Tải bản đầy đủ (.doc) (171 trang)

hình thành và phát triển ngôn ngữ hóa học ở lớp 8 cho học sinh dân tộc các trường trung học cơ sở tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.21 KB, 171 trang )

PHẦN I : MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong xu thế hội nhập toàn diện của đất nước, nền giáo dục của nước
nhà phải là một trong những mũi nhọn tiên phong, trong đó đổi mới giáo dục
là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục đào tạo trong
giai đoạn hiện nay. Để đổi mới nội dung, phương pháp dạy học có hiệu quả
cao cần trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản vững chắc. Trên cơ
sở đó học sinh biết vận dụng sáng tạo kiến thức giải quyết các vấn đề học tập
và thực tiễn cuộc sống.
Mục tiêu của giáo dục THCS là cung cấp cho học sinh một hệ thống
kiến thức phổ thông, cơ bản và thiết thực đầu tiên về hóa học. Ngôn ngữ hóa
học là một thành phần rất quan trọng trong quá trình dạy học và nghiên cứu
hóa học. Việc hiểu, nắm bắt và vận dụng tốt ngôn ngữ hóa học có tính chất
quyết định đến chất lượng lĩnh hội kiến thức hóa học của học sinh. Như vậy
giúp các em hiểu rõ ngôn ngữ hóa học cơ bản nhằm xây dựng cho các em nền
tảng phát triển năng lực nhận thức, năng lực hành động, chuẩn bị cho các em
tiếp tục học lên các cấp bậc học cao hơn, đi vào cuộc sống lao động, giao tiếp
xã hội.
Môn hoá học là một môn học rất mới mẻ đối với học sinh lớp 8 trung
học cơ sở, nên việc hiểu, nắm bắt và vận dụng tốt ngôn ngữ hóa học đối với
đa số học sinh còn nhiều hạn chế và thụ động, đặc biệt là đối với học sinh
người dân tộc việc nghe và hiểu tiếng Việt đã khó. Hiểu và vận dụng ngôn
ngữ hóa học càng khó khăn hơn đối với các em. Từ đó gây tâm lý ngại học
môn hoá học, dẫn đến kết quả học tập không cao. Do đó việc nghiên cứu, đề
xuất những biện pháp dạy học theo hướng tích cực nhằm phát triển năng lực
nhận thức, nâng cao chất lượng học tập của học sinh nói chung, học sinh dân
1
tộc nói riêng, với môn hoá học nói chung và vấn đề về dạy ngôn ngữ hoá học
nói riêng là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
Chính vì những lí do trên tôi đã chọn đề tài: “ Hình thành và phát
triển ngôn ngữ hóa học ở lớp 8 cho học sinh dân tộc các trường Trung học


cơ sở tỉnh Sơn La ”.
2. Lịch sử nghiên cứu.
- NNHH và sử dụng NNHH trong dạy học không phải là vấn đề hoàn
toàn mới ở Việt Nam. Các nhà khoa học đã có những công trình nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau về nội dung của NNHH (như ngôn ngữ của một
ngành khoa học cụ thể) qua các báo cáo, công trình đăng trên các tạp chí:
- Vấn đề “Lịch sử đặt tên các nguyên tố hóa học” được tác giả Nguyễn
Duy Ái tập hợp và hệ thống lại đăng trên Tạp chí Hóa học ngày nay (số
21.12/1994; số 22 – 1/1995), tác giả Phúc Đường có bài viết “Du lịch qua tên
gọi các nguyên tố hóa học “đăng trên tạp chí Thế giới mới số 511 (trang 53 –
54) và 512 (trang 58 – 60) cung cấp những tư liệu về nguồn gốc tên gọi của
phần lớn các nguyên tố trong Hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học.
- Về thuật ngữ hóa học nói chung có một số tư liệu tập trung nghiên
cứu về nội dung các thuật ngữ (gắn với các khái niệm hóa học) nhằm mục
đích tra cứu: từ điển hóa học phổ thông, thí nghiệm hóa học dành cho thiếu
nhi, của nhà xuất bản (NXB) Văn hóa – Thông tin. Về thuật ngữ và tên gọi
các hợp chất vô cơ được tác giả Đào Quý Chiêu đề cập về những nguyên tắc
và mối liên hệ với bản thân các chất, sự phân loại các chất.
- Năm 2000, NXB Giáo dục đã xuất bản cuốn sách “Danh pháp hợp
chất hữu cơ” của tác giả Trần Quốc Sơn (chủ biên) và Trần Thị Tửu, được tái
bản tháng 11 năm 2003. Trong lời nói đầu tác giả đã viết: “Vấn đề thuật ngữ
và danh pháp hóa học ở nước ta đang được nhiều người quan tâm đặc biệt,
không những vì tầm quan trọng của nó trong giảng dạy hóa học mà còn vì
chưa có sự thống nhất về nguyên tắc xây dựng thuật ngữ hóa học bằng tiếng
2
Việt và về cách luân phiên chuyển tiếng nước ngoài thành tiếng Việt”.
- Tháng 3/2009, Hội hoá học Việt Nam báo cáo tổng kết đề tài tại Hà
Nội “Xây dựng hệ thống danh pháp và thuật ngữ hoá học Việt Nam”.
- Vấn đề NNHH chỉ được trình bày trong tài liệu: Ngôn ngữ hóa học -
phương tiện nhận thức trong DHHH, gồm những nội dung: - Ngôn ngữ hóa

