Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Vấn đề lý luận chung và thực tiễn về cổ phần hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.64 KB, 147 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Sau 18 năm mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã thu hút
khoảng 6.880 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng
64,6 tỷ USD, trong số đó, có 5.918 dự án đầu tư được cấp phép còn hiệu lực
với tổng vốn đăng ký đạt 50,5 tỷ USD. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài trong thời gian qua đã có những đóng góp quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Để thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 20062010, thì thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này phải phấn đấu đạt
mức từ 23 tỷ - 24 tỷ USD. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt trong thu hút
đầu tư nước ngoài giữa các quốc gia, để đạt mục tiêu này Việt Nam cần có
những giải pháp mang tính đột phá, tạo được lợi thế cạnh canh so với các
nước trong khu vực và có tính hấp dẫn cao đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Trong thời gian qua, nhằm đối phó với tình hình khó khăn trong và ngoài
nước và để cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, hàng loạt các ưu đãi về
tài chính và các chính sách về đầu tư nước ngoài thông thoáng đã được áp
dụng. Theo các chuyên gia và nhà đầu tư nước ngoài nhận định tính thông
thoáng và các ưu đãi trong Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã tiếp cận
và thậm chí vượt hơn so với một số nước trong khu vực.
Do vậy, với mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, tạo sự bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc tiếp tục
chỉ đơn thuần áp dụng các ưu đãi về tài chính hoàn toàn không phải là giải
pháp tối ưu. Vì thế, chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang


2

công ty cổ phần (còn gọi là cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài) và phát triển hình thức công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài tại


Việt Nam không những được xem là giải pháp mới nhằm đa dạng hóa hình
thức đầu tư nước ngoài mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có điều kiện mở rộng quy mô và lónh vực hoạt động, đóng
góp ngày càng nhiều vào quá trình phát triển của nền kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu của luận án:
Thí điểm cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà Nước trong tổng thể phát triển kinh tế xã hội
quốc gia. Do đây là vấn đề còn rất mới mẽ do vậy trong quá trình triển khai
thực hiện chủ trương này tất yếu phát sinh nhiều vấn đề như: lựa chọn doanh
nghiệp cổ phần hóa, xác định giá trị doanh nghiệp và đánh giá phân loại
doanh nghiệp theo tập quán quốc tế, niêm yết trên thị trường chứng khoán, cơ
chế quản lý doanh nghiệp sau khi chuyển sang công ty cổ phần,… cần phải
được nghiên cứu một cách có hệ thống và theo chuẩn mực quốc tế.
Xuất phát từ những suy nghó trên, mục đích nghiên cứu của luận án là
nhằm nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn trong và ngoài nước về cổ
phần hóa, đầu tư nước ngoài, thị trường chứng khoán và cổ phần hóa doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để từ đó tìm ra những giải pháp phù hợp với
đặc thù của nền kinh tế quốc gia nhằm thúc đẩy phát triển hình thức công ty
cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài và thị trường chứng khoán Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận án tập trung nghiên cứu về vấn đề cổ phần hóa và phát triển hình
thức công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng như các
vấn đề liên quan phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu của luận án.


3

4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
kết hợp với các phương pháp như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp… để

thực hiện nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận án:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo và các phụ
lục, bảng biểu đính kèm, luận án gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về công ty cổ phần, thị trường chứng
khoán và cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Chương II: Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài trong thời gian qua và thực
trạng quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam.
Chương III: Giải pháp nhằm phát triển công ty cổ phần có vốn đầu tư nước
ngoài và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
6. Đóng góp mới của luận án:
Nghiên cứu có hệ thống các vấn đề về lý luận và thực tiễn trong và ngoài
nước về cổ phần hóa và áp dụng hình thức công ty cổ phần có vốn đầu tư
nước ngoài từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích để nghiên cứu vận
dụng vào thực tiễn Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và phát triển hình thức công ty cổ phần có vốn đầu tư
nước ngoài cũng như các giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư nước
ngoài và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.


4

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN, THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VÀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

1.1.


Cơ sở lý luận về công ty cổ phần.

1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển công ty cổ phần trên thế giới.
Vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, cùng với sự tiến bộ nhanh chóng của
khoa học kỹ thuật, sự phát triển nhanh chóng của nhiều ngành công nghiệp,
thương mại của thế giới cũng như nhu cầu sản xuất, kinh doanh, thương mại
ngày càng tăng cao, đòi hỏi phải có những số vốn lớn mà các công ty quy mô
nhỏ không thể đáp ứng được. Điều này đã dẫn đến sự phát sinh những công ty
vô danh có quy mô lớn hơn các công ty đã có trước đó. Các công ty này có
khả năng huy động được các nguồn vốn trong nền kinh tế mà không cần có sự
quen biết giữa những người tham gia vào công ty để nhằm tập trung được
nguồn vốn lớn để thực hiện các dự án kinh doanh có quy mô lớn mà bản thân
cá nhân một công ty thông thường hay một cá nhân không thể có đủ vốn. Ví
dụ như để rút ngắn đường vận chuyển hàng hóa xuyên đại dương, người ta đã
nghó ra cách đào các con kênh. Tuy nhiên để thực hiện được các dự án quy
mô lớn như dự án đào các con kênh này thì cần phải có số tiền rất lớn mà
không ai một mình có thể có những số tiền lớn như thế. Do vậy các công ty
phải tìm cách huy động tiền của người dân, một trong những cách nhanh nhất
là họ phải thành lập các công ty cổ phần, nghóa là chia nhỏ tổng số vốn của


5

công ty thành nhiều phần bằng nhau, mục đích là để có nhiều đối tượng có
thể tham gia góp vốn vào công ty. Khi người dân bỏ tiền mua cổ phiếu, lúc
đó họ sẽ trở thành cổ đông của công ty.
1.1.2. Đặc điểm của Công ty cổ phần:
Theo Luật doanh nghiệp nước ta, công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó:
Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau, gọi là cổ phần.

