Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp việt nam trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.59 KB, 41 trang )

1
BÀI TIỂU LUẬN GIỬA KỲ
MÔN HỌC VĂN HÓA VÀ ĐẠO ĐỨC QUẢN LÝ
Đề tài: Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
A-PHẦN MỞ ĐÀU
1. Tên đề tài
Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập
2. Lý do chọn đề tài
Quản lý là một lĩnh vực của hoạt động tổng họp, không chỉ được nhìn nhận từ
những góc độ của khoa học, mà cần phải được nhìn nhận cả từ góc độ văn hóa. Cuộc đấu
tranh văn hóa bao giờ cũng gắn liền với các cuộc đấu tranh khác, trước hết là cuộc đấu
tranh kinh tế và chính trị, nhưng tất cả đều thống nhất vào một mục tiêu: Vì con người,
tất cả cho con người. Quan hệ kinh tế và văn hóa là quan hệ biện chứng, không thể nói
cái nào quyết định cái nào. Kinh tế là một nền tảng của xã hội: Nen tảng kinh tế. Văn
hóa là một nền tảng của xã hội: Nen tảng văn hóa. Nói một cách khác, kinh tế và văn hóa
là hai nội dung cốt lõi của sự sinh tồn và phát trien của một dân tộc, một quốc gia.
Sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường là quy luật của kinh tế, tác động trực tiếp
và gián tiếp đến toàn bộ hoạt động của xã hội. Văn hóa không đứng ngoài tác động đó.
Nhưng văn hóa có đặc điếm và quy luật riêng của nó. Không thể loại trừ hoạt động kinh
tế trong văn hóa, cũng không thể loại trừ hoạt động văn hóa trong kinh tế. Sự tác động
qua lại và đồng thời là đúng quy luật khách quan.
Dù xét từ giác độ nào thì mục đích chính của kinh doanh là đem lại lợi nhuận cho
chủ thể kinh doanh nên bản chất của kinh doanh là để kiếm lời. Trong kinh tế thị trường,
kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã hội, do sự
2
phân công lao động xã hội tạo ra. Còn việc kinh doanh như thế nào, kinh doanh đem lại
lợi ích và giá trị cho ai thì đó chính là vấn đề văn hóa kinh doanh.
Và trong các yếu tố cấu thành nên văn hóa kinh doanh, ta không thể không nhắc
đến triết lý kinh doanh. Một hệ thống các giá trị cốt lõi có vai trò như kim chỉ nam định
hướng các hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Nằm trong một hệ thống tạo nên văn hóa
kinh doanh, triết lý kinh doanh giữ vị trí đầu tiên và cũng là vị trí quan trọng quyết định


giá trị của tố chức. Nó quy chiếu trong mình những giá trị mang tính chiến lược trong
hoạt động của doanh nghiệp mà qua quá trình thực hiện theo hệ triết lý này, cả khách
hàng - đối tác và những cá nhân trong tổ chức sẽ nhận thức ra những “đặc sắc”, “độc
đáo” và điều tạo nên sự khác biệt cho doanh nghiệp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Như trên nhóm đã trình bày, càng ngày con người càng nhận thấy rằng văn hóa
tham gia vào mọi quá trình hoạt động của con người và sự tham gia đó ngày càng được
thế hiện rõ nét và tạo thành các lĩnh vực văn hóa đặc thù như văn hóa chính trị, văn hóa
pháp luật, văn hóa gia đình và .văn hóa kinh doanh. Kinh doanh là một hoạt động cơ
bản của con người, xuất hiện cùng với hàng hóa và thị trường. Tuy nhiên, khi xã hội
chúng ta phát triến đến một mức nào đó, những điều còn lại sau đồng tiền, sau lợi nhuận,
sau những cạnh tranh, bon chen trên trường kinh tế sẽ là những giá trị nhân bản thuộc
về con người. Tất cả những giá trị ấy quy tụ trong văn hóa kinh doanh. Tìm hiểu về vấn
đề này, nhóm chúng tôi đã lựa chọn Triết lý kinh doanh như một nhân tố quan trọng tạo
nên văn hóa kinh doanh xưa và nay. Nhìn nhận một cách khách quan chúng ta có thể
thấy triết lý kinh doanh chính là nền tảng chi phối đến các hoạt động của doanh nghiệp
Ở Việt Nam, kể từ sau những quyết định mở cửa nền kinh tế tiến hành từ Đại hội VI,
hoạt động kinh doanh trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết, tuy nhiên thực tế cho thấy - ta gặp
phải không ít khó khăn trong quá trình xác định mục tiêu, sứ mệnh của mình. Vì thế cần
3
học tập kinh nghiệm xây dựng triết lý kinh doanh và kinh nghiệm khai thác vai trò triết
lý kinh doanh trong quản lý doanh nghiệp để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giữa
các doanh nghiệp nước ta với các doanh nghiệp nuớc ngoài. Bài tiểu luận này của Nhóm
xin phép đuợc trình bày về quá trình phát triến của Triết lý kinh doanh, đồng thời chú
trọng phân tích vai trò của triết lý kinh doanh trong giai đoạn hiện tại nhằm làm nối bật
nên giá trị của yếu tố này trong mỗi tổ chức vào mỗi thời kỳ.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập như thế
nào ?
5. Giả thuyết nghiên cứu

