Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

NGHIÊN cứu CÔNG NGHỆ sản XUẤT CHẾ PHẨM BẠCH CƯƠNG BEAUVERIA BASSIANA để ỨNG DỤNG PHÒNG TRỪ sâu hại cây TRỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.42 KB, 22 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
CÔNG NGHỆ VI SINH
TÊN TIỂU LUẬN:
NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT CHẾ PHẨM BẠCH CƯƠNG
BEAUVERIA BASSIANA ĐỂ ỨNG DỤNG PHÒNG TRỪ SÂU HẠI CÂY TRỒNG
THÁI NGUYÊN – 2014
1
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU 3
PHẦN II: NỘI DUNG 5
I.Sơ lược lịch sử nấm diệt côn trùng 5
II. Những nghiên cứu cơ bản về nấm Beauveria Bassiana 6
2.1. Một số đặc điểm chung của nấm 6
2.2. Đặc điểm hình thái 6
2.3. Một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát triển của nấm Beauveria Bassiana.
7
2.3.1. Ảnh hưởng của môi trường và phương pháp nuôi cấy 7
2.3.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ và độ ẩm 8
2.3.3. Ảnh hưởng của ánh sáng 8
2.3.4. Ảnh hưởng của độ thoáng khí (nồng độ oxi) 8
2.3.5. Ảnh hưởng của hàm lượng nước 8
2.3.6. Ảnh hưởng của độ pH 9
2.3.7. Điều kiện phân bố 9
III. Độc tố, cơ chế tác động và triệu chứng của sâu nhiễm nấm Beauveria Bassiana 9
3.1. Độc tố 9
3.2. Cơ chế tác động 10
3.3. Quá trình nhiễm nấm vào côn trùng 11
3.4. Triệu chứng của sâu nhiễm bệnh 12


IV. Công nghệ sản xuất chế phẩm nấm Beauveria bassiana 13
4.1. Chọn chủng giống: 13
4.2. Môi trường nhân giống cấp 1 13
4.3. Môi trường nhân giống cấp 2: 14
4.4. Công nghệ sản xuất nấm Beauveria bassiana bằng phương pháp lên men xốp 15
4.5. Tính ổn định của chế phẩm nấm Beauveria bassian 15
V. Quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm nấm Beauveria bassiana 16
5.1. Quy trình công nghệ 16
5.2. Các chế phẩm sinh học từ nấm Beauveria bussiana 17
VI. Một số kết quả đạt được trong phòng trừ sâu hại bằng chế phẩm nấm Beauveria bassiana 18
6.1. Trên thế giới 18
6.2. Ở Việt Nam 19
PHẦN III: KẾT LUẬN 21
PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
2
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, nền kinh tế chủ yếu
vẫn là sản xuất nông nghiệp. Khí hậu nóng ẩm rất phù hợp cho sự sinh trưởng và
phát triển của cây trồng, đồng thời cũng là điều kiện tốt cho sâu bệnh phát triển.
Theo thống kê của tổ chức Lương – Nông thế giới, hiện nay các loại cây trồng
trên đồng ruộng phải chống đỡ với 100000 loài sâu hại khác nhau, 10000 loài
nấm, 200 loài vi khuẩn, 600 loài côn trùng và 600 loài virut gây bệnh. Hàng năm
khoảng 20% sản lượng lương thực, thực phẩm trên thế giới bị mất trắng. Do đó
việc sử dụng thuốc trừ sâu là rất cần thiết để đảm bảo lương thực cho loài người.
Bên cạnh những lợi ích lớn lao của thuốc trừ sâu hóa học thì nó cũng gây
ra những hậu quả không hề nhỏ. Thuốc trừ sâu hóa học tồn tại lâu trong nông
sản ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người tiêu dùng, đồng thời một lượng lớn
thuốc trừ sâu khi phun cho cây đã phát tán vào môi trường đất, nước gây ô
nhiễm nghiêm trọng. Ô nhiễm thuốc trừ sâu kết hợp với các loại ô nhiễm khác
đã làm cho môi trường của chúng ta đáng báo động.

Trước tình hình này việc sử dụng phương pháp đấu tranh sinh học trong
trồng trọt để bảo vệ mùa màng đang được áp dụng mạnh mẽ. Trong số những
bệnh côn trùng, bệnh gây ra do vi sinh vật chiếm tới 80-90%, nên vi sinh vật là
đối tượng lý tưởng để lợi dụng đấu tranh sinh học trong bảo vệ cây trồng.
Qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát triển các loại vi nấm, vi khuẩn,
virut có khả năng ký sinh gây bệnh trên nhiều loại sâu hại cây trồng đạt hiệu quả
rất cao.
Nhiều cơ quan khoa học ở nước ta đã và đang tiến hành nghiên cứu sản
xuất các chế phẩm nguồn gốc từ vi sinh vật (vi khuẩn, vi rút và vi nấm). Trong
số các chế phẩm đó thì vi nấm được Viện Bảo vệ thực vật (BVTV) nghiên cứu
từ những năm 1990 thế kỷ XX, đến nay mang lại kết quả cao trong việc bảo vệ
cây trồng. Chế phẩm thuốc trừ sâu vi nấm có những ưu điểm là không độc hại
với người và vật nuôi, không gây ô nhiễm môi trường, không làm mất đi nguồn
sinh vật có ích trong tự nhiên. Nấm côn trùng chưa tạo ra tính kháng thuốc và có
3
khả năng lây nhiễm trên nhiều loại sâu khác nhau, ngoài ra nấm côn trùng không
chỉ tiêu diệt trực tiếp sâu hại vào thời kỳ phá hoại mà còn tích lũy trên đồng
ruộng và lan truyền cho thế hệ sâu tiếp theo.
Loài nấm được nghiên cứu ở nước ta hiện nay sâu rộng hơn cả đó là nấm
bạch cương Beauveria bassiana, vì đã lựa chọn được những chủng giống mới,
môi trường nuôi cấy thích hợp, phổ tác động rộng trên nhiều loại sâu hại cây
trồng với hiệu lực kéo dài.

