Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

tác động của cam kết gỡ bỏ hàng rào thuế quan của hiệp định tpp tới nông nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
o0o

Công trình tham dự Cuộc thi
Sinh viên nghiên cứu khoa học Trường Đại học Ngoại thương 2014


Tên công trình:
TÁC ĐỘNG CỦA CAM KẾT DỠ BỎ HÀNG RÀO THUẾ QUAN CỦA HIỆP
ĐỊNH TPP
ĐẾN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM



Nhóm ngành: KD2





Hà Nội, tháng 5 năm 2014
2

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH TPP VÀ NHỮNG NỘI DUNG
ĐÀM PHÁN LIÊN QUAN ĐẾN NÔNG NGHIỆP 3
1.1 Hiệp định TPP 3
1.1.1 Quá trình hình thành 3
1.1.2 Quá trình đàm phán 6


1.2. Các nội dung đàm phán liên quan đến nông nghiệp 14
1.2.1. Tiếp cận thị trường 14
1.2.2. Cạnh tranh trong nông nghiệp 16
1.2.3. Quyền sở hữu trí tuệ 17
1.2.4. Lao động 17
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỘI NHẬP CỦA NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VỚI
11 NƯỚC THÀNH VIÊN TPP VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG SAU KHI CAM KẾT
XÓA BỎ THUẾ CỦA TPP CÓ HIỆU LỰC 19
2.1. Thực trạng hội nhập của ngành nông nghiệp Việt Nam với 11 nước thành
viên TPP từ năm 2007 19
2.1.1. Thực trạng về chính sách thuế quan đối với xuất nhập khẩu nông sản từ
khi Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007 19
2.1.2. Thực trạng xuất nhập khẩu nông sản với 11 nước TPP của Việt Nam từ
năm 2007 24
2.2. Tác động của cam kết dỡ bỏ hàng rào thuế quan theo TPP tới xuất nhập
khẩu nông sản của Việt Nam 34
2.2.1. Áp dụng mô hình GTAP dự báo tác động 34
2.2.2. Các tác động của cam kết gỡ bỏ hàng rào thuế quan theo hiệp định TPP
tới xuất nhập khẩu nông sản của Việt Nam 42
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ĐÀM PHÁN VÀ HỘI NHẬP NÔNG
NGHIỆP VIỆT NAM SAU KHI TPP CÓ HIỆU LỰC 49
3.1. Mục tiêu và quan điểm hội nhập của nông nghiệp Việt Nam khi tham gia
TPP 49
3.1.1. Mục tiêu thúc đẩy thương mại quốc tế 49
3

3.1.2. Tạo động lực thúc đẩy năng lực cạnh tranh 50
3.1.3. Củng cố quan hệ vs một số nước đối tác lớn 51
3.2. Đề xuất giải pháp đàm phán và hội nhập nông nghiệp Việt Nam 51
3.2.1. Về phía chính phủ: 51

3.2.2. Về phía doanh nghiệp 56
KẾT LUẬN 61
4

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
STT
Tên
Trang
Bảng 2.1
Cơ cấu cam kết về thuế đối với hàng nông sản của Việt
Nam
21
Bảng 2.2
Biểu CLX - Phần I – Danh mục các nhượng bộ và cam
kết về hàng hoá - Thuế suất tối huệ quốc hàng nông sản
22
Bảng 2.3

Tình hình xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam sang các
nước TPP từ 2007 đến 2011
26
Bảng 2.4
Tình hình xuất khẩu hạt điều của Việt Nam sang các
nước TPP từ 2007 đến 2011
27
Bảng 2.5
Tình hình xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sang các
nước TPP từ 2007 đến 2011
27
Bảng 2.6

Tình hình xuất khẩu cao su của Việt Nam sang các
nước TPP từ 2007 đến 2011
28
Bảng 2.7
Tình hình xuất khẩu rau, hoa quả của Việt Nam sang
các nước TPP từ 2007 đến 2011
28
Bảng 2.8
Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang các
nước TPP từ 2007 đến 2011
29
Bảng 2.9

Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang các
nước TPP từ 2007 đến 2011
30
Bảng 2.10
Tình hình nhập khẩu lúa mì của Việt Nam từ một số
nước TPP từ 2007 đến 2011
31
Bảng 2.11
Tình hình nhập khẩu thức ăn gia súc của Việt Nam từ
các nước TPP từ 2007 đến 2011
31
Bảng 2.12
Tình hình nhập khẩu bông xơ của Việt Nam từ các
nước TPP từ 2007 đến 2011
32
Bảng 2.13
Tình hình nhập khẩu sữa của Việt Nam từ các nước

32
5


TPP từ 2007 đến 2011
Bảng 2.14
Thay đổi giá trị xuất khẩu của Việt Nam với các nước
theo giả thiết 1
39
Bảng 2.15
Thay đổi giá trị nhập khẩu của Việt Nam với các nước
theo giả thiết 1
39
Hình 2.1
Giá trị xuất khẩu thủy sản năm 2011
30
Hình 2.2
Sự thay đổi sản lượng nông sản và lao động sau khi
TPP có hiệu lực
41
Hình 2.3
Sự thay đổi giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam
42
Hình 2.4
Sự thay đổi giá trị nhập khẩu nông sản của Việt Nam
42
Hình 2.5
Sản lượng gạo Việt Nam giai đoạn 2006 - 2011
45


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP tuy vẫn đang trong quá trình đàm
phán nhưng đã được kì vọng sẽ đưa ra một khuôn khổ thương mại toàn diện, một
hiệp định thương mại tự do của Thế kỷ XXI. So với các hiệp định thương mại của
thế kỷ XX, tiêu biểu như trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, các
nội dung đàm phán của TPP có phạm vi rộng hơn nhiều. Nếu như nội dung của
GATT - Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch, sau này là Tổ chức WTO chỉ
bao hàm thương mại, hàng hóa, dịch vụ, các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ và
đầu tư thì Hiệp định TPP còn mở rộng sang cả những vấn đề phi thương mại như
vấn đề lao động, môi trường, mua sắm chính phủ, vấn đề doanh nghiệp nhà nước…
Ngoài ra, mức độ tự do trong cam kết thương mại cũng cao hơn so với các hiệp
định thương mại trước đây. Tại Hiệp định TPP, nội dung đàm phán không chỉ là cắt
giảm thuế và hàng rào phi thuế mà tiến tới không còn rào cản đáng kể về thuế quan,
phi thuế quan, các điều kiện gia nhập, hoạt động trên thị trường cho hàng hóa, dịch
vụ giữa các nước thành viên. Tuy mới bắt đầu đàm phán vào năm 2010, Hiệp định
TPP đã thu hút sự tham gia của những nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Australia, trở thành khu vực kinh tế hơn 790 triệu dân, chiếm 40% GDP và 1/3
thương mại toàn cầu.
Trong khuôn khổ Hiệp định TPP, nhiều nội dung đàm phán có liên quan đến ngành
nông nghiệp, trong đó có vấn đề thuế quan đối với sản phẩm nông nghiệp. Cam kết
về thuế quan là một trong những nội dung chủ đạo, được xác định làm cam kết nền
của Hiệp định: Cắt giảm hầu hết các dòng thuế (ít nhất 90%) giữa các nước thành
viên TPP. Cam kết này được dự báo có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mặt
hàng xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam là nông sản. Năm 2012, Việt Nam xuất khẩu
hơn 8 triệu tấn lúa gạo, đứng thứ hai thế giới sau Ấn Độ. Xuất khẩu cà phê – niên
vụ 2012-2013 đạt hơn 20 triệu tấn, đứng thứ hai thế giới sau Brazil. Nhiều nước
tham gia Hiệp định TPP là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam, trong đó,


