Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Tăng cường huy động tiền gửi tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh thành phố hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.34 KB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
CƠ SỞ THANH HÓA – KHOA KINH TẾ

CHUYÊN ĐỀ MÔN HỌC

ĐỀ TÀI:
MÔN HỌC NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TIỀN GỬI
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
GIẢNG VIÊN HD :
SINH VIÊN TH : NGUYỄN THỊ NGỌC
MSSV : 11023493
LỚP : CDTN13TH
THANH HÓA, THÁNG 10 NĂM 2013
1
Chuyên đề môn học GVHD:
LỜI CẢM ƠN
Trước khi bắt đầu bài viết chuyên đề môn học này em xin gửi lời cảm ơn
chân thành tới toàn thể Qúy thầy cô trường “Đại Học Công Nghiệp TP.Hồ Chí
Minh”. Nơi mà trong suốt thời gian qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho em được
học tập, rèn luyện và tìm hiểu thêm những kiến thức mới những trí thức mới.
Và em xin được gửi lời cám ơn chân thành và lời tri ân sâu sắc đến thầy cô
giáo trường Đại Học Công Nghiệp TP.Hồ Chí Minh, đã truyền đạt những kiến
thức chuyên môn và kinh nghiệm bổ ích trong suốt quá trình học tập, đặc biệt là
là những người đã trực tiếp tham gia giảng dạy, tận tình
quan tâm hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề môn học.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN



















Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
MỤC LỤC
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế đã được thúc đẩy mạnh mẽ. Cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi. Hiện nay,
nước ta có quá nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) trong khi đó, quy mô của nền
kinh tế nước ta còn khá khiêm tốn. Thị trường ngân hàng Việt Nam vốn đã “chật hẹp”
nay lại càng chật hẹp hơn, buộc các ngân hàng thương mại trong nước phải cạnh tranh
với nhau để giảnh, giữ thị trường. Dưới sức ép của quy luật cạnh tranh, các ngân hàng

khi tham gia thị trường buộc phải tìm nhiều các biện pháp nâng cao năng lực kinh
doanh để tồn tại và phát triển trên thị trường. Để làm được điều đó, ngân hàng cần phải
có nguồn vốn dồi dào. Mặt khác nguồn vốn tự có lại chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong
tổng nguồn vốn của ngân hàng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là các ngân hàng thương mại cần
có những giải pháp để tăng cường huy động vốn đặc biệt là nguồn tiền gửi nhằm đáp
ứng nhu cầu kinh tế nói chung và nhằm đảm bảo hoạt động của ngân hàng nói riêng.
Trong những năm qua cùng với những hoạt động tài chính ngân hàng, Agribank
Hải Dương luôn tự đổi mới và hoàn thiện, khắc phục những hạn chế và khó khăn còn
tồn tại góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hoạt động của chi nhánh và hoạt động
của hệ thống Agribank.
Là một trong những Chi nhánh cung ứng tín dụng đứng đầu trong toàn tỉnh,với
hoạt động tín dụng luôn chiếm hơn 90% tổng thu, Chi nhánh đã xác định: “chất lượng
tín dụng quyết định sự sống còn của đơn vị và tăng trưởng tín dụng phải trên cơ sở tăng
trưởng nguồn vốn đặc biệt là tiền gửi”. Hiện nay, công tác huy động tiền gửi tại đơn vị
vẫn còn nhiều bất cập, cơ cấu tiền gửi huy động được không ổn định.
Xuất phát từ thực tế trên, kết hợp với quá trình thực tập Agribank Hải Dương nên
em đã chọn đề tài “Tăng cường huy động tiền gửi tại Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn - chi nhánh thành phố Hải Dương” làm đề tài cho chuyên đề
tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động tiền gửi của ngân hàng
thương mại.
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động huy động tiền gửi tại Agribank Hải
Dương.
- Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường huy động tiền gửi tại
Agribank Hải Dương.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động huy động tiền gửi của ngân hàng thương mại.

- Phạm vi nghiên cứu: hoạt động huy động tiền gửi của Agribank Hải Dương.
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2008-2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
Duy vật lịch sử, cùng với các phương pháp: thống kê, phân tích, đánh giá…
5. Kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp
Gồm 3 phần chính :
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về hoạt động huy động tiền gửi của ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động tiền gửi tại
Agribank Hải Dương
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động tiền gửi tại
Agribank Hải Dương
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
HUY ĐỘNG TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm
Theo luật các tổ chức tín dụng năm 2010, ngân hàng thương mại là loại hình ngân
hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận. Hoạt động ngân hàng là việc kinh
doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
a) Nhận tiền gửi;
b) Cấp tín dụng;
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Như vậy, Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ; vốn của ngân hàng
chủ yếu phải là vốn bằng tiền. Để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải có
một lượng vốn nhất định. Trong quá trình hoạt động thì ngân hàng thực hiện kinh

doanh tiền tệ phần lớn dựa trên số vốn huy động được. Thu nhập quốc dân tạm thời
nhàn rỗi chưa cần sử dụng đến trong sản xuất kinh doanh được gửi vào Ngân hàng với
các mục đích khác nhau. Ngân hàng đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong
nền kinh tế để chuyển đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn để phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, làm tăng quá trình luân chuyển vốn qua đó thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
Từ thực tế trên, các nhà kinh tế học đã đưa ra khái niệm: “Nguồn vốn của ngân
hàng thương mại (NHTM) là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động
được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác”.
1.1.2 Phân loại
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại nguồn vốn như:
Theo nguồn hình thành, nguồn vốn được chia thành: vốn chủ sở hữu, nguồn tiền
gửi, nguồn tiền vay, các nguồn khác.
Theo loại tiền, nguồn vốn được chia ra thành: nguồn vốn nội tệ và nguồn vốn
ngoại tệ.
Theo thời hạn, nguồn vốn được chia thành: nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn và
nguồn vốn dài hạn.
Trong phạm vi bài viết, em sẽ phân chia nguồn vốn dựa trên tiêu thức nguồn hình
thành tức là nguồn vốn được chia thành: nguồn tiền gửi, nguồn tiền vay, vốn chủ sở
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
hữu, các nguồn khác.
1.1.2.1. Nguồn tiền gửi
Nguồn tiền gửi của ngân hàng thương mại là giá trị tiền tệ mà các NHTM huy động
được từ các tổ chức, cá nhân trong xã hội thông qua nghiệp vụ nhận tiền gửi, thanh toán, các
nghiệp vụ kinh doanh khác và được ngân hàng dùng làm vốn kinh doanh.
Bản chất của nguồn tiền gửi là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiêm hoàn trả
đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn.
Khi huy động tiền gửi, ngân hàng phải duy trì dự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi

các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, ngân hàng có thể cho vay phần tiền
còn lại.
Theo luật các tổ chức tín dụng năm 2010: « Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền
của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền
gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa
thuận ».
Tiền gửi là nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Nó là nền tảng cho sự thịnh vượng
và phát triển của ngân hàng. Đây là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán
giúp phân biệt NH với các loại hình kinh doanh khác. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt
động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho
khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của doanh nghiệp, tổ chức và dân
cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng. Tiền gửi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, thường nhạy cảm về các biến động
của lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kì chi tiêu, và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là một
nhân tố kích thích các doanh nghiệp và dân cư cho vay. Trong điều kiện có lạm phát,
người có tiền tiết kiệm thường quan tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất
thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Các yếu tố khác như địa
điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh, các dịch vụ đa dạng… đều ảnh hưởng tới quy
mô và cấu trúc nguồn tiền. Thời vụ chi tiêu ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của
nguồn tiền. Vào dịp tết, nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu
hướng giảm sút, đặc biệt là trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn phổ biến.
Tại các thành phố lớn, nơi tập trung tầng lớp dân cư có thu nhập cao, hình thành người
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
gửi tiền lớn. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kì hạn của
nguồn tiền. Khi ngân hàng mở rộng cho vay, tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân
cũng gia tăng. Các nguồn tiền gửi thanh toán thường biến động mạnh (kém ổn định)
hơn tiền gửi tiết kiệm.

Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có
chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy
động khác nhau.
Phân loại tiền gửi:
Theo mục đích: Tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm (hay tiền gửi giao dịch
và phi giao dịch)
Theo thời hạn: Tiền gửi không kỳ hạn, kỳ hạn ngắn, kỳ hạn trung, kỳ hạn dài
Theo đối tượng gửi: Tiền gửi cá nhân, doanh nghiệp, NH khác, tổ chức xã hội
chính trị….
Trên thực tế: các ngân hàng thường sử dụng kết hợp các loại tiền gửi
 Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch)
Đây là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào NH để nhờ NH giữ và
thanh toán hộ. Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải thanh toán ngay lập tức các
lệnh rút tiền cho một cá nhân hay cho bên thứ ba, được chỉ rõ là người hưởng lãi. Đây
là loại tiền gửi không có kì hạn. Khoản tiền này thường có số dư không ổn định, lãi
suất thấp thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ NH với mức phí
thấp. Tiền gửi giao dịch bao gồm tiền gửi giao dịch không hưởng lãi thông thường và
tiền gửi giao dịch hưởng lãi.
- Tiền gửi giao dịch hưởng lãi là sự kết hợp giữa tiền gửi giao dịch không hưởng lãi
thông thường và tiền gửi tiết kiệm. Nó cho phép Ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải
thông báo trước về việc rút tiền. Do đòi hỏi này ít khi được thực hiện nên Ngân hàng
mở tài khoản tiền gửi thanh toán (tài khoản có thể phát séc) cho khách hàng. Tiền gửi
có thể phát séc là tiền gửi có thể được thanh toán theo yêu cầu: tức là, nếu người gửi
tiền tới NHTM gửi và đề nghị thanh toán bằng cách viết ra một giấy rút tiền, NHTM
sẽ phải thanh toán cho người đó ngay lập tức. Tương tự, nếu một người nhận được một
tấm séc thanh toán và mang tờ séc đó chuyển vào NHTM, thì NHTM phải chuyển lập
tức số tiền ấy vào tài khoản của họ. Thủ tục mở rất đơn giản. Yêu cầu của ngân hàng là
khách hàng phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Một số ngân hàng kết
hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi- chi trội trên số dư có
của tài khoản tiền gửi thanh toán). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức biến

Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
tướng của tài khoản thanh toán để năng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với
các tổ chức tín dụng khác.
- Tiền gửi giao dịch không hưởng lãi thông thường là một trong những nguồn vốn biến
động nhiều nhất và ngân hàng khó có thể dự báo về quy mô tiền gửi giao dịch có thể
huy động. Đồng thời kì hạn tiềm năng của tiền gửi giao dịch là ngắn nhất bởi vì nó có
thể được rút ra mà không cần báo trước.
 Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Đây là khoản tiền được lập ra để thu hút vốn của doanh nghiệp và các tổ chức xã
hội dự định dành tiền sử dụng sau một thời gian xác định. Với tiền gửi có kỳ hạn,
khách hàng vẫn có thể rút vốn bất kỳ lúc nào, không cần phải đợi đến khi đáo hạn
nhưng số tiền gốc còn lại phải đảm bảo duy trì số dư tối thiểu theo quy định. Điều này
tạo điều kiện cho những khách hàng có nhu cầu sử dụng vốn đột xuất. Người gửi
không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng
đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra.
Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có
kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kì hạn. Kì hạn tiền gửi loại này
càng dài thì lãi suất tiền gửi loại này càng cao. Ngoài ra, khoản tiền gửi có kỳ hạn có
thể được dùng cho nhiều mục đích khác:
- Số dư trên tài khoản tiền gửi được phép cầm cố vay vốn, hoặc bảo lãnh cho
người thứ ba vay vốn tại các NHTM.
- Dùng để xác nhận khả năng tài chính cho quý khách hàng hoặc thân nhân đi du
lịch, học tập,… ở nước ngoài.
 Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Đây là khoản tiền được lập ra để thu hút khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng
(tiết kiệm) của tầng lớp dân cư, hình thức phổ biến của loại tiền gửi này là tiết kiệm có
sổ. Theo đó, ngân hàng sẽ cấp cho người gửi tiền một sổ dùng để gửi tiền vào và rút
tiền ra, đồng thời nó còn xác nhận số tiền đã gửi.
Theo quy chế tiền gửi về tiền gửi tiết kiệm 1160, tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền

của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết
kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo
hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
Đối với tiền gửi loại này, khách hàng thông thường phải đợi đến khi đáo hạn mới
được rút vốn. Ngân hàng dùng khoản tiền này chủ yếu phục vụ cho hoạt động cho vay
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
và đầu tư của mình. Còn đối với tầng lớp dân cư, họ gửi tiết kiệm tại ngân hàng nhằm
thực hiện các mục tiêu an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm đặc biệt là nhu
cầu bảo toàn. Bên cạnh đó, khách hàng được phép chuyển quyền sở hữu khi sổ tiết
kiệm chưa đến hạn thanh toán để bảo toàn lãi. Sổ tiết kiệm cũng được phép cầm cố
vay vốn, hoặc bảo lãnh cho người thứ ba vay vốn tại bất kỳ NHTM và các TCTD
khác, dùng để xác nhận khả năng tài chính cho khách hàng hoặc thân nhân đi du lịch,
học tập,… ở nước ngoài.
Khoản tiền gửi tiết kiệm thường có kì hạn dài nên lãi suất của khoản tiền này
cũng cao hơn nhiều so với lãi suất tiền gửi giao dịch. Trong khi đó, chi phí quản lý và
duy trì tài khoản cũng tương đối thấp. Lãi suất của khoản tiền này cao hơn so với lãi
suất trả cho tiền gửi thanh toán, thay đổi theo từng kì hạn gửi. Số dư tiền gửi tiết kiệm
ổn định theo từng kì hạn gửi. Nguồn tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng lớn và quan
trọng nhất trong tổng nguồn vốn huy động, nhất là đối với các ngân hàng bán lẻ. Do
đó, việc tăng cường huy động nguồn tiền này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với
sự phát triển của NHTM và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng.
Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến
khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà, bằng cách mở rộng mạng
lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn
(ví dụ như tiền gửi với các kì hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng vàng…).
Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều trương mục tiết kiệm (hoăc là sổ
tiết kiệm) cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm không dùng để thanh
toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn.
 Tiền gửi của các ngân hàng khác

Khoản tiền này bao gồm tiền gửi của các ngân hàng đại lí – đây là tiền gửi mà
các ngân hàng nắm giữ của nhau để thanh toán cho các dịch vụ đại lí. Ví dụ một ngân
hàng tại khu trung tâm cung cấp dịch vụ xử lĩ dữ liệu, vi tính hóa hoạt động ghi sổ, tư
vấn các vấn đề thuế và đầu tư, tham gia cho vay, thanh toán bù trừ và thu séc cho các
tổ chức nhận tiền gửi nhỏ ở nông thôn và ở những khu xa trung tâm. Nhằm mục đích
nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác với qui mô không lớn, ngân hàng thương
mại này có thể gửi tiền tại các ngân hàng khác.
1.1.2.2. Nguồn đi vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi các ngân hàng
không thể cung ứng vốn kịp thời để thỏa mãn nhu cầu rút tiền của người gửi tiền hay
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
khi có cơ hội kinh doanh tốt, nhưng lúc đó ngân hàng lại không có đủ vốn ngay để
cung ứng, thì các ngân hàng sẽ đi vay. Một lí do cho sự gia tăng nguồn vốn vay trong
hoạt động ngân hàng trong những năm gần đây là không có yêu cầu dự trữ đối với hầu
hết loại vốn này, điều này làm giảm chi phí của việc tài trợ bằng nguốn vốn vay. Các
khoản vay trên thị trường tiền tệ thường được thực hiện trong một vài phút và vốn
được chuyển ngay lập tức đến ngân hàng có yêu cầu. Tuy nhiên, có một hạn chế là lãi
suất của các nguồn vốn vay biến động tương đối lớn. Nếu một ngân hàng đang gặp
khó khăn về tài chính và phải cố gắng vay từ những nguồn này thì chi phí đi vay của
ngân hàng có thể tăng lên nhanh chóng, hoặc những người cho vay trên thị trường tiền
tệ có thể đơn phương từ chối cấp thêm tín dụng cho ngân hàng. Nguồn đi vay mặc dù
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng nó đảm bảo khả năng thanh toán cho
các ngân hàng, giúp cho ngân hàng hoạt động an toàn, liên tục, thông suốt. Theo đối
tượng cho vay, các NHTM có thể vay của NHTW, vay của TCTD khác và vay trên thị
trường vốn.
 Vay Ngân hàng Trung Ương
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả, khi thiếu hụt
dự trữ (dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán). Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng
Trung Ương (NHTW) là tái cấp vốn. Đây là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của

NHTW nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các NHTM. Tái
cấp vốn cung ứng kịp thời cho các ngân hàng thương mại nhằm thỏa mãn nhu cầu rút
tiền của những người gửi tiền, mà nếu không khắc phục được, dễ dẫn ngân hàng tới
chỗ mất khả năng thanh toán. Lúc đó, NHTW là chỗ dựa của các ngân hàng thương
mại; Hoặc khi có cơ hội kinh doanh tốt, nhưng NHTM lại không có đủ vốn ngay để
cung ứng, lúc đó NHTW là người giúp các NHTM không bị lỡ cơ hội kinh doanh.
Tùy từng quốc gia khác nhau mà hoạt động tái cấp vốn của NHTW được thực
hiện dưới các hình thức khác nhau. Có nhiều quốc gia, hành vi tái cấp vốn thường
được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu, với nhiều quốc gia khác, NHTW thực
hiện cho vay tái cấp vốn không chỉ dưới hình thức tái chiết khấu mà cón nhiều hình
thức khác nữa thí dụ cho vay thế chấp hay ứng trước, cho vay lại theo hồ sơ tín dụng,
cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thướng phiếu và các giấy tờ có giá khác…
 Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có
kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn
lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân
hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo khả năng thanh
khoản. Như vậy, nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ
và chi trả cấp bách, và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay
mượn từ NHTW. Quá trình vay mượn rất đơn giản, ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực
tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý (hoặc NHTW). Khoản
vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của Kho
bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng
lên.
 Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát
hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) huy động tiền gửi trung và dài hạn.

Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không
đáp ứng được yêu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài
han nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và
dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo, những ngân hàng có uy
tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó
vay mượn trực tiếp bằng cách này; họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lý
hoặc được bảo lãnh của Ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào
trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ
nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp, Ngân hàng cần
nghiên cứu kĩ thị trường để quyết đinh quy mô mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay
mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ ảnh
hưởng đến khả năng vay mượn.
1.1.2.3. Vốn chủ sở hữu
Thuật ngữ: “Vốn chủ sở hữu (VCSH)” có một ý nghĩa đặc biệt đối với ngân hàng,
dưới góc độ kinh tế đó là nguồn tiền được đóng góp bởi những người chủ ngân hàng, bao
gồm chủ yếu là cổ phiếu, các khoản dự trữ và lợi nhuận không chia. Dưới góc độ quản lý,
cơ cấu của vốn chủ sở hữu: vốn góp, các quỹ, các khoản vay dài hạn.
Vốn góp: hình thành khi ngân hàng bắt đầu hoạt động. Tuỳ theo từng tính chất
của ngân hàng: vốn của Nhà nước, các cổ đông đóng góp, các bên liên doanh góp, vốn
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
thuộc sở hữu tư nhân. Vốn của Nhà nước thuộc sở hữu Nhà nước do ngân sách nhà
nước cấp. Vốn của ngân hàng cổ phần do các cổ đông góp thông qua mua cổ phần
hoặc cổ phiếu; nếu là ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh đóng
góp. Vốn của ngân hàng tư nhân do cá nhân ứng ra. Nguồn vốn này không phải hoàn
trả cho chủ sở hữu. Chủ ngân hàng có thể tăng, giảm hoặc thay đổi cơ cấu, quyết định
chính sách phân phối lợi nhuận.
Các quỹ: Trong môi trường lạm phát, Vốn góp bị giảm giá. Để bảo đảm an toàn
giá trị, các ngân hàng có thể trích lập quỹ bảo toàn vốn theo tỷ lệ lạm phát. Quỹ này
làm gia tăng quy mô Vốn góp.