Để góp phần vào việc hoàn thành nâng cao năng suất và ổn định chất
lượng của chế phẩm nấm Beauveria bassiana làm ngang tầm với thế giới,
hướng tới thương mại hóa chế phẩm, tôi thực hiện đề tài:
“ Nghiên cứu công nghệ sản xuất chế phẩm nấm bạch cương
Beauveria bassiana để ứng dụng phòng trừ sâu hại cây trồng.”
4
PHẦN II: NỘI DUNG

I. Sơ lược lịch sử nấm diệt côn trùng
Theo tài liệu của tác giả Phạm Thị Thùy (năm 2004): Sau những phát hiện
đầu tiên của Balisneri (1709) về nấm gây bệnh trên côn trùng cũng là lúc là đời
ngành học nghiên cứu về bệnh lý côn trùng. Thế kỷ thứ XVIII mới có những tác
giả nghiên cứu ban đầu về nấm côn trùng, họ khẳng định nấm côn trùng chính là
vi sinh vật gây bệnh đầu tiên được chứng minh về khả năng lây truyền bệnh từ
ký chủ này sang ký chủ khác. Năm 1815 Agostino Bassi, đã phát hiện ra nấm
trắng Muscadin gây bệnh trên tằm, thời gian ấy tuy Bassi chưa có đầy đủ kiến
thức về ngành nấm học để phân loại, nhưng tác giả đã phân biệt được mô của ký
chủ với nấm ký sinh bằng cách đua ra phương pháp lan truyền cũng như điều
kiện gây bệnh và chính tác giả đưa ra phương pháp phòng trừ bằng nấm côn
trùng. Như vậy có thể coi Agostino Bassi là nhà bệnh lý học côn trùng đầu tiên.
Sau Bassi thì ngày càng xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu và ứng dụng nấm
cô trùng để phòng trừ các loại sâu hại cây trồng đạt hiệu quả.
Những công trình của Oduen (1837) phát hiện về nấm trắng Muscadin kí
sinh trên côn trùng, không chỉ có trên tằm mà nấm trắng còn có thể dùng phòng
trừ các loại sâu hại khác. Năm 1877 Metchnhikov đã phát hiện và phân lập được
nấm xanh Entomophthora anisopliae trên sâu non bộ cánh cứng hại lúa mì
(Anisopliae austrinia), sau này tác giả đổi tên là Metarhizium anisopliae. Sau
thời gian đó Metchnhikov đã tiến hành sản xuất bào tử nấm Metarhizium
anisopliae dạng thuần khiết rồi trộn với nền chất bột và phun ra đồng ruộng để
phòng trừ sâu non và trưởng thành bọ đầu dài hại củ cải đường, hiệu quả đạt
được 55 – 80% sau 10 -14 ngày thử nghiệm.
Cũng trong thời gian đó, ở Mỹ người ta đã sử dụng nấm côn trùng để
phòng trừ sâu hại lúa mì. Năm 1888, nhà bác học Snoi đã tiến hành một loạt các
thí nghiệm với nấm muscadin màu trắng có tên khoa học là Beauveria
globuliera để phòng trừ bọ xít hại lúa mì đạt hiệu quả cao. Các nhà khoa học
5
trường đại học tổng hợp Kanzac đã thành lập trạm tuyên truyền để phố biến vai
trò của nấm Beauveria đối với việc lây bệnh trên côn trùng, họ đã gửi hơn 500