Cổ đông, người sở hữu cổ phần, chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghóa
vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh
nghiệp; cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ các trường hợp pháp luật hoặc điều lệ công ty cấm.
Số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa.
Ưu và nhược điểm của Công ty cổ phần:
Ưu điểm:
-

Có khả năng huy động vốn lớn và nhanh nhờ phát hành cổ phiếu
hoặc trái phiếu, do vậy có khả năng mở rộng nhanh chóng quy
mô và lónh vực hoạt động;

-

Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về số vốn của mình góp vào công ty;

-

Gắn quyền lợi của người lao động với hiệu quả hoạt động kinh
doanh của công ty;

-

Thời gian hoạt động của Công ty vô hạn. Không bị chi phối bởi việc
các cổ đông bị tù tội hay qua đời;


6


-

Khả năng thanh khoản vốn cao do cổ phần có thể tự do chuyển
nhượng;

-

Tách bạch được quyền sở hữu doanh nghiệp với quyền quản lý điều
hành doanh nghiệp.

Nhược điểm:
-

Mức thuế cao, ngoài thuế thu nhập doanh nghiệp còn phải chịu
thuế thu nhập cá nhân.

-

Bộ máy và chi phí tổ chức hoạt động lớn.

-

Cần phải có số cổ đông tối thiểu là 3.

1.1.3. Các hình thức công ty cổ phần.
Công ty cổ phần nội bộ: các cổ phiếu do các sáng lập viên, công nhân
viên và các người thân quen. Các cổ phiếu không được chuyển nhượng nếu
được chuyển nhượng thì phải có sự đồng ý của Hội đồng Quản Trị.
Công ty cổ phần đại chúng: cổ phiếu được phát hành rộng rãi ra công
chúng. Cổ phiếu được tự do chuyển đổi.

Công ty cổ phần đại chúng niêm yết: cổ phiếu được phát hành rộng rãi
và được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Được phép phát hành cổ
phiếu, trái phiếu thông qua kênh huy động trên thị trường chứng khoán.
So với các hình thức công ty khác, hình thức công ty cổ phần có những
ưu điểm nổi bật mà những hình thức công ty khác không có được thể hiện qua
bảng so sánh sau:


7

BẢNG 1.1.
SO SÁNH HÌNH THỨC CÔNG TY CỔ PHẦN VỚI CÁC HÌNH THỨC
DOANH NGHIỆP KHÁC
CÔNG TY CỔ
CÔNG TY
DOANH
CÔNG TY HP
PHẦN
TNHH
NGHIỆP TƯ
DANH
NHÂN
Chịu trách nhiệm Chịu
trách Chịu
tránh Thành viên là cá
hữu hạn trong phạm nhiệm hữu hạn nhiệm
bằng nhân có trình độ
vi phần vốn góp.
trong phạm vi toàn bộ tài sản chuyên môn và
phần vốn góp.

của mình.
uy
tín
nghề
nghiệp và phải
chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài
sản của mình về
các nghóa vụ của
công ty
Số lượng cổ đông tối Không quá 50 Do một cá Không quá 2
thiểu là 3, không hạn thành viên.
nhân làm chủ. thành
viên.
chế số lượng tối đa.
Ngoài các thành
viên hợp danh
còn có thể có
thành viên góp
vốn.
Tách
bạch
giữa Chưa tách bạch Gắn liền giữa Khó tách bạch
quyền sở hữu và rõ giữa quyền quyền sở hữu quyền sở hữu và
quyền quản lý doanh sở hữu và quyền và quyền quản quyền quản lý
nghiệp
quản lý.
lý.
doanh nghiệp
Bộ máy quản lý lớn, Bộ máy quản lý Bộ máy quản

cồng kềnh. Quy trình khá gọn nhẹ, lý gọn nhẹ,
ra quyết định chậm. điều hành đơn điều hành đơn
Tính bảo mật thông giản, quyết định giản,
quyết
tin của doanh nghiệp tương đối nhanh định
nhanh
hạn chế. Phát huy tốt chóng.
Chưa chóng,
phát
khả năng quản lý khai thác hết huy và giữ
chuyên nghiệp.
khả năng lực được bí quyết
quản lý của nghề nghiệp.


8

Được quyền phát
hành cổ phiếu, trái
phiếu.
Nhanh chóng huy
động nguồn vốn, mở
rộng quy mô và lónh
vực hoạt động.
Thời hạn hoạt động
vô hạn.

người lao động Không
huy
thuê bên ngoài. động

được
những ngøi
có tài tham gia
vào công tác
quản lý kinh
doanh.
Không
được Không được
phát hành cổ phát hành cổ
phiếu.
phiếu,
trái
phiếu.
Khả năng mở Khó có khả
rộng quy mô và năng mở rộng
lónh vực kinh quy mô và lónh
doanh tương đối vực
kinh
hạn chế.
doanh.
Có thời hạn xác Có thời hạn
định.
xác định.

Không được phát
hành cổ phiếu,
trái phiếu.
Khả năng mở
rộng quy mô và
lónh vực kinh

doanh hạn chế.
Có thời hạn xác
định.

Như vậy, so với các hình thức doanh nghiệp khác, hình thức công ty cổ
phần có những đặc điểm ưu việt mà các hình thức công ty khác không có
được: chủ yếu đó là khả năng huy động vốn, mở rộng quy mô lónh vực hoạt
động và tách bạch rõ giữa quyền sở hữu và quyền quản lý doanh nghiệp.
1.2.