Kinh doanh của ngân hàng luôn gắn liền với rủi ro. Nhiều tài sản của ngân hàng
đã sinh lãi một thời gian dài có thể bị tổn thất. Do vậy, các ngân hàng đều trích lập các
khoản dự trữ bù đắp tổn thất (nếu có) - Quỹ dự phòng tổn thất. Nếu tổn thất thực của
ngân hàng nhỏ hơn số trích lập, VCSH sẽ gia tăng và ngược lại. Một số ngân hàng
không hạch toán quỹ này vào VSCH mà vào các khoản nợ do nguồn gốc của quỹ là
trích từ thu nhập trước thuế như môt khoản chi phí và khi cần sẽ được chi ra để bù đắp
tổn thất. Như vậy độ lớn của quỹ phụ thuộc vào tổn thất ròng, thu nhâp của ngân hàng
và tỷ lệ trích lập quỹ.
Trong quá trình hoạt động, có thể thị giá cổ phiếu của ngân hàng lớn hơn mệnh
giá. Khi ngân hàng phát hành cổ phiếu mới, phần chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá
cổ phiếu được ghi lại dưới tên gọi thặng dư của vốn.
Do giá trị các tài sản và nợ của ngân hàng thường xuyên thay đổi theo giá thị
trường, đặc biệt là các chứng khoán và bất động sản. Mặc dù chưa bán, ngân hàng
cũng đánh giá lại theo giá thị trường. Những chênh lệch do đánh giá lại được đưa vào
Quỹ đánh giá lại tài sản.
Ngân hàng thường trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế như Quỹ phúc lợi, Quỹ
khen thưởng, Quỹ đào tạo, quỹ nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới Phần lớn, các
quỹ này được sử dụng trong kì.
Các khoản vay dài hạn (có điều kiện nhất định): Một số nguồn vốn trong ngân
hàng thuộc dạng lưỡng tính như cổ phần ưu đãi có thời hạn, các khoản vay dài hạn
bằng giấy nợ có thể chuyển đổi thành cổ phiếu. Khi phát hành, cổ phiếu ưu đãi có thời
hạn mang tính chất của cổ phiếu-VCSH-song hết hạn loại cổ phiếu này bị loại khỏi
VCSH. Tương tự, khi phát hành và trong khoảng thời gian xác định, giấy nợ chuyển
đổi là một khoản nợ, song sau đó lại có thể chuyển thành cổ phiếu. NHTM gia tăng
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
loại vốn này với nhiều mục đích. Phần vốn này thường bị NHTW giới hạn và kiểm
soát chặt chẽ. NHTW xếp nguồn vốn này vào VCSH cấp 2 để tính tỷ lệ an toàn vốn.
Theo hiệp định Base 2 về tiêu chuẩn vốn quốc tế năm 2004, thành phần VCSH
vẫn được phân chia giống Basel 1:

* Vốn cơ bản (Vốn cấp I)
+ Vốn điều lệ, vốn cổ phần tăng thêm, lợi nhuận giữ lại, quỹ dự trữ công khai từ
lợi nhuận sau thuế. Loại vốn này chiếm tỷ trọng tối thiểu 50% vốn tự có của NH.
* Vốn bổ sung (Vốn cấp II)
+ Quỹ dự trữ do đánh giá lại tài sản, quỹ dự phòng bù đắp những rủi ro được trích
lập để bù đắp những rủi ro đột xuất chưa xác định được, các khoản nợ được xem như
vốn.
* Khi tính hệ số an toàn vốn các khoản được loại trừ khỏi vốn tự có bao gồm:
Các khoản đã đầu tư vào công ty con hạch toán độc lập. Phần vốn góp vào NH và tổ
chức tài chính khác.
Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng năm 2010, thành phần VCSH:
Điều 4, khoản 10: Vốn tự có gồm giá trị thực của vốn điều lệ của tổ chức tín
dụng hoặc vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các quỹ dự trữ, một
số tài sản nợ khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là
Ngân hàng Nhà nước).
Điều 139. Quỹ dự trữ
1. Hằng năm, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải trích từ lợi
nhuận sau thuế để lập và duy trì các quỹ dự trữ sau đây:
a) Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, vốn được cấp được trích hằng năm theo tỷ lệ
5% lợi nhuận sau thuế. Mức tối đa của quỹ này không vượt quá mức vốn điều lệ, vốn
được cấp của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
b) Quỹ dự phòng tài chính;
c) Các quỹ dự trữ khác theo quy định của pháp luật.
2. Tổ chức tín dụng không được dùng các quỹ quy định tại khoản 1 Điều này để trả
cổ tức cho cổ đông hoặc phân chia lợi nhuận cho chủ sở hữu, thành viên góp vốn.
Một cách tổng quát, vốn chủ sở hữu được chia thành: vốn cổ phần thường, vốn cổ
phần ưu tiên, thặng dư vốn, lợi nhuận chưa phân phối, dự trữ vốn cổ phần (các quỹ),
giấy nợ thứ cấp, quyền lợi thiểu số của ngân hàng ở chi nhánh và giấy cam kết vốn cổ
phần.
Vốn cổ phần thường: là VCSH hình thành khi ngân hàng bắt đầu hoạt động. Nó