kiện nấm Beauveria đến các trang trại để phòng trừ sâu hại củ cải đường.Cuối
thế kỷ XĨ và những năm đầu thế kỷ XX, các nhà bệnh lý học côn trùng trên thế
giới mới công bố những công trình thông qua việc giám định và miêu tả cụ thể
về những chủng nấm có khả năng diệt côn trùng.
II. Những nghiên cứu cơ bản về nấm Beauveria Bassiana
2.1. Một số đặc điểm chung của nấm
- Xâm nhập vào côn trùng không qua đường miệng mà qua tầng cutin tại khớp
nối giữa các đốt.
- Côn trùng thường bị nhiễm nấm ở giai đoạn ấu trùng và không thấy có tác
động qua lại với các vi sinh vật khác
- Nấm sinh trưởng nhanh, dạng bào tử có thể tồn tại lâu dài trong thiên nhiên mà
hầu như không mất hoạt tính diệt côn trùng.
- Có tính đặc hiệu cao với một số loài côn trùng nhất định.
2.2. Đặc điểm hình thái.
Chi Beauveria: Ở Việt nam người ta gọi chi này là nấm Bạch Cương vì nấm có
màu trắng, trên thế giới rất nhiều nước như Liên Xô cũ, Mỹ, Anh đã sản xuất với
tên thương mại là Beauverin, Việt Nam: Beauverit. Trong chi này có 3 loài
chính có khả năng diệt sâu Beauveria bassiana, B. tenella, B. brongniartii. Trong
3 loài nấm đó thì nấm B. bassiana chiếm 80-90 % tỉ lệ kí sinh trên côn trùng hại
cây trồng nông và lâm nghiệp.
- Đặc điểm hình thái B. Bassiana (Bb):
Nấm bạch cương Beauveria Bassiana có màu trắng nên người ta thường
gọi là nấm trắng hay nấm bạch cương. Trên môi trường thạch đĩa hoặc thạch
nghiêng, nấm bạch cương có sợi màu trắng đế màu crem có pha một chút màu
đỏ, da cam, đôi khi pha một ít màu lục, có thể tiết vào môi trường sắc tố màu
vang, màu đỏ nhạt hoặc màu xanh da trời. Nấm Bb sinh ra những bào tử đơn
bào, không màu, hình cầu hoặc hình trứng, đường kính từ 1-4 µm, sợi nấm có
đường nằm ngang kích thước khoảng 3-5 µm, phát triển mạnh trên môi trường
6
nhân tạo hoặc trên cơ thể côn trùng, chúng mang nhiều giá sinh bào tử, phồng to

ở phía dưới với 3-5*3-6 µm. Các giá bào tử trần thường tạo thành các nhánh ở
phần ngọn hoặc trực tiếp tạo thành nhánh của giá, phần ngọn của bào tử có dạng
cuống hình ziczac không đều, nhưng là mấu dạng răng nhỏ phát sinh bởi sự kéo
dài của gốc ghép. Phần gốc của tế bào sinh bào tử trần hình chai (kích thước 2,5
- 3,5 * 3 – 6 µm), khi thời gian nuôi cấy kéo dài, trong môi trường những bào tử
trần sinh ra sẽ mảnh và kết chặt hơn mấy nhau.
Hình 1.1. Bào tử trần và cuống nấm bạch cương
2.3. Một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới sinh trưởng và phát triển của nấm
Beauveria Bassiana.
Điều kiện cần thiết cho quá trình hình thành bào tử cũng như hệ sợi nấm
Beauveria Bassiana nói riêng và nấm côn rung nói chung là nhiệt độ, độ ẩm, độ
pH trong môi trường cũng như điều kiện nuôi cấy.
2.3.1. Ảnh hưởng của môi trường và phương pháp nuôi cấy
Môi trường nuôi cấy là yếu tố quan trọng cho nấm sinh trưởng và phát
triển, nếu môi trường không tốt, nấm mọc yếu hoặc không mọc. Trong quá trình
này, mầm để hình thành bảo tử nấm Beauveria Bassiana và Metarhizium
Anisopliae cần các nguồn cacbon, nito. Sự phát triển của nấm phụ thuộc vào các
chất ức chế khác nhau. Môi trường thích hợp nhất cho nấm phát triển là môi
trường có chứa kitin làm nguồn cacbon, nếu bổ sung thêm chất kitin và glucoza
thì trong quá trình nuôi cấy, nấm Beauveria Bassiana sẽ thu được số lượng bào
tử cao, bởi vì thành phần kitin trong môi trường nuôi cấy là rất cần thiết đối vơi
các loại nấm, nó giúp cho sự hình thành và phát triển các bào tử dính và bào tử
trần. Tuy nhiên không phải nguồn thức ăn chứa cacbon và nito nào cũng đều có
7
lợi cho sự sinh trưởng và phát triển cũng như sự hình thành và phát triển của bào
tử nấm Beauveria Bassiana vì ngoài nguồn cacbon và nito ra bào tử nấm
Beauveria Bassiana còn sử dụng tốt nguồn hữu cơ như protein, pepton, các axit
amin trong đó có axit glutamic là axit thích hợp cho nấm phát triển. Các nguyên
tố vi lượng như C
++

và Zn
++
… có tác dụng kích thích cho sự phát triển của nấm.
Tùy từng loại nấm Metarhizium hay Beauveria mà chúng ta có thể lựa chọn
môi trường thích hợp cho nấm phát triển tốt nhất.
Về phương pháp nuôi cấy, theo các tác giả Rombach, Basto Cruz và cs,
Hegedus và cs, Miao và cs, Jenkins và Prior, Shimazu và cs. Thì sử dụng
phương pháp nuôi cấy chìm để sản xuất nấm côn trùng sẽ thu được những kết
quả tốt, vì trong nuôi cấy chìm, người ta đã xác định được khả năng sinh bào tử
chồi và lượng sinh khối sinh được từ hai bào tử nấm Beauveria Bassiana và
metahizium Anisopliae là rất cao.
2.3.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ và độ ẩm
Nhiệt độ và độ ẩm là 2 yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển của
nấm, mỗi loại nấm chỉ có thể phát triển trong một giới hạn nhiệt độ nhất định.
Nhiệt độ thích hợp cho nấm Beuaveria bassiana từ 25 – 30
0
C.
2.3.3. Ảnh hưởng của ánh sáng
Nấm Beauveria Bassiana phát triển tốt nhất trong điều kiện ánh sang yếu,
chỉ cần một lượng ánh sáng nhỏ trong thời gian 6 - 8 giờ cũng đủ cho nấm côn
trùng phát triển.
2.3.4. Ảnh hưởng của độ thoáng khí (nồng độ oxi)
Hầu hết các loại nấm côn trùng thuộc loại hiếm khí, khi nấm phát triển
chúng cần có hàm lượng oxi thích hợp trong dụng cụ nhân nuôi cũng như trong
cả biên độ rộng của không gian nuôi cấy, nếu phù hợp thì nấm phát triển tốt.
2.3.5. Ảnh hưởng của hàm lượng nước
Nấm côn trùng đòi hỏi hàm lượng nước thích hợp, nếu quá khô hoặc quá
ướt thì nấm phát triển không tốt, tỷ lệ thích hợp 30 – 50 % tùy theo điều kiện độ
ẩm của không khí môi trường.
8