Thị trường chứng khoán:

1.2.1. Khái niệm và vai trò của TTCK đối với nền kinh tế:
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các
công cụ tài chính trung và dài hạn theo những nguyên tắc nhất định, là nơi
gặp gỡ cung cầu chứng khoán. Thị trường chứng khoán là sản phẩm của
nền kinh tế thị trường và là một bộ phận quan trọng của thị trường tài
chính.
Quá trình thành lập và phát triển TTCK có ý nghóa rất quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia, thể hiện trên các
phương diện:
1.2.1.1. TTCK là công cụ khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn
vốn tiết kiệm vào đầu tư.


9

Trong nền kinh tế thị trường, để có thể huy động nguồn vốn lớn, cần
phải thu hút nguồn vốn của các tầng lớp trong xã hội, nguồn vốn này rất phân
tán và rãi rác do đó cần phải có định chế đặc biệt để thu hút nguồn vốn này.

Vai trò của ngân hàng là huy động vốn của các tầng lớp trong xã hội và sử
dụng chúng để thực hiện các dịch vụ ngân hàng: tín dụng, đầu tư… trên cơ sở
đảm bảo khả năng thanh toán cho các khách hàng gởi tiền. Có thể nói ngân
hàng là định chế tài chính trung gian truyền thống để huy động từ dân chúng
và cấp tín dụng cho các đối tượng có yêu cầu.
Với sự ra đời của thị trường chứng khoán, kênh thứ hai khuyến khích tiết
kiệm và đầu tư. Hoạt động của thị trường chứng khoán tạo điều kiện thu hút
nguồn vốn cho cả khu vực công và tư nhân. Các nguồn vốn này không phải
do TTCK thu hút, nhưng nhờ các hoạt động của TTCK tính thanh khoản của
các khoản đầu tư được đảm bảo từ đó khuyến khích các cá nhân mạnh dạn
đầu tư vào các lónh vực có khả năng sinh lợi.
1.2.1.2. TTCK phương tiện huy động vốn.
Khi TTCK chưa hình thành, các đơn vị kinh tế đều lệ thuộc vào ngân
hàng khi cần nguồn vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, nghóa là phải đi
vay ở ngân hàng. Ngày nay với sự ra đời của TTCK, các doanh nghiệp, Chính
phủ đã có thể huy động vốn thông qua TTCK bằng cách phát hành trái
phiếu hay cổ phiếu. Nhờ có TTCK mà các nhà trung gian, các nhà môi
giới, các nhà bảo lãnh có thể phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng
để huy động vốn. Nguồn vốn huy động được đảm bảo và được sử dụng lâu
dài, các doanh nghiệp không phải lo lắng về thời gian hoàn trả vốn như khi
vay vốn của ngân hàng.
Về phía Chính phủ cũng có thể huy động vốn bằng cách phát hành các
loại chứng khoán như trái phiếu, tín phiếu, công trái. Các loại trái phiếu của
Chính phủ là một công cụ phổ biến để huy động nguồn vốn cần thiết cho chi
tiêu và đầu tư của Chính Phủ thay vì phải phát hành tiền để tránh lạm phát.
Trái phiếu của Chính Phủ là 1 loại chứng khoán có thể chuyển nhượng được
do vậy thị trường chứng khoán sẽ giúp nó dễ dàng hơn trong việc phát hành
và thanh khoản khi cần thiết.
1.2.1.3. TTCK tăng tính thanh khoản cho các dòng vốn đầu tư:
Việc mua bán cổ phiếu trên TTCK sơ cấp không tạo thêm nguồn vốn

mới cho các doanh nghiệp hay Chính Phủ mà chỉ đơn giản làm thay đổi quyền
sở hữu của các loại cổ phiếu, nghóa là khi cần thiết người sở hữu chứng khoaùn


10

có thể thông qua các trung gian là các nhà môi giới để bán chứng khoán trên
thị trường chứng khoán để thu hồi tiền vốn. Nếu không có thị trường chứng
khoán thì cung cầu về chứng khoán sẽ không có cơ hội gặp nhau và do đó
tính thanh khoản của các dòng vốn đầu tư sẽ giảm, làm cho người dân sẽ
có tâm ý e dè, lo ngại khi đầu tư.
1.2.1.4. Thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh theo chuẩn mực và tăng hiệu
quả kinh doanh.
Thông qua TTCK các doanh nghiệp mới có thể huy động vốn của công
chúng. Để đảm bảo quyền lợi của người đầu tư và hoạt động ổn định của thị
trường chứng khoán, Ủy Ban Chứng Khoán chỉ chấp thuận cho các doanh
nghiệp đạt những tiêu chuẩn nhất định: tình hình tài chính lành mạnh, có
doanh lợi, có khả năng phát triển… phát hành chứng khoán trên TTCK. Để
chứng khoán có thể thu hút nhà đầu tư, các doanh nghiệp không có con đường
nào khác là phải tính toán kinh doanh một cách trung thực, minh bạch và rõ
ràng. Hơn nữa Luật chứng khoán yêu cầu các doanh nghiệp tham gia niêm
yết trên thị trường chứng khoán định kỳ phải công bố các báo cáo tài chính,
kết quả hoạt động kinh doanh để từ đó người đầu tư có thể hiểu được tình
hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Do vậy để giữ vững giá trị
của doanh nghiệp mình các doanh nghiệp tất yếu phải nỗ lực để kinh doanh
ngày càng hiệu quả hơn.
1.2.1.5. Tạo thói quen về đầu tư trong dân chúng.
Nguồn vốn tiềm tàng trong dân là rất lớn và hệ thống ngân hàng rõ ràng
chưa thể thu hút hết các nguồn vốn nhàn rỗi này. Người dân ngoài việc gởi
tiền tiết kiệm vào ngân hàng, họ cũng muốn tham gia kinh doanh với hình