học, PP nhận thức hóa học trong khoa học và trong dạy học - Vị trí, chức
năng của NNHH trong hệ thống các phương tiện dạy học - Những cơ sở lý
luận của sự hình thành NNHH - Nội dung kiến thức và kỹ năng NNHH
trường trung học - những giai đoạn cơ bản của quá trình hình thành NNHH
trong DHHH - Những điều kiện để lĩnh hội nội dung và sử dụng ngôn ngữ
hóa học.
“Ngôn ngữ hóa học” là cách gọi ngắn gọn của “ngôn ngữ của khoa học
hóa học”, bao gồm: thuật ngữ hóa học, danh pháp và biểu tượng hóa học,
trong đó thuật ngữ hóa học là thành phần cơ sở của NNHH. Ngôn ngữ hóa
học thực hiện các chức năng nhận thức hóa học trong hệ thống các phương
tiện nhận thức và phương tiện dạy học hóa học.
- Một số luận án Tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và khóa luận của sinh viên đã
nghiên cứu vấn đề này như :
+) Luận án Tiến sĩ của tác giả Hoàng Thị Chiên : “Rèn luyện kỹ năng sử
dụng ngôn ngữ hoá học (về thuật ngữ hoá học) cho sinh viên miền núi
trong trường sư phạm các tỉnh phía Bắc” bảo vệ năm 2005 tại trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
+) Luận án Thạc sĩ của tác giả Huỳnh Thiên Lương “Hình thành những
khái niệm hóa học cơ bản cho học sinh người dân tộc Khmer ở trường
Trung học cơ sở tỉnh Trà Vinh” bảo vệ năm 2007 tại trường Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
3
+) Luận án Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Mai: “Rèn luyện kỹ
năng sử dụng ngôn ngữ hoá học cho học sinh lớp 11 trung học phổ thông
ở tỉnh Đăk Nông” bảo vệ năm 2010 tại trường Đại học Sư phạm Huế.
Tuy nhiên việc nghiên cứu NNHH và sử dụng NNHH trong dạy học
hóa học ở trường phổ thông đặc biệt ở cấp THCS nhất là ở lớp 8, lần đầu tiên
học sinh học môn hóa học nên vấn đề rèn luyện ngôn ngữ hóa học lại càng
cần thiết và quan trọng hơn. Mặt khác đối với học sinh các tỉnh miền núi nói
chung và tỉnh Sơn La nói riêng càng cần được quan tâm nhiều hơn nữa. Chính

vì vậy việc nghiên cứu đề tài: “ Hình thành và phát triển ngôn ngữ hóa học
ở lớp 8 cho học sinh dân tộc các trường Trung học cơ sở tỉnh Sơn La ” là
cần thiết và quan trọng.
3. Mục đích nghiên cứu - nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu, lựa chọn, đề xuất các biện pháp dạy học giúp học sinh
người dân tộc nắm vững và vận dụng tốt ngôn ngữ hóa học lớp 8 ở trường
THCS theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ
hoá học, nội dung, kiến thức của ngôn ngữ hoá học cơ bản trong chương trình
sách giáo khoa hóa học lớp 8 THCS. Các quan điểm và nội dung định hướng
đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học hoá học nói
riêng theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh.
- Phân tích sự hình thành và phát triển ngôn ngữ hoá học ở lớp 8
THCS.
- Điều tra thực trạng việc nắm vững ngôn ngữ hoá học của học sinh chỉ
ra những khó khăn của giáo viên và học sinh dân tộc khi dạy học ngôn ngữ
hóa học.
4
- Nghiên cứu, đề xuất các biện pháp dạy học nhằm: hình thành có hiệu
quả ngôn ngữ hóa học cho học sinh người dân tộc ở trường THCS tỉnh Sơn
La.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm xác nhận tính khả thi, sự phù
hợp và hiệu quả của các biện pháp, phương pháp được đề xuất. Rút ra những
kết luận và khuyến nghị cần thiết.
4. Khách thể, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
- Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học môn Hóa học ở trường
THCS.
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề hình thành và phát triển một số khái

niệm ngôn ngữ hoá học cơ bản trong chương trình Hoá học lớp 8.
Một số khái niệm hoá học cơ bản, thuật ngữ hoá học cơ bản, danh pháp
hoá học và biểu tượng hoá học trong các chương 1,2,3 SGK Hoá học lớp 8.
5. Giả thuyết khoa học.
Nếu đề xuất và có thử nghiệm một cách nghiêm túc các biện pháp dạy
học phù hợp với đặc điểm học sinh người dân tộc, sẽ giúp các em nắm vững
ngôn ngữ hóa học cơ bản, từ đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học
môn hoá học ở các trường THCS tỉnh Sơn la.
6. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp lí thuyết.
+ Phương pháp phân loại, hệ thống hoá lí thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, trò chuyện, phỏng vấn,
thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp thống kê toán học trong nghiên cứu khoa học giáo dục.
7. Những đóng góp của đề tài.
5
Nghiên cứu, đề xuất cách sử dụng phối hợp các biện pháp dạy học theo
hướng tích cực nhằm hình thành ngôn ngữ hóa học cho học sinh trường
THCS ở tỉnh Sơn La nói chung, cho học sinh dân tộc nói riêng.
8. Cấu trúc của luận văn
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề hình thành và phát triển ngôn
ngữ hóa học ở THCS.
Chương 2: Một số biện pháp hình thành và phát triển ngôn ngữ hóa học cơ
bản trong chương trình hóa học lớp 8 THCS.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
Kết luận chung và kiến nghị.
6

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ HOÁ HỌC Ở THCS
1.1. Ngôn ngữ là phương tiện của nhận thức [37]
1.1.1. Kinh nghiệm xã hội được tồn tại và truyền đạt lại cho thế hệ sau
được là nhờ ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu đặc biệt dùng làm phương tiện giao
tiếp và công cụ tư duy. Ngôn ngữ là phương tiện hình thành, giữ gìn và
chuyển giao thông tin từ thế hệ này sang thế hệ khác, là phương tiện giao tiếp
giữa mọi người, là hiện tượng xã hội đặc biệt. Ngôn ngữ là hình thức vật chất
của các quy luật và hình thức tư duy, là hệ thống thông tin kí hiệu đặc biệt
đảm bảo chức năng hình thành, giữ gìn và chuyển giao thông tin.
Ngôn ngữ là một hiện tượng bao hàm nhiều mặt, nhiều nhân tố
không thể tách rời nhau, mà trước khi xuất hiện học thuyết về chủ nghĩa
duy vật biện chứng, nhà ngôn ngữ học F. De Sausure đã quan niệm “là bộ
phận xã hội của hoạt động ngôn ngữ, tồn tại bên ngoài cá nhân”, nó là một
sản phẩm xã hội lưu trữ trong óc mỗi người.
Ngôn ngữ là phương tiện của tư duy. Tuy ngôn ngữ không phải là tư
duy nhưng tư duy liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ. Không có ngôn ngữ thì
không có tư duy. Những tư tưởng và những sự trừu tượng hóa không thể tồn
tại độc lập được và chúng nhất thiết phải được vật chất hóa ra dưới dạng các
âm thanh (ngôn ngữ nói) hay các ký hiệu chữ viết (ngôn ngữ viết). Mác cho
rằng ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, tư tưởng chỉ có thể thể hiện
một cách hiện thực trong ngôn ngữ.
Tư duy trừu tượng gián tiếp, khái quát, không thể tồn tại bên ngoài
7
ngôn ngữ, nó phải dùng ngôn ngữ làm phương tiện cho mình. Nếu không có
ngôn ngữ thì bản thân quá trình tư duy không diễn ra được, đồng thời các sản
phẩm của tư duy cũng không được chủ thể và người khác tiếp nhận. Ngôn