2.3.6. Ảnh hưởng của độ pH
Phạm vi nấm côn trùng sống ở độ Ph 3,5 – 8, song nấm côn trùng ưa môi
trường axit và phát triển tốt ở môi trường có độ pH 5,5 – 6.
2.3.7. Điều kiện phân bố
Nấm Beauveria Bassiana phân bố rộng khắp. Giống như hầu hết các loại
nấm diệt sâu khác, khi rơi vào một nơi nào đó chúng đều đó khả năng trở thành
thành viên trong sinh quần nơi đó và tự sinh sôi nảy nở tăng lên. Vì là vật ký
sinh chuyên hóa rộng nên nấm này có khả năng tồn tại khi thiếu vật chủ chính.
Khả năng nhiềm thành công của nấm đối với côn trùng là khá lớn vì chúng có
nhiều cách xâm nhập khác nhau: qua lớp cutin, qua đường tiêu hóa, qua đường
hô hấp và qua lõ của thân. Ngoài ra nấm Beauveria Bassiana còn có khả năng
tồn tại trong điều kiện môi trường không tồn tại dưới dạng giả hạch nấm. Có thể
sử dụng Beauveria Bassiana trong thực tiễn nông nghiệp vì: Chúng có thể phát
triển trên môi trường dinh dưỡng, có thể được chế tạo ở dạng chế phẩm sinh
học, và tiêu diệt một lượng không nhiều các sinh vật có ích.
Nấm Beauveria Bassiana có khả năng phát tán rộng trong thiên nhiên
thong qua hoạt động phóng bào từ bằng cơ học (Chúng có khả năng bắn bào tử
gấp hang nghìn lần kích thước của chúng), ln truyền nhờ dòng nước, không khí
và côn trùng.
III. Độc tố, cơ chế tác động và triệu chứng của sâu nhiễm nấm Beauveria
Bassiana
3.1. Độc tố
Theo PGS.TS Phạm Thị Thùy : Năm 1696 R.L Hamill và cộng sự đã xác
định được độc tố diệt côn trùng của nấm bạch cương Beauveria bassiana và đặt
tên cho độc tố này là Beauvericin. Năm 1971 Y.A. Ovehinnokov và cộng sự đã
tổng hợp lại độc tố này, tác giả Jame và cs đã xác định bản chất của độc tố sinh
ra trong quá trình trao đổi chất đó là vòng peptid có các sắc tố màu vàng tenelin
và basianin, những sắc tố này có thể do hydroxylat progesteron và những phần
nhỏ tách ra từ testosteron (C
19

H
28
O
2
) sinh ra. Về mặt hóa học, độc tố
Beauvericin có danh pháp là xyclo (N-metyl L-phenylalanin-D-α-hydroxy-
izovaleryl). Đây là một loại depxipeptid vòng, có điểm sôi khoảng 93-94
o
C. Từ
9
một lít môi trường nuôi cấy nấm Beauveria bassiana, các nhà khoa học Trung
Quốc ở trường Đại học Tổng hợp Nam Khai (Thiên Tân) đã tách được 1,5g độc
tố Beauvericin và từ 1 kg môi trường đặc các tác giả đã tách ra được 3,8 g
Beauvericin.
Hình 1.2. Cấu trúc phân tử của Beauvericin
3.2. Cơ chế tác động
Trong tự nhiên, khi bào tử nấm Bb rơi vào cơ thể côn trùng gặp điều kiện
thuận lợi, chỉ sau 12-24h thì bào tử nấm nảy mầm. Chúng hình thành sợi nấm
đâm xuyên qua lớp vỏ kitin và sau đó phát triển bên trong cơ thể côn trùng hại.
Côn trùng hại phải huy động hết các tế bào bạch huyết để chống lại nhưng nấm
Bb đã tiết ra độc tố Beauvericin và các chất khác làm phá hủy tế bào bạch huyết.
Sợi nấm mọc rất nhiều bên trong cơ thể làm cho cơ thể cứng lại sau đó một thời
gian thì nấm mọc ra ngoài, lớp bào tử phủ lên côn trùng hại và lớp bào tử này
gặp điều kiện gió đưa vào cơ thể côn trùng khác thì cũng thực hiện cơ chế tác
động như trên.
10
Hình 1.3 . Cơ chế xâm nhập của bào tử đính vào cơ thể côn trùng
3.3. Quá trình nhiễm nấm vào côn trùng
a. Sự xâm nhập
Các nấm diệt sâu xâm nhập vào cơ thể côn trùng qua toàn bỏ vỏ cuticun