thức góp vốn đầu tư kinh doanh với mong muốn có được một khoản lợi tức
cao hơn so với hình thức gởi tiền tiết kiệm ở ngân hàng.
TTCK, với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ máy quản lý hữu hiệu sẽ là
môi trường thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu và các loại chứng khoán
cũng như mọi nghiệp vụ mua bán ở thị trường thứ cấp. Với sự phổ biến thông
tin và hướng dẫn rộng rãi cũng như các tiêu chuẩn khắc khe đối với các công
ty được niêm yết, người dân sẽ tự tin hơn và dễ dàng hơn khi sử dụng nguồn
tiền tiết kiệm của mình để mua chứng khoán. Dó nhiên là các nhà trung gian
và môi giới phải làm tốt vai trò của mình để các nhà đầu tư cá nhân có đầy
đủ thông tin về các đơn vị niêm yết trên thị trường chứng khoán. Nguồn tiền
nhàn rỗi trong công chúng nếu cất trữ thì rõ ràng không sinh lợi gì cho bản


11

thân người tiết kiệm cũng như chẳng đóng góp gì cho quá trình phát triển kinh
tế. TTCK phát triển, người dân nhận thấy họ có thêm một kênh tin cậy khác
để đầu tư đồng vốn nhàn rỗi của mình và đồng vốn này cũng có thể sẵn sàng
thanh khoản khi cần thiết.
1.2.1.6. Hướng dẫn nguồn vốn đầu tư và điều tiết việc phát hành cổ phiếu.
Nguồn vốn tiết kiệm nhàn rỗi trong công chúng là rất lớn và hệ thống
ngân hàng với các nghiệp vụ huy động vốn truyền thống của mình chưa thu
hút được hết các tiềm năng này. Thị trường chứng khoán với cơ sở pháp lý
hoàn chỉnh và bộ máy quản lý điều hành hữu hiệu sẽ là môi trường thuận lợi
cho việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán cũng như
mọi nghiệp vụ mua bán trên thị trường thứ cấp. Với các thông tin được công
bố rộng rãi trên thị trường chứng khoán, nhiều loại hàng hóa của nhiều công
ty khác nhau và đặc biệt là có sự tư vấn của các nhà trung gian và môi giới,
người dân - nhà đầu tư sẽ rất có nhiều sự lựa chọn để sử dụng đồng tiền tiết
kiệm của mình đầu tư vào chứng khoán với niềm tin về lợi nhuận mong muốn

trong tương lai. Với thị trường chứng khoán không những là nơi khuyến khích
người dân đầu tư mà còn là nơi tạo điều kiện thực hiện mọi việc trao đổi mua
bán dễ dàng và nhanh chóng.
Sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán hoàn toàn tùy thuộc
vào sự tham gia thị trường của các doanh nghiệp. Tuy nhiên sự tham gia này
phải thỏa mãn các điều kiện để được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán có quyền tạm ngưng mua bán một loại cổ phiếu nào
đó nếu có vi phạm có thể gây thiệt hại cho nhà đầu tư và chỉ cho phép yết giá
trở lại khi mọi điều kiện cần thiết được đáp ứng. Như vậy vai trò của thị
trường chứng khoán là đảm bảo sự an toàn cho nhà đầu tư bằng cách xem xét,
đánh giá các loại chứng khoán trước khi đưa ra giao dịch mua bán. Vai trò


12

điều tiết của thị trường chứng khoán còn có thể hướng các đơn vị kinh tế đầu
tư vào các ngành hay lónh vực được khuyến khích cũng như thúc đẩy chương
trình cổ phần hóa bằng cách phát hành cổ phiếu của những đơn vị được đánh
giá tương đối chính xác.
1.2.1.7. Công cụ làm giảm áp lực lạm phát.
Ngân hàng trung ương với vai trò điều hòa lưu thông tiền tệ, khi xuất
hiện hiện tượng lạm phát, ngân hàng sẽ bán các loại kỳ phiếu trên thị trường
chứng khoán với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền đang lưu thông về. Với
chính sách khuyến khích bằng lãi suất và đảm bảo chi trả, người dân sẽ sẵn
sàng mua kỳ phiếu ngân hàng và từ đó làm giảm áp lực lạm phát.
1.2.1.8. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thị trường chứng khoán là nơi rất thuận tiện, có sẵn các thông tin cần
thiết để các nhà đầu tư theo dõi, nhận định hoạt động của các công ty niêm
yết. Thông qua thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư nước ngoài có thể bỏ
vốn đầu tư vào các công ty mà không cần phải trực tiếp đầu tư. Thị trường

chứng khoán là kênh thu hút đầu tư nước ngoài rất quan trọng.
1.2.1.9. Tạo môi trường vó mô giúp Chính Phủ thực hiện các chính sách kinh
tế vó mô.
Các chỉ báo của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh
tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư
đang mở rộng, nền kinh tế đang tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm
sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế thị trường chứng
khoán được gọi là hàn vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng
giúp Chính Phủ điều hành chính sách kinh tế vó mô.


13

Thông qua thị trường chứng khoán, Chính Phủ có thể vừa mua và bán
các trái phiếu Chính Phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm thụt ngân sách và
quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính Phủ cũng có thể sử dụng một số chính
sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư
đảm bảo sự phát triển hài hòa của nền kinh tế.
1.2.2. Hàng hóa của thị trường chứng khoán:
Chứng khoán là những giấy tờ có giá và có khả năng chuyển nhượng, nó
xác nhận quyền sở hữu một phần tài sản hoặc đòi nợ hợp pháp. Đó là những
tài sản tài chính vì nó mang lại thu nhập và khi cần người chủ sở hữu có thể
bán để thu tiền về. Cùng với sự phát triển của thị trường, hàng hóa của TTCK
ngày càng phong phú và đa dạng. Nhìn chung, có thể phân chia chứng khoán
thành 3 nhóm chính là cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ có nguồn gốc chứng
khoán.
1.2.2.1. Cổ phiếu: là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng
chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp
của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của công ty cổ phần. Có
hai loại cổ phiếu: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.