ngữ cố định lại các kết quả của tư duy và nhờ đó làm khách quan hóa chúng
cho người khác và cho cả bản thân chủ thể tư duy.
Ngôn ngữ được chia thành ngôn ngữ tự nhiên và ngôn ngữ nhân tạo.
Ngôn ngữ tự nhiên - hệ thống thông tin ký hiệu âm thanh đặc biệt và chữ viết
- được hình thành trong lịch sử xã hội, biểu thị các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Ngôn ngữ nhân tạo là hệ thống ký hiệu hỗ trợ được tạo ra bằng
cách riêng trên cơ sở của ngôn ngữ tự nhiên nhằm chuyển giao chính xác và
kinh tế các thông tin khoa học và thông tin khác. Ngôn ngữ nhân tạo được sử
dụng rộng rãi trong khoa học và kỹ thuật hiện đại như toán học, hóa học, vật
lý lý thuyết, kỹ thuật tính toán, máy tính điện tử.
Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong đời sống tâm lý con người, là thành tố
quan trọng nhất về mặt nội dung và cấu trúc tâm lý người đặc biệt là quá trình
nhận thức.
1.1.2. Ngôn ngữ làm cho các quá trình của nhận thức cảm tính ở người
mang một chất lượng mới [13].
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn
đầu tiên của quá trình nhận thức. Nó được thể hiện dưới ba hình thức là
cảm giác, tri giác, biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc
mọi sự hiểu biết của con người. Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc
tính bên ngoài của sự vật vào các giác quan con người, là kết quả của sự tác
động vật chất của sự vật vào các giác quan con người, là sự chuyển hóa năng
lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Cảm giác, theo Lênin, là
8
hình ảnh của thế giới khách quan.
Ngôn ngữ ảnh hưởng mạnh đến ngưỡng nhạy cảm của cảm giác, làm
cho cảm giác được thu nhận rõ ràng, đậm nét hơn.
Tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác, nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh
hơn về sự vật. Tri giác nảy sinh trên cơ sở các cảm giác, là sự kết hợp các cảm
giác. So với cảm giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận thức cảm tính,

nó đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Ngôn ngữ làm cho quá trình tri giác diễn ra dễ dàng, nhanh chóng hơn
và làm cho những cái tri giác được trở thành khách quan, đầy đủ và rõ ràng
hơn. Ví dụ việc tách đối tượng ra khỏi bối cảnh (quy luật về tính lựa chọn của
tri giác), việc xây dựng một hình ảnh trọn vẹn về đối tượng tùy theo nhiệm vụ
của tri giác (quy luật về tính trọn vẹn của tri giác) nếu được kèm theo bằng lời
nói thầm hay nói thành tiếng thì diễn biến sẽ nhanh hơn và kết quả sẽ rõ hơn.
Vai trò của ngôn ngữ đối với quá trình quan sát càng cần thiết hơn, vì
quan sát là tri giác tích cực, có chủ định và có mục đích (tức là có ý thức).
Tính có ý thức, có mục đích, có chủ định đó được biểu đạt và điều khiển, điều
chỉnh chính nhờ ngôn ngữ. Không có ngôn ngữ thì tri giác của con người vẫn
là tri giác của động vật. Tính có ý nghĩa trong tri giác của con người là một
chất lượng mới làm cho tri giác người khác xa tri giác của con vật. Chất lượng
mới này chỉ được hình thành và được biểu đạt thông qua ngôn ngữ.
Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Sự tiếp
xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại trong chúng ta những ấn tượng,
những hình ảnh về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu
sắc đến mức có thể hiện lên trong ký ức của chúng ta ngay cả khi sự vật
không còn ở trước mắt. Trong biểu tượng chỉ lưu giữ lại những nét chủ yếu,
nổi bật nhất của sự vật do cảm giác, tri giác đem lại trước đó. Biểu tượng
9
thường được hiện ra khi có những tác nhân tác động, kích thích đến trí nhớ
con người. Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng, sự tưởng
tượng đã mang tính chủ động sáng tạo. Tưởng tượng có vai trò rất lớn trong
hoạt động sáng tạo khoa học.
Ngôn ngữ cũng giữ một vai trò to lớn trong tưởng tượng. Nó là những
phương tiện để hình thành biểu đạt và duy trì các hình ảnh của tưởng tượng.
Ngôn ngữ giúp ta làm chính xác hóa các hình ảnh của tưởng tượng đang nảy
sinh, tách ra trong chúng những mặt cơ bản nhất, gắn chúng lại với nhau, cố
định chúng lại bằng từ và lưu giữ chúng trong trí nhớ. Ngôn ngữ làm cho

tưởng tượng trở thành một quá trình ý thức, được điều khiển tích cực, có kết
quả và chất lượng cao.
Ngôn ngữ cũng có ảnh hưởng quan trọng đối với trí nhớ của con
người. Nó tham gia tích cực vào các quá trình trí nhớ, gắn chặt với các quá
trình đó. Việc ghi nhớ sẽ dễ dàng và có kết quả tốt hơn nếu ta nói lên thành
lời điều cần ghi nhớ. Không có ngôn ngữ thì không thể thực hiện sự ghi
nhớ có chủ định, sự ghi nhớ có ý nghĩa và kể cả sự ghi nhớ máy móc (học
thuộc lòng)… ngôn ngữ là một phương tiện để ghi nhớ, là một hình thức để
lưu giữ những kết quả cần nhớ. Nhờ ngôn ngữ con người có thể chuyển hẳn
những thông tin cần nhớ ra bên ngoài đầu óc con người. Chính bằng cách
này con người lưu giữ và truyền đạt được kinh nghiệm của loài người cho
thế hệ sau.
1.1.3. Vai trò của ngôn ngữ là không thể thiếu trong nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng) là giai đoạn tiếp
theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó xảy ra trên cơ sở nhận
thức cảm tính. Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người sẽ
rất hạn chế, bởi vì con người không thể bằng cảm giác mà hiểu được những
cái như: tốc độ ánh sáng, giá trị hàng hóa, quan hệ giai cấp,… Muốn hiểu
10
được những cái đó phải nhờ đến sức mạnh của tư duy trừu tượng.
Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực
khách quan. Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, được biểu đạt thành ngôn
ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy. Tư duy có tính năng động sáng
tạo, nó có thể phản ánh được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong
của sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Muốn tư duy, con người phải sử dụng
các PP như so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và trừu tượng hóa,…
Nhận thức lý tính, hay tư duy trừu tượng, được thể hiện ở các hình thức như
khái niệm, phán đoán, suy lý.
Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối
liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, các hiện