ngoài nhờ enzyme phân hủy lớp chitin của cuticun (Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn
Cửu Thi Hương Giang, 1997).
Theo Robinson R.K. (1996), sự xâm nhập của nấm diệt sâu qua lớp
cuticun ngoài được thực hiện bằng lực cơ học, còn sự tiến sâu vào lớp cuticun
trong được thực hiện nhờ hệ enzyme do chính nấm tiết ra. Ngoài ra, Robinson
R.K. cungx xác nhận rằng các nấm diệt sâu chuyên hóa cao tạo nên trên bề mặt
cuticun một kiểu giác bám phồng lên dạng kim xuyên vào bên trong của côn
trùng. Sự xâm nhập vào xoang than côn trùng xảy ra khá nhanh chóng, qua 32 –
40 giờ đã làm đầy cơ thể côn trùng với những đoạn sợi nấm đơn bào tự do bơi
trong huyết tương dẫn tới sự phá hủy tiếp theo mô than côn trùng.
b. Sự phát triển của nấm tới khi côn trùng chết.
Theo Sekhurina J.A. (1964) khi các bào tử chồi của nấm Beauveria
Bassiana bắt đầu sinh sôi nảy nở trong huyết tương của bọ rùa, thì bọ rùa bắt
đầu tê liệt, và sau khi vật chủ chết nấm mọc thành sợ nấm và chui vào trong các
bắp cơ và khí quản của côn trùng, các chế phẩm mô bệnh lý nhuộm cho thấy
11
hạch thần kinh bị biến đổi màu do ảnh hưởng của độc tố (ở giai đoạn đầu của
bệnh tê liệt các hạch thần kinh có màu xanh tím, khi bị nấm ký sinh có màu
xanh đỏ đậm trong khi đó hạch thần kinh của côn trùng khỏe mạnh có màu xanh
lá cây.
Hình 1.4. Quá trình nhiễm nấm vào côn trùng
3.4. Triệu chứng của sâu nhiễm bệnh
Triệu chứng đặc trưng nhất là sự thay đổi các di động của côn trùng, sự di
động này tùy theo mức độ phát triển của bệnh. Khi bị bệnh các mô dần dần bị
phá hủy từng phần, lúc đầu côn trùng di động yếu sau ngừng hẳn nằm im một
chỗ cho đến khi chết. Khi bị bệnh nấm, vận động của côn trùng ngừng từ 2-3
ngày thậm chí một tuần trước khi nấm phát triển đầy trong thân côn trùng. Chỉ
những côn trùng bị thương hay bị bệnh nấm, màu sắc toàn thân mới thay đổi và
xuất hiện những vết đen. Khi sâu hại bị bệnh do nấm Beauveria bassiana ở chỗ
bào tử bám vào, nấm phát triển vào bên trong thân sâu tạo nên một vệt đen

không có hình thù nhất định. Côn trùng chết do nấm thường có màu hồng, vàng
nhạt, trắng và toàn thân cứng lại. Khi bị bệnh nấm thân côn trùng bị ngắn lại
hoặc khô là do hệ thống tiêu hóa bị tổn thương hoặc do thiếu thức ăn. Vi sinh
vật gây bệnh trên côn trùng thường tác động đến những mô nhất định, côn trùng
bị nấm Beauveria bassiana ký sinh thì tuyến mỡ và các mô khác bị hòa tan là do
enzym lipaza và proteaza của nấm tiết ra, cũng chính nhờ đặc điểm đó mà người
ta có thể xác định được côn trùng bị bệnh là do động vật nguyên sinh hay là do
12
nấm bậc thấp (Coelomycidium, Entomophyhora ) gây ra. Hiện tượng chết hoặc
gắn liền với hiện tượng tiêu hủy mô là đặc trưng của bệnh nấm, quá trình này
tiến triển qua hai giai đoạn:
- Hiện tượng chấn thương: Các mô tổn thương bị phá hoại là do nấm từ
bên ngoài gây ra, trong trường hợp này các lympho máu đọng lại và mô tái sinh
được tạo nên trên bề mặt phần thân côn trùng bị chấn thương.
- Hiện tượng nhiễm trùng máu: của côn trùng khi bị bệnh nấm là do
lympho máu chứa đầy sợi nấm.
IV. Công nghệ sản xuất chế phẩm nấm Beauveria bassiana
Hiện nay Viện Bảo vệ thực vật đang sản xuất chế phẩm nấm bạch cương
Beauveria bassiana theo các công đoạn như sau:
4.1. Chọn chủng giống:
Theo PGS.TS Phạm Thị Thùy thì chủng nấm (giống nấm) là yếu tố quan
trọng quyết định đến chất lượng chế phẩm nấm. Để sản xuất chế phẩm nấm
Beauveria bassiana, Viện Bảo vệ thực vật thường sử dụng chủng nấm
Beauveria bassiana đã được phân lập trên sâu róm thông ở Thanh Hóa. Đây là
chủng giống mới, nguồn gốc tự nhiên tại địa phương có cây trồng bị sâu hại, nên
chủng nấm Beauveria bassiana có hoạt tính rất cao .
4.2. Môi trường nhân giống cấp 1
Năm 1992, kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Thùy và cs [8] đã xác định
được môi trường nhân giống cấp 1 của nấm Beauveria bassiana chính là môi
trường Sabouroud bổ sung thêm khoáng chất (SK), kế thừa từ môi trường