-

Cổ phiếu thường: là cổ phiếu mà người chủ sở hữu có quyền tham

gia Đại Hội Đồng cổ đông để kiểm soát hoạt động của công ty, quyền bầu
Hội Đồng Quản Trị, quyền bỏ phiếu để quyết định những vấn đề lớn của
Công ty như phương hướng kinh doanh, kế hoạch hoạt động,… Cổ tức của cổ
phiếu thường được tính theo kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Nó
có thể được trả toàn bộ hay giữ lại một phần để tích lũy vốn cho công ty
theo quyết định của Đại Hội cổ đông.


14

-

Cổ phiếu ưu đãi: là cổ phiếu có mức cổ tức cố định được xác định

trước, in trên cổ phiếu hoặc một tỷ lệ phần trăm cổ tức định theo mệnh giá
cổ phiếu. Cổ phiếu ưu đãi được trả cổ tức trước cổ phiếu thường. Người sở
hữu cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bỏ phiếu bầu Hội Đồng Quản Trị.
Khi công ty giải thể hay phá sản, cổ phiếu ưu đãi được thanh toán trước cổ
phiếu thường. Cổ phiếu ưu đãi bao gồm nhiều loại khác nhau:


Cổ phiếu ưu đãi không gộp lãi: loại cổ phiếu này có đặc điểm

là khi công ty hoạt động không hiệu quả trong một năm nào đó nên không
đủ tiền trả lãi cho các cổ phần ưu đãi, công ty có thể bỏ luôn khoản lãi này,
nếu đã thỏa thuận trước.



Cổ phiếu ưu đãi gộp lãi: với loại cổ phiếu này nếu công ty

không có lãi trong một năm nào đó thì công ty sẽ gộp số lãi đó để trả trong
các năm kế tiếp.


Cổ phiếu ưu đãi tham dự chia phần: ngoài số cổ tức được ấn

định cho cổ phiếu ưu đãi, chủ sở hữu cổ phiếu của loại cổ phiếu này được
quyền tham dự với tư cách chủ sở hữu cổ phiếu thường để được chia thêm
lãi ở một số điều kiện nhất định.


Cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi: là loại cổ phiếu cho phép người

sở hữu được quyền chuyển đổi sang cổ phiếu thường theo những điều kiện
thỏa thuận trước.


Cổ phiếu ưu đãi bồi hoàn: là loại cổ phiếu có điều khoản cho

phép công ty có thể bồi hoàn để chuộc lại các cổ phiếu này. Khi lãi suất cổ
phiếu trở nên quá cao so với tỷ suất lợi nhuận của mình, Công ty sử dụng
quyền bồi hoàn này để thu hồi số cổ phiếu đã phát hành, thay bằng những
cổ phiếu có lãi thấp hơn để nâng cao hiệu quả tài chính.


15


1.2.2.2.Trái phiếu: là một công cụ nợ, quy định nghóa vụ của người phát
hành phải trả cho người nắm giữ chứng khoán một khoản tiền lãi xác định và
vốn gốc ban đầu trong một thời hạn nhất định.
Xét về cách phát hành, trái phiếu có các loại sau:
- Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu do Bộ Tài chính hay một tổ chức
thứ ba bảo lãnh;
- Trái phiếu có khả năng mua lại: là trái phiếu có khả năng mua lại trước
ngày đáo hạn với một giá xác định;
- Trái phiếu chuyển đổi: là trái phiếu có thể chuyển đổi sang một dạng
chứng khoán khác (thường là sang cổ phiếu thường) theo sự lựa chọn của
người nắm giữ cổ phiếu với một giá xác định. Người mua trái phiếu này
thường xuyên theo dõi hoạt động của công ty phát hành, nếu thấy công ty
hoạt động hiệu quả họ có thể chuyển thành cổ phiếu thường để được chia cổ
tức cao hơn lợi tức trái phiếu.
Xét về người phát hành, trái phiếu có các loại sau:
- Trái phiếu chính phủ: loại trái phiếu do Chính phủ phát hành thường
được sử dụng vào việc bù đắp thâm thụt ngân sách, đầu tư cơ sở hạ tầng và
các công trình phúc lợi. Trái phiếu này thường được gọi dưới nhiều tên gọi
khác nhau: công trái, công khố phiếu, trái phiếu kho bạc… nhưng đều là nợ
của Chính Phủ và được thanh toán bằng ngân sách quốc gia.
- Tín phiếu kho bạc: thường là trái phiếu ngắn hạn do kho bạc phát hành
để điều hòa thu chi trong từng giai đoạn. Ví dụ, trong mùa khô cần tranh thủ
xây dựng các công trình xây dựng, nhưng nguồn thu trong kỳ không đủ trang
trãi, kho bạc phát hành loại tín phiếu kỳ hạn ngắn dưới một năm để bổ sung
nguồn thu. Loại này thường được bán theo hình thức chiết khấu. Ví dụ, mua