đo lường giá trị trên bề mặt của cổ phiếu thường. Loại VCSH này không phải hoàn trả.
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
Chủ ngân hàng có thể tăng, giảm hoặc thay đổi cơ cấu VCSH.
Vốn cổ phần ưu tiên: đo lường giá trị trên bề mặt của cổ phiếu ưu tiên. Cổ phiếu
ưu tiên có thể có thời hạn vĩnh viễn hoặc có thời hạn nhất định. Nó thường ít quan
trọng, chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu vốn chủ.
Thặng dư vốn: là lượng tiền được trả cao hơn giá trị bề mặt của cổ phiếu bởi các cổ
đông của ngân hàng, bao gồm lượng thặng dư tính theo giá trị thị trường so vơi giá trị bề
mặt của cả cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu tiên và lãi lỗ bán trái phiếu chính phủ. Đây là
khoản mục chiếm tỷ trọng lớn trong VCSH (thường chiếm 30-40%).
Lợi nhuận không chia (thu nhập giữ lại): là khoản lợi nhuận sau thuế sau khi đã
trả cổ tức cho cổ đông thường và cổ đông ưu tiên. Phần này bản chất thuộc về các cổ
đông song được vốn hóa nhằm mở rộng quy mô của VCSH và là khoản mục chiếm tỷ
trọng rất lớn trong VCSH cùng với khoản mục thặng dư vốn.
Dự trữ bất thường (dự trữ vốn cổ phần): Được sử dụng nhằm bảo vệ ngân hàng
trước những tổn thất bất thường. Để bù đắp rủi ro (lạm phát, kinh doanh…) các quỹ
trích lập để bảo toàn VCSH hoặc lập ra với mục đích nhất định. Các quỹ như quỹ dự
phòng tổn thất (bù đắp thua lỗ), quỹ đánh giá lại tài sản (đánh giá lại của NH về tài sản
và nợ theo giá trị thị trường), quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ đào tạo, quỹ nghiên
cứu phát triển.
Giấy nợ thứ cấp: Các nguồn tài trợ cho VCSH dưới dạng các chứng khoán nợ dài
hạn có quyền đối với tài sản và thu nhập của ngân hàng (dưới dạng lưỡng tính như cổ
phần ưu đãi có thời hạn, khoản vay dài hạn bằng giấy nợ có thể chuyển đổi thành cổ
phiếu). Các giấy nợ này được tính vào nợ cấp 2 (phân biệt với khoản nợ cấp 1).
Quyền lợi thiểu số của NH ở chi nhánh: Đây là khoản vốn không được sở hữu
bởi ngân hàng lớn (ngân hàng mẹ) trong VCSH của ngân hàng nhỏ (ngân hàng con)
(ví dụ: Ngân hàng mẹ sở hữu 80% vốn của ngân hàng con trong tổng vốn 100mEUR,
thì khoản mục minority interest trên BCĐKT của ngân hàng mẹ là 20mEUR).
Giấy cam kết vốn cổ phần: thực chất đây là các chứng khoán nợ có thể trả lại

bằng việc bán cổ phiếu.
Trong quá trình hoạt động, nguồn vốn chủ sở hữu mặc dù được tích lũy thêm
đáng kể những vẫn chiểm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Song,
vốn chủ sở hữu lại giữ một vai trò rất quan trọng. Nó góp phần bảo vệ lợi ích của
người gửi tiền, tạo lòng tin đối với khách hàng và là sự đảm bảo khả năng thanh toán.
Do vậy, VCSH còn được gọi là « tấm nệm » giúp chống lại rủi ro phá sản của ngân
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
hàng. Trong trường hợp ngân hàng phá sản hoặc ngừng hoạt động, các khoản tiền gửi
sẽ được hoàn trả trước, sau đó đến nghĩa vụ của chính phủ và người lao động, các
khoản vay, cuối cùng mới đến chủ giấy nợ có khả năng chuyển đổi, cổ phần ưu đãi, cổ
phần thường. Bên cạnh đó, VCSH tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động một
ngân hàng. Để hoạt động, điều đầu tiên là ngân hàng phải có được số vốn tối thiểu ban
đầu. Số vốn này, trước hết để mua sắm hoặc thuê trang thiết bị, nhà cửa cần thiết cho
quá trình kinh doanh, phần còn lại tham gia vào quá trình kinh doanh của ngân hàng
như cho vay hoặc mua chứng khoán. Để cạnh tranh tốt, các ngân hàng phải không
ngừng đổi mới công nghệ ngân hàng, nâng cao năng suất lao động và an toàn cho ngân
hàng. VCSH được sử dụng để nhập công nghệ mới, mở thêm chi nhánh hoặc quầy
giao dịch, mở văn phòng đại diện. Hơn nữa, VCSH còn góp phần điều chỉnh hoạt động
của ngân. Rất nhiều quy định về hoạt động của ngân hàng của các nhà chức trách tiền
tệ có liên quan chặt chẽ với VCSH.
Theo thông tư 13/2010/TT-NHNN quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn của TCTD,
điều 4 khoản 1: «Tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì
tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro của tổ
chức tín dụng (tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ).»
Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ quy định đối với các
ngân hàng thương mại, mức vốn pháp định áp dụng cho đến 31/12/2010 là 3.000 tỷ đã
buộc các NHTM phải tìm cách gia tăng vốn chủ sở hữu thông qua phát hành cổ phiếu
mới, phát hành trái phiếu mới, lợi nhuận giữ lại, cổ phần hóa và sát nhập.
Vì vậy mà, quy mô và cấu trúc hoạt động của ngân hàng được điều chỉnh theo

vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn chủ sở hữu càng lớn thì ngân hàng có thể cung cấp nhiều
loại hình dịch vụ, phát triển kinh doanh, nâng cao khả năng thanh khoản. Nguồn vốn
chủ sở hữu thấp sẽ hạn chế các khả năng tiếp cận các khách hàng có nhu cầu vay
lớn,hạn chế việc mở rộng các loại hình dịch vụ, quy mô hoạt động và khi phá sản, do
đặc thù của loại hình kinh doanh này sẽ rất dễ kéo toàn hệ thống sụp đổ theo, liên luỵ
cho cả nền kinh tế. Tuy nhiên, VCSH lại có chi phí huy động cao và tính thanh khoản
thấp.
Trong điều kiện hội nhập hiện nay, khi mà các tỷ lệ an toàn ngày càng được chú
trọng thì việc phải gia tăng nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng là điều cần thiết.
1.1.2.4. Nguồn khác
Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
 Tiền ủy thác
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ
thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ Các hoạt động này tạo nên
nguồn ủy thác tại NH. Ví dụ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho vay
ủy thác hộ cho Nhà nước đối với một số dự án trồng rừng với nguồn Ngân sách hoặc
nguồn ODA. Theo hơp đồng giữa các bên, các nguồn vốn trên được chuyển về Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, để từ đó chuyển tải đến địa điểm đã được
xác định trước. Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ
chức xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử
dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình
thành nguồn ủy thác, làm gia tăng nguồn vốn của ngân hàng.
 Tiền trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong
thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền kí quĩ để mở L/C, ). Những ngân hàng là
ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên
để chuyển về để thực hiện cho vay.
 Tiền khác

Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả
Để đáp ứng ngày càng tốt hơn về yêu cầu cạnh tranh và phát triển trong quá trình
hội nhập ngày càng khó khăn, phức tạp, các ngân hàng phải tìm cách gia tăng nguồn
vốn của mình. Vốn CSH chiếm tỷ trọng khá nhỏ, ngân hàng chủ yếu kinh doanh dựa
trên nguồn vốn huy động được. Mặt khác, tiền gửi khách hàng là nguồn tài nguyên
quan trọng nhất của NHTM. Nó là cơ sở chính của các khoản vay và do đó, là nguồn
gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng. Do vậy, cần phải quan tâm
đến hoạt động huy động tiền gửi của ngân hàng thương mại, và tìm cách tăng cường
nguồn huy động này.
1.2 Hoạt động huy động tiền gửi của ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động tiền gửi là hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương
mại trong đó ngân hàng thu hút tiền nhàn rỗi của tổ chức kinh tế - xã hội, cá nhân dưới
hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo
nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng nguồn vốn huy động của NHTM. Mặc dù bị giới hạn về mức huy động, song nếu
NHTM sử dụng tốt nguồn vốn này thì không những lợi nhuận của ngân hàng được
tăng lên mà còn tạo cho ngân hàng uy tín ngày càng cao. Qua đó, ngân hàng có thể mở
rộng được vốn và mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của mình.
1.2.1 Sự cần thiết của hoạt động huy động tiền gửi đối với Ngân hàng
thương mại
Hoạt động huy động tiền gửi là hình thức huy động vốn cổ điển và mang tính đặc
thù riêng có của NHTM. Đây cũng là điểm khác biệt giữa NHTM và các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng. Quy mô của tiền gửi là rất lớn so với các nguồn vốn khác, thông
thường nó chiếm trên 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng của các ngân
hàng. Hoạt động huy động tiền gửi tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp nhưng nó lại
là hoạt động then chốt của các NHTM. Nguồn vốn từ hoạt động huy động tiền gửi đem

lại là cơ sở để ngân hàng tạo ra thế chủ động trong kinh doanh.
• Quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác
Do nguồn vốn huy động từ tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy
động nên tuỳ theo quy mô và cơ cấu nguồn vốn huy động từ tiền gửi được mà các
ngân hàng sẽ quyết định quy mô và cơ cấu đầu tư. Với nguồn vốn huy động từ tiền gửi
lớn, ngân hàng có đủ khả năng mở rộng phạm vi và khối lượng cho vay không chỉ giới
hạn trên thị trường trong nước mà còn cho vay vượt ra khỏi lãnh thổ một quốc gia (cho
vay trên thị trường quốc tế). Ngược lại, khả năng huy động tiền gửi không tốt, các
ngân hàng nhỏ không có đủ vốn để mở rộng hoạt động cho vay. Nói chung, một ngân
hàng có nguồn tiền gửi khách hàng dồi dào sẽ đáp ứng được nhu cầu xin vay, dễ dàng
mở rộng thị trường tín dụng, tăng khả năng thanh toán và các dịch vụ khác của ngân
hàng. Nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ, hiện tại và tương lai nhu
cầu về vốn là rất lớn, nên các ngân hàng cần phải có những dự đoán, điều chỉnh hoạt
động huy động tiền gửi để duy trì nguồn vốn phù hợp sao cho với nhu cầu đặt ra.
• Quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi lớn tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng
mở rộng hoạt động kinh doanh, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, giảm thiểu rủi ro,
tạo dựng uy tín cho các NHTM. Bên cạnh việc cho vay, các NHTM còn thực hiện các
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
nghiệp vụ đầu tưquan hệ tín dụng với các cá nhân, tổ chức kinh tế cả về quy mô, khối
lượng, chủ động về thời gian và thời hạn cho vay. Đặc biệt sau khi nước ta gia nhập
WTO, sự xuất hiện hàng loạt các ngân hàng nước ngoài đã làm cho tình hình cạnh
tranh giữa các ngân hàng trở nên gay gắt. Khả năng huy động vốn tốt sẽ làm tăng uy
tín của các NHTM, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Bởi Nếu có một
nguồn vốn dồi dào thì ngân hàng sẽ chủ động đưa ra các mức lãi suất cho vay một
cách hợp lý nhằm thu hút được khách hàng. Qua đó, các ngân hàng có thể mở rộng
quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế. Nguồn vốn lớn sẽ tăng quyền chủ động
của ngân hàng trong việc thỏa thuận quy mô, kì hạn, thời hạn, thậm chí cả lãi suất với
khách hàng.

• Mở rộng cơ sở khách hàng
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi là cơ sở để cho các Ngân hàng cho vay và thực
hiện hoạt động các đầu tư khác. Do vậy, làm tốt nghiệp vụ huy động tiền gửi tốt sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các
thành phần kinh tế, chủ động về thời hạn cho vay và thậm chí đưa ra được cả mức lãi
suất cho vay ưu đãi đối với khách hàng. Điều này thu hút nhiều khách hàng đến ngân
hàng làm cho doanh số hoạt động của ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Từ đó, uy tín
của ngân hàng được đảm bảo và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị
trường. Mặt khác, thông qua nghiệp huy động tiền gửi, các ngân hàng sẽ đánh giá
được một phần chất lượng hoạt động của ngân hàng, đo lường được sự uy tín hay sự
tín nhiệm của khách hàng đối với mình. Từ đó, các ngân hàng có thể đưa ra các biện
pháp hoàn thiện hoạt động huy động tiền gửi. Điều đó vừa giữ vững lại vừa mở rộng
quan hệ của ngân hàng với khách hàng.
Tóm lại, nghiệp vụ huy động tiền gửi có vai trò hết sức quan trọng đối với các
NHTM. Nghiệp vụ này không chỉ góp phần mang lại nguồn vốn kinh doanh cho các
NHTM mà còn là kênh tiết kiệm và đầu tư an toàn đối với các khách hàng. Do vậy mà,
các NHTM cần phải quan tâm, chú trọng đến hoạt động huy động tiền gửi.
1.2.2 Các hình thức huy động tiền gửi khách hàng của Ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế mở cửa hội nhập hiện nay, để thu hút được nguồn tiền gửi lớn
từ trong dân chúng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, các NHTM phải tìm cách đa
dạng hóa cung cấp sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tối đa mọi nhu cầu của khách hàng. Do
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
vậy, căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, huy động tiền gửi khách hàng có thể phân
chia thành nhiều hình thức khác nhau:
Theo mục đích huy động: huy động tiền gửi được chia thành: huy động tiền gửi
thanh toán và huy động tiền gửi tiết kiệm.
Theo đối tượng huy động: Huy động tiền gửi từ các tầng lớp dân cư, Huy động
tiền gửi từ các các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng và các tổ chức khác.
Theo thời hạn huy động: huy động từ tiền gửi không kì hạn và huy động từ tiền

