Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

đánh giá kết quả sử dụng kỹ thuật ghép mỡ tự thân coleman trong tạo hình vùng mặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 45 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khuôn mặt đóng một vai trò quan trọng trong việc biểu hiện cảm xúc
của con người. Teo lép tổ chức phần mền là một di chứng thường gặp sau
chấn thương, chiếu xạ, cắt bỏ khối u, các bệnh lý nhiễm khuẩn (HIV, lao…),
bệnh lý bẩm sinh. Thương tổn này gây nên những ảnh hưởng chức năng và
biến dạng về hình thể của vùng mặt, tổn hại nặng nề đến hình thức và tâm lý
bệnh nhân. Vì vậy tạo hình làm đầy khuôn mặt là cần thiết và là một phẫu
thuật mang tính thẩm mỹ cao.
Có rất nhiều cách phẫu thuật tạo hình khác nhau để tăng thể tích phần
mềm vùng mặt teo lép như vạt đùi trước ngoài tự do, vạt cơ lưng to… tuy
nhiên các phương pháp này kỹ thuật phức tạp, thời gian phẫu thuật kéo dài.
Ngoài ra, còn sử dụng các chất liệu độn như silicon, dầu paraffin …gây rất
nhiều biến chứng rất khó khắc phục, chất làm đầy axit hyaluronic tỉ lệ thành
công chưa cao.
Từ cuối thế kỷ 19, ghép mỡ tự thân đã được nghiên cứu áp dụng trong
tạo hình với ca ghép mỡ đầu tiên tạo hình vùng mặt do Gustav Neure mô tả
năm 1893.Năm 1909, Verderame công bố sử dụng mỡ tự thân từ vùng bụng
để làm đầy khuyết điểm trên gò má và cằm. Năm 1986, kỹ thuật cấy ghép mỡ
coleman ra đời với ưu điểm dễ dàng kiểm soát thể tích, khối lượng mỡ ghép,
sử dụng đường rach nhỏ 2mm, hạn chế gây thương tổn đến vùng cho mỡ và
vùng nhận mỡ, chăm sóc sau phẫu thuật đơn giản, phục hồi nhanh.
Kỹ thuật của coleman đã nhanh chóng được sử dụng rộng rãi trên y văn
và đạt nhiều kết quả khả quan. Ở Việt Nam, kỹ thuật này cũng đã được sử
dụng ở một số bệnh viện. Tuy nhiên kỹ thuật này chưa được phổ biến rộng
rãi và chưa có nghiên cứu nào đánh giá đầy đủ về hiệu quả của phương
2
pháp, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá kết quả sử
dụng kỹ thuật ghép mỡ tự thân coleman trong tạo hình vùng mặt” với hai
mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng các tổn thương vùng mặt được chỉ định ghép


mỡ coleman
2. Đánh giá kết quả cấy ghép mỡ tự thân Coleman trên bệnh nhân bị teo
lép tổ chức phần mềm vùng mặt
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU VÙNG MẶT
1.1.1. Các đơn vị thẩm mĩ vùng mặt
Khuôn mặt bao gồm 9 đơn vị thẩm mỹ lớn bao gồm: trán, mũi, mắt/
lông mày, má, môi trên, môi dưới, cằm, tai, cổ. Các đơn vị thẩm mỹ có thể
được chia thành nhiều đơn vị giải phẫu nhỏ hơn với các tính năng giải phẫu
và thẩm mỹ độc đáo.
Hình 1.1. Hình ảnh các đơn vị thẩm mỹ vùng mặt
Đơn vị trán: 1a tiểu đơn vị trung tâm; 1b tiểu đơn vị bên; 1c tiểu đơn vị
lông mày
Đơn vị mũi: 2
Đơn vị vùng mắt: 3a đơn vị mi mắt dưới; 3b đơn vị mi mắt trên; 3c tiểu
đơn vị bên; 3d tiểu đơn vị trung gian.
4
Đơn vị má: 4a tiểu đơn vị trung gian; 4b tiểu đơn vị gò má; 4c tiểu đơn
vị bên; 4d tiểu đơn vị miệng.
Đơn vị môi trên: 5a tiểu đơn vị nhân trung; 5b tiểu đơn vị bên; 5c tiểu
đơn vị niêm mạc.
Đơn vị môi dưới: 6a tiểu đơn vị trung tâm, 6b tiểu đơn vị niêm mạc.
Đơn vị cằm: 7
Đơn vị tai: 8
Đơn vị cổ: 9
Năm 2001 Menick đã mô tả khuôn mặt có thể được đặc trưng bởi màu
sắc, kết cấu, đường viền xác định các đơn vị. Chất lượng da của má phù hợp
với khuôn mặt trong màu sắc và kết cấu. Đơn vị má được hình thành bởi ranh

giới của các đơn vị liền kề (trán, mí mắt, mũi, môi, cổ và tai). Đó là những
đường nét trước lỗ tai xoắn của vành tai; đi vòng quanh trên vòm gò má, và
vào ngã ba mí mắt-má thấp hơn, và sau đó đi ở phía dưới cùng vào rãnh mũi
má, xung quanh cằm và hướng tới các nếp gấp trước cằm. Sau đó nó mở rộng
sang hai bên dọc theo đường viền hàm dưới, đi lên góc hàm và trở lại tai.
1.1.2. Các cơ của vùng mặt
Sự phức tạp của các cơ mặt là một đặc trưng của loài người để biểu hiện
tình cảm và để khép,mở các hốc tự nhiên ở mặt. Các cơ có 3 đặc tính:
Một đầu bám vào xương,mạc hoặc dây chằng, đầu kia bám vào da nên
còn gọi là các cơ bám da mặt. Bám quanh các hốc tự nhiên của đầu – mặt
Vân động bởi các nhánh của thần kinh mặt
5
Hình 1.2. Các cơ vùng mặt
1.1.3. Hệ thống cân cơ nông ở mặt
Hệ thống cân cơ nông (SMAS- Superficial Facial Fascia) được cấu tạo bởi
những lớp sợi liên kết, giữa những lớp sợi này và phần trung bì có vách cơ.
- Lớp này chia lớp mỡ dưới da thành hai lớp
- Có các vách sợi cơ từ lớp này liên kết với lớp trung bì: Giữa lớp cân
này và lớp trung bì có vách ngăn, những vách ngăn này chia lớp mỡ ấy thành
nhiều vách nhiều khoang và xung quanh 1 đơn vị vách ngăn có tổ chức xơ rất
dày giữa lớp cân này với da tạo vách của cân da nếu lớp này phát triển mạnh
hơn nữa dầy hơn nữa nó tạo ra hệ thống dây chằng nối trực tiếp từ màng
xương cho đến da.
- Lớp mỡ không có vách nằm giữa lớp cân sâu và lớp cân cơ nông
6
- Các mạch máu và thần kinh nằm dưới lớp này, các nhánh nhỏ xuyên
qua lớp cân này để lên bề mặt.
Hệ thống cân hoạt động đặc biệt, hệ thống cơ bám da mặt hoặc là cơ biểu hiện
nét mặt có đặc điểm có một đầu bám vào xương và một đầu bám vào da. Khi
co các cơ biểu hiện trên da mặt thì nó chỉ tập trung vào một điểm của da mặt

