấu là 8,6%; (3) Tiêu chí để xếp một

khoản vào vào nhóm nợ xấu ở các TCTD cũng có những điểm khác nhau.
Cụ thể tình hình nợ xấu ở các NHTM như sau:
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
Từ biểu đồ trên ta có thể thấy được, Ngân hàng TMCP Xăng Dầu (PG Bank)
đang là ngân hàng dẫn đầu về tỷ lệ nợ xấu, tính đến hết tháng 9.2013, PGBank có
1.240 tỉ đồng nợ xấu chiếm 9,5% trên tổng dư nợ 13.057 tỉ đồng. Ngân hàng
TMCP Nam Việt (Navibank) xếp thứ hai về tỷ lệ nợ xấu khi có 1.034 tỉ đồng nợ
xấu, chiếm 8,87% dư nợ. Navibank có tổng dư nợ cho vay chín tháng đầu năm đạt
11.786 tỉ đồng, âm 9% so với đầu năm. Ngân hàng Phương Nam có tỷ lệ nợ xấu
3,79% (1.650 tỉ đồng) trên tổng dư nợ 43.539 tỉ đồng. So với đầu năm, số tuyệt đối
thì nợ xấu của ngân hàng này đã tăng 474 tỉ đồng. Đặc biệt, nợ có khả năng mất
vốn tăng 25% lên 999 tỉ đồng. Ngân hàng TMCP Đại Dương (Ocean Bank) là
trường hợp ngân hàng có mức độ tăng nợ xấu thuộc loại nhanh nhất trong các ngân
hàng. Thời điểm đầu năm chỉ có 666 tỉ đồng nợ xấu, chiếm 2,26% trên tổng dư nợ.
Tuy nhiên đến 30.9 nợ xấu của Ocean Bank đã tăng lên 1.458 tỉ đồng, chiếm
5,21% trên tổng dư nợ cho vay 27.948 tỉ đồng. Trong cơ cấu nợ xấu, nợ có khả
năng mất vốn chiếm đến 986 tỉ đồng, tương đương 67,7% tổng nợ xấu và gấp hơn
hai lần so với con số 355 tỉ đồng nợ có khả năng mất vốn hồi cuối năm 2013.
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
Trong các ngân hàng có mức vốn hoá nhỏ thì ngân hàng TMCP Nam Á
(Nam A Bank) có tỷ lệ nợ xấu khá thấp 2,17% trên tổng dư nợ. Nam A Bank đã
kiểm soát khá tốt chất lượng tín dụng của mình khi chỉ có 188,5 tỉ đồng nợ xấu trên
8.664 tỉ đồng dư nợ cho vay. So với cuối năm 2012 thì tỷ lệ nợ xấu của Nam A
Bank đã giảm 0,30%. Thời điểm đầu năm 2013, tỷ lệ nợ xấu của Dong A Bank
chiếm 3,95% với gần 2.000 tỉ đồng, nhưng nhờ triển khai các biện pháp xử lý
mạnh đã kéo nợ xấu giảm xuống còn 1.503 tỉ đồng, chiếm 2,93% trên tổng dư nợ.
Nợ xấu của các ngân hàng “top dưới” kể trên có trường hợp tăng hoặc giảm,
thì đối với các ngân hàng được cho là “top trên” nợ xấu hầu hết đều tăng, đặc biệt

là nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5).
Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) có tổng cộng 5.072 tỉ đồng nợ
xấu, chiếm 7,74% trên tổng dư nợ. Tỷ lệ nợ xấu giảm so với 8,5% ở thời điểm cuối
năm 2012, nhưng chất lượng nợ lại kém đi khi có 3.602 tỉ đồng nợ nhóm 5, tăng
74% so với năm 2012 và chiếm 71% trong tổng nợ xấu. Ngân hàng TMCP Á Châu
(ACB) cũng có tỷ lệ nợ xấu vượt chuẩn (3%) khi có 3.491 tỉ đồng nợ xấu, chiếm
3,34% tổng dư nợ, tăng 0,84% so với đầu năm.
Hai ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu nằm trong ngưỡng an toàn là VietinBank
2,47%, Sacombank 2,25%. Tuy nhiên, nợ có khả năng mất vốn của hai ngân hàng
này lại chiếm tỷ trọng cao. VietinBank có 5.431 tỉ đồng nợ nhóm 5, chiếm 63,7%
của tổng nợ xấu. Sacombank có 1.289 tỉ đồng nợ nhóm 5, chiếm 52,4% tổng nợ
xấu.
Một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu ngấp nghé ngưỡng 3% là Vietcombank
2,98%, KienLong Bank 2,73%, MB Bank 2,58%. Nợ xấu ở BIDV là 2,35%,
VPBank 2,27%, Eximbank 1,8%.
Đáng lưu ý trong bức tranh nợ xấu của các ngân hàng thời gian qua là nhóm
nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) mà ngân hàng phải trích dự phòng rủi ro
100%.
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
Theo báo cáo của Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình trước Quốc hội (vào
chiều 30/5/2013 tại phiên thảo luận của kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XIII) thì
hiện nay quán quân về nợ xấu đó chính là NHTM quốc doanh Agribank với 27.803
tỷ và tỷ lệ nợ có khả năng mất vốn trên dư nợ cho vay khách hàng của
BaoVietBank đang ở mức cao nhất với 2,93%, tiếp đến là của LienVietPostBank
với 1,46%; của Vietcombank là 1,42%; của BIDV là 1,22%; của MB là 1,07%; của
KienLongBank là 1,36%.
Nợ có khả năng mất vốn của các ngân hàng khác trong khi đó cũng xấp xỉ
mức 1% trên dư nợ cho vay khách hàng như Vietinbank là 0,86%; của
Techcombank 0,99%; của ACB là 0,81%; PGBank 0,83%