Mỗi một khu vực kinh tế khác nhau thì có triết lý kinh doanh khác nhau.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần lời mở đầu đi kèm, đề tài gồm 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về Triết lý kinh doanh
Chương 2: Triết lý kinh doanh Việt Nam thời kỳ hội nhập
Chương 3: Giải pháp phát huy triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam
thời kỳ hội nhập
B- PHẢN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN CHUNG VÈ TRIẾT LÝ KINH
DOANH
1.1. Khái niệm chung về Triết lý:
Triết lý là phương châm, nguyên tắc mà cá nhân hay tố chức luôn cố gắng tuân
thủ theo nó để đạt được mục tiêu hay nguyện vọng mà họ đang theo đuổi. Trong cuộc
sống có bao nhiêu lĩnh vực thì con người có thể đưa ra bằng đó ưiết lý để thực hiện theo
4
nó. Do vậy, ta thường bắt gặp các khái niệm rất phố biến liên quan đến triết lý như “triết
lý sống”, “triết lý kinh doanh”,
Khái niệm triết lý có quan hệ chặt chẽ với khái niệm “triết học”. Theo từ điển
Hán - Việt: “Triết” nghĩa là trí ( sự nhận thức, hiếu biết sâu rộng về thế giới : trời, đất,
người và đạo lý). Ở phương Tây “triết học” ( philosophy) xuất phát từ tiếng Hy Lạp
thời cổ đại, chuyến sang tiếng Latinh là philosophia = philo (yêu) +sophia (sự thông
thái) -> “Triết học” có nghĩa là môn học về sự thông thái.
Bàn về khái niệm triết lý, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cho rằng, tuy ở phương
Tây không có sự phân biệt giữa “triết lý” và “triết học”, nhưng trong tiếng Việt quan
niệm đó lại được dùng đế biểu đạt và phản ánh những đối tượng khác nhau. Các tác giả
sách “ Triết lý phát triển ở Việt Nam - mấy vấn đề cốt lõi” nêu định nghĩa triết lý là: “
Ket quả của sự suy nghẫm, chiêm nghiệm và đúc kết thành những quan điếm, luận điếm,
phương châm cơ bản và cốt lõi nhất về cuộc sống cũng như về hoạt động thực tiễn rất đa
dạng của con người trong xã hội. Chúng có vai trò định hướng trực tiếp ngược trở lại đối
với cuộc sống và những hoạt động thục tiễn rất đa dạng ấy”.

“Triết lý là những tư tưởng có tính triết học (tức là sự phản ánh đã đạt đến trình
độ sâu sắc và khái quát cao ) được con người rút ra từ cuộc sống của mình và chỉ dẫn,
định hướng cho hành động của con người - Theo “Bài giảng văn hóa kinh doanh” -
Truờng Đại học kinh tế quốc dân.
Theo PGS. PTS. Đỗ Thị Doan và PTS. Đỗ Minh Cường trong cuốn “Triết lý
kỉnh doanh với quản lý doanh nghiệp ” cho rằng triết lý là những tư tưởng có tính triết
học được con người rút ra từ cuộc sống của họ; là thứ triết học về đạo lý, triết học của
hành động.
Như vậy so với “triết học”, “triết lý” được hiểu ở trình độ thấp hơn, có phạm vi
hẹp hơn, chỉ là cơ sở lý luận của một hệ thống quan điểm, một học thuyết và theo nghĩa
5
ở mức độ cao, nó chính là những quan niệm, tư tưởng sâu xa nhất của con người về các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhưng dù hiếu theo cách nào cũng có thế thấy rằng, “triết
lý” không phải là duy tâm siêu hình mà nó là kết quả của những kinh nghiệm và lẽ sống
của nhiều thế hệ truớc đúc kết lại.
1.2. Triết lý kinh doanh:
1.2.1. Khái niệm kinh doanh
“Kinh doanh” hiếu theo nghĩa rộng và nói chung là một số hoặc toàn bộ hoạt
động của quá trình sản xuất, thương mại, dịch vụ có mục đích là đạt được lợi nhụân cho
chủ thể.
Như vậy kinh doanh là một hình thái đặc thù của kinh tế. Nó không chỉ là hoạt
động buôn bán, lưu thông, mà còn bao gồm các hoạt động sản xuất và các loại dịch vụ
khác ( giải trí, thông tin, du lịch ). Chủ thể kinh doanh cũng là một khái niệm hệ thống
gồm nhiều cấp độ (một cá nhân, một tập the, doanh nghiệp ) cho nên triêt lý kinh doanh
chính là các triêt lý hình thành trong quá trình kinh doanh của các chủ thế khác nhau.
1.2.2. Triết lý kinh doanh
Kinh doanh, nhu ta đã biết là tất cả những hành vi và hoạt động có mục đích là
đem lại lợi nhuận cho chủ thế. Như vậy, Triết lý kinh doanh là những tư tưởng triết học
phản ánh thực tiễn kinh doanh thông qua con đường trải nghiệm, suy ngẫm, khái quát
hóa của các chủ thể kinh doanh và chỉ dẫn cho hoạt động kinh doanh - Theo PGS. PTS.

Đỗ Thị Doan và PTS. Đỗ Minh Cường trong cuốn “Triết lý kinh doanh với quản lý
doanh nghiệp ” định nghĩa. Nó là sản phẩm phản ánh có mục đích phục vụ cho chủ thế
kinh doanh nên sự khác nhau trong ngành, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp sẽ quy
định tính đặc thù của triết lý kinh doanh. Bởi vì sẽ là sơ lược và giản đơn nếu nghiên cứu
các triết lý kinh doanh chúng ta lại bỏ qua những nét đặc thù của khách thế và môi
6
trường kinh doanh của chủ thế.
Ở đây, nhóm chúng tôi lưu ý tới thực tế - trong các nền kinh tế thị trường, các nhà
kinh doanh thành công đều trở thành những nhà quản lý, chủ thế kinh doanh thành đạt;
cho nên triết lý kinh doanh chỉ có giá trị thực sự khi nó áp dụng được cho doanh nghiệp
và tạo nên bản sắc cũng như phong cách của doanh nghiệp.
1.2.3. Đặc điếm của triết lý kinh doanh
Triết lý kinh doanh chỉ nảy sinh trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh giữa
nhiều thành phần kinh tế và các chủ thê kinh doanh khác nhau. Triết lý kinh doanh được
hình thành dần từ kinh nghiệm kinh doanh, nghĩa là những người thành lập doanh
nghiệp sau một thời gian dài làm kinh doanh và quản lý đã từ kinh nghiệm rút ra triết lý
kinh doanh; hoặc là ngay thời kỳ đầu mới thành lập, những người lánh đạo doanh nghiệp
đã chủ động xây dựng triết lý làm định hướng phát triển tố chức của mình và được tiến
hành thông qua sự thảo luận và đóng góp của hầu hết số thành viên.
Triết lý kinh doanh có thế biếu diễn bởi nhiều loại hình văn bản hoặc nghệ thuật
khác nhau.
Triết lý kinh doanh thường gồm ba bộ phận cơ bản có quan hệ mật thiết với nhau:
mục tiêu của doanh nghiệp; phương thức hành động; quan hệ của doanh nghiệp với môi
trường kinh tế xã hội, nghĩa vụ chung của doanh nghiệp và nguyên tắc của thành viên
trong doanh nghiệp.
Triết lý kinh doanh chứa đựng những chuẩn mực, giá trị, hệ tư tưởng, lý tưởng
phấn đấu và nguyên tắc hành động của các thành viên, định huớng mọi người theo một
mục tiêu đã đặt ra.
Triết lý kinh doanh tuy rất bền vững nhưng vẫn có thế thay đổi cho phù hợp với
7

môi trường kinh doanh và đời sống.
1.2.4. Mối quan hệ giữa triết lý kinh doanh, triết lý doanh nghiệp và triết lý quản