để khuyếch tán lực co của từng cơ một nó được truyền qua hệ thống smas này
dẫn xung động lên da gây biểu hiện sự đồng bộ của một nhóm cơ.
Hình 1.3. Mặt cắt ngang qua hệ thống SMAS
Năm 1976 Mitz và Peyronie khi nghiên cứu lớp cân trên tuyến mang tai
đã phát hiện ra nó không những mang tính chất của một lớp cân mà còn mang
cấu tạo của lớp cơ và đưa ra thuật ngữ cân cơ nông và đặc biệt lớp cân này
tiếp tục nối tiếp với hệ thống SMAS ở vùng mặt.
Năm 1984 Josst và Levet đưa ra khái niệm lớp cân cơ nông vùng mặt
cân nông là sự tiếp nối của cơ bám da cổ Platysma. Cơ này có cấu tạo đặc biệt
hai đầu bám vào da nên khi nghiên cứu Josst thấy lớp cân của tuyến mang tai
là một phần kéo dài của cơ bám da cổ Platysma. Ngoài ra cân này còn chạy ra
phía trước lên bám vào xương gò má và tiếp tục chạy lên phía trên tạo ra hệ
7
thống SMAS đặc biệt – hệ thống SMAS của vùng tầng mặt trên giữa cân trán
và tiếp tục chạy ra sau tạo ra cân Galia, chạy ra bên thì tạo ra cân thái dương
nông và cân thái dương sâu. Cân thái dương nông và cân thái dương sâu bọc
cơ thái dương
Hình 1.4. Hệ thống SMAS vùng mặt
Sự liên tục của SMAS từ vùng cổ được thể hiện bằng cơ Platysma lên
trên tầng giữa mặt. Lớp cân cơ này có liên quan trực tiếp với cân nông của tuyến
mang tai và chạy lên bám vào phần trên của gò má tiếp tục phát triển lên trên và
ra sau thể hiện tạo nên 2 cân: cân thái dương nông và cân thái dương sâu,phía
trên là cân trán và tiếp tục là cân galia
Các vách sợi cơ từ SMAS tạo nên vách của lớp mỡ hạ bì liên kết với lớp
trung bì có mật độ khác nhau tùy từng vùng. Ngoài ra có những vị trí cấu trúc
này trở lên dày đặc xơ chắc thành dây chằng, các dây chằng này tạo nên hình
dáng khuôn mặt và các nếp chính của khuôn mặt, có 2 vị trí các dây chằng
này rất dày chắc bám chắc từ xương ra da – dây chằng gò má, và dây chằng
8
hàm dưới. Gữa các dây chằng này mật độ lớp vách ngăn khác nhau tạo nên độ

di động của da khác nhau, da ở các vùng trán, quanh mắt, mũi, môi cằm là
khá chắc chắn ít di động, vùng má là lỏng léo nhất dễ di động.
1.1.4. Các khoang mỡ nông vùng mặt
Các khoang mỡ nông vùng mặt được hình thành do cấu trúc của hệ
thống SMAS
Các công trình tiên phong của Rohrich và Pessa , sử dụng kỹ thuật
nhuộm và mổ xẻ tử thi, đã tiết lộ các khoang mỡ nông riêng biệt trên mặt. Các
khoang được ngăn cách với nhau bởi các vách mỏng và các vách hội tụ nơi
khoang liền kề để tạo thành dây chằng giữ lại. Các khoang mỡ nông của mặt
bao gồm: khoang mỡ mũi má, khoang mỡ má trung gian, khoang mỡ má giữa,
khoang mỡ má- thái dương bên, khoang mỡ trán giữa, khoang mỡ trán bên,
khoang mỡ bên ổ mắt, khoang mỡ dưới ổ mắt, khoang mỡ trên ổ mắt. Giải
phẫu các khoang mỡ dưới da trên bề mặt của khuôn mặt có ý nghĩa trong quá
trình lão hóa. Sự tiêu mỡ dường như xảy ra ở mức độ khác nhau trong các
khoang mỡ khác nhau, dẫn đến mất cân đối đường viền khuôn mặt và mất liền
mạch, quá trình chuyển đổi hài hòa giữa độ lồi và độ lõm của khuôn mặt kết
hợp với sự trẻ trung và vẻ đẹp
9
Hình 1.5. Khoang mỡ nông vùng mặt
1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA MÔ MỠ
Tổ chức mỡ dưới da xuất phát từ cấu trúc lưới nội mô đặc biệt từ tháng
thứ tư của thai kỳ được xem như cơ quan nguyên thuỷ ở dưới da. Tế bào mỡ
là một loại tế bào đặc biệt của mô liên kết. Mỡ bắt nguồn từ vùng mô liên kết,
quanh các mạch máu dưới da, từ tế bào mỡ nguyên thuỷ (adipopoblasts), tế
bào này không khác gì với các tế bào xung quanh và phát triển thành tế bào
nguyên bào mỡ (preadipocytes). Nguyên bào mỡ (Preadipocytes) chuyển
sang tế bào mỡ trưởng thành (adipocytes) nhờ tích tụ chất triglycerides. Tế
bào mỡ hợp lại thành từng thuỳ (lobule) có mạch máu nuôi riêng với động
mạch trung tâm cung cấp máu cho hệ thống mao mạch bao quanh từng tế
bào mỡ.