Sabouroud.
13
Môi trường Sabouroud:
. Agar 20g
. Glucoza 40g
. Pepton 10g
. H
2
0 1000 ml
. pH 6,0
Môi trường Sabouroud khoáng chất:
. Agar 20g
. Glucoza 20g
. Pepton 10g
. MgSO
4
.7H
2
0 1g
. KH
2
PO
4
0,5g
. H
2
0 1000 ml
. pH 6,0
Tác giả Phạm Thị Thùy cho biết việc xác định được môi trường nuôi cấy
là yếu tố rất quan trọng để nấm Beauveria bassiana nói riêng và nấm côn trùng

nói chung sinh trưởng, phát triển tốt, nếu môi trường không tốt thì nấm mọc yếu
hoặc thậm chí không mọc, nguyên nhân là do trong quá trình nảy mầm để hình
thành bào tử, nấm côn trùng cần có các nguồn Cacbon, Nito. Sự phát triển của
nấm phụ thuộc vào các nguyên tố vi lượng như C
++
, Zn
++
, K
+
, Mg
++
có tác
dụng kích thích cho sự phát triển của nấm và duy trì độ pH. Môi trường SK làm
giống cấp 1 đã đáp ứng được yêu cầu cho nấm Beauveria bassiana phát triển.
4.3. Môi trường nhân giống cấp 2:
Sử dụng phương pháp lên mem xốp
Theo PGS.TS Phạm Thị Thùy [8] thì sản xuất sinh khối nấm Beauveria
bassiana bằng phương pháp lên men xốp dùng môi trường gồm thành phần
14
chính là cám gạo và bột ngô có bổ sung thêm một số chất phụ gia để tăng khả
năng hình thành bào tử của nấm Beauveria bassiana:
. Bột cám ngô, bột ngô
. Bột đậu tương ( hoặc đậu xanh)
. Trấu ( hoặc bã mía, vỏ lạc)
Có thể sản xuất nấm Beauveria bassiana theo phương pháp của Cuba:
Môi trường tấm gạo với dung dịch CaCO
3
5%, bằng phương pháp luộc tấm gạo
rồi sấy khô, sau đó nhân giống với Beauveria bassiana thuần vào môi trường.
4.4. Công nghệ sản xuất nấm Beauveria bassiana bằng phương pháp lên

men xốp
Tác giả Phạm Thị Thùy và cs đã nghiên cứu sử dụng môi trường sản xuất
bao gồm cám gạo 3 phần, bột ngô 1 phần và phụ gia như đường, trấu môi
trường có tỷ lệ nước trên môi trường là 1/3 đảm bảo độ ẩm vừa phải, tơi xốp,
nấm phát triển sau 5 ngày trong các bình tam giác hoặc dụng cụ có thể tích lớn.
Chế phẩm được làm khô ở nhiệt độ 45
o
C trong 8 giờ, kết quả thu được chế phẩm
có lượng bào tử trung bình là 5 x 10
9
bào tử/g.
4.5. Tính ổn định của chế phẩm nấm Beauveria bassian
- Chất lượng của chế phẩm nấm đạt 10
9
bt/g
- Hàm lượng ẩm trong chế phẩm là 7 -10%
- Hiệu quả diệt sâu là trên 70% sau 10 – 15 ngày thí nghiệm
- Thời gian bảo quản là từ 1 – 2 năm
15
V. Quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm nấm Beauveria bassiana
5.1. Quy trình công nghệ
Từ cơ sở nghiên cứu tỷ lệ nước, thời gian sấy phù hợp, chúng tôi rút ra quy trình
công nghệ sản xuất chế phẩm nấm Bb như sau:
Quy trình công nghệ sản xuất chế phẩm nấm
Beauveria bassiana Vuill.
Chủng giống Bb phân lập trên sâu róm thông
(nguồn ở Thanh Hóa)
2- 3 ngày (25
o
C, 80%)

2- 3 ngày
16
Nhân giống cấp 1
trên môi trường SK
Sấy ở 45
o
C có thông gió trong 8 giờ
Nghiền bi tạo chế phẩm
Rải ra nia để hình thành tiếp bào tử
Hoàn thiện môi trường sản xuất
(60% cám, 30% ngô, 10% trấu)
Thử hiệu lực sinh họcĐóng gói, bảo quản
* Tạo chế phẩm nấm diệt sâu.
Beauverin là chế phẩm diệt sâu được sản xuất từ Beauveria, có màu trắng
ngà, chứa 1,5 × 10
9
bào tử/g. Để nâng cao hiệu quả diệt sâu người ta bổ sung
thêm 10% thuốc hóa học.
Quy trình lên men chìm tạo chế phẩm diệt sâu:
Ống giống nuôi 5 -7 ngày
Nhân giống trong bình 250 ml trong đó có 100 ml môi trường
(Lắc 20 v/phút , nhiệt độ: 28 – 30
0
C/24h)
Nhân giống trong bình 1000 ml trong đó có 500 ml môi trường
(Lắc 20 v/phút , nhiệt độ: 28 – 30
0
C/24h)
Lên men trong hệ thống 10 ml tự động trong đó có 7 – 8 ml môi trường
(Khuấy 550 v/phút, nhiệt độ: 29 – 30