tượng nào đó. Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa học, là
những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng. Khái niệm là những phương tiện để
con người tích lũy thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau. Khái niệm
được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ các từ.
Ngôn ngữ như là một phương tiện thể hiện khái niệm làm cho sự học
của con người thoát khỏi sự ràng buộc với những kinh nghiệm cảm tính, với
những đồ vật riêng lẻ được tri giác trực tiếp và cho phép đưa vào sự học
những mối quan hệ, liên hệ chung, trừu tượng của sự vật, hiện tượng. Nhờ
ngôn ngữ mà các mối quan hệ đó của sự vật, hiện tượng được cố định lại và
tồn tại một cách khách quan, do đó được truyền lại cho người khác và cho các
thế hệ tiếp theo. Nắm được ngôn ngữ, con người nắm được một phương tiện
học tập vô cùng hiệu nghiệm, nhờ đó, con người nắm được những kinh
nghiệm quý báu trong nền văn hóa loài người, làm cơ sở quan trọng cho việc
biến đổi hành vi và hoạt động của mình phù hợp với việc giải quyết các
nhiệm vụ của cuộc sống trước mắt và lâu dài. Chính có ngôn ngữ như phương
tiện học tập độc đáo, con người học được tư duy, có được ý thức và những
11
phẩm chất tâm lý cao cấp và có được những hoạt động thực tế và lý luận.
Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng vận dụng các khái niệm
để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện
thực khách quan. Phán đoán là hình thức liên hệ giữa những khái niệm, phản
ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong ý thức của con người. Tuy
nhiên, phán đoán không phải là tổng số giản đơn của những khái niệm tạo
thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái niệm có sự liên hệ và phụ
thuộc lẫn nhau. Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các
mệnh đề theo những quy tắc văn phạm nhất định.
Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một
hay nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận. Suy lý
là sự liên hệ giữa các phán đoán, là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng
thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận thức

những cái chưa biết một cách gián tiếp. Có thể nói, toàn bộ các khoa học được
xây dựng trên hệ thống suy lý và nhờ suy lý mà con người ngày càng nhận
thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực khách quan.
Ngôn ngữ liên quan chặt chẽ với tư duy con người. Ngôn ngữ và tư duy
không có mối quan hệ song song. Ngôn ngữ không phải là tư duy và ngược
lại tư duy cũng không phải là ngôn ngữ. Mối quan hệ chặt chẽ giữa ngôn ngữ
với tư duy là ở chỗ tư duy dùng ngôn ngữ làm phương tiện, công cụ của tư
duy, chính nhờ điều này tư duy của con người khác về chất so với tư duy con
vật: con người có tư duy trừu tượng. Không có ngôn ngữ thì con người không
thể tư duy trừu tượng và khái quát được. Mối quan hệ không tách rời của tư
duy và ngôn ngữ được thể hiện trong ý nghĩa của các từ. Mỗi từ điều có quan
hệ với một lớp sự vật, hiện tượng nhất định và gọi tên sự vật, hiện tượng đó.
Khi gọi tên các sự vật, từ tựa như thay thế chúng và nhờ đó tạo ra những điều
kiện vật chất cho những hành động hay thao tác đặc biệt đối với các vật ấy kể
12
cả khi vật ấy vắng mặt (tức là thao tác với các vật thay thế, với ký hiệu từ ngữ
hay là với ngôn ngữ). Tuy nhiên, từ không chỉ gọi tên sự vật, nhờ vậy, tư duy
ngôn ngữ trừu tượng hóa được những thuộc tính, những bản chất của sự vật
và khái quát hóa được những thuộc tính bản chất của nó. Không có ngôn ngữ
thì không thể có tư duy khái quát - logic được.
Lời nói bên trong là công cụ quan trọng của tư duy, nhất là khi phải
giải quyết các nhiệm vụ khó khăn, phức tạp. Nếu nhiệm vụ quá phức tạp thì
ngôn ngữ bên trong chuyển thành lời nói bên ngoài. Người ta nói to lên thì
thấy tư duy rõ ràng và thuận lợi hơn. Nhưng điều đó chứng tỏ không có ngôn
ngữ, đặc biệt không có lời nói bên trong thì ý nghĩ, tư tưởng không hình thành
được, tức không thể tư duy trừu tượng được.
1.2. Khái niệm ngôn ngữ hóa học.
1.2.1. Ngôn ngữ hóa học là một phương tiện nhận thức trong khoa học và
dạy học.
Mỗi khoa học đều diễn đạt những kết quả nhận thức bằng ngôn ngữ