Kinh doanh là một lĩnh vục hoạt động và nghề nghiệp đầy khó khăn, phức tạp.
Triết lý kinh doanh rất phong phú và nhiều loại khác nhau. Có thế phân loại triết lý kinh
doanh dựa theo hai tiêu chí cơ bản: Chức năng - nghiệp vụ và quy mô của chủ thế kinh
doanh.
Dựa theo chức năng - nghiệp vụ tồn tại các loại hình triết lý như: Triết lý (kinh
doanh) về sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; triết lý về marketing, quản lý chất
lượng hàng hóa
Dựa vào quy mô của các chủ thế kinh doanh - quy mô tổ chức nguời có thể chia
làm ba loại cơ bản: Triết lý áp dụng cho các cá nhân kinh doanh; triết lý cho các tổ chức
kinh doanh, chủ yếu là triết lý về quản lý của doanh nghiệp; triết lý vừa có thế áp dụng
cho các cá nhân lại vừa có thế áp dụng cho các tổ chức kinh doanh. Triết lý kinh doanh
của các cá nhân(loại 1) chính là các triết lý đuợc rút ra từ những kinh nghiệm, bài học
thành công và thất bại trong quá trình kinh doanh. Còn các triết lý loại 2, 3 thực chất là
triết lý chung của tổ chức kinh doanh - triết lý quản lý doanh nghiệp.
Trên thực tế trong các nền kinh tế thị trường thì các nhà kinh doanh; chủ thể kinh
doanh thành đạt, phát triển là các tổ chức kinh doanh - các doanh nghiệp cho nên triết lý
kinh doanh chỉ có giá trị phố quát khi nó áp dụng được trong các doanh nghiệp. Mặt
khác, quản lý một doanh nghiệp bao giờ cũng phức tạp, khó khăn hơn hoạt động của một
cá thể tự kinh doanh.
Với những lý do trên có thế nhận thấy “ phần chủ yếu và thực chất của triết lý
kinh doanh là bộ phận triết lý chung của tổ chức kinh doanh - triết lý chung của doanh
8
nghiệp còn gọi tắt là triết lý doanh nghiệp”. Nói cách khác, triết lý doanh nghiệp là triết
lý kinh doanh của tất cả các thành viên của một doanh nghiệp cụ thể.
Triết lý doanh nghiệp là triết lý kinh doanh chung của tất cả các thành viên của
một doanh nghiệp cụ thế. Khi một chủ thế kinh doanh trở thành người lãnh đạo doanh
nghiệp, họ sẽ cố gắng vận dụng các tư tưởng triết học về kinh doanh và tố chức quản lý

của họ, phát triển nó thành triết lý chung của doanh nghiệp đó. Nó là lý tưởng, là phương
châm hành động, là hệ giá trị và mục tiêu chung của doanh nghiệp chỉ dẫn cho hoạt động
nhằm làm cho doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Thực tế cho thấy, sự
phát triển của doanh nghiệp được định hướng chủ yếu từ triết lý doanh nghiệp đúng đắn.
Triết lý doanh nghiệp là cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp: Xác định sứ mệnh,
các giá trị cốt lõi và phương thức hoạt động, quản lý của doanh nghiệp, nên triết lý kinh
doanh trở thành yếu tố quan trọng nhất của văn hóa doanh nghiệp. Sứ mệnh và giá
trị cốt lõi có ý nghĩa định hướng sự tồn tại và phát triến của doanh nghiệp, hướng mọi
thành viên trong doanh nghiệp tới một mục đích chung. Trong khi các yếu tố khác của
văn hóa doanh nghiệp có thế thay đổi, thì sứ mệnh và giá trị cốt lồi doanh nghiệp thường
không thay đổi. Vì vậy, triết lý doanh nghiệp trở thành nền tảng của văn hóa doanh
nghiệp. Các kế hoạch chiến lược mang tính lâu dài phải được bắt nguồn từ sứ mệnh
chung của doanh nghiệp. Vì vậy, triết lý doanh nghiệp chính là công cụ để hướng dẫn
cách thức kinh doanh phù họp với văn hóa doanh nghiệp.
Nó chính là cơ sở đào tạo, phát triển nguồn nhân lực doanh nghiệp: Mọi thành
viên trong doanh nghiệp gắn kết với nhau bởi một mục tiêu chung mà họ cùng hướng
tới. Triết lý doanh nghiệp chính là sợi dây kết nối các thành viên trong doanh nghiệp với
nhau, đồng thời là tiêu chuẩn chung đế đánh giá mỗi thành viên. Việc tuyển dụng, đào
tạo và phát triến nguồn nhân lực phải dựa trên các giá trị chung và sứ mệnh chung của
doanh nghiệp.
9
Triết lý quản lý là định hướng cơ bản có tính sống còn, gắn liền với sứ mệnh của
tố chức trong hoạt động của con người để đạt đến mục tiêu đã xác định. Triết lý quản lý
phản ánh thái độ, mong đợi mà tổ chức biểu thị đối với quan hệ nhóm có liên quan, trở
thành cơ sở rộng lớn cho việc giải quyết các vấn đề của tổ chức. Triết lý quản lý là phần
cốt lõi trong hệ giá trị , nó dẫn đến bộ tiêu chuân chung điều chỉnh hành vi của con
người trong quá trình quản lý. Từ triết lý quản lý các công tác tố chức, các chức năng
của quản lý phải được triển khai một cách đồng bộ, hướng theo triết lý đã xác định. Đây
thường là triết lý do những người sáng lập ra doanh nghiệp đưa ra để đạt được mục tiêu
của mình. Triết lý kinh doanh là một dạng cụ thể của triết lý quản lý. Thông qua những