gửi có kì hạn
Phân theo loại tiền gửi: Huy động bằng tiền gửi nội tệ và Huy động bằng tiền gửi
ngoại tệ.
1.2.2.1 Theo mục đích huy động
• Huy động tiền gửi thanh toán
Đây là hình thức huy động tài khoản tiền gửi thanh toán các tổ chức kinh tế, tổ
chức tín dụng, cá nhân. Đối với loại tài khoản tiền gửi này, mục đích chính của người
gửi tiền là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua
ngân hàng. Khách hàng có thể rút tiền nhiều lần bằng các phương tiện thanh toán.
Khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng trích tiền trên tài khoản để chuyển trả cho người
thụ hưởng, hay chuyển số tiền được hưởng vào tài khoản này. Tiền gửi thanh toán có
chi phí huy động thấp, ngoài chi phí trả lãi rất nhỏ, ngân hàng còn thu chi phí phát sinh
trong hoạt động phục vụ thanh toán.
Để tăng nguồn tiền này, ngân hàng phải đa dạng hóa và phục vụ tốt các dịch vụ
trung gian, huy động nhiều khách hàng là các doanh nghiệp lớn sẽ làm cho mức dư
tiền gửi bình quân tại các ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo điều kiện cho ngân hàng
có thể sử dụng lượng tiền này để cho vay mà không làm ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán của ngân hàng.
• Huy động tiền gửi tiết kiệm
Đây là hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm của tầng lớp dân cư. Đây là loại tiền
gửi để dành của các tầng lớp dân cư, được gửi vào ngân hàng để được hưởng lãi, hình
thức phổ biến của loại tiền gửi này là tiết kiệm có sổ. Theo đó, ngân hàng sẽ cấp cho
người gửi tiền một sổ dùng để gửi tiền vào và rút tiền ra, đồng thời nó còn xác nhận số
tiền đã gửi.
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
Các hình thức gửi tiền tiết kiệm phổ biến ở nước ta hiện nay là:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Đây là sản phẩm tiết kiệm mà khách hàng
không đăng ký kỳ hạn gửi ban đầu, dùng để thanh toán, giao dịch, được hưởng lãi suất
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.

- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là sản phẩm tiết kiệm mà khách hàng gửi theo
những kỳ hạn định trước. Nếu khách hàng có nhu cầu rút trước hạn cũng có thể được
đáp ứng nhưng phải chịu lãi suất thấp.
- Tiền gửi tiết kiệm bậc thang: khách hàng gửi tiền một lần vào một sổ tiết kiệm
nhưng được rút gốc nhiều lần. Khi rút gốc (một phần hay toàn bộ) ngân hàng sẽ trả
tiền lãi tương ứng với số tiền gốc cho khách hàng theo lãi suất quy định.
- Tiền gửi tiết kiệm gửi góp: khách hàng gửi tiền có thể gửi theo mức thỏa thuận
nhiều lần vào một sổ tiết kiệm theo kì hạn nhất định đã đăng kí với ngân hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm dự thưởng: khách hàng gửi tiền có kì hạn ngoài lãi suất được
hưởng theo quy định còn được nhận phiếu dự thưởng để tham gia các đợt dự thưởng
với nhiều giải thưởng hấp dẫn, có giá trị.
Ngoài ra còn môt số hình thức tiết kiệm khác như tiết kiệm phát lộc, tiết kiệm
F@stSaving
Tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch. Loại tiền gửi này được hưởng lãi
cao và chủ tài khoản không được phát hành séc. Nguồn tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ
trọng lớn và quan trọng nhất trong tổng nguồn vốn huy động, nhất là đối với các ngân
hàng bán lẻ. Do đó, việc tăng cường huy động nguồn tiền này đóng vai trò vô cùng
quan trọng đối với sự phát triển của NHTM.
1.2.2.2 Theo đối tượng huy động
• Huy động tiền gửi từ các tầng lớp dân cư
Mỗi một gia đình và cá nhân trong xã hội đều có những khoản tiền tiết kiệm để
dự phòng cho những nhu cầu chi dùng cho tương lai. Khi xã hội càng phát triển thì
khoản dự phòng này càng lớn. Nhằm mục đích sinh lời, họ có thể sử dụng các hình
thức đầu tư như mua vàng, ngoại tệ mạnh, bất động sản… Các hình thức này mặc dù
mang lại nguồn lợi nhuận cao hơn nhưng lại tiềm ẩn rủi ro lớn. Do đó, xuất hiện bộ
phận dân chúng chọn hình thức gửi tiền kiệm vào ngân hàng vừa đảm bảo an toàn lại
vừa thu được một khoản lợi tức nhất định. Tùy theo nhu cầu sử dụng tiền mặt mà
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
khách hàng có thể lựa chọn các hình thức gửi tiền khác nhau với các kì hạn khác nhau.