thuận tiện cho việc mô tả những kiến thức, phản ánh cái cơ bản và đặc trưng
của khoa học đó. Ngoài ngôn ngữ thông thường là những từ và câu, trong
thành phần của ngôn ngữ khoa học hóa học còn những phần rất đặc trưng: các
thuật ngữ hóa học, danh pháp và biểu tượng, thường gọi là “ngôn ngữ hóa
học”. Ngôn ngữ hoá học là sự tổng hoà của của các thuật ngữ, kí hiệu và danh
pháp, qui tắc thiết lập chung, sự giải thích thuyết minh và sử dụng chúng
trong việc mô tả, nhận thức các kiến thức hoá học.
Thuật ngữ hóa học là thành phần cơ sở của ngôn ngữ hóa học [38]
Thuật ngữ: từ ngữ biểu thị một khái niệm xác định thuộc hệ thống
những khái niệm của một ngành khoa học nhất định [Nguyễn Như Ý (chủ
biên), (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, trang 1599].
13
Thuật ngữ: Từ, ngữ biểu đạt các khái niệm chuyên môn khoa học, kỹ
thuật [Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Hoàng Phê (chủ biên), NXB
Đà nẵng – Trung tâm từ điển học, Hà nội – Đà nẵng. 2002. Trang 962].
Như vậy “Thuật ngữ hóa học dùng biểu thị một cách ngắn gọn các khái
niệm hóa học bằng ngôn ngữ riêng biệt. Thuật ngữ hóa học là hình thức ngôn
ngữ biểu thị các khái niệm hóa học. Dạng biểu thị cụ thể của thuật ngữ hóa
học là những từ và cụm từ”. Là hình thức của tư duy, khái niệm liên hệ mật
thiết với từ,… Từ là cơ sở vật chất của khái niệm, không có từ không thể hình
thành và sử dụng khái niệm,… Trong các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật khác
nhau người ta phải sử dụng các hệ thống thuật ngữ riêng biệt để biểu thị chính
xác các khái niệm”. Hệ thống các thuật ngữ hóa học biểu thị chính xác các
khái niệm hóa học.
Danh pháp hóa học: là những qui tắc gọi tên những nguyên tố, chất,
những hạt vi mô,… trong khoa học hóa học.
Biểu tượng hóa học: là những hình ảnh tượng trưng trong khoa học hóa
học (ký hiệu hóa học, công thức, phương trình, hình vẽ,…) là hệ thống những
quy ước khoa học nhằm khái quát hóa các đối tượng, hiện tượng, quy luật hóa
học, vạch ra một cách tổng quan những dấu hiệu cơ bản của các hiện tượng,

quá trình hóa học, chỉ ra mối liên hệ giữa mặt định tính và định lượng của
chúng. Nhờ các biểu tượng mà ngôn ngữ hóa học có thể diễn đạt những nội
dung tri thức phong phú một cách ngắn gọn, chính xác, thể hiện mức độ khái
quát cao trong việc phản ánh một cách tổng quát những khái niệm cơ bản,
những kiến thức đặc trưng của hóa học.
1.2.2. Ngôn ngữ hóa học là một phương tiện tích cực để nhận thức hóa
học.
Những kết quả được mô tả bằng ngôn ngữ hóa học đều thể hiện những
14
nội dung quan trọng, cơ bản của khoa học hóa học và mối quan hệ giữa
chúng.
Thay vì phải dùng nhiều ngôn từ miêu tả các sự vật, hiện tượng, quá
trình hóa học, diễn biến các phản ứng hóa học,… ngôn ngữ hóa học biểu thị
chúng một cách ngắn gọn dưới dạng những công thức, ký hiệu, phương trình,
sơ đồ, phản ánh nhiều mối quan hệ khác nhau giữa các đối tượng của hóa học
bằng những ký hiệu.
Trong ngôn ngữ hóa học, đặc biệt là các biểu tượng có thể phản ánh
cùng một lúc kết quả của tri thức và con đường để nhận thức các tri thức đó.
Ngôn ngữ hóa học còn sử dụng các ký hiệu của nó với ngôn ngữ của
khoa học khác: ký hiệu toán học, logic học, các đại lượng vật lý, các thuật
ngữ, khái niệm khoa học nói chung… tạo điều kiện thuận lợi cho sự mô tả các
đối tượng hóa học và các quy luật giữa chúng.
1.2.3. Các chức năng và nhiệm vụ nhận thức của ngôn ngữ hoá học.
1.2.3.1. Chức năng nhận thức của ngôn ngữ hoá học.
Những đặc trưng của ngôn ngữ hoá học cùng với sự định hướng có
tính chất phương pháp luận của nó cho phép ngôn ngữ hoá học thực hiện
được nhiều chức năng khác nhau trong nhận thức hóa học:
Cung cấp những thông tin về các chất và hiện tượng hóa học bằng các
từ ngữ và những dấu hiệu quy ước biểu thị các kết quả của nhận thức hóa học,
hình thành các khái niệm cơ bản về hóa học, cụ thể hóa các đại lượng trừu

tượng, không có trong ngôn ngữ thông thường (các loại liên kết hóa học, hóa
trị, số oxi hóa…).
Khái quát hóa, hệ thống hóa các tri thức, dự đoán các chất mới và mô
hình hóa con đường tìm ra chúng.
15
Đơn giản hóa các thao tác của hoạt động trí óc, giảm bớt khối lượng ghi
nhớ, tổ chức một cách hợp lý các thao tác tư duy, kích thích việc tìm tòi sáng
tạo.
Cho phép các nhà hóa học có được trình độ giao tiếp ở trình độ quốc tế
do sự quốc tế hóa của ngôn ngữ hoá học.
1.2.3.2. Các nhiệm vụ của ngôn ngữ hoá học.
- Thay thế đối tượng hoá học và thể hiện, truyền đạt thông tin về chúng.
- Đánh dấu đối tượng một cách ngắn gọn và có một nghĩa.
- Biểu thị định lượng và định tính kết quả nhận thức.
- Hình thành khái niệm, khái quát, hệ thống hoá kiến thức.
- Giảm nhẹ trí nhớ, đơn giản hoá hoạt động trí tuệ của học sinh.
- Thiết lập các mối quan hệ liên môn, phát triển tư duy cho học sinh.
- Giúp cho việc tối ưu hoá quá trình nắm vững kiến thức, tích cực hoá
hoạt động tư duy của học sinh.
- Ngôn ngữ hoá học là phương tiện quan trọng của việc dạy học hoá
học góp phần tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ dạy học.
1.2.4. Đặc điểm của ngôn ngữ hoá học.
- Ngắn gọn, có một nghĩa, chính xác, có khả năng sáng tạo lớn.
- Là phương tiện mô tả sự nhận thức và kết quả nhận thức hoá học.
- Cho phép mô tả các mặt khác nhau và quan hệ của các đối tượng
nghiên cứu của hoá học một cách ngắn gọn.
- Cho phép phản ánh kết quả sự nhận thức và con đường nhận thức hoá
học.
- Ngôn ngữ hoá học còn đồng hoá các dấu hiệu của khoa học khác: kí
hiệu của toán học, vật lí