hệ giá trị, tư tưởng cốt lõi, phương châm hoạt động của mình việc hình thành triết lý
kinh doanh cũng không ngoài mục đích vận hành tổ chức một cách hiệu quả và đem đến
những giá trị cho con người.
Việc hình thành và phát triển triết lý kinh doanh là một trong những vấn đề quan
trọng trong quá trình vận hành doanh nghiệp. Ví dụ: Đối với những quốc gia phát triến
như Nhật Bản, triết lý kinh doanh có vai trò như sứ mệnh kinh doanh; là hình ảnh của
doanh nghiệp trong ngành và trong xã hội; là mục tiêu định hướng cho một thời kỳ phát
triển dài. Mặt khác, các doanh nghiệp Nhật Bản coi triết lý kinh doanh như một yếu tố
cấu thành thương hiệu khi mà họ sớm ý thức được rằng, kinh doanh sẽ được xã hội hoá
với mức độ ngày càng gia tăng.
Dù là bất cứ loại triết lý nào đã được đề cập ở trên, người lãnh đạo muốn tạo nên
nó rất cần phải có sự hiểu biết về các yếu tố hình thành, có tham vọng biến nó thành sự
thật, xuất phát từ chính hoàn cảnh thực tế đế tạo nên những giá trị cần thiết
1.2.5. Vai trò của triết lý kỉnh doanh trong việc hình thành văn hóa và đạo đức
quản lý của doanh nghiệp
10
Triết lý kỉnh doanh là cồng cụ định hướng và cơ sở đế quản lý chiến lược của
doanh nghiệp
Triết lý kinh doanh là một lực lượng hướng dẫn, tạo sức mạnh to lớn cho thành
công của doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh có vai trò:
Thiết lập một tiếng nói chung hoặc môi trường của doanh nghiệp. Đảm bảo nhất
trí về mục đích trong doanh nghiệp. Định rõ mục đích của doanh nghiệp và chuyến dịch
các mục đích này thành các mục tiêu cụ thế.
Nội dung của triết lý kinh doanh là điều kiện hết sức cần thiết thiết lập các mục
tiêu và soạn thảo các chiến lược một cách hiệu quả. Một kế hoạch mang tính chiến lược
bắt đầu với việc xác định một triết lý kinh doanh một cách rõ ràng. Triết lý kinh doanh
được xem là bước chuẩn bị đầu tiên trong quản lý của doanh nghiệp mà cụ thế là quản lý
chiến lược.
Triết lý kinh doanh là cơ sở hoặc tiêu chuẩn đế phân phối nguồn lực của tổ chức.
Sứ mệnh hay mục đích của doanh nghiệp là một môi trường bên trong có ảnh hưởng đến

các bộ phận chuyên môn như sản xuất, kinh doanh, quản trị nhân sự. Một bộ phận
chuyên môn phải dựa vào mục đích hay sứ mệnh của công ty để viết ra mục tiêu của bộ
phận mình.
Đối với tầng lớp cán bộ quản trị, triết lý kinh doanh là một văn bản pháp lý và cơ
sở văn hoá đế họ có thế đưa ra các quyết định quản lý quan trọng, có tính chiến lược.
Theo Peters & Waterman, nhờ có sự định hướng của triết lý kinh doanh mà những nhà
quản lý có được “chìa khoá vàng” mở cánh cửa thành công.
Triết lý kinh doanh là một công cụ đế giảo dục, phát triển nguồn nhân lực và tạo
ra một phong cách làm việc đặc thù của doanh nghiệp
Triết lý kinh doanh cung cấp các giá trị, chuẩn mực hành vi nhằm tạo nên một
phong cách làm việc , sinh hoạt chung của doanh nghiệp, đậm đà văn hoá của tổ chức
11
đó.
Với việc vạch ra lý tuởng và mục tiêu kinh doanh thế hiện ở phần sứ mệnh,
triết lý kinh doanh giáo dục cho công nhân viên chức đầy đủ về lý tưởng, về công việc
trong một môi trường văn hoá tốt, nhân viên sẽ tự giác phấn đấu vươn lên.
Do triết ký kinh doanh đề ra một hệ giá trị đạo đức chuẩn làm căn cứ đánh giá
mọi hành vi của các cá nhân trong tổ chức nên nó có vai trò trong việc điều chỉnh hành
vi của nhân viên trong việc xác định bổn phận, nghĩa vụ của mỗi nhân viên đối với
tương lai của sự phát triển của tổ chức.
Như vậy, vai trò của triết lý kinh doanh với doanh nghiệp có thế so sánh với bất
kì nguồn lực nào khác trong tổ chức.Nhận xét về tầm quan trọng của triết lý kinh doanh
Uwayaki: “5z mật của các doanh nghiệp trong cuốn “chưa hề thất bại” viết: “Nguồn tài
sản trong kỉnh doanh của doanh nghiệp, hiếu theo nghĩa rộng, ngoài người, tiền của hay
vật tư hàng hoả, còn bao gồm những nguồn tài sản mắt thường không nhìn thấy được
nhưng lại cỏ tác dụng vô cùng to lớn. Bộ phận quan trọng nhất của nguồn tài sản vô
hình đỏ là triết lý kinh doanh và phong thải kỉnh doanh là cốt lỗi của phong thải doanh
nghiệp
CHƯƠNG 2: TRIẾT LÝ KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
THỜI KỲ HỘI NHẬP