10
Các thuỳ mỡ này ngăn cách nhau bởi vách bằng mô sợi, các thuỳ mỡ cấu
tạo thành mô mỡ, xuất hiện nhiều ở dưới da. Mô mỡ chiếm khoảng 20% trọng
lượng của cơ thể. Vì mô này có nhiều chức năng nên được nhiều người xem
như là một cơ quan đặc biệt của cơ thể (như da). Mô mỡ có hệ thống máu
nuôi độc lập, sự tích tụ tế bào mỡ trong các cơ quan khác chủ yếu ở quanh các
mạch máu và phụ thuộc vào mạch máu nuôi của cơ quan đó.
Mô mỡ dưới da nhận máu nuôi từ hệ thống mạng mạch ở cân, tạo thành
từng mạch máu dưới da. Các thuỳ mỡ nhận máu nuôi từ các nhánh xuống của
hệ thống mạch máu dưới da. Khi các thuỳ mỡ dày (hơn 10mm), nó nhận máu
nuôi từ hai phía, các nhánh xuống từ dưới da nuôi lớp mỡ ở trên và các nhánh
lên từ cân nuôi lớp mỡ ở dưới.
Khi mô mỡ đạt đến một độ dày nào đó, các mạch máu xuống và lên gặp
nhau, hình thành mạng máu nuôi thứ ba. Một màng ngăn cách có thể được
thành lập ở vùng này, chia mỡ dưới da thành hai vùng riêng biệt. Ý nghĩa của
sự phân chia về giải phẫu này chưa rõ dù sự tăng dần kích thước của tế bào
lớp mỡ sâu có thể có ý nghĩa trong việc cấy mỡ.
Số lượng tế bào mỡ và các thuỳ mỡ được tạo thành gia tăng cho đến khi
cơ thể phát triển hoàn toàn, tức là sau tuổi dậy thì cho đến khi thành người
lớn. Quá trình này xảy ra từng đợt, đạt đỉnh cao nhất vào cuối tuổi dậy thì.
Ngược lại, kích thuớc tế bào mỡ tiếp tục gia tăng đến một mức độ nào đó
trong suốt cuộc đời, phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng.
Vị trí cơ quan mỡ đã được định trước do di truyền nhưng độ dày của mỡ
dưới da thay đổi tuỳ theo vùng của cơ thể và thay đổi tùy theo từng người tạo
ra hình dáng riêng biệt cho từng người.
Ảnh hưởng của di truyền trên lớp mỡ dưới da đã được xác nhận qua
nghiên cứu thực nghiệm trên sinh vật và trên người. Cấy tổ chức mỡ nguyên
thuỷ sẽ hình thành mô mỡ ở nơi nhận với các đặc điểm của nơi nó sinh ra.
11
Giới tính cũng là một yếu tố khác ảnh hưởng đến sự bố trí mỡ. Phụ nữ

được bố trí theo dạng nữ ở phần mông và đùi, nam được bố trí theo dạng nam
với lượng mỡ tích tụ nhiều ở phần trên của cơ thể.
1.3. CÁC BỆNH LÝ GÂY TEO LÕM VÙNG MẶT
1.3.1. Bệnh lý bẩm sinh- Hội chứng Parry-Romberg
Parry-Romberg còn gọi là hội chứng teo lép nửa mặt tiến triển. Yếu tố
cơ bản là sự teo lép, thoái triển của da và mô dưới da, đôi khi cả cơ, sụn,
xương một nửa mặt hay trán. Đôi khi teo lép mở rộng ra chi thể, thân mình và
có thể có biến chứng về mắt và thần kinh. Hội chứng Parry- Romberg được
mô tả lần đầu tiên vào năm 1825 bởi Caleb Hillier Parry và sau đó đã được
mô tả lần thứ hai vào năm 1846 được Moritz Heinrich Romberg và Eduard
Heinrich Henoch mô tả chi tiết hơn. Đây là hội chứng da-thần kinh hiếm gặp,
tỷ lệ xuất hiện khoảng 1/700000 người và ở nữ gặp nhiều hơn nam. Có giả
thuyết cho rằng bệnh là do tự miễn, tuy nhiên cơ chế và nguyên nhân gây
bệnh vẫn chưa được làm sáng tỏ.
Hiện nay chưa có nghiên cứu hệ thống nào về cơ chế bệnh sinh của hội
chứng nhưng có nhiều bằng chứng ủng hộ giả thuyết về cơ chế tự miễn. Các
bằng chứng chứng minh cho giả thuyết này bao gồm: tăng tần số các tự kháng
thể, xuất hiện những đường xơ cứng da, xuất hiện vết bạch biến, sự biểu hiện
những dấu hiệu bất thường ở MRI não, đôi khi có báo cáo về bệnh học thần
kinh liên quan đến sự viêm trong não, làm giải phẫu bệnh về da ở thời kỳ khởi
phát cho thấy sự thay đổi của các yếu tố viêm. Hội chứng teo mặt thường bắt
đầu khi bệnh nhân còn nhỏ, khoảng 5 tuổi và phát triển tới khoảng 15tuổi. Sự
tiến triển của teo thường kéo dài từ 2 đến 10 năm và sau đó tiến trình dường
như đi vào một giai đoạn ổn định.
12
Hình 1.6. Bệnh nhân nữ 17 tuổi mắc hội chứng Parry - Romberg
Năm 1871 nhà thần kinh học người Đức Albert Eulenburg là người đầu
tiên sử dụng tiêu đề mô tả teo lép mặt tiến triển. Ban đầu, da và mô liên kết
dưới da bị teo dần ở một bên của khuôn mặt, 100% số trường hợp có lép một
nửa mặt, điển hình là teo tổ chức mỡ dưới da. Trung tâm vùng teo lép da và tổ