1.2.5. Vai trò của ngôn ngữ hoá học trong trong chương trình hoá học phổ
thông[23].
16
Ngôn ngữ hoá học cần phản ánh ba mặt sau :
Ngữ nghĩa của từ : Thiết lập mối quan hệ giữa kí hiệu và đối tượng hoá
học mà chúng biểu thị.
Về mặt ngữ pháp : Các kiến thức về qui tắc, cách viết, sự phát âm các
kí hiệu, công thức, phương trình, thuật ngữ và tên gọi hoá học.
Về mặt thực tiễn : Trang bị phương pháp, cách thức trình bày kiến thức
hoá học bằng ngôn ngữ hoá học và đảm bảo sự giao tiếp bằng ngôn ngữ ở các
dạng giao dịch (đọc, viết, nghe, nói )
1.2.5.1. Ngôn ngữ hoá học làm tối ưu hóa quá trình lĩnh hội môn hóa học,
phát triển tư duy. Vai trò của ngôn ngữ hoá học trong nhiệm vụ giáo dục tư
tưởng đạo đức học sinh.
Ngôn ngữ hoá học được sử dụng trong toàn bộ các giai đoạn của quá
trình dạy học môn hóa học với các chức năng đa dạng. Với sự hỗ trợ của ngôn
ngữ hoá học, nội dung hóa học nhà trường được truyền đạt và lĩnh hội, hình
thành những khái niệm hóa học, những phương pháp nhận thức đặc trưng của
bộ môn, hình thành mối liên hệ nội môn và liên môn, phát triển tư duy của
học sinh và hình thành thế giới quan duy vật biện chứng cho học sinh.
Ngôn ngữ hoá học tham gia vào tri thức kinh nghiệm, vào sự khái quát
hóa và hệ thống hóa các kết quả của khoa học hóa học, có vai trò to lớn trong
phương pháp nhận thức hóa học. Để khái quát các tri thức lý thuyết, các biểu
tượng, các ký hiệu như: sơ đồ liên kết của phân tử các chất, hệ thống tuần
hoàn các nguyên tố hóa học, những ghi chép về tính chất chung, những công
thức chung của các hợp chất, các ion, các phương trình phản ứng hóa học,…
được sử dụng rộng rãi.
Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hóa học và vận dụng chúng trong những
tình huống khác nhau là tiêu chuẩn không chỉ của việc nắm vững kiến thức
17

hóa học mà còn là tiêu chuẩn của sự phát triển tư duy học sinh. Tất cả các kỹ
năng hoạt động với ngôn ngữ hoá học đều liên quan đến hoạt động trí tuệ. Sự
so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa, mã hóa bằng các ký hiệu, mô hình
hóa,… đều thuộc về các trình độ nắm vững ngôn ngữ hoá học.
Các kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ hoá học cho phép thực hiện các hoạt
động nhận thức một cách có hiệu quả: tìm hiểu tính chất các chất, các khuynh
hướng của phản ứng hóa học, giải thích bản chất các hiện tượng, quá trình hóa
học, giải các bài toán hóa học và mô hình hóa các kết quả thu được.
Cùng với các hoạt động tự lập trong học tập, trên cơ sở nắm vững ngôn
ngữ hoá học sinh còn làm quen với hoạt động sáng tạo trong nhận thức hóa
học.
Ngôn ngữ hoá học chứa đựng trong nó những khả năng lớn trong việc
thực hiện chức năng giáo dục trong dạy học hoá học.
Ngôn ngữ hoá học có thể sử dụng như một phương tiện hữu hiệu để
hình thành thế giới quan khoa học cho học sinh. Để thực hiện được nhiệm vụ
này, quá trình dạy học hóa học phải đảm bảo sự thống nhất giữa ý nghĩa về
mặt nội dung và hình thức của hệ thống ký hiệu của ngôn ngữ hoá học. Nếu
không có sự thống nhất này thì những nghiên cứu TN của thế giới vật chất và
sự phát triển của nó sẽ mâu thuẫn với các nội dung trừu tượng của các khái
niệm, dẫn đến sai lệch về thế giới quan trong nhận thức của HS. Ngôn ngữ
hoá học được hình thành một cách đúng đắn sẽ là phương tiện có hiệu quả,
tiện lợi để khẳng định những thuộc tính của thế giới vật chất: tính thống nhất,
tính đa dạng, các quy luật vận động, sự phát triển biện chứng,…
Ngôn ngữ hoá học giúp học sinh nhận thức được ý nghĩa khách quan và
khả năng phán đoán của lý thuyết trong việc nhận thức thế giới khách quan.
Việc vận dụng ngôn ngữ hoá học giáo dục cho học sinh nhiều phẩm chất con
người như: hình thành kỹ năng học tập, hình thành hứng thú với môn học,
18
giáo dục cho học sinh cách diễn đạt suy nghĩ của mình một cách chính xác, từ
đó, giúp học sinh hình thành nhiều tính cách tốt như có thói quen tự lực trong

học tập và lao động, tính chính xác, yêu khoa học,…
Những điều trình bày trên đây cho phép kết luận: Ngôn ngữ hoá học là
một trong những phương tiện quan trọng nhất trong dạy học hoá học, tham
gia tích cực vào việc trang bị kiến thức, giáo dục tư tưởng và phát triển những
năng lực nhận thức cho học sinh.
1.2.5.2. Ngôn ngữ hoá học làm tối ưu hóa quá trình lĩnh hội môn hóa học,
phát triển tư duy. Vai trò của ngôn ngữ hoá học trong nhiệm vụ giáo dục tư
tưởng đạo đức học sinh.
Ngôn ngữ hoá học được sử dụng trong toàn bộ các giai đoạn của quá
trình dạy học môn hóa học với các chức năng đa dạng. Với sự hỗ trợ của ngôn
ngữ hoá học, nội dung hóa học nhà trường được truyền đạt và lĩnh hội, hình
thành những khái niệm hóa học, những phương pháp nhận thức đặc trưng của
bộ môn, hình thành mối liên hệ nội môn và liên môn, phát triển tư duy của
học sinh và hình thành thế giới quan duy vật biện chứng cho học sinh.
Ngôn ngữ hoá học tham gia vào tri thức kinh nghiệm, vào sự khái quát
hóa và hệ thống hóa các kết quả của khoa học hóa học, có vai trò to lớn trong
phương pháp nhận thức hóa học. Để khái quát các tri thức lý thuyết, các biểu
tượng, các ký hiệu như: sơ đồ liên kết của phân tử các chất, hệ thống tuần
hoàn các nguyên tố hóa học, những ghi chép về tính chất chung, những công
thức chung của các hợp chất, các ion, các phương trình phản ứng hóa học,…
được sử dụng rộng rãi.
Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hóa học và vận dụng chúng trong những
tình huống khác nhau là tiêu chuẩn không chỉ của việc nắm vững kiến thức
hóa học mà còn là tiêu chuẩn của sự phát triển tư duy học sinh. Tất cả các kỹ
19
năng hoạt động với ngôn ngữ hoá học đều liên quan đến hoạt động trí tuệ. Sự
so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa, mã hóa bằng các ký hiệu, mô hình
hóa,… đều thuộc về các trình độ nắm vững ngôn ngữ hoá học.
Các kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ hoá học cho phép thực hiện các hoạt
động nhận thức một cách có hiệu quả: tìm hiểu tính chất các chất, các khuynh