Về con số cụ thể, ngân hàng BIDV có khoản nợ có khả năng mất vốn cao
nhất, lên tới 3.984,4 tỷ đồng; của Vietcombank cũng hơn 2.261 tỷ; của Vietinbank
là 5.431 tỷ đồng. Ngân hàng ACB hiện có 829,1 tỷ đồng nợ có khả năng mất vốn;
MB có 629,4 tỷ; Techcombank là 610,8 tỷ…
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
So với thời điểm cuối năm 2011, nợ có khả năng mất vốn của các ngân
hàng đặc biệt tăng rất mạnh, ngoại trừ KienLongBank giảm gần 4%. Có thể kể đến
một số cái tên như LienVietPostBank tăng đến 53 lần so với cuối 2011 (từ 4,48 tỷ
lên 243,8 tỷ); của BaoVietBank tăng hơn 6 lần từ 23,5 tỷ lên hơn 170 tỷ.
Một số khác cũng có mức tăng nợ nhóm 5 khá mạnh như tại Techcombank
là 1,7 lần; của ACB gần 1,8 lần; Sacombank hơn 1,5 lần, Vietinbank 1,82 lần Ngân
hàng Vietcombank tăng nợ nhóm 5 thêm 41%; của MB tăng 33,5%; của Navibank
tăng 79%.
Tuy nhiên, triển vọng nợ có khả năng mất vốn của các ngân hàng sẽ tăng
chậm lại trong năm 2014, bởi vì các NH đã bắt đầu đẩy mạnh tự xử lý nợ xấu bằng
cách tăng đòi nợ, giãn nợ, khoanh nợ cho các đối tượng khách hàng từ đầu quý 4
năm 2012.
2.1.2 Nguyên nhân nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam
Thứ nhất, do môi trường kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tình hình kinh doanh và
tài chính của các doanh nghiệp suy giảm:
Kể từ cuối năm 2008, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sau đó là vấn đề lạm phát cao.
Những tác động tiêu cực này khiến cho Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng cầu
chậm lại, năm 2012 tăng trưởng kinh tế ước chỉ đạt 4,38% so với năm 2011. Các
chỉ số tiêu dùng (Gồm cả chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp và chỉ số tiêu dùng
cá nhân) tăng chậm so với cùng kỳ các năm trước. Trong khi đó, tại các doanh
nghiệp chỉ số tồn kho tăng mạnh và ở mức cao so với cùng kỳ các năm trước, tại
thời điểm 1/12/2012, chỉ số hàng tồn kho của ngành công nghiệp chế biến tăng
26% so với cùng kỳ năm 2011. Hàng tồn kho nhiều dẫn đến đọng vốn trong sản