16


tín phiếu 6 tháng loại 1.000.000 đồng, lãi suất sẽ là 10,52%/năm. Kho bạc tổ
chức đấu thầu, ai trả giá cao nhất sẽ thắng thầu. Vì thế lãi suất sẽ biến động
theo từng phiên đấu thầu. Tín phiếu kho bạc thường rất cần cho các ngân
hàng thương mại để dự trữ thay cho tiền mặt vì vừa có khả năng sinh lợi vừa
dễ dàng thanh khoản.
- Trái phiếu đô thị: các thành phố và các chính quyền địa phương ở các
nước đều có quyền phát hành trái phiếu thanh toán bằng ngân sách địa
phương để trang trải cho nhu cầu đầu tư, phát triển kinh tế xã hội của chính
địa phương đó.
- Trái phiếu công trình: loại trái phiếu này được phát hành để xây dựng
các công trình công cộng như cầu đường và nguồn thu là lệ phí thu được.
- Trái phiếu công ty: là công cụ nợ do doanh nghiệp phát hành để vay nợ
trực tiếp của người dân để đầu tư mở rộng phát triển sản xuất của doanh
nghiệp.
- Trái phiếu cơ quan Chính phủ: do cơ quan hay tổ chức của Chính phủ
phát hành để đầu tư vào công trình nào đó. Cơ quan phát hành trái phiếu này
sẽ dựa vào hiệu quả của công trình để thanh toán trái phiếu.
- Trái phiếu cầm cố: là các trái phiếu do ngân hàng cầm cố phát hành
được đảm bảo bằng tài sản như nhà cửa, đất đai,… Sau ngân hàng, các quỹ
tiết kiệm, công ty bảo hiểm đều tham gia phát hành loại trái phiếu này. Lãi
suất của trái phiếu cầm cố được cố định trong suốt kỳ hạn của trái phiếu, còn
vốn và lãi được trả hàng năm.
1.2.2.3.Các loại chứng chỉ có giá khác có nguồn gốc chứng khoán:
- Chứng chỉ thụ hưởng hay chứng chỉ quỹ đầu tư do công ty tín thác đầu
tư hay quỹ đầu tư phát hành. Đây là những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp


17

được những nhà đầu tư cá nhân góp vốn và ủy nhiệm đầu tư. Chứng chỉ thụ

hưởng là để xác nhận quyền lợi của người sở hữu chứng chỉ. Chứng chỉ thụ
hưởng này có thể đem mua bán như các chứng khoán khác ở thị trường
chứng khoán.
- Chứng quyền hay quyềnU(ặt mua là giấy xác nhận quyền được mua cổ
phiếu mới phát hành theo mức giá bán ra của công ty. Nó thường được phát
hành cho các cổ đông cũ, nhất là cổ đông sáng lập và nhân viên của công ty
để thể hiện sự ưu tiên của công ty với quyền được mua thấp hơn giá thị
trường hiện hành. Chứng quyền thường có thời hạn ngắn, nhưng các chứng
quyền này cũng được đem ra mua bán ở thị trường chứng khoán.
- Chứng khoán phái sinh: là những giấy tờ có giá phát sinh từ các lợi ích
phục vụ cho việc giao dịch chứng khoán, ví dụ như để mua chứng khoán
trong tương lai, để khắc phục rủi ro về biến động tỷ giá hối đoái, biến động
lãi suất… Đây là những công cụ tài chính mới xuất hiện ỡ Mỹ vào cuối thập
niên 70 và giữa thập niên 80 mới du nhập sang Châu Âu. Đó là các quyền
lựa chọn, các hợp đồng tương lai. Chứng khoán phái sinh phát triển nhanh vì
mặt trái đầu cơ của nó hơn là vì tác dụng chống đỡ rủi ro.
1.2.3. Mối quan hệ tương hỗ giữa thị trường chứng khoán và công ty cổ
phần.
Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán có mối quan hệ tương hỗ,
mật thiết với nhau. Công ty cổ phần cung cấp hàng hóa cho thị trường chứng
khoán, là điều kiện tiên quyết để thị trường chứng khoán có thể tồn tại và
hoạt động. Ngược lại, thị trường chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi và linh
hoạt cho công ty cổ phần huy động vốn trong dân chúng và tạo tính thanh
khoản nhanh chóng, tiện lợi cho các chứng khoán.


18

Thị trường chứng khoán tạo điều kiện chủ động và linh hoạt để công ty
cổ phần thu hút nguồn vốn đầu tư thay vì chỉ phụ thuộc chủ yếu vào ngân

hàng. Khi doanh nghiệp có nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh thì
doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường sơ cấp
để huy động vốn. Đây là những nguồn vốn dài hạn và ổn định. Ngược lại khi
các doanh nghiệp trong tình trạng dư thừa vốn, doanh nghiệp có thể mua
chứng khoán như là một tài sản tài chính – hàng hóa dễ dàng chuyển đổi,
mua bán tại thị trường chứng khoán.
1.3.

Các hình thức đầu tư và vai trò của đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

1.3.1. Các hình thức đầu tư nứơc ngoài tại Việt Nam
Các hình thức đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam hiện hành, bao gồm:
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh: Hai hoặc
nhiều bên được hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
như hợp tác sản xuất phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm và các hình
thức hợp tác kinh doanh khác. Đối tượng, nội dung, thời hạn kinh doanh,
quyền lợi, nghóa vụ, trách nhiệm của mỗi bên, quan hệ giữa các bên được
thỏa thuận và được ghi trong hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Doanh nghiệp liên doanh: hai bên hay nhiều bên được hợp tác với nhau
để thành lập doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên
doanh. Doanh nghiệp liên doanh được hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài
hoặc với doanh nghiệp Việt Nam để thành lập liên doanh mới tại Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.