chức dưới da thường ở vùng tương ứng với cơ thái dương, cơ cắn và cơ mút.
Vùng này mở rộng xuống dưới về phía cổ và môi mép, lên trên về phía trán,
cung mày. Sự teo lép thường gây ra những biến dạng thứ phát: miệng bị kéo
lên, cằm và mũi bị kéo lệch sang bên bệnh…Biểu hiện lâm sàng có nhiều mức
độ, thể nhẹ là sự thoáng nhận thấy mất cân xứng hai bên đến những rối loạn
rất nặng gây biến dạng khuôn mặt. Có thể kèm theo những biến đổi ở các cơ
quan vùng mặt. Quá trình cuối cùng có thể mở rộng đến khu vực xung quanh
mắt và trán, tai, và / hoặc cổ . Sụn mũi, tai và thanh quản có thể cũng bị ảnh
hưởng. Bệnh đã được báo cáo ảnh hưởng đến cả hai bên của khuôn mặt trong
5-10% các trường hợp . Các mô của miệng bao gồm cả lưỡi, nướu, răng, và
vòm miệng thường có liên quan đến hội chứng Parry-Romberg.50% số bệnh
nhân có phát triển bất thường về răng như mọc răng chậm,lộ chân răng, quá
trình ăn nhai bị ảnh hưởng, 35% bệnh nhân có khó khăn khi há miệng bao
13
gồm cả rối loạn khớp thái dương hàm và co thắt cơ nhai.25% bệnh nhân teo
một bên của môi trên và lưỡi.
A B C
A: nửa mặt trái bị teo lép B: lưỡi và môi, mép bị teo lép C: răng bị ngắn và bị tiêu hủy
Hình 1.7. Bệnh nhân mắc hội chứng Parry – Romberg
Ở mắt là bất thường hay gặp nhất trong hội chứng,làm teo mô dưới da
xung quanh mắt.Bất thường về thần kinh cũng rất phổ biến, khoảng 45% số
người mắc hội chứng Parry – Romberg bị đau dây thần kinh sinh ba (đau
nặng trong các mô do dây thần kinh sinh ba chi phối bao gồm trán, mắt, mũi,
má, miệng, hàm), đau nửa đầu có thể kèm theo bất thường thị giác buồn nôn
và nôn
1.3.2. Bệnh lý mắc phải:
Phần mền vùng mặt bị teo lõm sau:
- Chấn thương
- Sau chiếu xạ
- Cắt bỏ khối u

- Sẹo xấu gây co kéo lõm vùng mặt
- Các bệnh lý nhiễm khuẩn: như HIV, lao…
Trên những bệnh nhân bị HIV lớp mỡ bị tiêu dần đặc biệt khuôn mặt là
nơi có mỡ tiêu nhiều nhất chủ yếu giảm mỡ má và mỡ vùng thái dương, điều
này dẫn tới sự xuất hiện những nếp nhăn trên khuôn mặt. Ở phụ nữ, tiêu mỡ
14
trên khuôn mặt làm mất vẻ nữ tính. Hơn nữa, nhìn thấy rõ khuôn mặt hốc hác
và xanh xao, bên cạnh nỗi sợ tiết lộ.
Các bác sĩ Brazil đã phân loại mức độ teo mỡ vùng mặt dựa trên các chỉ
số mức độ teo mỡ vùng mặt (FLSI- The Facial Lipoatrophy Severity Index)
đánh giá ba vùng của khuôn mặt: vùng má, vùng thái dương, vùng trước tai
theo 4 cấp độ
Cấp I: teo mỡ trên khuôn mặt nhẹ, không có bằng chứng về cấu trúc giải
phẫu trong khu vực cũng không mất đường viền khuôn mặt.
Cấp II: teo mỡ trên khuôn mặt vừa, đặc biệt là gò má và tăng nếp mũi
má, không mất đường viền mặt.
Cấp III: teo mỡ trên khuôn mặt nhiều. Cấu trúc ở khu vực má được quan
sát tốt, chẳng hạn như xương gò má, trực quan của hố nanh, một phần gò má.
Tạo áp lực trên da rất chậm để trở về trạng thái nghỉ.
Cấp IV:teo mỡ trên khuôn mặt rất nghiêm trọng, gần như nhìn thấy hoàn
toàn của các đường viền giải phẫu, nhìn rõ xương và cơ của mặt, mất đường
viền khuôn mặt. Tạo áp lực trên da không trở về trạng thái nghỉ.
1.3.3. Teo tổ chức mỡ dưới da sinh lý
Ghép mỡ tự thân được chỉ định cho sự teo mỡ do lão hóa, teo mỡ trên
khuôn mặt của người gầy, nguyên nhân của sự thiếu hụt mô mềm dẫn đến sự
bất đối xứng hoặc đường viền bất thường. Đối với nữ giới sự tiêu mỡ có thể
xuất hiện từ độ tuổi tiền mãn kinh, ở nam giới từ độ tuổi mãn dục do các
hoocmon sinh dục suy giảm
1.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP LÀM ĐẦY
Sử dụng các chất liệu độn như silicon, paraffin, tiêm các chất làm đầy