xuất kinh doanh và làm tăng nợ xấu của các TCTD. Bên cạnh đó, rất nhiều doanh
nghiệp hiện nay có năng lực tài chính yếu, chủ yếu dựa vào vốn vay NH, vốn chủ
sở hữu nhỏ và khả năng ứng phó với sự thay đổi môi trường kinh doanh hạn chế.
Vì vậy, khi môi trường kinh doanh xấu đi, chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt, lãi
suất tăng, đồng thời tiêu thụ hàng hoá khó khăn đã ảnh hưởng lớn đến điều kiện tài
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
chính, kết quả kinh doanh và khả năng trả nợ vay NH của doanh nghiệp. Theo báo
cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt
động tăng nhanh chóng kể từ năm 2011, cụ thể là năm 2011 có 79.014 doanh
nghiệp và năm 2012 là 54.261 doanh nghiệp.
Thứ hai, do năng lực quản trị rủi ro tại mỗi ngân hàng còn kém:
Hiện nay, việc xếp hạng tín dụng nội bộ khách hàng của TCTD mang tính
chất chủ quan. Các NH chưa xây dựng được thước đo lượng hóa rủi ro nên chưa
tính toán chính xác được yếu tố này dẫn đến quyết định cho vay, phân loại nợ chưa
chính xác. Những khoản rủi ro to được làm bé đi, khoản vay bé thì làm cho nó to
lên. Bên cạnh đó, về phía các doanh nghiệp – đối tượng giải ngân vốn quan trọng
của các TCTD, theo nghiên cứu hiện có đến 90% là doanh nghiệp vừa và nhỏ,
không ít doanh nghiệp có báo cáo tài chính không chính xác, trong khi phần lớn
các báo cáo tài chính này lại không được kiểm toán. Ngay cả đối với những doanh
nghiệp lớn được kiểm toán thì sự chậm chễ trong việc công bố báo cáo cũng như
chất lượng kiểm toán cũng gây không ít khó khăn cho NH.
Thứ ba, do đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ NH và khách hàng kém dẫn
đến tình trạng thông đồng rút ruột NH:
Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc thù, cần dựa trên sự tin cậy và mức độ
tín nhiệm thì đạo đức phải được đặt lên hàng đầu và ở khía cạnh nào đó còn mang
tính bắt buộc. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ NH đã thông đồng rút ruột với khách
hàng, cho vay khống dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Chính vì vậy đã có chi
nhánh phải xử lý hàng chục nhân viên do cấu kết với nhau rút ruột NH. Tuy nhiên
hiện chưa có tính toán, trong tỷ lệ nợ xấu có bao nhiêu xuất phát từ đạo đức NH.

Ngoài ra, nợ xấu còn nằm ở dạng “chuyển vốn cho vay thành vốn góp.” Khoản nợ
này không chỉ “rất xấu” mà còn nguy hiểm ở chỗ đôi khi chỉ tồn tại trên sổ sách
của con nợ và chủ nợ.
Thứ tư, do tình trạng sở hữu chéo:
Một nghiên cứu của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright công bố mới
đây về sở hữu chéo giữa Ngân hàng với doanh nghiệp (DN) tại Việt Nam cho thấy
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
hệ thống Ngân hàng đã hình thành một mạng lưới sở hữu chéo và cho vay theo
quan hệ rất phức tạp, nhằm mục đích thâu tóm NH, thu xếp vốn cho những dự án
đầu tư chưa minh bạch. Theo đó, rất nhiều công ty lớn, đặc biệt là các tập đoàn
kinh tế Nhà nước và các tập đoàn cổ phần, dù không thuộc lĩnh vực tài chính
nhưng hiện đang đầu tư dài hạn với vai trò nhà sáng lập, nhà đầu tư chiến lược
trong các NHTM. Chưa kể, các NH cũng sở hữu cổ phần lẫn nhau, cổ đông tại các
NHTM là các công ty quản lý quỹ đầu tư vốn vào những NH khác có tiềm năng.
Hiện không ít tập đoàn, tổng công ty Nhà nước và tư nhân cũng đang đầu tư, sở
hữu chéo khi họ có trong tay khá nhiều NH. Theo Ủy ban Kinh tế Quốc hội, đến
nay, gần 40 Doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân sở hữu trên 5% tại các NHTM cổ
phần và các doanh nghiệp này lại sở hữu các công ty đầu tư tài chính. Tình trạng
sở hữu chéo này có thể dẫn tới rất nhiều hệ lụy, một trong số đó là làm tăng tỷ lệ
xấu của các NH. Bởi lẽ, việc sở hữu chéo sẽ dẫn đến tình trạng các NHsẽ tạo điều
kiện để cho các doanh nghiệp sở hữu NH này có thể dễ dàng vay được vốn từ NH
kia, hoặc dễ dàng cho các công ty con của các doanh nghiệp có vốn sở hữu tại NH
vay vốn, thậm chí khi một tổ chức tín dụng lớn chiếm cổ phần chi phối NH khác
và biến ngân hàng này thành "sân sau” của mình, họ có thể buộc NH bị chi phối
cấp tín dụng cho những dự án không an toàn hoặc cho doanh nghiệp có quan hệ
thân thiết. Việc cho vay dễ dàng, thiếu kiểm soát cộng với việc thẩm định vốn vay
thiếu cẩn trọng tất yếu sẽ dẫn đến nợ xấu. Do đó, tình trạng sở hữu chéo được xem
là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ xấu tăng cao trong thời gian
gần đây.