19

- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: Các nhà đầu tư nước ngoài

được thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập dưới hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được hợp tác với doanh nghiệp
Việt Nam để thành lập liên doanh. Đối với các cơ sở kinh tế quan trọng do
Chính phủ quyết định, các doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở thỏa thuận với
chủ doanh nghiệp, được mua lại một phần vốn của doanh nghiệp để hình
thành doanh nghiệp liên doanh.
1.3.2. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với công cuộc phát triển kinh tế Việt
Nam.
- Bổ sung nguồn vốn quan trọng cho cho đầu tư phát triển, góp phần khai
thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước tạo ra thế và lực
mới cho phát triển kinh tế. Tính đến nay vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng
20% vốn đầu tư toàn xã hội.
- Giải quyết công ăn việc làm : Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hiện tại đã tạo việc làm cho khoảng 865.000 lao động trực tiếp trên cả
nước, chiếm trên 30% lực lượng lao động cả nước.
- Tạo thêm giá trị sản lượng sản xuất công nghiệp, dịch vụ, tăng nguồn
thu ngoại tệ từ xuất khẩu. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài đến nay đạt trên 26 tỷ USD, riêng trong 3 năm 2001-2003 giá trị xuất
khẩu đạt 14,6 tỷ USD. Việc tăng cường thu hút đầu tư hướng về xuất khẩu đã
tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng
lực và khả năng xuất khẩu của Việt Nam, góp phần thúc đẩy quan hệ đối
ngoại phát triển, tạo điều kiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.


20

- Góp phần mở rộng thị trường trong nước, thúc đẩy các dịch vụ phát
triển nhanh: khách sạn, du lịch, thu đổi ngoại tệ, tư vấn…

- Với tốc độ tăng trưởng trên 20%/năm, đầu tư nước ngoài hiện chiếm
36% giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước. Thông qua đầu tư nước ngoài
đã thúc đẩy hình thành hệ thống KCX-KCN trên cả nước, góp phần phân bổ
công nghiệp hợp lý, nâng cao hiệu quả đầu tư và thực hiện chiến lược phát
triển công nghiệp theo vùng.
- Nâng cao năng lực sản xuất, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Tiếp thu và nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ hiện đại, phong cách
quản lý tiên tiến.
1.4.

Tư nhân hóa và cổ phần hóa:

1.4.1. Khái niệm và mục tiêu tư nhân hóa:
1.4.1.1. Khái niệm:
Tư nhân hóa (privatization hay denationalization hoặc disinvestment là
một quá trình kinh tế, chuyển nhượng tài sản từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu
tư nhân. Về lý thuyết, tư nhân hóa sẽ giúp thành lập nền kinh tế thị trường tự
do cũng như thúc đẩy khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân, tạo cho
công chúng nhiều sự lựa chọn.
Có ý kiến cho rằng tư nhân hóa là một tư tưởng dành cho các nhà đối lập
tìm kiếm giải pháp nhằm làm giảm vai trò, quy mô, chi phí của khu vực quốc
doanh hoặc là tư tưởng dành cho những người ủng hộ đa dạng hóa hình thức
sở hữu, phân quyền, giảm sự ảnh hưởng kiểm soát của Nhà nước.


21

Một ý kiến khác cho rằng tư nhân hóa xét theo nghóa chung nhất là quá
trình làm giảm vai trò của Nhà nước, mức độ tuỳ thuộc vào lónh vực mà Nhà

nước muốn chuyển giao cho khu vực kinh tế tư nhân: tài chính, sản xuất, dịch vụ…
Thuật ngữ tư nhân hóa được trở nên phổ biến vào cuối những năm 1970
và đầu những năm 1980, khởi sự đầu tiên ở các quốc gia: Anh, Mỹ, Pháp.
Ban đầu khái niệm tư nhân hóa có 2 nội dung chính:
(1) Chuyển các chức năng hoặc hoạt động từ Nhà nước sang khu vực tư
nhân;
(2) Chuyển công việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ từ khu vực quốc
doanh sang khu vực tư nhân.
Trải qua hơn 2 thập kỷ, chương trình tư nhân hóa đã được nhiều quốc gia
trên thế giới xem như là một trong những yếu tố quan trọng nhất nhằm phát
triển nền kinh tế thị trường và tái bố trí các nguồn tài nguyên.
Nhìn chung, khái niệm tư nhân hóa, theo nghóa hẹp, thường được sử dụng
liên quan đến việc bán tài sản hay cổ phần của doanh nghiệp nhà nước cho
khu vực kinh tế tư nhân. Theo nghóa rộng hơn, tư nhân hóa thể hiện việc hạn
chế và chuyển vai trò trước đây được độc quyền thực hiện bởi khu vực quốc
doanh sang khu vực kinh tế tư nhân. Nói cách khác tư nhân hóa bao gồm các
giải pháp, chính sách nhằm thực hiện tăng cường vai trò của thị trường trong
nền kinh tế quốc dân.
Tư nhân hóa có thể xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Việc lựa
chọn áp dụng hình thức nào hay phối hợp nhiều hình thức tùy thuộc vào tính
chất của từng dịch vụ. Bao gồm:


Hợp đồng thuê ngoài: Chính phủ đưa ra các các loại hình dịch vụ
và mô tả chi tiết nội dung của từng loại hình sản phẩm hoặc dịch


22

vụ và đấu thầu ký kết hợp đồng với các tổ chức thuộc khu vực

kinh tế tư nhân sản xuất và cung ứng dịch vụ.


Bán tài sản: bán các tài sản thuộc sở hữu quốc doanh cho tư nhân.
Chính Phủ cũng có thể bán các tài sản và sau đó thuê lại dài hạn
đối với các tài sản như sân bay, đường ống dẫn khí, các bất động
sản …



Phiếu mua hàng hóa dịch vụ: do Chính Phủ cung cấp dưới hình
thức thẻ có giá trị mua hàng hoặc phiếu mua hàng cho phép các cá
nhân mua hàng hóa hay dịch vụ của nhà cung cấp tư nhân hoặc danh
sách các nhà cung cấp.