2
Mỹ - kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam 9 tháng đầu năm 2013 đạt hơn 17 tỉ đô la,
và Nhật Bản – kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam cùng thời kì đạt gần 10 tỉ đô la, là
hai nhà nhập khẩu lớn nhất. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng nhập khẩu một số mặt
hàng nông nghiệp từ các nước trong TPP, trong đó Australia là nhà xuất khẩu lúa
mỳ lớn nhất (kim ngạch 9 tháng đầu năm 2013 đạt hơn 300 triệu USD), Hoa Kỳ là
nhà xuất khẩu sữa và các sản phẩm từ sữa lớn nhất ( kim ngạch 9 tháng đầu năm
146 triệu USD).
Trong bối cảnh đó, việc Hiệp định TPP chính thức có hiệu lực chắc chắn sẽ có tác
động to lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam.
Tuy nhiên, những tác động sẽ là tích cực hay tiêu cực đối với ngành nông nghiệp
Việt Nam? Đó hiện vẫn là một câu hỏi cần được giải đáp. Chính vì vậy, nhóm tác
giả quyết định chọn đề tài “Tác động của cam kết gỡ bỏ hàng rào thuế quan của
Hiệp định TPP tới nông nghiệp Việt Nam” làm công trình nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu Hiệp định TPP và những nội dung đàm phán liên quan đến nông
nghiệp, đặc biệt là nội dung tiếp cận thị trường, hàng rào thuế quan.
- Phân tích thực trạng hội nhập của nông nghiệp Việt Nam với 11 nước thành
viên còn lại của TPP.
- Dự báo tác động của cam kết dỡ bỏ hàng rào thuế quan trong TPP đến ngành
nông nghiệp Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Hiệp định TPP với các nội dung liên quan tới
thuế quan áp dụng với sản phẩm nông nghiệp (mã HS từ 1 đến 24) và ngành nông
nghiệp Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu được xác định trong khoảng thời gian từ
năm 2007 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, nhóm tác giả lựa chọn phương pháp nghiên cứu
chính là phương pháp định lượng – sử dụng mô hình GTAP đánh giá tác động của


3
Hiệp định TPP tới quá trình hội nhập của nông nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, bài
nghiên cứu còn sử dụng phương pháp đối chiếu, so sánh – so sánh số liệu về thực
trạng hội nhập nông nghiệp Việt Nam qua các năm, so sánh quan hệ thương mại
giữa Việt Nam với 11 nước thành viên TPP; phương pháp so sánh luật học – so
sánh những thay đổi giữa chính sách hiện tại của Việt Nam với các cam kết của
TPP và phương pháp phân tích, tổng hợp – dựa vào kết quả định lượng để tổng hợp
những tác động của Hiệp định TPP tới nông nghiệp Việt Nam.
5. Bố cục
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục bảng biểu,
đề tài được chia thành 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về Hiệp định TPP và những nội dung đàm phán liên
quan đến nông nghiệp
Chương 2. Thực trạng hội nhập của nông nghiệp Việt Nam với 11 nước thành
viên TPP và những tác động sau khi TPP có hiệu lực
Chương 3. Đề xuất giải pháp hội nhập nông nghiệp Việt Nam sau khi TPP có
hiệu lực
Mặc dù đã hết sức cố gắng, song do hạn chế về kiến thức cũng như những khó khăn
trong thu thập tài liệu, đề tài không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Vì vậy, bài nghiên
cứu rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô để được hoàn thiện hơn.
Hà Nội ngày 1 tháng 5 năm 2014
Nhóm tác giả
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH TPP VÀ NHỮNG NỘI DUNG
ĐÀM PHÁN LIÊN QUAN ĐẾN NÔNG NGHIỆP
1.1 Hiệp định TPP
1.1.1 Quá trình hình thành
a. Bối cảnh hình thành
Đàm phán TPP hình thành trong bối cảnh hệ thống thương mại toàn cầu ở trong
tình trạng bất ổn. Sau hơn một thập kỷ tiến hành, Chương trình Nghị sự Phát triển


4
Doha (DDA) hết lần này đến lần khác không thể đạt đến thỏa thuận theo đúng tiến
độ. Sau nhiều vòng đàm phán từ năm 2001 đến năm 2008, đàm phán đã tiến đến
gần đích nhất tại Hội nghị Bộ trưởng WTO thu hẹp tại Geneva vào tháng 7 năm
2008 nhưng cuối cùng vẫn thất bại do không thể thỏa thuận được một số vấn đề
then chốt về nông nghiệp . Năm 2009, tiến trình đàm phán Doha lại gặp những trở
ngại lớn do Hoa Kỳ thay đổi bộ máy chính quyền nhà nước và không tham gia thực
chất vào tiến trình đàm phán, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu khiến nền
kinh tế chao đảo. Năm 2010, tình hình đàm phán có một số chuyển biến tích cực,
tuy nhiên mục tiêu kết thúc đàm phán cũng đã không thể thực hiện do những mâu
thuẫn lợi ích phức tạp giữa Hoa Kỳ và các nước đang phát triển chủ chốt như Trung
Quốc, Ấn Độ, Brazil.
Sự kéo dài quá lâu của đàm phán Doha khiến niềm tin vào hệ thống thương mại đa
phương bị lung lay, đồng thời xu hướng kí kết các thỏa thuận thương mại song
phương và khu vực ngày càng trở nên phổ biến trong khu vực châu Á-Thái Bình
Dương. Từ năm 2000 đến năm 2011, số lượng các hiệp định thương mại được kí
kết giữa các nền kinh tế APEC tăng từ 4 lên 39 hiệp định, mạng lưới đối tác mở
rộng từ khối các nước Đông Nam Á (ASEAN) đến Khu vực Mậu dịch Tự do Đông
Á (EAFTA) (bao gồm ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), Khuôn khổ
Hợp tác Kinh tế Toàn diện Đông Á (CEPEA) (mở rộng thêm Australia, Ấn Độ và
New Zealand).
Tuy đã có nhiều hiệp định khu vực được kí kết nhưng hầu hết mới bó hẹp trong
phạm vi nội khối APEC. Một số quốc gia châu Á đã thiết lập quan hệ đối tác với
Hoa Kỳ, các nước châu Âu và châu Mỹ Latinh nhưng chưa hề có một khuôn khổ
thương mại nào rõ ràng bao trùm quan hệ hội nhập xuyên Thái Bình Dương.
b. Quá trình hình thành
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP khởi nguồn từ Hiệp định Đối tác
kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement – còn gọi là TPP4 hay P4) một Hiệp định thương mại tự do