Thứ năm, quy định pháp luật nhằm hạn chế, giải quyết tình trạng nợ xấu đã có
nhưng chưa minh bạch, chưa hợp lý:
Có thể thấy rằng, pháp luật hiện hành đã có những khung pháp lý cơ bản
trong việc hạn chế cũng như giải quyết nợ xấu của các TCTD như: quy định về
phân loại nợ; quy định về trích lập dự phòng rủi ro; quy định về xử lý tài sản đảm
bảo nợ; quy định về quyền khởi kiện yêu cầu các tổ chức cá nhân hoàn trả vốn vay;
quy định về hoạt động mua bán nợ…Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy, các quy định
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 23
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
khi đi vào thực tế trở nên không phù hợp, không phát huy được hiệu quả trong việc
giải quyết nợ xấu, dẫn đến tình trạng nợ xấu không được cải thiện mà còn có xu
hướng tăng lên. Có thể kể đến những hạn chế như:
(i) Quy định phân loại nợ xấu chưa rõ ràng, khiến cho việc giải quyết nợ xấu khó
khăn.
(ii) Quy định về xử lý nợ thông qua khởi kiện ra tòa án đối với các khoản nợ không
có tài sản đảm bảo nợ phức tạp, gây khó khăn, mất nhiều thời gian của các TCTD
trong quá trình thu hồi nợ.
(iii) Khung pháp lý về việc mua bán nợ đã có những chưa hoàn thiện, chưa phát
huy hiệu quả trong hoạt động giải quyết nợ xấu.
2.2 Đánh giá chung về tình hình nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam
Cần phải thấy rằng, để xảy ra nợ xấu, trách nhiệm đầu tiên thuộc về NH (do
nguyên nhân khách quan và chủ quan mang lại) nhưng các NH không thể tự tạo ra
nợ xấu. Nợ xấu là do các con nợ - DN/cá nhân vay vốn đến hạn không trả được nợ,
mà việc không trả được nợ cho các NH có nguyên nhân cơ bản do yếu kém chủ
quan của bản thân DN nhưng không thể bỏ qua nguyên nhân từ cơ chế chính sách,
từ quản lý vĩ mô.
Đánh giá chung về tình hình nợ xấu lãnh đạo NHNN cho rằng tình trạng của
của Việt Nam chưa đến mức "hốt hoảng" và "quá nguy kịch" nếu so với các nước
trong khu vực ở thời điểm họ đứng ra xử lý nợ xấu. "Các tổ chức tín dụng đã trích
lập 70.000 tỷ để dự phòng rủi ro tín dụng. 84% các khoản nợ của hệ thống đều có

tài sản đảm bảo (giá trị 134.8% giá trị các khoản nợ)". So với tổng dư nợ cấp tín
dụng cho nền kinh tế Việt Nam, tỷ lệ nợ xấu hiện nay ở mức 4,47% theo báo cáo
của TCTD hay 8,6% theo kết quả giám sát vẫn thấp hơn so với tỷ lệ nợ xấu của
một số nước trong khu vực tại thời điểm Chính phủ phải đứng ra xử lý nợ xấu, cụ
thể: Hàn Quốc 17% (tháng 3/1998), Thái Lan 47,7% (tháng 5/1999), Malaysia
11,4% (tháng 9/1998), Indonesia trên 50% (năm 1999).
● Một số yếu tố giảm thiểu rủi ro tín dụng cho các TCTD
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 24
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Trần Thị Hường
Mặc dù các TCTD Việt Nam có tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ tín dụng khá lớn
(8,6% theo kết quả giám sát) và đang có chiều hướng tăng nhưng vẫn còn thấp hơn
so với nhiều nước (Albania: 18,8%; Latvia: 17,5%; Lithuania: 16,4%; Montenegro:
15,5%; Romania: 14,1%; Serbia: 18,8%; Kazakhstan: 30,8%; Tajikistan: 14,9%;
Ukraine: 14,7%; Pakistan: 16,2%). Bản chất nợ xấu hiện nay của các TCTD có
nhiều yếu tố góp phần làm giảm thiểu tổn thất, cụ thể:
- Thứ nhất, đến cuối tháng 12/2013 các TCTD đã trích lập dự phòng rủi ro được
70000 tỷ đồng, chiếm 34% nợ xấu.
- Thứ hai, phần lớn nợ xấu được bảo đảm bằng tài sản (84% các khoản nợ có tài
sản đảm bảo) nhờ đó TCTD có thể thu hồi được một phần hoặc toàn bộ khoản nợ
xấu từ việc bán/ xử lý tài sản bảo đảm (tuy nhiên việc xử lý tài sản đảm bảo, thu
hồi nợ trong thực tiễn là không dễ dàng và cần một thời gian dài).Tổng giá trị tài
sản bảo đảm bằng 134,8% tổng nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng và an toàn hoạt
động tín dụng. Điều quan trọng nhất là nợ xấu phải được phân loại, ghi nhận và
SVTH: Nguyễn Khánh MSSV: 10012203 Trang 25

×