Giao quyền kinh doanh: Khu vực kinh tế tư nhân được giao quyền
kinh doanh, cung cấp hàng hóa và dịch vụ trong một khu vực địa
lý hay một lónh vực xác định.



Thương mại hóa: Chính Phủ ngưng cung cấp một loại hình dịch vụ
nào đó và để khu vực kinh tế tư nhân thực hiện.

1.4.1.2. Mục tiêu tư nhân hóa:
Đa số các quốc gia khi triển khai thực hiện tư nhân hóa đều có mục tiêu
chung là:
-


Tăng cường hiệu quả và năng suất: tư nhân hóa sẽ đẩy mạnh tính cạnh
tranh và như vậy sẽ nâng cao năng suất và hiệu quả của các khu vực
kinh tế.

-

Tạo điều kiện phát triển bình đẳng giữa các thành phần kinh tế: tư
nhân hóa cho phép khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào quá trình phát
triển kinh tế, đầu tư vào các ngành, lónh vực mà trước đây được thực
hiện bởi doanh nghiệp Nhà nước.


23

-

Công khai đầy đủ và trung thực các loại chi phí của các loại hình dịch
vụ cung cấp: Các loại hàng hóa và dịch vụ được cung cấp một cách
công khai là cơ chế tốt nhất để các loại hàng hóa dịch vụ được cung
cấp với đúng chi phí thực của nó.

-

Thúc đẩy đổi mới công nghệ: cạnh tranh là áp lực thúc đẩy các doanh
nghiệp áp dụng các phương pháp sản xuất tiên tiến để tăng cường chất
lượng và hạ giá thành sản phẩm.

-


Phát triển thị trường vốn: mục tiêu chính của việc thành lập thị trường
vốn là khuyến khích tiền nhàn rỗi của công chúng đầu tư vào các lónh
vực có khả năng sinh lợi.

-

Mở rộng và phát triển sự thịnh vượng của khu vực kinh tế tư nhân trong
xã hội: tư nhân hóa tạo điều kiện cho phát triển sở hữu kinh tế tư nhân,
thúc đẩy mong muốn làm ăn kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân.

-

Kiểm soát lạm phát: trong điều kiện các doanh nghiệp kinh tế công
hoạt động không có năng suất và hiệu quả họ sẽ cần khối lượng tiền
nhiều hơn mức bình quân để tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa
và dịch vụ tương ứng. Vì vậy sẽ tạo ra áp lực lạm phát. Tư nhân hóa
trong trường hợp này được xem là công cụ kiểm soát lạm phát.

-

Tăng nguồn thu cho Chính Phủ: một trong những mục tiêu quan trọng
của cổ phần hóa là tăng nguồn thu của Chính phủ.

-

Loại trừ thất nghiệp trá hình: quá trình tư nhân hóa sẽ tạo ra môi
trường cạnh tranh giữa các khu vực kinh tế do đó sẽ loại bỏ được thất
nghiệp trá hình.

1.4.2. Khái niệm về cổ phần hóa và mục tiêu cổ phần hóa

1.4.2.1. Khái niệm:


24

Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần do Đại Hội
Đảng lần thứ VII đề ra, Chính Phủ (trước đây là Hội Đồng Bộ Trưởng),
chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần hay còn gọi là cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước được đặt ra ở nước ta vào thời kỳ năm
1992, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên việc cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước vẫn chưa được thực hiện.
Đại hội Đảng lần thứ VIII được tổ chức từ ngày 28/6/1996 đến 1/7/1996
một lần nữa tiếp tục khẳng định chính sách nhất quán lâu dài phát triển kinh
tế nhiều thành phần và khẳng định “ triển khai tích cực và vững chắc việc cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước để huy động thêm vốn tạo công ăn việc
làm, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, là tăng
thêm tài sản Nhà nước, không phải để tư nhân hóa”.
Đa số các nước đều cho rằng cơ sở để phát triển kinh tế thị trường là
kinh tế tư nhân, do vậy để phát triển kinh tế thị trường tất yếu phải tạo ra
thành phần sở hữu kinh tế tư nhân. Quá trình chuyển đổi doanh nghiệp thuộc
sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu tư nhân gọi là quá trình tư nhân hóa.
Ở Việt Nam, cơ sở để phát triển nền kinh tế là nhiều thành phần kinh tế
đan xen lẫn nhau và để phát triển tốt nền kinh tế cần phải tạo điều kiện để
các thành phần kinh tế này phát triển. Quá trình chuyển đổi doanh nghiệp
thuộc sở hữu Nhà nước sang hình thức đa sở hữu gọi là quá trình cổ phần hóa.
Như vậy, thực chất của quá trình cổ phần hóa là quá trình đa dạng hóa hình
thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân và do vậy, có thể nói, trong quá trình
cổ phần hóa sẽ có diễn ra quá trình tư nhân hóa.
1.4.2.2. Mục tiêu cổ phần hóa:
Mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta nhằm:



25

-

Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh
nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó
có đông đảo người lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản
lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng hiệu quả vốn, tài sản
của Nhà nước và của doanh nghiệp.

-

Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ,
phát triển doanh nghiệp.

-

Phát huy vai trò làm chủ thật sự của người lao động, của các cổ
đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp;
đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và
người lao động.

1.4.2.3. Các hình thức cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước:
-

Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu thu hút thêm vốn.


-

Bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.

-

Bán toàn bộ vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.

-

Bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp kết hợp với
phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn; hoặc bán toàn bộ vốn Nhà
nước hiện có tại doanh nghiệp kết hợp với phát hành cổ phiếu thu
hút thêm vốn.

1.5.

Cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:

1.5.1. Khái niệm:
Cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là chuyển đổi tổ
chức quản lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập, hoạt


×