2.1. Đặc điếm tình hình kinh tế, xã hội thời kỳ hội nhập
Cơ sở lỷ luận cho sự đoi mới về thế chế nền kỉnh tế
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12 -1986) đã khẳng
định phải xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp và chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng XHCN. Những năm tiếp sau đó, tư tưởng này được cụ thế
hóa bằng nhiều chính sách và văn bản pháp.luật. Cơ chế thị trường đang từng bước được
12
hoàn thiện để tạo ra những cơ hội bình đắng trong kinh
doanh cho tất cả mọi thành phần kinh tế, cho mọi người đều có thế có điều kiện làm giàu
cho bản thân và xã hội.
Nghị quyết của Đại hội lần VI là cơ sở lý luận cho sự đổi mới về thể chế và được
cụ thế hóa bằng nhiều chính sách, văn bản pháp luật trong những năm tiếp theo.
Tháng 11 - 1987, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định 217/HĐBT về
việc mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước. Năm 1998,
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã chính thức thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ
bản ở nông thôn, có quyền tự chủ kinh doanh toàn diện. Tháng 1 - 1998, Quốc hội đã
thông qua luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Những thay đối về pháp luật và chính sách trên đã từng bước tạo ra nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta. Có thể xem tháng 3 - 1989 là thời
điếm Việt Nam thực sự đi vào quá trình chuyến biến sang kinh tế thị trường bởi vì:
- Thứ nhất, tới thời gian đó, Chính phủ đã đổi mới thành công trong chính sách
tài chính - tiền tệ, kiểm soát được lạm phát.
- Thứ hai, Nhà nước đã có những giải pháp đa dạng hóa thành phần kinh tế, xóa
bỏ chế độ độc quyền kinh doanh của Nhà nước, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh.
- Thứ ba, thực hiện một bước tự do hóa thương mại, Chính phủ đã xóa bỏ các
trạm kiếm soát “ngăn sông cấm chợ” và nới lỏng xuất nhập khẩu.
Từ năm 1990 đến nay, xu hướng chuyến sang nền kinh tế thị trường cả về
chiều rộng và chiều sâu. Đặc biệt có hai sự kiện lớn trong những năm 2000 đã thúc
đẩy hoạt động kinh doanh của Việt Nam thực sự phát triến nhảy vọt đó là sự ra đời
13

14
của Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư sửa đổi; sự kiện Việt Nam gia nhập tố chức
Thương mại thế giới (WTO).
Tình hình kỉnh tế, xã hội nước ta thời kỳ hội nhập
Kinh tế phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế chuyến dịch theo hướng tiến bộ, thu
nhập bình quân của người lao động ngày càng cao, đời sống kinh tế và xã hội của nhân
dân có sự cải thiện rõ rệt.
Song, cũng do tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế nên
nhiều vấn đề xã hội mới nảy sinh và ngày càng phức tạp. Tình trạng phân hóa giàu
nghèo, sự bất bình đẳng trong thu nhập ngày càng lớn, là những mầm mong cho những
bat on định xã hội. Quá trình chuyến dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến hàng triệu lao động
nông nghiệp bị mất đất, di chuyến từ nông thôn ra thành thị tìm kiếm việc làm và phải
chấp nhận cuộc sống bấp bênh, đầy rủi ro. Nguy cơ thất nghiệp, bệnh tật, ốm đau đang
đe dọa một bộ phận lao động, nhất là lao động phố thông, trong hoàn cảnh khủng hoảng
kinh tế đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, đói nghèo được thu hẹp nhưng tái nghèo vẫn
là nguy cơ đối với hàng chục triệu người. Hậu quả của tình trạng xã hội trên đã và đang
cản trở sự phát triển kinh tế- xã hội đất nước, ngăn trở mục tiêu xây dựng một xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ và văn minh.
Thời cơ và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập
Hội nhập kinh tế quốc tế là thách thức với mọi nền kinh tế, kế cả các nền kinh tế
có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam. Thách thức ngày càng khắc nghiệt hơn khi
nước ta là một nước đang phát triến đồng thời là nền kinh tế chuyến đổi. Hội nhập kinh
tế quốc tế đã tạo cho Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng những
cơ hội và thách thức mới.
Trước hết, Hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO đã tạo cho Việt Nam có cơ
hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phấm do tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn, hàng
15
hóa thâm nhập thị trường này cũng không gặp bất kỳ trở ngại nào. Việt Nam được đối
xử tối huệ quốc vô điều kiện, thuế thu nhập vào các nước thành viên sẽ giảm đáng kể.
Việt Nam sẽ tiếp nhận và tiếp cận được nguồn nhân lực, vật lực lớn từ những nước phát

triến là thành viên của WTO. Việt Nam sẽ bình đắng với các nước thành viên của WTO,
Việt Nam sẽ nâng cao vị thế trong các mối quan hệ kinh tế, trong việc biếu hiện những
vấn đề liên quan đến WTO đặc biệt trong việc giải quyết những tranh chấp trong kinh
doanh thương mại quốc tế. Ngoài ra, khi nước ta hội nhập kinh tế quốc tế thì hàng hóa
các nước sẽ xâm nhập thị trường trong nước, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành nâng cao sức cạnh tranh nhằm tồn
tại và phát triển.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam cũng phải đối mặt với những
thách thức lớn là cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn, cạnh tranh không chỉ giữa các doanh
nghiệp trong nước mà còn với các doanh nghiệp nước ngoài đế xuất khẩu hàng hóa và
dich vụ. Trong khi đó khả năng cạnh tranh cả các doanh nghiệp nước ta chưa cao.
Doanh nghiệp yếu về tiềm lực kinh tế cũng như thương hiệu không có khả năng cạnh
tranh sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Điều này gây sức ép không nhỏ đối với nhiều doanh
nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước, những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính
và con người yếu kém. Hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới
các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó
có cả những rủi ro về mặt xã hội. Thách thức ở đây là để ra những chính sách đúng đắn
nhằm tăng cường khả năng kiểm soát vĩ mô, nâng cao tính năng động và khả năng thích
ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội
đế khắc phục những khó khăn ngắn hạn
Trước tình hình đó những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã và đang ban hành
những chủ trương, chính sách nhằm giải quyết vấn đề xã hội nói chung và vấn đề an
sinh xã hội nói riêng. Các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiếm y tế, trợ giúp xã hội,
16
ưu đãi xã hội được Nhà nước ban hành, sửa đổi và bố sung ngày càng hoàn thiện và phù
hợp hơn với điều kiện kinh tế nước ta Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã hoàn thiện hệ
thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện
công khai minh bạch các thiết chế quản lý.
Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước nỗ lực đế hoàn thiện khuôn khố pháp
luật có liên quan đến kinh tế và thương mại, các quy định về cạnh tranh đế đảm bảo môi

trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng khi hội nhập. Các bộ, ngành đã tập trung rà
soát và góp ý sửa đối các quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực điện ảnh, viễn thông, an
toàn thực phẩm cho phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam đồng thời kiến nghị
ban hành hàng loạt Nghị định để thi hành những lĩnh vực trên. Bộ tài chính đã ban hành
danh mục sửa đối thuế xuất khẩu, danh mục sửa đối biếu thuế nhập khẩu ưu đãi để thực
hiện đúng cam kết về cắt giảm thuế theo biếu cam kết đối với WTO cho bước cắt giảm
của năm 2009 Ngoài những chính sách trên thì Đảng và nhà nước còn ban hành rất
nhiều chính sách về kinh tế- xã hội, đang tiếp tục bố sung, sửa đối và hoàn thiện hệ
thống chính sách nhằm thúc đấy sự phát triển bền vững của quốc gia trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Đánh giá chung về việc hình thành và phát trỉến triết lý kỉnh doanh của các
doanh nghỉệpVỉệt nam thời kỳ hội nhập
Những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã có cố gắng nhất định trong
việc xây dựng triết lý để định hướng cho hoạt động kinh doanh cũng là thể hiện văn hóa
kinh doanh và đạo đức kinh doanh của mình. Các doanh nghiệp ở các khu vực kinh tế
khác nhau đã xây dựng nên những triết lý kinh doanh khác nhau và mỗi triết lý kinh
doanh ấy đã thế hiện bản sắc riêng của mỗi doanh nghiệp.
Ví dụ về triết lý kinh doanh của “Cà phê Trung Nguyên” và “Viettel”.
17
• Triết lý kinh doanh của Vietel:
“ Vỉetel caring innovator” thông qua đó Vietel muốn nhấn mạnh triết lý của mình
cho toàn bộ các nhân viên của mình và những người quản lý coi trọng, đó là: Tinh than
Caring - quan tâm, chăm sóc, hướng nội và Innovators - sáng tạo, hiện đại, đột phá mang
hơi thở kĩ thuật.
• Triết lý kinh doanh của Café Trung Nguyên:
“Tạo dựng thương hiệu hàng đầu qua việc mang lại cho người thưởng thức cà
phê nguồn cảm hứng sảng tạo và niềm tự hào trong phong cách Trung Nguyên đầm đà
văn hóa Việt”.
Tuy nhiên, nhìn chung triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam vần là
hiện tượng mới mẻ, chưa có sự thống nhất trong nhìn nhận và đánh giá.

2.2. Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước:
Vị trí của các doanh nghiệp Nhà nước: Bộ phận doanh nghiệp Nhà nước từ trước
đến nay vẫn được xem là thành phần kinh tế chủ đạo của nền kinh tế nước ta.
Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp’. Hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp còn ở mức thấp so với các nguồn lực của nó. số lượng các doanh nghiệp Nhà
nước có quy mô nhỏ, phấn tán nhưng với số doanh nghiệp nhiều nên số tài sản trong khu
vực kinh tế khá lớn.
Quả trình hình thành và phát trỉên của Triết lý kỉnh doanh: Đại đa số các doanh
nghiệp Nhà nước hiện nay chưa có triết lý kinh doanh bến vững, được trình bày rõ ràng
với đầy đủ chức năng, giá trị của nó. Nhà nước chưa đặt vấn đề cần xây dựng một triết
lý kinh doanh chung cũng như các triết lý kinh doanh phù họp với đặc thù mỗi doanh
nghiệp.
Các doanh nghiệp vẫn chủ yếu nhấn mạnh vào các yếu tố lượng của kinh doanh
thế hiện trong các chỉ tiêu cụ thế như: doanh số, lợi nhuận, nộp ngân sách, thuế mà
18
chưa chú ý tới các hệ giá trị của doanh nghiệp, điều này chứng tỏ chưa có sự chú trọng
đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Trên thực tế, các điều kiện như thực tiễn kinh doanh và sự kế thừa về lý tưởng,
kinh nghiệm và triết lý ở các doanh nghiệp Nhà nước ở ta còn yếu ớt, thời hạn, quyền
hạn, chức năng của người lãnh đạo doanh nghiệp Nhà nước chưa rõ ràng và ổn định.
Như chúng ta đã biết, muốn có một bản triết lý kỉnh doanh giả trị, thường người lãnh
đạo doanh nghiệp cần có khoảng 10, 20 năm lăn lộn trong kinh doanh và quản lý kỉnh
doanh và giữa họ và người kế nhiệm phải cỏ sự kế thừa về lý tưởng, kỉnh nghiệm và
triết lý. Cả hai điều kiện trên ở nước ta còn yếu.
Công tác cán bộ trong các doanh nghiệp Nhà nước còn thiếu những quy chế khoa
học, còn nhiều định kiến phiến diện. Chúng ta thường ngại sử dụng và đề bạt những cán
bộ dám làm, dám nói. Tuyệt đại đa số các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay đều không
có triết lý kinh doanh được trình bày rõ ràng với đầy đủ chức năng, giá trị của nó.
Mặt khác, những triết lý chung, giáo điều đúng nhưng khó thực thi, “vô thưởng,
vô phạt” cũng được các nhà quản lý kinh doanh trong khu vực Nhà nước tuyên truyền

thay thế cho các giá trị của các triết lý kinh doanh đích thực. Có thể kể ra một số triết lý
kinh doanh như: “Vì nhân dân phục vụ”; “chúng ta phải biết hi sinh cho lợi ích tập thể”;
“kinh tế phải phục tùng chính trị”. Đây là những triết lý rất chung chung, khó thực hiện,
khó đo lường hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh.
Rõ ràng, vấn đề vai trò, tác dụng của các triết lý kinh doanh trong các doanh
nghiệp Nhà nước có liên quan mật thiết tới công tác quản lý và công tác cán bộ.
Tuy nhiên, trong tình hình đó đến nay đã có một số doanh nghiệp Nhà nước đã
đưa ra triết lý kinh doanh của mình trong quá trình phát triến công ty, ví dụ như Xí
nghiệp Thương mại Mặt đất Nội Bài (NIAGS) thuộc Tổng Công ty hàng không Việt
Nam (Vietnam Arlines).
19
Triết lý kinh doanh của Xí nghiệp Thương mại Mặt đất Nội Bài (NIAGS) thuộc
Tống Công ty hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines ):
> Nhận thức rằng một danh tiếng bền vững về cách ứng xử văn hóa tự nó là một tài
sản vô giá của doanh nghiệp, toàn thế cán bộ, công nhân viên Xí nghiệp thương mại Mặt
đất Nội Bài luôn hướng tới xây dựng đơn vị mình thành một cộng đồng những con
người có văn hóa.
> Thông qua công việc mỗi ngày, chúng ta phấn đấu không ngừng nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh, nâng cao lợi ích vật chất - điều kiện để xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc cho từng cá nhân, cho từng gia đình và cho toàn xí nghiệp.
> Chúng ta cam kết cung cấp cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ chất lượng
ốn định và không ngừng được nâng cao bằng việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 vì không có khách hàng chúng ta không có lí do để tồn
tại. Chúng ta làm cho khách hàng thấy họ đang được phục vụ bởi đội ngũ những nhân
viên lành nghề ,đáng tin cậy và hết mình. Đồng thời chúng ta thấu hiểu rằng giá trị của
sản phẩm, dịch vụ không chỉ giới hạn ở chính bản thân chúng ta mà còn ở cách thức
chúng ta cung cấp chúng cho khách hàng. Do vậy việc tuân thủ nghiêm khắc các quy
trình, hướng dẫn công việc chúng ta còn quan tâm đến những chuẩn mực, hành vi, quy
tắc ứng xử trong quá trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ trong quá trình chúng ta sống và làm
việc bên nhau. Chính những chuẩn mực này tạo nên bản sắc riêng của NIAGS chúng ta.