cho đến nay, mỗi phương pháp đều có những thay đổi để đảm bảo sự an toàn
cho sức khỏe, sự tự nhiên và bền vững về thẩm mỹ.
15
Quá khứ hãi hùng của của việc sử dụng paraffine (1899-1914) đã cho
chúng ta thấy những bài học khi tiêm các chất làm đầy mô vào cơ thể với mục
đích điều trị hay thẩm mỹ sau đó rất nhiều bác sĩ, phòng mạch tư nhân hay cả
những người không có chuyên môn về y tế đã quay sang sử dụng tiêm
silicone lỏng thay thế paraffine. Gần đây, tình hình tiêm silicone lỏng nói
chung và tiêm vào vùng mặt một cách bất hợp pháp vẫn còn diễn ra phức tạp
ở nước ta. Nhiều trường hợp tử vong hay nhiều tai biến nặng nề đã được đưa
ra cảnh báo ở nhiều cơ sở y tế trên cả nước.
Acid hyaluronic được phát hiện bởi Karl Meyer vào năm 1934 trong
dịch thủy tinh của mắt gia súc. Acid hyaluronic, là một polysaccharide tự
nhiên và một thành phần phổ biến của tế bào có tương thích sinh học. Vào
đầu những năm 1990, bắt đầu bằng việc sử dụng collagen bò, acid hyaluronic
bắt đầu được sử dụng trong các lĩnh vực da liễu và phẫu thuật thẩm mỹ, hiện
nay nó là một sản phẩm can thiệpvới mục đích tăng thêm mô mềm và là một
trong những phương pháp điều trị teo tổ chúc phần mền trên khuôn mặt.
Thường được dung nạp tốt, Acid hyaluronic có tính chất giữ nước cao và tăng
thể mô nhưng trong thời gian 6- 12 tháng sẽ bị tiêu dần.
1.5. PHẪU THUẬT GHÉP MỠ COLEMAN TỰ THÂN
1.5.1. Sơ lược lịch sử phẫu thuật ghép mô mỡ tự thân
Việc sử dụng mỡ tự thân để cải thiện các bất thường về đường nét và chỗ
lõm trên cơ thể được trở lại vào cuối thế kỉ 19. Vào đầu những năm 1893
mảnh ghép mô mỡ tự thân tự do được dùng để làm đầy những khiếm khuyết
về mô mềm. Lịch sử cấy ghép mỡ tự thân cho một cái nhìn sâu sắc vào sự
phát triển của ghép mỡ cả hai vấn đề thẩm mỹ và không thẩm mỹ.
Neuber là người đầu tiên báo cáo việc sử dụng các mảnh ghép mô mỡ
nhỏ từ cánh tay trên để tái tạo lại một vùng khuôn mặt của bệnh nhân bị trầm
cảm của do bệnh lao viêm xương. Tác giả kết luận rằng mảnh ghép mô mỡ

16
nhỏ, kích cỡ bằng hạt đậu hoặc hạnh nhân, dường như có một cơ hội tốt để
sống sót. Verderame quan sát thấy rằng cấy ghép mỡ giải quyết vấn đề co rút
ở chỗ ghép, năm 1909 ông đã sử dụng mỡ tự thân từ vùng bụng để sửa chữa
những khuyết điểm trên vùng gò má và cằm. Lexer báo cáo cá nhân thí
nghiệm với cấy ghép mỡ và thấy rằng phần lớn mô mỡ ghép đã cho kết quả
tốt hơn. Brüning sử dụng ghép mỡ để tạo hình một biến dạng sau rhinoplasty
bằng cách ghép mỡ trong một ống tiêm và tiêm các mô thông qua một cây
kim. Cotton sử dụng kỹ thuật cắt và ghép những mô mỡ nhỏ làm đầy khuyết
tật. Peer lưu ý rằng việc sử dụng nhiều mảnh ghép nhỏ ít bị tiêu mỡ sau ghép
hơn là sử dụng những mảnh ghép mô mỡ lớn. Ông cũng phát hiện ra rằng1
năm hoặc hơn, sau khi cấy ghép mỡ ghép mất khoảng 45 % trọng lượng và
khối lượng do một số tế bào mỡ bị tổn thương trong quá trình cấy ghép và bị
tiêu. Peer nói rằng dưới kính hiển vi, sau 8 tháng mô mỡ ghép phát triển bình
thường tại nơi nhận. Sự phát triển của kỹ thuật hút mỡ của Fischer và Fischer,
báo cáo trong năm 1975 thay vì những mảnh ghép mô mỡ lớn ông cắt thành
nhiều mảnh ghép mô mỡ nhỏ. Kỹ thuật hút mỡ đã được hình thành bởi
Fischer năm 1974 và đưa vào thực hiện năm 1975. Đến đầu những năm 1980
ghép mô mỡ hiện đại được phát triển nhờ vào sự phổ biến của kỹ thuật hút
mỡ. Bircoll đầu tiên báo cáo việc sử dụng bơm mỡ tự thân từ kỹ thuật hút mỡ
làm đầy đường nét và khuyết tật. Illouz tuyên bố rằng vào năm 1983, ông bắt
đầu chuyển mô mỡ có được từ kỹ thuật hút mỡ, những thử nghiệm đầu tiên
báo cáo từ Illouz mô tả thành công lớn khi ghép mỡ tự thân được áp dụng cho
biến dạng khuôn mặt bằng kỹ thuật hút mỡ, nhưng sau đó những nghiên cứu
cho thấy một sự sống còn nghèo tỷ lệ cho các chất béo ghép tương tự như
collagen tiêm. Năm 1986, Ellenbogen công bố sử dụng mảnh ghép mô mỡ tự
thân dạng hạt cho các trường hợp teo và sau chấn thương vùng mặt. Johnson
nói rằng vào năm 1983, ông bắt đầu sử dụng tiêm mỡ tự thân cho đường nét
khiếm khuyết của mông, vùng xương chày trước, đùi bên, khu vực xương cụt,
17