5
giữa 4 nước Singapore, Chile, New Zealand, Brunei được kí kết ngày 3/6/2005, có
hiệu lực từ 28/5/2006. P4 được đánh giá là một Hiệp định thương mại thuộc thế hệ
thứ Ba
1
, bao trùm phạm vi khá rộng với những cam kết tương đối mạnh về thuế
quan, thuận lợi hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ, cạnh tranh thương mại, đầu tư,
sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp thương mại.
Năm 2007, Hoa Kỳ bày tỏ ý định tham gia vào đàm phán mở rộng hiệp định này,
đặc biệt ở các lĩnh vực dịch vụ tài chính, đầu tư; đồng thời cũng bắt đầu tiến hành
nghiên cứu, tham vấn nội bộ với các nhóm lợi ích và Nghị viện về ý định gia nhập
đàm phán. Tháng 9/2008, Văn phòng đại diện thương mại Hoa Kỳ (USTR) thông
báo quyết định của Hoa Kỳ chính thức tham gia đàm phán P4 mở rộng. Từ đây, P4
bắt đầu trở thành một chủ đề nóng trong tiến trình tự do hóa thương mại quốc tế,
nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nền kinh tế trên thế giới.
Tháng 11 cùng năm, các nước Australia, Peru và Việt Nam cũng bày tỏ sự quan
tâm và tham gia đàm phán TPP, nâng tổng số thành viên tham gia lên 8 nước.
Cũng từ thời điểm này, đàm phán mở rộng P4 được đặt tên lại là đàm phán Hiệp
định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Tháng 12/2009, sau khi Hoa Kỳ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng thống và Chính quyền
mới của Tổng thống Obama tham vấn và xem xét lại việc tham gia đàm phán TPP,
USTR thông báo quyết định của ông Obama về việc Hoa Kỳ tiếp tục tham gia TPP.
Đàm phán TPP lúc này mới được chính thức khởi động. Tổng thống Barack Obama
cam kết Hoa Kỳ sẽ cùng các nước TPP hướng tới mục tiêu “hình thành một hiệp
định khu vực xứng đáng là hiệp định thương mại của Thế kỷ 21” (The Trans-
Pacific Partnership Negotiations and Issues for Congress, 2013).
Tháng 10/2010, các nước đàm phán đã nhất trí cho Malaysia chính thức tham gia
vào TPP, nâng tổng số nước tham gia đàm phán lên thành 9 nước.



1
FTA thế hệ thứ nhất tập trung ở việc tự do hóa lĩnh vực thương mại hàng hóa (cắt giảm thuế quan, loại bỏ các rào
cản phi thuế quan); FTA thế hệ thứ hai mở rộng phạm vi tự do hóa sang các lĩnh vực dịch vụ nhất định (xóa bỏ các
điều kiện tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực dịch vụ liên quan); FTA thế hệ thứ ba tiếp tục mở rộng phạm vi tự
do về dịch vụ, đầu tư. Theo Trung tâm WTO.

6
Ngày 12/11/2011, cuộc họp cấp cao các thành viên TPP đã diễn ra tại thành phố
Honolulu, bang Hawaii của Hoa Kỳ. Tham dự cuộc họp có các nhà lãnh đạo 9 nước
thành viên gồm Australia, Brunei, Chile, New Zealand, Malaysia, Peru, Singapore,
Hoa Kỳ và Việt Nam. Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama chủ trì cuộc họp. Tại đây,
cuộc họp đã thông qua “Tuyên bố của các nhà lãnh đạo thành viên Hiệp định Đối
tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương”, công bố khung tổng thể các điều khoản của
Hiệp định. Cũng tại đây, Canada, Nhật Bản và Mexico chính thức bày tỏ mong
muốn gia nhập đàm phán, các nước TPP đều tán thành điều này. Trong nhiều tháng
sau đó, các thành viên hiện tại đã tiến hành nhiều cuộc đàm phán song phương với
các nước này về mức độ sẵn sàng vào khả năng họ có thể duy trì tham vọng và tốc
độ của các cuộc đàm phán (Phạm Thị Hồng Yến, 2012). Các thành viên TPP đã
nhất trí sự tham gia của Mexico và Canada vào tháng 6/2012. Hai nước này bắt đầu
tham gia với tư cách là thành viên đàm phán từ vòng đám phán thứ 15 vào tháng
12/2012 tại Auckland, New Zealand.
Tháng 3 - 2013, thủ tướng Shinzo Abe bày tỏ nguyện vọng của Nhật Bản tham gia
vào đàm phán. Quốc gia này đã chính thức trở thành thành viên thứ 12 của Hiệp
định TPP vào những ngày cuối cùng của vòng đàm phán thứ 18 tại Malaysia vào
tháng 7 năm 2013.
Sự tham gia của Nhật Bản đã nâng tổng số nước tham gia đàm phán lên con số 12,
bao gồm nền kinh tế lớn nhất thế giới (Hoa Kỳ) và một khu vực có tốc độ phát triển
thương mại cũng như tự do hóa thương mại thuộc bậc nhất thế giới (châu Á – Thái
Bình Dương), trở thành khu vực kinh tế hơn 790 triệu dân, chiếm 40% GDP và 1/3
thương mại toàn cầu (Trung tâm thông tin tư liệu – Viện nghiên cứu quản lý kinh tế

Trung ương, 2013).
1.1.2 Quá trình đàm phán
Vòng đàm phán đầu tiên tại Melbourne, Australia từ 15-19/3/2010
Vòng đàm phán đầu tiên có sự tham gia của 8 đối tác, bao gồm Australia, Brunei,
Chile, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam.