> Chúng ta tạo ra và duy trì một môi truờng đế mỗi thành viên đều cảm thấy đuợc
tin yêu và quý trọng nhu những tài sản quý giá nhất, tự hào khi đứng trong đội ngũ
NIAGS và sẵn sàng thế hiện đầy đủ những khả năng và phẩm chất cao quý của mình;
một môi trường mà sự đóng góp của bất kì thành viên nào vào thành công của NIAGS
đều được thưởng xứng đáng và ngược lại, những hành vi ứng xử trái với văn hóa
N1AGS, làm ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ, tổn hại lợi ích của khách hàng đều phải
bị lên án và không còn chỗ đứng ở NIAGS.
20
> Chúng ta phấn đấu xây dựng một NIAGS mà hình ảnh của nó trong khách hàng
không chỉ là một sản phẩm, dịch vụ hoàn hảo mà còn là sự liên tưởng ngay đến một
cộng đồng, một tập thể những con người sôi nổi, đoàn kết gắn bó, tương thân tương ái.
Có thể thấy triết lý kinh doanh của công ty đã nói lên ý nghĩa tồn tại của công ty
và cũng chính là nét văn hóa tố chức của công ty đó. Luôn hướng tới khách hàng, đáp
ứng những nhu cầu của khách hàng ở mọi lúc, mọi nơi là sứ mệnh cũng như mục đích
tồn tại của công ty. vấn đề con người được quan tâm từ bên trong nội bộ công ty đến
khách hàng cho thấy giá trị nhân văn của NIAGS cũng là một phần trong đạo đức quản
lý của doanh nghiệp.
2.3. Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài:
Phát huy vai trò của triết ỉý kinh doanh trong quản lý doanh nghỉêp
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là khu vực kinh tế phát
huy vai trò của triết lý kinh doanh tốt nhất ở nước ta hiện nay. Hầu hết các công ty nước
ngoài thành đạt, đặc biệt là các công ty Mỹ và Nhật Bản đều mang vào Việt Nam và sử
dụng triết lý kinh doanh của họ như là một công cụ quản lý chiến lược, như là hạt nhân
của văn hóa doanh nghiệp và là phương tiện giáo dục tất cả các thành viên trong công ty.
Khác với các doanh nghiệp Nhà nước, nơi triết lý kinh doanh nặng về tính hình thức
hoặc chỉ có vai trò phụ trợ, phần lớn các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam đều coi
triết lý kinh doanh như một yếu tố trong sức mạnh quản lý của mình.
Ví dụ: Với các triết lý như “khách hàng là thượng đế”; “khách hàng luôn luôn
đúng”; “tinh thần tranh đua”; “sản phẩm chất lượng là niềm kiêu hãnh” đã góp phần
làm cho doanh nghiệp đứng vững và phát triến mạnh trên thị trường. Các doanh nghiệp

liên doanh với Nhật thì có riêng triết lý của mình. Đó là các triết lý đề cao tinh thần cộng
đồng và họ đã phát huy được hết nỗ lực, tận dụng được các thế mạnh tại thị trường của
Việt Nam. Ví dụ triết lý “tôn trọng cá nhân” tạo nên môi trường bình đẳng của công ty
Sony tại Việt Nam.
21
Triết lý kỉnh doanh của một số doanh nghiệp
• Tập đoàn “Castrol Việt Nam” áp dụng triết lý “tạo ra một nhu cầu tiêu dùng thực
sự và đáp ứng các nhu cầu đỏ với mức cao nhâf\ Bắt đầu vào kinh doanh ở Việt Nam từ
tháng 1 - 1992, do SaigonPetro góp vốn 40% và Castrol Limited 60%, những ngày mới
thành lập công ty mới chỉ có 5 người trong đó có 3 người nước ngoài, đến tháng 4 -
1998 lên tới 165 người, chỉ còn một người nước ngoài và nâng tổng số đầu tư lên 12
triệu USD, gấp 2 lần so với vốn đầu tư ban đầu.
• Tập đoàn Canon với triết lý “Kyosei” Canon định nghĩa Kyosei là: “Tất cả mọi
người, không kế chủng tộc, tôn giáo hay nền văn hoá, sống hoà thuận và làm việc cùng
nhau cho tương lai”. Triết lý này đã xuyên suốt tại Canon trong mọi khía cạnh trong
kinh doanh, cống hiến cho xã hội cũng như môi trường.
• Triết lý của Samsung: Tại Samsung, chúng tôi thực hiện một triết lý kinh doanh
đơn giản: cống hiến tài năng và công nghệ nhằm tạo ra các sản phẩm và dịch vụ siêu
việt, bằng cách đó đóng góp cho một xã hội toàn cầu tốt đẹp hơn.
Mỗi ngày, chúng tôi mang triết lý này áp dụng vào cuộc sống. Các nhà lãnh đạo
tích cực tìm kiếm những tài năng sáng giá nhất trên khắp thế giới, và cung cấp cho họ
những nguồn lực cần thiết đế thực hiện hết khả năng của mình. Ket quả là tất cả các sản
phẩm của chúng tôi - từ các chip nhớ giúp cho doanh nghiệp lưu trữ thông tin quan trọng
đến những chiếc điện thoại di động kết nối mọi người trên khắp các châu lục - khiến
cuộc sống trở nên phong phú hơn. Và đó chính là điều giúp tạo ra một xã hội toàn cầu
tốt đẹp hơn.
• Ngoài ra, chúng ta cũng cần kế đến một doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước
ngoài khi đi vào hoạt động tại Việt Nam đã thế hiện rất tốt triết lý kinh doanh đó là
Unilever. Cụ thế triết lý kinh doanh của Tập đoàn Ưnilever như sau:
Tôn chỉ của Tập đoàn Unilever: “Tôn chỉ của Tập đoàn ưnilever chủng ta ỉà thỏa