vú, và mặt. Ghép mỡ tự thân là phương pháp phẫu thuật được lựa chọn để
làm đầy nếp nhăn vùng mặt đặc biệt là những vùng rãnh mũi môi, rãnh mi
trên, nếp nhăn giữa 2 cung mày.
Sydney Coleman là bác sĩ đầu tiên quan sát và công bố cho cộng đồng
khoa học khả năng tái tạo tuyệt vời của ghép tế bào mỡ tự thân và các tế bào
gốc có liên quan. Kể từ năm 1987, ông đã phát triển sử dụng ghép mỡ không
chỉ vào khuôn mặt và cơ thể, mà còn để khai thác khả năng trẻ hóa và tái tạo
mạnh mẽ của tế bào mỡ. Ông được biết đến như người khởi đầu của một
phương pháp thành công cho ghép mỡ tự thân.Từ năm 1988, Tiến sĩ Coleman
đã cho trình bày về ghép mỡ tự thân tại các cuộc họp khoa học trên toàn thế
giới và đã xuất bản rộng rãi. Ngay sau khi những nỗ lực thành công đầu tiên
của mình về ghép mỡ, ông quan sát thấy một sự cải thiện về chất lượng của da
với quá trình lão hóa. Sau đó, ông đã chứng kiến sự đảo chiều của điều kiện
bệnh lý sau khi ghép mỡ của sẹo, tổn thương bức xạ trị liệu, xơ cứng bì, teo do
steroid và điều kiện da khác. Sử dụng hình ảnh trong khoảng thời gian 6 năm,
Coleman đã chứng minh sự tồn tại lâu dài của mô mỡ được cấy vào rãnh mũi
má bằng kỹ thuật hút mỡ.
Hiện nay có bằng chứng cho thấy các tế bào gốc trong mô mỡ đã hỗ trợ
trong việc sửa chữa các mô bằng cách đưa vào một nguồn cung cấp máu mới
hoặc bằng cách trực tiếp ảnh hưởng đến cấu trúc bị hư hỏng hoặc lão hóa.
1.5.2. Sinh lý học của quá trình ghép mỡ coleman
- Giả thuyết tế bào tạo mỡ sống sót: còn được công nhận đến ngày nay,
giả thuyết này lần đầu được Peer đề xuất năm 1955. Đặc tính của tế bào sinh
mỡ ghép là tiếp tục phát triển ở nơi ghép.
+ Ngày thứ nhất: tế bào tạo mỡ sẽ trải qua giai đoạn thiếu máu
+ Ngày thứ 2 và ngày thứ 3: đại thực bào, bạch cầu đa nhân đến thu dọn
tế bào chết
18
+ Ngày thứ 4: tân mạch bắt đầu xuất hiện từ ngoại vi vào trung tâm
mảnh ghép.

- Giả thuyết thay thế tế bào mỡ: cơ chế này liên quan đến sự tích tụ
collagen và mô sợi do các nguyên bào sợi tiết ra được kích thích bởi phản ứng
viêm tại chỗ do sự thoái hóa của các mô mỡ được ghép vào. Tại mô ghép có
các tổ chức bào và phản ứng xơ với sự tham gia của nguyên bào sợi. Các tổ
chức bào sẽ biệt hóa và dần dần thay thế tế bào tạo mỡ.
1.5.3. Mô bệnh học mỡ ghép
Billings and May phân tích các mô ghép chất béo và lưu ý những điều
sau đây:
Mô học
+ Sau ghép 4 ngày đầu tiên tế bào thâm nhiễm: các tế bào đa nhân trung
tính, các tế bào huyết tương, các tế bào lympho, bạch cầu ái toan với mạch
ghép: các tế bào máu đỏ được kết tụ với nhau, các tế bào máu trắng là trong
quá trình thông qua các tế bào máu qua thành mạch còn nguyên vẹn. Không
có sự thoái hóa của các tế bào nội mô ghép và nguyên bào sợi của chất nền
+ Ngày thứ tư: và giãn nở của các mạch đệm nhỏ hơn với các tế bào
máu đỏ phong phú và các tế bào máu trắng chỗ nối giữa các mạch ghép nhỏ
hơn và lưu trữ nguồn cung cấp máu đỏ. Tăng bạch cầu ái toan trong số thâm
nhiễm tế bào. Loại nước ngoài cơ thể tế bào khổng lồ thường thấy.
+ Sau ghép 10 ngày: Khu vực của các mô mỡ hoại tử. Phổ biến tái sinh
của các tế bào mỡ ban đầu chủ yếu là ở ngoại vi của tiểu thùy - bao gồm các
tế bào mỡ phát triển hạt nhân của mô mỡ ghép và quanh mô mỡ nơi nhận
giống như mô tế bào, đã lên lipid và mở rộng 14-21 ngày. Tiếp tục phân tích
tế bào mỡ. Tăng số lượng mô tế bào xuất hiện để được chọn lên lipid với hình
thành các giọt trong tế bào chất.
+ 30-60 ngày: ngày càng có nhiều mô tế bào lớn mà đỉnh cao trong vòng
2 tháng. Hợp lại của mỡ trong tế bào chất.
19
1.5.4. Quy trình ghép mỡ coleman
1.5.4.1. Kỹ thuật
Phương pháp này lấy những khối mỡ nhỏ còn nguyên vẹn bằng các ống

hút (cannula) đặc biệt và tách lọc bằng li tâm. Một áp lực dương nhỏ sẽ đẩy
những khối mỡ đã lọc qua một cannula có kích thước nhỏ hơn đến nơi nhận
vẫn giữ nguyên vẹn được cấu trúc.
- Lấy mỡ:
Qúa trình thực hiện vô cùng nghiêm ngặt. Có thể lựa chọn phương pháp
gây tê hoặc gây mê tùy thuộc vào từng bệnh nhân.
Năm 2002 tác giả Narins RS sử dụng công thức pha thuốc tê theo tỷ lệ
bao gồm 1000 ml nước muối sinh lý NaCl 0,9%, 2 mL epinephrine 1:1000, 50
ml lidocain 1%, và 10 ml dung dịch natri bicarbonate 8,4%.
Sửa đổi dựa trên phương pháp pha tê Klein các tác giả trong nhóm
nghiên cứu của Moore năm 1995 500ml dung dịch NaCl 0,9%, 50ml lidocain
2%, 1ml epinephrine 1:1000,10ml Natri bicacbonate 8,4%
20

Hình 1.8. Cannula hút mỡ
Rạch đướng rạch nhỏ theo các nếp lằn ở bụng, đùi…để đưa cannula hút
mỡ đầu mềm vào. Sử dụng cannula dài 15 cm, đường kính 3mm, cannula có
đầu tù được gắn vào bơm tiêm Luer- Lok 10ml dung một lần, áp lực hút chân
không. Lỗ vào của cannula đủ lớn để có thể nhận mô mỡ có kích thước nhất
định, sau đó mô mỡ được chuyển vào trong lòng bơm tiêm Luer-Lok. Đóng
vết mổ bằng chỉ nylon.
-Lọc mỡ
Tách rời cannula thu thập mỡ ra khỏi bơm tiêm Luer-Lok. Quay ly tâm
các bơm tiêm với tốc độ khoảng 3000 vòng/phút để tách biệt các chất thu
được thành 3 lớp
21