Có 2 hình thức gửi tiền đặc trưng là tiền gửi có kì hạn và tiền gửi thanh toán . Tiền gửi
có kì hạn mang giá trị cốt lõi là sinh lời, trong khi đó tiền gửi thanh toán lại mang mục
đích phục vụ cho nhu cầu thanh toán của khách hàng. Đặc tính của loại này là biến
động hơn rất nhiều so với tiền gửi tiết kiệm có kì hạn. Do đó, để thu hút nguồn vốn ổn
định trong xã hội, các ngân hàng thường quy định mức lãi suất đối với tiền gửi có kì
hạn cao hơn so với tiền gửi thanh toán.
Đối với nguồn tiền huy đông từ các tầng lớp dân cư, do nhu cầu sử dụng khác
nhau, các NHTM đã tìm mọi hình thức đa dạng hóa các sản phẩm cung cấp như rút
ngắn kì hạn gửi tiền nhằm huy động tối đa các khoản tiết kiệm này, từ đó tạo ra một
nguồn vốn không nhỏ để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế và thu được lợi nhuận
cho bản thân ngân hàng.
• Huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng và các
tổ chức khác
Đây là khoản tiền gửi của các doanh nghiệp, các cơ quan, đoàn thể… Với tư cách
là trung tâm thanh toán, các NHTM thực hiện việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán
cho các khách hàng. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp lớn nhỏ đều có tài khoản tại
một ngân hàng và thực hiện các giao dịch trên tài khoản của mình thông qua ngân
hàng đó. Do đó có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải trả, cho nên
hệ thống tài khoản thanh toán của ngân hàng luôn hình thành một số dư tiền gửi nhất
định. Nó đã trở thành nguồn vốn huy động có chi phí thấp, do các ngân hàng thường
không trả lãi hoặc quy định một tỷ lệ lãi suất rất thấp. Nếu biết khai thác sử dụng thì
nguồn vốn này sẽ mang lại hiệu quả rất lớn cho hoạt động kinh doanh của NHTM.
Ngoài mục đích thanh toán, các doanh nghiệp khi có khoản tiền tạm thời nhàn
rỗi, chưa cần dùng đến, họ sẽ mang gửi theo một kì hạn nhất định với mức lãi suất cao
hơn so với tiền gửi thanh toán tại ngân hàng để lấy lãi. Khi có nhu cầu sử dụng, họ sẽ
cử người đại diện đến ngân hàng yêu cầu rút tiền.
1.2.2.3 Theo thời hạn huy động
Tiền gửi là đầu vào sống còn của ngân hàng. Đây là nguồn tài chính cơ bản tài trợ
cho các khoản cho vay, đầu tư tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Để thu hút tối đa khoản
tiền này, các NHTM đã đưa ra các hình thức huy động phong phú với các dịch vụ đa

Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
dạng kèm theo.
• Huy động từ tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kì hạn là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút tiền nhiều lần
bằng các phương tiện thanh toán. Khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng trích tiền trên
tài khoản để chuyển trả cho người thụ hưởng, hay chuyển số tiền được hưởng vào tài
khoản này. Đối với loại tài khoản tiền gửi này, mục đích chính của người gửi tiền là
nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng, do
vậy, nó còn được gọi là tiền gửi thanh toán. Tiền gửi không kỳ hạn có chi phí huy
động thấp, ngoài chi phí trả lãi rất nhỏ, ngân hàng còn thu chi phí phát sinh trong hoạt
động phục vụ thanh toán.
Để tăng nguồn tiền này, ngân hàng phải đa dạng hóa và phục vụ tốt các dịch vụ
trung gian, huy động nhiều khách hàng là các doanh nghiệp lớn sẽ làm cho mức dư
tiền gửi bình quân tại các ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo điều kiện cho ngân hàng
có thể sử dụng lượng tiền này để cho vay mà không làm ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán của ngân hàng.
• Huy động từ tiền gửi có kỳ hạn
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng được rút ra sau một thời gian nhất định theo
kỳ hạn đã được thỏa thuận khi gửi tiền. Mục đích của người gửi tiền là lấy lãi cho nên
ngân hàng có thể chủ động kế hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn vì chủ động được
thời gian. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời gian gửi tiền và sự thỏa thuận giữa hai
bên về những điều kiện đảm bảo an toàn trong quan hệ tín dụng. Về cơ bản, các khoản
tiền gửi có kì hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng
vốn trên tài khoản vãng lai nên không thể phát séc. Thông thường, tiền gửi có kì hạn là
các khoản tiền gửi có thời hạn dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kì hạn là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng
phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Để mở rộng khoản tiền này, ngoài biện pháp lãi
suất, ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp nhằm tạo nên tính lỏng cho loại tiền
gửi có kỳ hạn như cho phép khách hàng rút trước hạn hoặc quay số trúng thưởng…

1.2.2.4. Phân theo loại tiền
Để đa dạng hóa hoạt động huy động vốn, bám sát nhu cầu gửi tiền của khách
hàng (họ đang cất giữ loại tiền gì, nếu đang nắm giữ ngoại tệ có gửi tiết kiệm trong
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH
Chuyên đề môn học GVHD:
ngân hàng hay không), ngân hàng đưa ra hình thức huy động phân theo loại tiền nội tệ
hoặc ngoại tệ.
• Huy động bằng tiền gửi nội tệ
Nội tệ là loại tiền được sử dụng chủ yếu trong các hoạt động hàng ngày của
người dân. Họ tích trữ nội tệ, thanh toán, giao dịch qua ngân hàng cũng thường bằng
nội tệ. Vì vậy, nguồn tiền gửi huy động bằng nội tệ thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng nguồn tiền gửi huy động và có lãi suất huy động cao hơn so với lãi suất tiền gửi
huy động bằng ngoại tệ.
• Huy động bằng tiền gửi ngoại tệ
Xuất phát từ nhu cầu thanh toán quốc tế, yêu cầu đầu tư, cất trữ các ngoại tệ
mạnh của khách hàng nên để đa dạng hóa hoạt động huy động vốn, ngân hàng đưa ra
hình thức huy động tiền gửi bằng ngoại tệ. Ngoại tệ có thể chuyển đổi thành nội tệ
theo một tỷ giá nhất định do NHNN quy định hàng ngày. Tỷ giá này luôn biến động
theo cung cầu trên thị trường nên lãi suất huy động của khoản tiền này thường thấp
hơn so với lãi suất tiền gửi huy động bằng nội tệ.
1.2.2 Các chỉ tiêu đo lường hoạt động huy động tiền gửi
1.2.2.1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn tiền gửi
Quy mô của nguồn tiền gửi thường được đo bằng lượng tiền gửi huy động được.
Mặt khác, quy mô nguồn tiền gửi lại là bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng
nguồn vốn, quyết định tình hình hoạt động của ngân hàng. Nghiệp vụ huy động tiền
gửi không thể đạt hiệu quả khi mà lượng tiền gửi huy động không đủ để đạt được quy
mô nhất định theo kế hoạch huy động vốn của ngân hàng. Quy mô tiền gửi mà lớn thì
các ngân hàng có thể mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Việc đa dạng hóa các
sản phẩm tiền gửi sẽ hạn chế được những rủi ro trong trường hợp nền kinh tế biến
động. Ngược lại, quy mô tiền gửi mà thấp sẽ làm các ngân hàng bị hạn chế trong việc

tiếp cận với các khách hàng có nhu cầu vay lớn, hạn chế việc mở rộng dịch vụ và quy
mô hoạt động của ngân hàng.
Bên cạnh việc xem xét quy mô nguồn tiền gửi, ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu
tốc độ tăng trưởng để đánh giá hoạt động huy động tiền gửi. Để đo lường tăng trưởng
nguồn tiền gửi có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối và mức tăng trưởng tương đối
(tỷ lệ tăng trưởng).
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc – MSSV: 11023493 - Lớp: CDTN13TH

×