mãn các nhu cầu hàng ngày cảu con người ở mọi nơi, nắm bắt được nguyện vọng đỏ
22
một cách sảng tạo và hiệu quả thông qua các dịch vụ và nhãn hàng danh tiếng nhằm
nâng cao chất lượng của cuộc song
• Tầm nhìn của Unilever Việt Nam:
> Gốc rễ sâu của chúng tôi trong văn hóa bản địa và các thị trường trên toàn thế
giới là sự kế thừa không thể sánh kịp của chúng tôi và nền tảng cho sự phát triển trong
tương lai của chúng tôi.
> Chúng tôi sẽ mang kiến thức và kinh nghiệm quốc tế của mình để phục vụ
những người tiêu dùng trong nước - thực sự là một công ty đa quốc gia đa nội địa ( a
truly multilocal mutilnational).
> Thành công dài hạn của chúng tôi cần phải có sự cam kết toàn bộ cho các
chuẩn mực đặc biệt về kết quả hoạt động và năng suất, về cùng nhau làm việc một cách
hiệu quả và về mong muốn nắm lấy những ý tưởng mới và liên tục học hỏi.
> Chúng tôi tin rằng đế thành công cần phải có các chuẩn mực cao hành vi của
doanh nghiệp đối với nhân viên, người tiêu dùng, xã hội và thế giới mà chúng ta đang
sống.
> Đây là con đường mà Unilever đế đi đến phát triển bền vững, sinh lợi cho hoạt
động kinh doanh của chủng tôi và tạo ra giả trị dài hạn cho các co đông và nhân viên
của mình.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ một nhà kinh doanh nước ngoài nào cũng thực hiện
tại Việt Nam một triết lý kinh doanh và quản lý tích cực. Những người chỉ coi Việt Nam
như một thị trường mới lên, có thể tranh thủ kiếm chác và làm giàu thì không thể có và
trung thành với một triết lý kinh doanh tích cực. Những nhà kinh doanh có ý định làm ăn
lâu dài tại Việt Nam sẽ gặp một ưở ngại chung là sự khác biệt về văn hóa. Vì vậy, triết
lý kinh doanh của họ, trong trường hợp tích cực cũng khó có khả năng và điều kiện phát
23
huy vai trò của nó ra khỏi phạm vi một doanh nghiệp.
2.4. Trỉết lý kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH, các
công ty cồ phần:

Điều kiện hình thành và phát triến triết lý kỉnh doanh
Các doanh nghiệp tư nhân có điều kiện thuận lợi hơn các doanh nghiệp Nhà nước
trong việc phát huy tác dụng của triết lý kinh doanh. Cụ thế:
• Ớ khu vực nhà nước thường phải chịu sự chỉ đạo rất khắt khe từ cấp trên nhưng
hiệu quả làm việc lại không đáng kể. Trong khi đó, ở khu vực tư nhân, do không
phải chịu sự cai quản và sức ép của nhiều cấp trên, những người lãnh đạo doanh
nghiệp tư nhân dễ dàng hơn so với đồng nghiệp của
họ. Hơn nữa, ở các doanh nghiệp tư nhân, do họ tự trang trải kinh phí và nguồn
vốn hoạt động nên quá trình hoạt động của họ được thực hiện gắt gao và quy củ
hơn rất nhiều so với tình trạng “của chùa”, “cha chung không ai khóc” như các
doanh nghiệp nhà nước. Vì nếu hoạt động có hiệu quả thì mới có thể mang lại đc
nguồn lợi nhuận cao phục vụ cho các hoạt động của mình. Đó là lý do truớc hết
mà các doanh nghiệp chú trọng phát triển triết lý kinh doanh trong hoạt động của
mình hơn doanh nghiệp nhà nước.
Cũng xuất phát từ việc nâng cao doanh thu và lợi nhuận. Các doanh nghiệp tư
nhân trong sự ảnh hưởng của quá trình kinh tế thị trường, họ ngày càng có xu
hướng đi theo tác phong công nghiệp hóa, làm theo năng lực hưởng theo lao
động, làm nhiều hưởng nhiều làm ít hưởng ít. Nguồn nhân lực thì có trách nhiệm
hơn với công việc so với bộ phận doanh nghiệp nhà nước Do vậy, đây là những
điều kiện không thế thiếu để triết lý kinh doanh hình thành và đạt hiệu quả một
cách cao nhất.
Trong các doanh nghiệp tư nhân, do không có sự chỉ đạo từ trên xuống như các
doanh nghiệp nhà nước, không có chuyện sẽ có một nơi tìm nguồn đầu tư và
mang đến cho bạn làm nên hầu như việc tìm kiếm đối tác hay công việc đều phải
tự xoay xở. Vì vậy, việc “lăn lộn” trong thương trường đã đế lại cho các doanh
nghiệp tư nhân nhiều kinh nghiệm kinh doanh hơn. Từ đó diễn ra quá trình các
nhà lãnh đạo tổng kết các kinh nghiệm kinh doanh đúc rút thành triết lý và truyền
bá, giáo dục cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp
Triết lý kỉnh doanh của một số doanh nghiệp
“Chữ tín là vàng” là triết lý kinh doanh của doanh nghiệp vàng Bảo Tín. Bảo Tín

là một doanh nghiệp tư nhân được hình thành từ nhiều năm nay
nhưng chất lượng sản phẩm và sức ảnh hưởng vẫn còn rất lớn trong khi có
25
24

×