Hình 1.9. Mỡ đã quay ly tâm
3 lớp lần lượt: triglyciride loãng là mỡ lỏng từ các khối mỡ bị vỡ chảy
ra, lớp tiếp theo là mô mỡ, cuối cùng là tế bào máu thuốc tê. Lớp chất lỏng

bên dưới được dẫn lưu ra bên ngoài, lớp mỡ lỏng bên trên được hút thấm
bằng gạc khô, phần mô mỡ sạch còn lại được chuyển vào trong những bơm
tiêm Luer-Lok 1ml
Ghép mỡ
Tiêm tê Lidocain 0.5%và 1:200000 epinephrine tại nơi rạch da ( đường
rạch trùng với các nếp lằn trên da). Dùng dao số 11 rạch da với chiều dài từ 1-
2mm. Cannula dung để bơm mỡ là cannula số 17 có một đầu hở ở gần cuối, lỗ
thoát đủ lớn đểcacs mô mỡ chảy qua. Gắn cannula vào bơm tiêm 1 ml có chứa
mô mỡ bơm từ từ vào nơi cần ghép

Hình 1.10. Bơm mỡ vùng mặt
22
1.4.4.2. Chỉ định
- Những trường hợp mỡ của vùng mặt bị teo lõm do tuổi tác chỉnh sửa
khuôn mặt cân xứng, làm đầy những vùng mặt rãnh mũi má, gò má thái
dương, vùng trán, hốc mắt, môi, trẻ hóa vùng mặt.
- Bất đối xứng vùng mặt sau chiếu xạ, sau tai nạn, nhiễm trùng, bất
thường bẩm sinh: hội chứng Parry- Romberg, hội chứng Frey
- Teo lõm tổ chức hốc mắt
- Ghép mỡ dưới sẹo
1.4.4.3. Kết quả
Coleman và Saboeiro báo cáo thành công trong việc cấy ghép mỡ tự thân
vào ngực. Hai trong số 17 bệnh nhân bị ung thư vú được chẩn đoán bằng chụp
tuyến vú, một bệnh nhân sau 12 tháng và một bệnh nhân sau 92 tháng còn lại
mô mỡ cấy ghép ở vú. Cấy ghép mỡ cũng được sử dụng để tăng cường các
mô xung quanh vú sau khi điều trị ung thư vú.
Cấy ghép mỡ tự thân theo phương pháp Coleman được nhiều tác giả trên
thế giới nghiên cứu và áp dụng thành công đặc biệt trong tạo hình vùng mặt.
Từ tháng 5-2005 đến tháng 6-2006 Braccini F đã cấy ghép mỡ tự thân
theo kỹ thuật Coleman cho 32 bệnh nhân (7 nam và 25 nữ) với chỉ định nâng

mặt và, hoặc tạo hình mi mắt. Tất cả bệnh nhân đều hài lòng với kết quả đạt
được và sự tái hấp thu mỡ đạt ở mức tối thiểu. Không có tình trạng phù viêm
nghiêm trọng hay tụ máu sau tuần thứ 3 của phẫu thuật, không có tình trạng bị
tiêu mỡ nhiều đòi hỏi tới phẫu thuật lần 2.
Năm 2011, Guijarro M.R và cộng sự đã thành công trong tạo hình vùng
mặt khi cấy ghép mỡ tự thân cho 9 bệnh nhân bất đối xứng vùng mặt trải qua
những lần phẫu thuật do cắt bỏ khối u do ung thư, bất thường bẩm sinh, hay
do chấn thương vùng sọ mặt. Tác giả đã cho rằng thể tích ghép đạt được phụ
23
thuộc vào tình trạng xơ hóa, viêm, sự phát triển hay biệt hóa của tế bào mỡ tự
nhiên.
Năm 2011,Guisantes và cộng sự đã ghép mỡ tự thân theo kỹ thuật
Coleman điều trị cho 8 bệnh nhân sẹo co kéo và loạn dưỡng vùng mặt, cánh
tay, ngực, bụng. Kết quả tốt đạt được ở tất cả các trường hợp với thời gian
theo dõi trung bình 18 tháng và không có bất kỳ biến chứng gì. Tác giả đưa ra
kết luận: ghép mô mỡ tự thân là một phương pháp tốt để chỉnh sửa sẹo co
kéo, sẹo lõm thay vì phải tiến hành phẫu thuật cắt bỏ sẹo.
Trong những năm qua, Coleman đã quan sát thấy rằng cấy ghép mỡ tự
thân vào khu vực có vết sẹo đáng chú ý, do bỏng, hoặc ánh nắng mặt trời và
thiệt hại bức xạ mà sự xuất hiện của da dường như để cải thiện theo thời
gian. Trong thực tế, ông lưu ý rằng da tiếp tục cải thiện qua các năm. Nhiều
bệnh nhân đã có màu đỏ, thô, da mỏng sau chiếu xạ được xem là có dày hơn,
mềm mại hơn, ít màu đỏ và theo thời gian da sẽ được cải thiện sau khi ghép
chất béo. Đau ở các khu vực này thường được giảm hoặc loại bỏ. Sẹo mụn,
vết sẹo từ thủy đậu, chấn thương hoặc vết bỏng đã được cải thiện bằng cách
ghép chất béo trong vùng bị ảnh hưởng.
Như Coleman thảo luận trong một bài báo được xuất bản trong tháng
chín năm 2006 vấn đề của “Tạp chí tạo hình & Phẫu thuật Tạo hình của Mỹ”,
các tế bào mỡ ghép ảnh hưởng đến các mô ghép và tồn tại trong suốt thời gian
cuộc sống của bệnh nhân. Nó có thể cải thiện chất lượng da lão hóa và sẹo,