7
Tại đây, các nước trao đổi về phạm vi điều chỉnh của đàm phán để đạt đến một
khuôn khổ đàm phán tốt nhất. Đồng thời, các thành viên cũng nhấn mạnh mục tiêu
hội nhập khu vực, tăng tính cạnh tranh, minh bạch, hỗ trợ các nền kinh tế đang phát
triển và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ngoài ra, một số vấn đề khác cũng được đưa ra thảo luận như cách tiếp cận các trở
ngại liên quan đến dịch vụ, thương mại điện tử, công nghệ xanh, vấn đề mở rộng
đối tác đàm phán tới các nước khác trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, có
bao gồm quy trình xem xét, bổ sung thành viên mới.
Vòng đàm phán thứ 2 tại San Francisco, Hoa Kỳ từ 14-18/6/2010
Tại đây, các nước thỏa thuận về cấu trúc của hiệp định, về mối quan hệ giữa TPP
và các FTAs khác hiện có. Theo đó, các thành viên quyết định các hiệp định song
phương giữa các nước sẽ tiếp tục tồn tại song song với TPP.
Vấn đề tiếp cận thị trường bắt đầu được đưa vào thảo luận. Các nước cũng thống
nhất các vấn đề quan trọng của Thế kỷ XXI như sự tham gia của các doanh nghiệp
nhỏ, giảm thủ tục hải quan, thống nhất pháp lý, tăng tính cạnh tranh, tính minh bạch,
quan tâm đến các nước đang phát triển.
Bên cạnh đó, đàm phán tiếp tục các vấn đề truyền thống của FTA, tập trung vào các
quy định về thương mại và lao động, thương mại và môi trường. Cuối đàm phán,
các nước thành viên cùng nhau thống nhất chương trình làm việc tại vòng đàm
phán thứ ba.
Vòng đàm phán thứ 3 tại Brunei từ 4-9/10/2010
So với các vòng đàm phán trước, vòng đàm phán thứ 3 có thêm sự tham gia của
Malaysia. Tại vòng đàm phán này, các nước bắt đầu soạn thảo các điều khoản, tiếp

tục cam kết mở rộng thành viên, thảo luận về các vấn đề hàng hóa công nghiệp,
nông nghiệp, các tiêu chuẩn, dịch vụ, đầu tư , dịch vụ ngân hàng, sở hữu trí tuệ,
mua sắm chính phủ, cạnh tranh, lao động và môi trường. Một số vấn đề được đưa ra
từ các vòng trước tiếp tục được đàm phán tại vòng này như về mục tiêu và phương
pháp tiếp cận thị trường, về các cam kết nền về các vấn đề nổi bật Thế kỷ XXI.

8
Song song với tiến trình đàm phán, các nước còn tổ chức toạ đàm hỗ trợ kỹ thuật
cho các vấn đề vệ sinh dịch tễ, lao động và môi trường liên quan đến thương mại
Vòng đàm phán thứ 4 tại Auckland, New Zealand từ 6-10/12/2010:
Tại vòng đàm phán thứ 4, các nhóm đàm phán bắt đầu đạt được bản nội dung dự
thảo cho các điều khoản. Cũng từ đây, Việt Nam lần đầu tiên tham gia đàm phán
với tư cách thành viên đầy đủ.
24 nhóm đàm phán khẩn trương làm việc, đạt được nội dung dự thảo cho các điều
khoản, dự định công bố tại Hội nghị các nhà lãnh đạo APEC ở Honolulu vào tháng
11/ 2011.
Ngoài ra, đàm phán cũng đạt được tiến bộ ở các cam kết nền như thúc đẩy hội nhập
thông qua chuỗi cung ứng, thống nhất hệ thống pháp lý, tạo ra một “hiệp định
sống” có thể thích nghi với sự thay đổi của môi trường kinh doanh, tăng cường hỗ
trợ kỹ thuật.
100 đại diện từ các nhóm doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các viện từ các
nước TPP tham gia diễn đàn bên lề vòng đàm phán.
Vòng đàm phán thứ 5 tại Santiago, Chile:
Tại vòng đàm phán thứ 5, Các bản đề xuất từ các nhóm đàm phán được hợp nhất
thành Dự thảo, thu hẹp khoảng cách trên cơ sở cân nhắc lợi ích và quan ngại của
mỗi bên. Các nhóm đàm phán cũng trao đổi nội dung tiếp cận thị trường đối với
hàng hóa, thảo luận về một hệ thống quy tắc xuất xứ TPP tối ưu. Đặc biệt, Australia
thúc đẩy việc xóa bỏ thuế, tăng hiệu quả quy tắc xuất xứ trong khu vực.
Ngoài ra, các nước cũng trao đổi nội dung về tiếp cận thị trường đối với dịch vụ,
đầu tư và mua sắm chính phủ trước vòng đàm phán tới. Đàm phán còn tiếp tục các

cam kết nền, tập trung vào tăng tính cạnh tranh, tăng cường sự tham gia của doanh
nghiệp vừa và nhỏ, tăng hiệu quả chuỗi cung ứng, sự gắn kết giữa các hệ thống
pháp luật giữa các nước, đồng thời cũng tiếp tục tiếp nhận các ý kiến bình luận của
các doanh nghiệp, nhóm dân sự và các bên liên quan.

9
Vòng đàm phán thứ 6 tại Singapore:
Vòng đàm phán thứ 6 thảo luận bản dự thảo hiện tại, đồng thời cũng tiếp tục các đề
xuất mới. Các bên trao đổi danh sách các đề xuất, ý kiến sửa đổi bản dự thảo về tiếp
cận thị trường, đạt được thỏa thuận về quy tắc xuất xứ đối với một số sản phẩm cụ
thể. Ngoài ra, các nước trao đổi dự thảo về vấn đề tiếp cận thị trường đối với dịch
vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ, thực hiện cơ sở “chọn bỏ” (negative list) – một
thực tiễn chưa từng xảy ra đối với một số nước TPP. Australia đưa ra dự thảo, phản
ánh mức độ và chế độ thương mại, đầu tư thông thoáng đồng thời vẫn đảm bảo
thẩm quyền chính phủ. Song song với các thỏa thuận mới, vòng đàm phán cũng tiếp
tục các cam kết nền và tổ chức một số hoạt động bên lề như diễn đàn bên lề tại
Singapore, tọa đàm về lao động.
Vòng đàm phán thứ 7 tại TP Hồ Chí Minh, Việt Nam từ 15-24/6/2011
Vòng đàm phán thứ 7 tập trung hơn vào nội dung mở cửa thị trường, bao gồm: về
mở cửa thị trường hàng hóa, thảo luận các bản chào về thuế quan và quy tắc xuất
xứ; Về lĩnh vực dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ, có sự khác biệt đáng kể về
mức độ mở cửa của các bản chào.
Bên cạnh đó, đàm phán cũng tiếp tục thảo luận các cam kết nền. Các bên nhấn
mạnh vấn đề phát triển, coi trọng việc đảm bảo rằng hiệp định sẽ giúp thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các nước.
Tại diễn đàn bên lề vào ngày 19/6, các bên liên quan từ các nước TPP thể hiện sự
quan tâm đặc biệt đến một số vấn đề như sự công bằng trong thương mại, vấn đề
cắt giảm thuế và loại bỏ rào cản đối với một số sản phẩm Cuối vòng đàm phán,
các nước thống nhất một số vấn đề sẽ đưa vào đàm phán tại vòng thứ tám tại Hoa
Kỳ vào tháng 9/2011.