hướng của phản ứng hóa học, giải thích bản chất các hiện tượng, quá trình hóa
học, giải các bài toán hóa học và mô hình hóa các kết quả thu được.
Cùng với các hoạt động tự lập trong học tập, trên cơ sở nắm vững ngôn
ngữ hoá học học sinh còn làm quen với hoạt động sáng tạo trong nhận thức
hóa học.
Ngôn ngữ hoá học chứa đựng trong nó những khả năng lớn trong việc
thực hiện chức năng giáo dục trong dạy học hoá học.
Ngôn ngữ hoá học có thể sử dụng như một phương tiện hữu hiệu để
hình thành thế giới quan khoa học cho học sinh. Để thực hiện được nhiệm vụ
này, quá trình dạy học hóa học phải đảm bảo sự thống nhất giữa ý nghĩa về
mặt nội dung và hình thức của hệ thống ký hiệu của ngôn ngữ hoá học. Nếu
không có sự thống nhất này thì những nghiên cứu TN của thế giới vật chất và
sự phát triển của nó sẽ mâu thuẫn với các nội dung trừu tượng của các khái
niệm, dẫn đến sai lệch về thế giới quan trong nhận thức của HS. Ngôn ngữ
hoá học được hình thành một cách đúng đắn sẽ là phương tiện có hiệu quả,
tiện lợi để khẳng định những thuộc tính của thế giới vật chất: tính thống nhất,
tính đa dạng, các quy luật vận động, sự phát triển biện chứng,…
Ngôn ngữ hoá học giúp học sinh nhận thức được ý nghĩa khách quan và
khả năng phán đoán của lý thuyết trong việc nhận thức thế giới khách quan.
Việc vận dụng ngôn ngữ hoá học giáo dục cho học sinh nhiều phẩm chất con
người như: hình thành kỹ năng học tập, hình thành hứng thú với môn học,
giáo dục cho học sinh cách diễn đạt suy nghĩ của mình một cách chính xác, từ
20
đó, giúphọc sinh hình thành nhiều tính cách tốt như có thói quen tự lực trong
học tập và lao động, tính chính xác, yêu khoa học,…
Những điều trình bày trên đây cho phép kết luận: Ngôn ngữ hoá học là
một trong những phương tiện quan trọng nhất trong dạy học hoá học, tham
gia tích cực vào việc trang bị kiến thức, giáo dục tư tưởng và phát triển những
năng lực nhận thức cho học sinh.
1.2.6. Nguyên tắc hình thành ngôn ngữ hoá học ở trường THCS.

* Nguyên tắc 1: Kế thừa và phát triển.
Kiến thức hóa học ở trường THCS là một hệ thống các kiến thức và
ngôn ngữ hóa học cơ bản liên quan chặt chẽ với nhau để phát triển. Vì vậy
cần quán triệt nguyên tắc kế thừa và phát triển trong việc hình thành một ngôn
ngữ hóa học.
Để hình thành một ngôn ngữ hóa học mới, trước tiên cần dựa và yêu
cầu của chương trình, rồi xét xem ngôn ngữ hóa học mới này dựa trên những
kiến thức nào, khái niệm cơ bản nào đã học, tiến hành ôn tập kỹ các kiến thức,
các khái niệm đó mà hình thành ngôn ngữ hóa học mới cho học sinh.
Theo nguyên tắc này, các khái niệm có thể phát triển theo 3 con đường
cơ bản sau đây:
a. Hình thành ngôn ngữ hóa học.
Đây là giai đoạn hình thành biểu tượng đầu tiên các ngôn ngữ hóa học.
Nhằm giúp học sinh nắm được các ngôn ngữ hóa học, giáo viên cần thực hiện
thông qua các thao tác tư duy sau:
- Phân tích, tổng hợp và so sánh các đối tượng, các khái niệm đã biết.
- Khái quát hóa và trừu tượng hóa.
- Suy lý quy nạp (phép quy nạp).
- Suy lý diễn dịch (phép diễn dịch).
- Loại suy (suy lý tương tự).
21
b. Phát triển ngôn ngữ hóa học.
Theo 3 con đường cơ bản sau đây:
b.1. Đào sâu bản chất của ngôn ngữ hóa học, tăng nội dung, tăng cường
độ bằng cách tìm ra quy luật mới ở bên trong của ngôn ngữ hoặc có thể biến
đổi mối liên hệ giữa các thành tố của ngôn ngữ .
b.2. Mở rộng ngôn ngữ hóa học bằng cách tăng ngoại diên.
b.3. Có sự phát triển kế thừa các lý thuyết
c. Liên kết (hoàn thiện) các khái niệm.
Đây là bước nhằm hoàn thiện các khái niệm, đặt khái niệm đó nằm

trong một sự thống nhất, trong mối liên hệ qua lại giữa các khái niệm trên cơ
sở của một lý thuyết chủ đạo.
* Nguyên tắc 2: Hình thành bằng định nghĩa.
Định nghĩa có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành ngôn ngữ
hóa học cơ bản cho học sinh.
Theo logic học: Định nghĩa là tách các sự vật cần định nghĩa ra khỏi sự
vật tiếp cận với nó và chỉ rõ thuộc tính bản chất (tức nội hàm) của nó [28, tr
56]. Nhờ đó định nghĩa nêu lên được những khía cạnh cơ bản nhất, chung
nhất và quyết định nhất của ngôn ngữ hoá học được nghiên cứu.
Một ngôn ngữ hóa học khi đã định nghĩa, dù chỉ là những nét đại cương
thì không những dễ nghiên cứu những ngôn ngữ hóa học khác có liên quan.
* Nguyên tắc 3: Hình thành bằng trực quan.
Theo quy luật nhận thức, ngôn ngữ hóa học được hình thành bằng con
đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
Thực tế cho thấy rằng: Các phương tiện trực quan giúp học sinh hiểu,
nắm vững và vận dụng các ngôn ngữ hóa học tốt hơn nhiều so với mô tả bằng
lời.
* Nguyên tắc 4: Hình thành trên cơ sở tích cực và tự giác của học sinh.
22
Tâm lý học và lí luận dạy học hiện đại khẳng định: con đường hiệu quả
nhất để làm cho học sinh nắm vững kiến thức và phát triển được năng lực
sáng tạo là phải đưa học sinh vào vị trí của chủ thể hoạt động nhận thức,
thông qua hoạt động tự lực của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển
năng lực sáng tạo và hình thành quan điểm đạo đức [8 , tr 221].
Như vậy có thể kết luận rằng: chỉ có trên cơ sở tích cực, tự giác và tự
lực của học sinh thì một ngôn ngữ hóa học mới được hình thành vững chắc.
1.3. Dạy học tích cực [11].
1.3.1. Khái niệm phương pháp dạy học tích cực.
Phương pháp dạy học tích cực là khái niệm nói tới những phương pháp
giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của