0
C/72h)
Li tâm lạnh 3000 v/phút/40 phút
Sinh khối + chất phụ gia
Sấy khô ở 30 – 35
0
C
Nghiền nhỏ, vô bao kín, bảo quản 5 – 10
0
C
5.2. Các chế phẩm sinh học từ nấm Beauveria bussiana
Theo danh mục thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở Việt Nam (Quyết
định số 15/2004/QD – BNN ngày 14 tháng 4 năm 2004 các loại chế phẩm nấm
thường được sử dụng gồm có:
- Boverit 5,0 × 10
8
bào tử/g (Viện bảo vệ thực vật) trừ rầy nâu hại lúa, sâu
đo xanh hại đay, sâu róm hại thông, sâu kén hại tai tượng.
17
- Biovip 1,5 × 10
9
bào tử/g (Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long) trừ rầy và
bọ xít hại lúa.
- Beauverine (Công ty Thanh Sơn hóa nông) trừ sâu tơ hại bắp cải, sâu đục
quả hại xoài.
- Muskadin (Công ty cổ phần thuốc trừ sâu Cần Thơ) trừ sâu đục thân hại
lúa và ngô.
- Bermetent (Công ty hợp danh sinh học nông nghiệp Sinh Thành thành
phố Hồ Chí Minh) trừ bọ cánh cứng hại dừa, sâu đục thân, rệp sáp, rầy
đen hại lúa.

VI. Một số kết quả đạt được trong phòng trừ sâu hại bằng chế phẩm nấm
Beauveria bassiana
6.1. Trên thế giới
Vài chục năm gần đây, các công trình nghiên cứu ứng dụng chế phẩm
nấm Beauveria bassiana trở nên phong phú và phát triển trên thế giới.
Tác giả Phạm Thị Thùy (2004) cho biết: Ở Úc, các nhà khoa học đã sử
dụng nấm Beauveria bassiana để phòng trừ bọ hung hại mía và bọ hung hại củ
cải đường đạt hiệu quả tốt, những loài bọ hung trên rất khó phòng trừ bằng
thuốc hóa học. Các nhà khoa học sử dụng nấm Beauveria bassiana ở nồng độ 8
x 10
7
bào tử/ ml để phòng trừ ruồi hại rễ bắp cải, thí nghiệm ngoài đồng ruộng
được tiến hành với 15ml dung dịch nấm trên 1 cây, kết quả cho thấy nấm
Beauveria bassiana đạt hiệu quả cao với ruồi hại bắp cải, nấm Beauveria
bassiana đã làm giảm mật độ của sâu và nhộng khoảng 70%.
Tại Nhật Bản năm 1988 một số nhà khoa học đã phòng trừ ròi hại rễ củ
cải bằng nấm Beauveria bassiana. Thí nghiệm được tiến hành như sau: Dùng 1
bó củ cải có 10 trứng ròi hại rễ để trong 1 lọ. Trứng được sắp xếp quanh củ cải
với mỗi trứng đặt cách nhau 3cm. Nồng độ bào tử nấm đưa vào thí nghiệm là 1
x 10
9
bào tử/ml ( nấm phát triển trên môi trường PDA ) với 5 lần nhắc lại, kết
quả cho hiệu lực trên 75% ( trong điều kiện nhiệt độ 23
o
C và ẩm độ không khí
trên 70% ) sau 10 ngày thí nghiệm.

18
Ở Mỹ, người ta còn dùng nấm Beauveria bassiana để phòng trừ ruồi
trắng hại lá khoai lang. Trường Đại học tổng hợp Florida (USA) phối hợp với