Vòng đàm phán thứ 8 tại Chicago, Hoa Kỳ từ 6-15/9/2011
Các bên đã bước đầu xác định được mức độ cam kết và tiêu chuẩn đặt ra trong
nhiều lĩnh vực đàm phán, đạt tiến bộ trong củng cố và thu hẹp vị thế giữa các bên
đàm phán.

10
Đặc biệt, đàm phán đã đạt được những bước tiến quan trọng trong các vấn đề Hải
quan, Kiểm dịch động thực vật (SPS), Hàng rào kĩ thuật trong thương mại (TBT),
Viễn thông và Mua sắm chính phủ. Các vấn đề như doanh nghiệp vừa và nhỏ, tính
cạnh tranh, tính chặt chẽ pháp lý được đưa vào thảo luận chi tiết. Các nước cũng đề
xuất các bản chào mới về môi trường, sở hữu trí tuệ (trong đó có điều khoản về
thuốc tân dược do Hoa Kỳ đề xuất) và tính minh bạch. Về vấn đề tiếp cận thị
trường hàng hóa, từng bản chào được đưa ra thảo luận. Australia tiếp tục đề xuất
một hệ thống cam kết hàng hóa và quy tắc xuất xứ dễ hiểu. Về tiếp cận thị trường
dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ, các bên xem xét chi tiết những biện pháp
không phù hợp trong bản chào của từng quốc gia
Tại vòng này, các diễn đàn bên lề tiếp tục được tổ chức vào ngày 10/9/2011, thu hút
250 đơn vị tham gia thuộc khu vực tư nhân, các nhóm ngành công nghiệp và các tổ
chức xã hội dân sự với hơn 60 bài trình bày.
Vòng đàm phán thứ 9 tại Lima, Peru từ 18-28/10/2011
Các bên tiếp tục đàm phán và tiến tới hoàn thành một số chương. Cho đến đây, hầu
hết các vấn đề đã được đưa ra thảo luận. Vòng đàm phán đã đạt được nhiều tiến
triển mới về các vấn đề Vệ sinh và Dịch tễ (SPS), Rào cản kỹ thuật đối với thương
mại (TBT), Quy định về nguồn gốc xuất xứ (ROOs). Các bên cũng dự kiến sửa đổi
các bản chào về tiếp cận thị trường dựa trên kết quả thảo luận, đưa ra thảo luận các
đề xuất về một số vấn đề phức tạp và nhạy cảm, trong đó có sở hữu trí tuệ và tính
minh bạch.
Vòng đàm phán thứ 10 tại Kuala Lumpur, Malaysia từ 5-9/12/2011
Vòng đàm phán thứ 10 đạt được khung đàm phán, thảo luận con đường đi đến kết
thúc đàm phán. Chỉ có một vài nhóm đàm phán làm việc suốt tuần, chỉ đàm phán về

các vấn đề nguồn gốc xuất xứ, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Lãnh đạo các nước
tuyên bố đã đạt được một hiệp định khung TPP, khẳng định cam kết về một FTA
toàn diện, đồng thời yêu cầu các nhóm đàm phán đẩy nhanh tiến độ. Cũng tại đây,
Nhật Bản, Canada và Mexico chính thức bày tỏ mong muốn tham gia vào TPP.

11
Vòng đàm phán thứ 11 tại Melbourne, Australia từ 1 – 9/3/2012
Các bên tiếp tục thảo luận về tất cả các lĩnh vực đã được đưa ra tại các vòng đàm
phán trước. Tại vòng đàm phán lần này có 200 nhà đàm phán từ 9 nước thành viên
tham dự. Đàm phán đã đạt được tiến triển đáng kể ở các vấn đề như thống nhất
pháp luật, minh bạch, cạnh tranh và tạo điều kiện cho kinh doanh, lợi ích của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, và phát triển.
Vòng đàm phán thứ 12 tại Dallas, Texas, Hoa Kỳ từ 8 – 18/5/2012
Vòng đàm phán đã đạt được những tiến triển ngoài dự kiến. Các nước tham gia
TPP đã đàm phán xong các vấn đề về các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiến đến kết
thúc đàm phán về các vấn đề chung như vấn đề xung đột pháp luật, tăng cường
chuỗi cung ứng hàng hóa giữa các quốc gia TPP, và thúc đẩy sự phát triển chung
của khu vực. 9 quốc gia tham gia đàm phán đã có những trao đổi quan trọng xung
quanh đề xuất của Hoa Kỳ về vấn đề doanh nghiệp nhà nước, một nội dung mới và
đầy thách thức được đưa ra nhằm thiết lập các quy định để đảm bảo rằng các doanh
nghiệp nhà nước sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài ra, 9 quốc gia TPP cũng đã tiếp tục cố gắng đàm phán về các gói thuế quan
đầy tham vọng mà có thể giúp các quốc gia này tiếp cận thị trường của nhau trên
các lĩnh vực dệt may, nông nghiệp và công nghiệp. Các quốc gia TPP cũng thảo
luận về các cam kết cụ thể trong việc tự do hóa các dịch vụ riêng biệt của từng quốc
gia và về tự do hóa cthị trường mua sắm chính phủ.
Vòng đàm phán thứ 13 tại San Francisco, California, Hoa Kỳ
Các nhóm đàm phán đã đạt được tiến bộ quan trọng trong các vấn đề như hải quan,
dịch vụ xuyên biên giới, truyền thông, đầu tư công, chính sách cạnh tranh, hợp tác
và xây dựng năng lực. Thêm vào đó, đàm phán cũng đã đạt được nhiều thỏa thuận

liên quan đến các vấn đề nguyên tắc xuất xứ hàng hóa, đầu tư, dịch vụ tài chính,
tạm nhập tái xuất…
Hoa Kỳ đã đệ trình một bản đề xuất mới về sở hữu trí tuệ liên quan đến các hạn chế
và ngoại lệ đối với bản quyền. Đồng thời, Hoa Kỳ đã tổ chức một diễn đàn bên lề