người học. Vì vậy phương pháp dạy học tích cực thực chất là các PPDH
hướng tới việc giúp HS học tập chủ động, tích cực, sáng tạo chống lại thói
quen học tập thụ động.
Phương pháp dạy học tích cực chú trọng đến hoạt động học, vai trò của
người học trong quá trình dạy học theo các quan điểm, tiếp cận mới về hoạt
động về dạy hoc như:” Lấy người học là trung tâm”; “Hoạt động hoá người
học”; “Kiến tạo theo mô hình tương tác”
1.3.2. Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực.
- Những PPDH có chú trọng đến việc tổ chức, chỉ đạo để người học trở
thành chủ thể hoạt động, tự khám phá những kiến thức mà mình chưa biết.
- Những PPDH có chú trọng đến việc rèn luyện kĩ năng, PP và thói quen
tự học từ đó mà tạo cho HS sự hứng thú, lòng ham muốn, khát khao học tập,
khởi động lòng ham muốn vốn có trong mỗi HS để giúp họ dễ dàng thích ứng
với cuộc sống của xã hội phát triển, XH tri thức.
- Những PPDH chú trọng đến việc tăng cường học tập cá thể, phối hợp
với học tập hợp tác theo nhóm, lớp học.
23
- Những PPDH có sự phối hợp sử dụng rộng rãi các phương tiện trực
quan, nhất là các phương tiện kĩ thuật nghe nhìn như: máy vi tính, các phần
mềm dạy học đáp ứng yêu cầu cá thể hoá hoạt động học tập theo năng lực
và nhu cầu của mỗi HS, giúp các em tiếp cận được với các phương tiện kĩ
thuật hiện đại trong xã hội phát triển.
- Những PPDH có sử dụng các PP kiểm tra đánh giá đa dạng khách quan,
tạo điều kiện để HS được tham gia tích cực vào hoạt động tự đánh giá và đánh
giá lẫn nhau.
1.3.3. Một số phương pháp dạy học hoá học theo hướng dạy học tích cực.
1.3.3.1. Phương pháp vấn đáp tìm tòi (đàm thoại Ơrixtic).
Giáo viên tổ chức trao đổi ý kiến - kể cả tranh luận giữa GV với cả lớp,
giữa trò với trò, thông qua đó mà HS nắm được tri thức mới.
Trong vấn đáp tìm tòi, hệ thống câu hỏi do GV đặt ra giữ vai trò chỉ đạo,

quyết định chất lượng lĩnh hội của lớp học. Trật tự logic của các câu hỏi
hướng dẫn HS từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính qui luật của
hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham muốn hiểu biết. GV gíống
như người tổ chức sự tìm tòi, còn HS thì giống như người tự lực phát hiện
kiến thức mới. Khi kết thúc cuộc đàm thoại HS có được niềm vui của sự
khám phá. HS vừa nắm được kiến thức mới, vừa nắm được phương pháp
nhận thức và phát triển tư duy. GV cần vận dụng các ý kiến của HS để kết
luận vấn đề đặt ra có sự bổ sung, chỉnh lí. Như vậy HS sẽ hứng thú tự tin hơn
vì thấy rằng trong kết luận của thầy có phần đóng góp ý kiến của mình.
1.3.3.2. Dạy học nêu và giải quyết vấn đề.
Trong xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường với sự cạnh
tranh gay gắt thì khả năng phát hiện sớm và giải quyết hợp lí những vấn đề
nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực cần thiết đảm bảo sự thành đạt trong
cuộc sống. Vì vậy tập cho HS biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những vấn
24
đề cần nhận thức trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng
đồng không chỉ có ý nghĩa ở tầm PPDH mà phải được đặt ra trong mục tiêu
đào tạo của giáo dục phổ thông.
Nét đặc trưng của dạy học nêu và giải quyết vấn đề là sự lĩnh hội kiến thức
diễn ra thông qua quá trình giải quyết vấn đề.
Cấu trúc một bài học (hoặc 1 phần trong bài học) theo dạy học nêu và giải
quyết vấn đề thương gồm các bước:
1. Đặt vấn đề - xây dựng bài toán nhận thức.
a. Tạo tình huống có vấn đề.
b. Phát hiện và nhận dạng vấn đề nảy sinh.
c. Phát biểu vấn đề cần giải quyết.
2. Giải quyết vấn đề đặt ra.
a. Đề xuất các giả thuyết.
b. Lập kế hoạch giải quyết vấn đề (theo các giả thuyết đặt ra)
c. Thực hiện kế hoạch giải.

3. Kết luận.
a. Thảo luận kết quả và đánh giá.
b. Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đã nêu.
c. Phát biểu kết luận.
d. Đề xuất vấn đề mới.
Khâu quan trọng của PPDH này là tạo tình huống có vấn đề, điều chưa biết
là yếu tố trung tâm gây ra sự hứng thú nhận thức, kích thích tư duy, tính tự
giác tích cực trong hoạt động nhận thức của HS. Trong dạy học hoá học GV
có thể sử dụng thí nghiệm hoá học, bài tập nêu vấn đề để tạo tình huống có
vấn đề.
Như vậy trong dạy học nêu và giải quyết vấn đề GV đưa HS vào các tình
huống có vấn đề rồi giúp HS tự lực giải quyết vấn đề đặt ra. Bằng cách đó HS
25

×