chữa lành tổn thương bức xạ và điều trị loét mãn tính. Nhiều nghiên cứu đang
được thực hiện để chứng minh việc ghép mỡ dưới sẹo, và làm thế nào chúng
ta có thể sử dụng nó một cách có lợi. Những tế bào đặc biệt có thể làm việc
bằng cách giúp tạo ra một nguồn cung cấp máu mới trong các mô, do đó cung
cấp oxy và chất dinh dưỡng. Bây giờ có bằng chứng cho thấy ghép mỡ tự thân
bằng cách sử dụng phương pháp Coleman có thể ngăn ngừa và thậm chí đảo
24
ngược con đường tự nhiên của cơ thể để tạo ra và duy trì sẹo, cả trong da và
các mô sâu hơn. Ngoài ra, mô mỡ cũng có thể phát hành các yếu tố tăng
trưởng và hormone, ảnh hưởng đến các mô trong nhiều cách khác.
1.4.4.5. Biến chứng:
- Cấy ghép mỡ tự thân được xem như một cuộc phẫu thuật nên những
biến chứng về thuốc trong quá trình gây mê, gây tê, chảy máu tại nơi rạch
da… tuy canuyn hút mỡ đầu tù vẫn có thể gây tổn thương mạch, thần kinh,
cơ, các tuyến nếu như không đi đúng mốc giải phẫu có thể dẫn tới trụy tim,
thuyên tắc mạch, mất cảm giác nếu làm tổn thương dây thần kinh chi phối
vùng đó.
- Nhiễm trùng: do các bước trong quá trình phẫu thuật được vô trùng rất
tốt nên rất ít xảy ra nhiễm trùng. Do dùng canuyn hút mỡ đầu tù nên không bị
sẹo xấu không ảnh hưởng đến sinh hoạt của bệnh nhân sau hút mỡ. Theo
Coleman kỹ thuật cấy ghép mỡ là ít bị nhiễm trùng.
1.4.5. Nghiên cứu so sánh giữa kỹ thuật cấy ghép mỡ Coleman và kĩ thuật
ghép mỡ thông thường
Có khá nhiều công trình nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá tính
ưu việt của kỹ thuật Coleman so với các kỹ thuật ghép mỡ thông thường: khả
năng sống, thích nghi của tế bào mỡ,việc bảo quản, lưu giữ mô mỡ
Năm 2008,Pu LL, Coleman SR đã ghép mỡ theo 2 phương pháp trên 16
phụ nữ da trắng tiến hành nghiên cứu so sánh khả năng sống của mảnh ghép
mô mỡ thu được bằng kỹ thuật Coleman nhóm 1(n=8) bởi một bác sĩ phẫu
thuật duy nhất từ bụng của mỗi bệnh nhân theo phương pháp tiêu chuẩn của

mình. Trong nhóm 2 (n= 8), ghép mỡ đã được thu hoạch với kỹ thuật hút mỡ
thông thường bởi bác sĩ phẫu thuật khác. Sau khi ly tâm, lớp giữa kết quả của
các mô đã được thu thập. Tất cả các mẫu ghép mỡ tự thân nghiên cứu được
phân tích các sau đây: nhuộm màu xanh Trypan để đếm các tế bào mỡ, khảo
25
nghiệm glycerol-3-phophatase dehydrogenase, và kiểm tra đánh giá mô học
thường xuyên. Kết quả là tính khả thi của các tế bào mỡ còn sống đã được tìm
thấy trong nhóm 1 cao hơn so với nhóm 2 (4.11 ± 1.11 so với 2.57 ± 0.56 ×
10
6
tế bào / ml; p <0.004). Mức độ hoạt động của glycerol-3-phophatase
dehydrogenase cao hơn đáng kể ở nhóm 1 so với nhóm 2 (0,66 ± 0,09 so với
0,34± 0,13 U/ml;p < 0.0001 p). Kiểm tra mô học cho thấy cấu trúc mô học
bình thường của các mô mỡ bị phân mảnh trong cả hai nhóm. Tác giả kết
luận: Mặc dù ghép chất béo thu được bằng cả hai phương pháp duy trì cấu
trúc mô học bình thường, kỹ thuật Coleman mang lại một số lượng lớn các tế
bào mỡ tồn tại và duy trì một mức độ tối ưu chức năng tế bào trong mảnh
ghép. Một trong những mối quan tâm chính sau khi ghép mỡ là tỷ lệ cao của
sự hấp thụ theo thời gian trong các nơi ghép, có thể lên tới 70 % . Ngoài ra kỹ
thuật ghép mỡ tự thân Coleman được xem là ưu việt hơn kỹ thuật hút mỡ
thông thường trong việc lựa chọn phương thức thu thập mỡ ghép. Năm
2009 nhóm tác giả này tiếp tục nghiên cứu trong phòng thí nghiện để đánh
giá khả năng tồn tại của mô mỡ ghép khi được thu thập bằng kỹ thuật
Coleman và bảo quản lạnh. Nghiên cứu được thực hiện trên 8 người phụ nữ
trưởng thành với 10 ml mô mỡ cũng được lấy từ vùng bụng dưới. Về cấu
trúc mô học và số lượng tế bào mỡ sống sót là tương tự nhau,tuy nhiên mô
mỡ dược bảo quản lạnh có nồng độ hoạt động của các enzym chuyên biệt
của tế bào mỡ thấp hơn nên với khả năng sống và phát triển cũng kém hơn
mô mỡ tươi.
Với mục tiêu làm tăng tế bào sống một số nghiên cứu sự kết họp của tế

bào mỡ được thu hoạch kết hợp với các yếu tố tăng trưởng trước khi bơm mỡ.
Năm 2010 khi nghiên cứu ghép mô mỡ thực nghiệm trên thỏ, Hong và cộng
sự của ông cho thấy ghép chất béo bổ sung với insulin và một nguyên bào sợi
- yếu tố tăng trưởng cho thấy ít nang, ít xơ, và toàn vẹn ghép lớn hơn và duy

×