12
vòng đàm phán cho hơn 300 bên liên quan bao gồm đại diện của các ngành, các tổ
chức phi chính phủ, các nhà nghiên cứu và công chúng tham gia thảo luận và trình
bày quan điểm của họ trước các nhà đàm phán.
Vòng đàm phán thứ 14 tại Leesburg, Virginia, Hoa Kỳ từ 6 – 15/9/2012
Các nhóm đàm phán đã đạt được những tiến triển ở một loạt các chương như tiếp
cận thị trường, hải quan, nguồn gốc xuất xứ, rào cản kỹ thuật đối với thương mại,
các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ, dịch vụ xuyên biên giới, truyền thông, mua sắm
chính phủ và các vấn đề khác.
Ngoài ra, các tiến triển cũng đạt được trong việc hình thành biểu thuế và các cam
kết mở cửa thị trường cụ thể khác đối với hàng hóa công nghiệp, nông nghiệp, dệt
may, dịch vụ và đầu tư, và mua sắm chính phủ. 9 nước đàm phán cũng tiếp tục tập
trung vào các vấn đề quan trọng từ sở hữu trí tuệ đến lao động và môi trường và các
chủ đề khác nhằm giải quyết những vấn đề chính mà các nhà sản xuất, nhà cung
cấp dịch vụ, người nông dân và chủ trang trại gặp phải trong thế kỷ 21.
Vòng đàm phán thứ 15 tại Auckland, New Zealandtừ 4 – 13/3/2013
Vòng đàm phán thứ 15 có sự tham gia của 2 thành viên mới là Mexico và Canada.
Tại đây, các nước đã nỗ lực để kết thúc đàm phán về lời văn đối với 29 chương của
hiệp định bao gồm tất cả các vấn đề liên quan đến thương mại và đầu tư. Các tiến
bộ cũng đạt được trong đàm phán về hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, mua sắm chính
phủ. Các nhà lãnh đạo của 11 nước TPP đã nhất trí mở cửa thị trường toàn diện cho
hàng hóa và dịch vụ của nhau ở tất cả các lĩnh vực.
Vòng đàm phán thứ 16 tại Singapore từ 4 – 13/3/2013
Tại vòng này, các vấn đề như hải quan, viễn thông, hài hòa pháp lý và phát triển đã
hoàn thành đàm phán. Một trong những vấn đề then chốt cần được giải quyết giữa

Việt nam và Hoa Kỳ là hàng dệt may và đã có một vài dấu hiệu tích cực trong vòng
đàm phán này. USTR đã đưa ra định nghĩa về “nguồn cung ngắn hạn (short –
supply)” cho quy tắc xuất xứ nghiêm ngặt “từ sợi trở đi” (yarn – forward) đối với
dệt may mà Hoa Kỳ đề xuất trước đó. Về phía mình, Việt nam ít nhất cũng thể hiện

13
việc “sẵn sàng xem xét” hướng tiếp cận này. Việt Nam thể hiện rõ ràng mong muốn
được tìm hiểu kỹ càng hơn về những ngoại lệ này để xem đó có phải là một “hướng
đi tốt” hay không.
Về vấn đề tiếp cận thị trường nói chung, Hoa Kỳ và Việt Nam vẫn chưa đạt được
một tiến triển đáng kể nào. Một lĩnh vực đàm phán khó khăn khác – bao gồm Sở
hữu trí tuệ (IP), doanh nghiệp nhà nước (SOEs), bảo vệ môi trường và tiếp cận thị
trường hàng hóa – tại vòng đàm phán Singapore lần này chỉ đạt được những kết quả
hết sức khiêm tốn.
Vòng đàm phán thứ 17 tại Lima, Peru từ 15 – 24/5/2013
Theo thống kê, số lượng đại biểu thuộc khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính phủ,
các tổ chức công đoàn và các học giả lên đến hơn 300 người. Các nước đã thảo luận
những nội dung còn tồn tại trong nhiều lĩnh vực và đạt được tiến bộ đáng kể trong
các chương như các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật , phòng vệ
thương mại, thương mại điện tử, dịch vụ xuyên biên giới, quy tắc xuất xứ, pháp lý
và thể chế.
Vòng đàm phán thứ 18 tại Kuala Lumpur, Malaysia từ 15 – 25/7/2013
Ngày 23/7/2013, Nhật Bản đã chinh thức trở thành thành viên thứ 12 tham gia đàm
phán Hiệp định TPP. Trong 2 ngày cuối cùng của phiên đàm phán, Nhật Bản đã tỏ
ra sẵn sàng và tích cực tham gia vào quá trình đàm phán.
Tại phiên này, 13 nhóm đàm phán đã thảo luận các lĩnh vực đầu tư, danh mục bảo
lưu các biện pháp không tương thích trong dịch vụ và đầu tư, cạnh tranh, mở cửa
thị trường hàng hóa, quy tắc xuất xứ, hàng rào kỹ thuật trong thương mại, dịch vụ
tài chính, thương mại điện tử, di chuyển thể nhân, sở hữu trí tuệ, môi trường, mua
sắm chính phủ, và các vấn đề về pháp lý và thể chế.

Các nước tiếp tục đạt được nhiều tiến bộ trong việc giải quyết các vấn đề kỹ thuật
tại hầu hết các nhóm và thu hẹp sự khác biệt trong các vấn đề khó, hướng tới việc
sớm kết thúc một số lĩnh vực. Đối với các nội dung còn nhiều thách thức như sở
hữu trí tuệ, môi trường và doanh nghiệp nhà nước, các nước cũng đang cố gắng tìm

14
các giải pháp thích hợp để thúc đẩy đàm phán. Riêng đối với lĩnh vực mở cửa thị
trường đối với các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp và dệt may, các nước đã
thống nhất một chương trình làm việc cụ thể để thúc đẩy đàm phán, hướng tới mục
tiêu tự do hóa một cách toàn diện.
Vòng đàm phán thứ 19 tại Bandar Seri Begawan, Brunei từ 22 – 31/8/2013
Theo lịch trình đàm phán đã được công bố tại địa điểm đàm phán thì nhóm IPR họp
từ ngày 22-30/8, trong khi nhóm tiếp cận thị trường họp từ ngày 22-28/8. Các nhóm
đàm phán khác bao gồm nhóm Quy tắc xuất xứ diễn ra từ ngày 23-28/8, Môi
trường từ ngày 26-30/8, Đầu tư từ ngày 24-28/8, Dịch vụ tài chính từ ngày 25-28/8,
và Mua sắm chính phủ từ ngày 22-24/8.
Một vấn đề vẫn chưa giải quyết được trong chương IPR là thời gian bảo hộ độc
quyền dữ liệu cho dược phẩm sinh học cũng như các quy định chung về quyền sở
hữu trí tuệ trong ngành dược. Theo nguồn tin kinh tế thì thảo luận về SOE dường
như cuối cùng cũng đạt được một số tiến triển, một phần vì Hoa Kỳ và Australia –
2 nước ủng hộ việc đưa vào các quy tắc về SOE - đang thu hẹp sự khác biệt về nội
dung các quy định này.
Về tiếp cận thị trường, Hoa Kỳ và các nước TPP khác ngoại trừ Nhật Bản đã cam
kết sẽ tiếp tục đàm phán về các đề xuất thuế quan cho cả những sản phẩm nhạy cảm
nhất của các nước này trong những tuần và tháng tới để đáp ứng các thời hạn đề ra.
1.2. Các nội dung đàm phán liên quan đến nông nghiệp
Hiệp định TPP bao gồm 29 chương, trong đó những nội dung liên quan đến nông
nghiệp không được quy định riêng trong một chương nào mà được đề cập qua các
chương.
1.2.1. Tiếp cận thị trường