liên đoàn Ciba và Geigy sản xuất chế phẩm nấm Beauveria bassiana để phòng
trừ tập đoàn sâu voi hại rễ cây chanh và các côn trùng hại khác.
Ở Trung Quốc, các tác giả Am và Wu đã sử dụng chủng nấm
Paecilomyces farinosus và Beauveria bassiana để phòng trừ sâu róm thông đạt
hiệu quả cao .
6.2. Ở Việt Nam
Từ năm 1990 thế kỷ XX, với sự giúp đỡ của Cục Bảo vệ thực vật và được
sự tài trợ của tổ chức bánh mỳ thế giới, năm 1991 nhờ chương trình Công nghệ
sinh học cấp nhà nước, Trung tâm sinh học Viện Bảo vệ thực vật đã nghiên cứu
nấm Beauveria bassiana, với mục đích: Xác định nấm Beauveria bassiana có
trên một số sâu hại cây trồng, đồng thời tiến hành nghiên cứu để tìm khả năng
phát triển của nấm Beauveria bassiana trên một số trường hợp nhân tạo nhằm
tiến tới nghiên cứu hoàn thiện quá trình sản xuất tạo chế phẩm trừ sâu sinh học.
Kết quả nghiên cứu sản xuất, thử nghiệm và ứng dụng chế phẩm nấm trừ sâu hại
cây trồng đến nay đã đạt được nhiều thành công đáng kể.
Năm 1992 – 1993, Phạm Thị Thùy và cộng sự đã tiến hành thử nghiệm
chế phẩm nấm Beauveria bassiana trừ sâu đo xanh hại đay tại hợp tác xã Liên
Khê (Châu Giang – Hưng Yên). Kết quả đạt 66,4% - 86,4% tỷ lệ sâu chết sau 7
– 10 ngày phun thuốc. Năm 1995-1996 tác giả đã nghiên cứu sản xuất ra chế
phẩm Beauveria bassiana trừ sâu hại cây trồng và đã được thử nghiệm trên rầy
nâu hại lúa ngoài đồng ruộng ở một số địa phương, kết quả sau 10 ngày phun
hiệu lực trừ rầy nâu đạt từ 50 – 60 % và kéo dài đến 15 ngày sau phun thuốc.
Năm 1998, Phạm Thị Thùy và cộng sự đã ứng dụng nấm Beauveria
bassiana để phòng trừ sâu róm thông Dendrolimus punctatus ở Lâm trường
Hà Trung – Thanh Hóa và Lâm trường Phù Bắc Yên – Sơn La, kết quả phun
nấm Beauveria bassian với nồng độ 4 x 10
13
bào tử/ha, tỷ lệ sâu róm thông
chết trung bình sau một tháng là 78,2%, sau 1,5 tháng thì tỷ lệ sâu chết trung
19

bình đạt 93,6% trong điều kiện nhiệt độ trung bình là 29,1
o
C và ẩm độ trung
bình là 83,7%.
Các ứng dụng chế phẩm nấm Beauveria bassiana phòng trừ sâu hại rau
của tác giả Phạm Thị Thùy và cs từ năm 2002 đến nay đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, điển hình là phòng trừ sâu xanh bông, sâu tơ, sâu xanh bướm
trắng hại rau ở An Hải – Hải Phòng năm 2001, ở Đồng Bẩm – Đồng Hỷ –
Thái Nguyên năm 2002 – 2004.
20
PHẦN III: KẾT LUẬN
Hiện nay, sự phát triển của nền nông nghiệp nước ta đang đi vào
mức độ thâm canh cao với việc sử dụng ngày càng nhiều phân bón hóa học,
thuốc bảo vệ thực vật hóa học và hàng loạt các biện pháp như trồng lúa 3 vụ,
phá rừng canh tác cà phê, hồ tiêu, điều… với mục đích khai thác, chạy theo năng
suất và sản lượng. Chính vì vậy, với sự canh tác trên đó làm cho đất đai ngày
càng thoái hóa, dinh dưỡng bị mất cân đối, mất cân bằng hệ sinh thái trong đất,
hệ vi sinh vật trong đất bị phá hủy, tồn dư các chất độc hại trong đất ngày càng
cao, nguồn bệnh tích lũy trong đất càng nhiều dẫn đến phát sinh một số dịch hại
không dự báo trước.
Vai trò của chế phẩm sinh học, trong đó có các chế phẩm sản xuất từ vi
sinhvật trong sản xuất nông nghiệp được thừa nhận có các ưu điểm sau đây:
- Không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con người, vật nuôi, cây
trồng. Không gây ô nhiễm môi trường sinh thái.
- Có tác dụng đồng hóa các chất dinh dưỡng, góp phần tăng năng suất và
chất lượng nông sản phẩm.
- Có tác dụng tiêu diệt côn trùng gây hại, giảm thiểu bệnh hại, tăng khả
năng đề kháng bệnh của cây trồng mà không làm ảnh hưởng đến môi trường như
các loại thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học khác.
- Có khả năng phân hủy, chuyển hóa các chất hữu cơ bền vững, các phế

thải sinh học, phế thải nông nghiệp, công nghiệp, góp phần làm sạch môi trường.
Sản xuất thuốc trừ sâu từ vi nấm là một hướng đi khá mới mẻ nhưng đầy
triển vọng. Trong đó nấm Beauveria bassiana có hiệu quả cao trong phòng trừ
sâu hại cây trồng, đặc biệt là sâu róm thông, do đó việc nghiên cứu hoàn thiện
công nghệ sản xuất để tạo chế phẩm nấm Beauveria bassiana đạt chất lượng là
hoàn toàn cần thiết, nhằm cung cấp cho nông dân để phòng trừ sâu hại cây trồng
đạt hiệu quả cao theo hướng bảo vệ môi trường.
21
PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Lân Dũng (1981). Sử dụng vi sinh vật để phòng trừ sâu hại cây
trồng, NXB – Khoa học – Kỹ thuật
2. Phạm Thị Thùy (1996). Khảo nghiệm chế phẩm nấm Beauveria bassiana
Vuill. Để phòng trừ sâu róm thông ở lâm trường Hà Trung – Thanh Hóa. Tạp
chí Nông nghiệp – Công nghiệp – Thực phẩm (trang 501 – 502).
3. Phạm Thị Thùy (1999). Kết quả khảo nghiệm chế phẩm nấm Beauveria
bassiana Vuill. và Metarhizium anisopliae để phòng trừ rầy nâu hại lúa từ năm
1991-1995. Tạp chí Nông nghiệp – Công nghiệp – Thực phẩm (trang 31-33)
4. />22

×