a. Thuế và hạn ngạch
Đối với thương mại hàng hóa, lộ trình cắt bỏ thuế quan sẽ được áp dụng cho tất cả
các mặt hàng, tương đương khoảng hơn 11000 dòng thuế. Cụ thể, ngay sau khi
Hiệp định TPP có hiệu lực, các nước thành viên sẽ cắt giảm 90% các dòng thuế về

15
mức 0, 8-9% còn lại sẽ được giảm về 0 trong vòng 7-10 năm, 1-2% sẽ chỉ được đưa
về 0 sau một thời gian dài. Bốn mặt hàng nông nghiệp nhạy cảm gây nhiều bất
đồng khi đàm phán về cắt giảm thuế là các sản phẩm từ sữa, đường, gạo và thịt bò.
Đối với thương mại dịch vụ, việc xóa bỏ thuế quan sẽ được áp dụng cho phần lớn
các dòng thuế, trừ các hạng mục có tên trong danh sách loại trừ đã được thỏa thuận
giữa các bên. Tuy nhiên, mức độ tự do hóa thương mại dịch vụ trong Hiệp định
TPP sẽ không thấp hơn so với mức mà các nước thành viên đã cam kết với WTO
hoặc đa số các FTA và RTA khác mà các nước này đã kí kết.
b. Quy tắc xuất xứ
Do quy tắc xuất xứ trong mỗi FTA được kí kết trước TPP có sự khác nhau nên các
bên đàm phán không dễ dàng đưa ra được một bộ quy tắc thống nhất cho Hiệp định
TPP. Tuy nhiên, các thành viên TPP đã nhất trí các quy tắc xuất xứ này sẽ phải
khách quan, minh bạch và dễ dự đoán. Các bên đàm phán cũng đã chấp thuận áp
dụng nguyên tắc cộng gộp xuất xứ nội vùng cho tất cả các loại hàng hóa. Nguyên
tắc này cho phép các nước TPP tính gộp giá trị nguyên liệu được sản xuất từ những
nước TPP khác và sản phẩm cuối cùng vẫn được coi là sản phẩm nội khối, bao gồm
cả trường hợp sản phẩm đó đến từ một nước TPP gia công thêm hay được thêm giá
trị gia tăng từ một nước thứ hai. Tuy nhiên, một tranh luận còn tồn tại đó là có chấp
nhận hay không một hàm lượng không đáng kể của nguyên liệu không có xuất xứ
từ nước TPP nhưng sản phẩm cuối cùng vẫn được hưởng ưu đãi theo TPP.
c. Thủ tục hải quan
Về cơ bản, các nội dung đàm phán của TPP phù hợp với các tiêu chuẩn của Tổ
chức Hải quan thế giới và có xu hướng đơn giản hóa thủ tục hải quan để tạo thuận
lợi cho doanh nghiệp (Tổng cục Hải quan Việt Nam). TPP đánh giá cao cơ chế xác

nhận trước về mã số HS, trị giá và xuất xứ hàng hóa. Đặc biệt, đối với hàng chuyển
phát nhanh, các thành viên TPP đề xuất những ưu tiên riêng biệt về giảm thời gian
thông quan và thủ tục hành chính do đặc tính của hàng hóa. Tuy nhiên, vấn đề về
chứng nhận xuất xứ hàng hóa khi thông quan còn gây tranh cãi với hai quan điểm

16
khác nhau: một là, người xuất khẩu tự khai báo xuất xứ trên chứng từ thương mại
sau đó chuyển cho người nhập khẩu để được hưởng ưu đãi; hai là, cho phép cả
người nhập khẩu tự khai báo xuất xứ hàng hóa mà không cần xuất trình chứng nhận
do người xuất khẩu cấp, sau đó người nhập khẩu phải chịu mọi trách nhiệm nếu có
gian lận hoặc sai sót về khai báo.
d. Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT)
Các bên đàm phán TPP mong muốn xây dựng FTA Hoa Kỳ - Hàn Quốc như một
mô hình mẫu cho điều khoản TBT trong Hiệp định TPP. Các quy định TBT trong
FTA này tuân theo các quy định của WTO, song được mở rộng hơn vì nó cho phép
các nước đối tác được góp ý, bổ sung các quy tắc, tiêu chuẩn và việc thi hành các
quy tắc, tiêu chuẩn đó. Hơn nữa, các nhà đàm phán TPP còn yêu cầu điều khoản
TBT thêm vào phụ lục cho từng lĩnh vực cụ thể để đảm bảo sự hài hòa trong quy
định ở những ngành then chốt. Các cam kết trong điều khoản này sẽ bao gồm thời
hạn áp dụng, qui trình đánh giá, các tiêu chuẩn quốc tế, bộ máy hành chính và sự
công khai minh bạch.
e. Tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ (SPS)
Về cơ bản, tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ trong đàm phán TPP được dựa trên thỏa thuận
về vệ sinh dịch tễ trong khuôn khổ WTO. Thỏa thuận đó nhằm bảo đảm các quy
định về an toàn thực phẩm và chất lượng động, thực vật của các nước thành viên
phải minh bạch, khoa học và công bằng. Hơn thế, các thành viên TPP đã lập ra bản
thảo SPS với các cam kết chi tiết hơn liên quan đến các vấn đề về sức khỏe con
người và an toàn động, thực vật mà chưa được quy định trong WTO. Tính đến
tháng 5/2013, nội dung về tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ đã được các thành viên TPP
chấp thuận. Vấn đề chính còn tồn đọng là sự bất đồng giữa các bên khi đàm phán

về cơ chế áp dụng các tiêu chuẩn và giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các nước
TPP.
1.2.2. Cạnh tranh trong nông nghiệp

17
Theo đề xuất của Australia và New Zealand, quy định về cạnh tranh xuất khẩu
nông nghiệp trong TPP sẽ được trích dẫn từ các quy tắc đã được đề ra trong vòng
đàm phán Doha năm 2008 về việc sử dụng tài trợ xuất khẩu và viện trợ lương thực
quốc tế. Bản dự thảo đó quy định các nước phát triển xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu, cắt
bớt tín dụng xuất khẩu và nêu ra các trường hợp có thể áp dụng viện trợ lương thực.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ phản đối đề xuất này và cho rằng vấn đề viện trợ lương thực
không thể được đưa vào Hiệp định TPP.
1.2.3. Quyền sở hữu trí tuệ
Được xây dựng dựa trên các điều khoản TRIPS của WTO nhưng quy định về Sở
hữu trí tuệ trong TPP bao quát sâu rộng hơn. Nó gồm các nội dung liên quan đến
nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, quyền tác giả, bằng sáng chế, bí mật kinh doanh, việc
thực thi quyền sở hữu trí tuệ, nguồn gen và tri thức truyền thống. Trong lĩnh vực
nông nghiệp, đề xuất của Hoa Kỳ yêu cầu bảo hộ cho cả thực vật, động vật và các
phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán, chữa bệnh cho cả người và động vật. Như
vậy, việc sử dụng giống cây trồng, vật nuôi sẽ phụ thuộc vào sự cho phép và phải
trả phí cho chủ sở hữu. Chương Sở hữu trí tuệ trong TPP được dự đoán là sẽ gây
nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp hoạt động về dược phẩm và nông hóa phẩm.
1.2.4. Lao động
Chương Lao động trong hiệp định TPP bao gồm các cam kết về bảo vệ quyền lao
động dựa trên quy định của Tổ chức lao động quốc tế, đồng thời đảm bảo cơ chế
hợp tác, phối hợp và đối thoại những vấn đề lao động có ảnh hưởng chung. Đây
cũng là một chương gây nhiều tranh cãi khi đàm phán bởi các nước phát triển đưa
ra các tiêu chuẩn rất cao về lao động, gây khó khăn và cản trở khả năng cạnh tranh
của các nước có thu nhập thấp. Từ cuối tháng 12 năm 2011, Hoa Kỳ đã đưa ra bản
đề nghị với các đối tác TPP về vấn đề lao động. Ngoài những yêu cầu về mức

lương tối thiểu, thời gian làm việc, sức khỏe và an toàn cho người lao động, một nội
dung quan trọng của bản đề nghị là chặn và buộc trả lại toàn bộ hàng xuất khẩu
được làm bởi lao động trẻ em, đồng thời các nước phải có luật lao động áp dụng

18
cho các khu chế xuất. Nếu nội dung này được chấp nhận đưa vào TPP thì đây sẽ là
trở ngại lớn cho những làng nghề truyền thống của Việt Nam, với những sản phẩm
được làm ra theo quy mô hộ gia đình có sự tham gia của trẻ em nông thôn.


19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỘI NHẬP CỦA NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
VỚI 11 NƯỚC THÀNH VIÊN TPP VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG SAU KHI CAM
KẾT XÓA BỎ THUẾ CỦA TPP CÓ HIỆU LỰC
2.1. Thực trạng hội nhập của ngành nông nghiệp Việt Nam với 11 nước
thành viên TPP từ năm 2007
2.1.1. Thực trạng về chính sách thuế quan đối với xuất nhập khẩu nông sản từ
khi Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007
a. Áp dụng thuế quan với các nước thành viên WTO (Nguyên tắc Tối huệ
quốc)
Ngày 11/1/2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương
mại Thế giới WTO, sau 11 năm tiến hành hàng loạt các cuộc đàm phán song
phương, đa phương, tham vấn cũng như các cải cách mạnh mẽ trong nước nhằm
đáp ứng điều kiện gia nhập tổ chức này. Việc tham gia vào một tổ chức thương mại
mang tính toàn cầu đã mang lại những cơ hội lớn để nền nông nghiệp Việt Nam đẩy
mạnh toàn cầu hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản ra thế giới. Tuy nhiên,
đây đồng thời cũng là những thách thức không nhỏ về cạnh tranh, một mặt để bảo
vệ ngành sản xuất nội địa, một mặt để vượt qua những rào cản kỹ thuật khắt khe để
có thể thâm nhập vào thị trường các nước phát triển.
Tham gia WTO cũng đồng nghĩa với việc phải thực hiện các cam kết gia nhập

WTO mà Việt Nam đã kí kết, đặc biệt là điều chỉnh chính sách thương mại quốc
tế.Thương mại nông sản vốn có đặc thù là một lĩnh vực được bảo hộ cao trong
chính sách thương mại của các quốc gia, cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi giữa
các nước phát triển và các nước đang phát triển. Chính vì vậy, tại WTO, các
nguyên tắc về thương mại quốc tế đối với sản phẩm nông nghiệp được đặc biệt chú
trọng nhằm thúc đẩu quá trình mở cửa thị trường nông sản tại các nước thành viên.
Các nguyên tắc này được quy định tại Hiệp định nông nghiệp (Điều 4, 5 và Phụ lục
5) và Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại hàng hóa (GATT), bao gồm

20
các quy định về thuế quan và phi thuế quan, tuân theo hai nguyên tắc cơ bản là
nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) và nguyên tắc Đối xử quốc gia (NT).
Việt Nam sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO đã đưa ra mức thuế
cam kết tối đa được phép áp dụng đối với 100% số dòng thuế hàng nông sản nhập
khẩu.
Theo công bố của Bộ tài chính, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết cắt giảm
10,6% thuế nhập khẩu MFN so với trước khi gia nhập, lộ trình thực hiện từng 3 đến
5 năm. Mức thuế cam kết bình quân là 25,2% vào thời điểm gia nhập và 21,0 vào
cuối lộ trình.
Các loại nông sản chế biến (như thịt, sữa, rau quảchế biến, thực phẩm chế biến, quả
ôn đới, và quả có múi) (các sản phẩm này vào thời điểm đàm phán đang áp dụng
mức thuế suất nhập khẩu cao) phải cắt giảm khá nhiều. Trong khi đó, thuế nhập
khẩu các loại nông sản thô (như gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều…) cắt giảm
rất ít hoặc không thay đổi.
Bảng 2.1: Cơ cấu cam kết về thuế đối với hàng nông sản của Việt Nam
Cơ cấu
Số dòng
thuế
Các sản phẩm chính
Tổng số dòng

thuế nông sản
1185

Số dòng giảm so
với MFN
500
Thịt trâu, thịt bò, thịt lơn, rau, quả, hoa, toàn bộ nông
sản chế biến,…
Số dòng giữ
nguyên
535
Động vật sống, giống cây trồng, gạo, chè, TV nguyên
liệu, long, da động vật, kén tằm, lanh, gai,…
Số dòng tăng so
với MFN
150
Chủ yếu là thuế ngoài hạn ngạch của các mặt hàng:
đường ăn, trứng gia cầm, lá thuốc lá, thịt gia cầm,
thuốc lá, xì gà,…
Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI

×