Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Một số tiềm năng hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.15 KB, 38 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời nói đầu
Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước,
trong tiến trình hội nhập sâu và rộng với thế giới bên ngoài. Hà Nội là thủ đô
của cả nước, là đô thị lớn cũng đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa diễn ra mạnh mẽ. Trong quá trình đó, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và
nông thôn cũng được chuyển dịch từ trọng tâm là sản xuất lương thực, thực
phẩm sang sản xuất thực phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao, chất lượng cao,
an toàn và bảo vệ môi trường và tạo cảnh quan, phát triển theo hướng nông
nghiệp đô thị sinh thái.
Trong những năm qua Đảng và Chính phủ đã quan tâm đặc biệt đến Thủ đô
Hà Nội. Nghị quyết 15 NQ/TW của Bộ Chính trị, Pháp lệnh thủ đô Hà Nội đã
đặt ra nhiệm vụ xây dựng Thủ đô, trong đó yêu cầu Hà Nội đi đầu trong quá
trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Thành uỷ, HĐND, UBND đã chỉ đạo nghiên cứu ban hành các chương
trình, kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn như: Chương trình 06/CTr-
TU, chương trình 12/CTr-TU...
Trong bối cảnh đó việc đánh giá, nhận thức đúng vai trò, tác dụng của các
tiềm năng phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói
riêng là rất quan trọng và cần thiết đối với việc phát triển kinh tế nông nghiệp,
đặc biệt là kinh tế trang trại, vì kinh tế trang trại là hình thức sản xuất nông
nghiệp hướng tới sản xuất hàng hoá, là hình thức sản xuất chủ đạo của một
nền nông nghiệp hiện đại mà Đảng và nhà nước đã và đang hướng tới. Chính
vì lý do đó mà em chọn đề tài: “Một số tiềm năng hình thành và phát triển
kinh tế trang trại ở Hà Nội”.
Để có thể có được đề án như hôm nay ngoài sự tìm tòi tra cứu tài liệu tham
khảo cùng kiến thức bản thân tích luỹ được trong quá trình học tập tại khoa
Kinh tế NN&PTNT, em còn được sự tư vấn, hướng dẫn và gợi ý tận tình của
cô Minh, giảng viên của khoa. Mặc dù vậy, bài viết đề án của em vẫn còn
nhiều hạn chế và khiếm khuyết. Em mong được sự chỉ bảo của các thầy cô để
cho bài viết hoàn chỉnh hơn cũng như em có thể hoàn thiện hơn trong việc


viết bài trong kỳ thực tập sắp tới.
Em xin chân thành cảm ơn!
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
I.LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI:
1.Khái niệm, vị trí, vai trò của kinh tế trang trại:
a.Khái niệm kinh tế trang trại và các đặc trưng:
*Khái niệm kinh tế trang trại:
Hiện nay, trong các tài liệu nghiên cứu, trang trại và kinh tế trang trại
được nhìn nhận dưới nhiều quan điểm khác nhau, nhưng chúng đều có những
điểm chung như sau:
Trang trại là một cơ sở sản xuất- kinh doanh hàng hoá trong nông, lâm,
ngư nghiệp. Có nguồn gốc hình thành và phát triển từ kinh tế nông hộ nhưng
ở vào giai đoạn có trình độ tổ chức quản lý sản xuất hàng hoá cao hơn. Khai
thác và sử dụng các nguồn lực kinh tế ở địa phương (đất đai, vốn, lao động,
ứng dụng khoa học công nghệ). Hoạt động sản xuất- kinh doanh luôn gắn liền
với nền kinh tế thị trường.
Nguồn gốc sở hữu của trang trại thuộc thành phần kinh tế tư nhân là chủ
yếu, song do sự tác động của kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế nên
nó ngày càng mở rộng ra nhiều hình thức sở hữu, từ một thành phần kinh tế
đến nhiều thành phần kinh tế.
Ngoài ra, lĩnh vực hoạt động của trang trại không chỉ bó hẹp trong sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp, mà còn mở rộng thêm một số hoạt động kinh
doanh dịch vụ hỗ trợ các yếu tố đầu vào, đầu ra và các hoạt động chế biến
nhằm tăng thu nhập.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, có thể nói khái
niệm về trang trại như sau:
“Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, ngư
nghiệp có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc
quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của người chủ độc lập, sản xuất được tiến

hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung tương đối
lớn, với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động
tự chủ và luôn gắn với thị trường.”
*Đặc trưng của kinh tế trang trại là những khác biệt giữa kinh tế trang trại
so với các hình thức kinh tế khác trong nông-lâm-ngư nghiệp:
Mục đích của kinh tế trang trại là sản xuất nông phẩm theo nhu cầu của
thị trường. Mục đích của hộ nông dân là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính
họ về các loại nông sản. Quy mô của trang trại có sự khác biệt so với các hộ
sản xuất tự cấp, tự túc của hộ nông dân, nó có quy mô tương đối lớn, và trình
độ sản xuất hàng hoá cao. Sản xuất hàng hoá là điểm khác biệt cơ bản của
kinh tế trang trại so với các hình thức sản xuất nông nghiệp trước đây và cũng
là nhân tố quyết định các đặc trưng khác của kinh tế trang trại.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tư liệu sản xuất trong trại trại thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng
của một người chủ. Nói chung trong trại trại, các tư liệu thuộc quyền sở hữu
của người chủ trang trại, những tư liệu đi thuê, mượn không thuộc quyền sở
hữu thì người chủ trang trại lại được quyền sử dụng trong thời gian thuê
mượn.
Trong trang trại, các yếu tố sản xuất, trước hết là ruộng đất, tiền vốn
được tập trung trước hết cho yêu cầu phát triển sản xuất nông sản hàng hoá.
Sản xuất hàng hoá yêu cầu các yếu tố sản xuất được tập trung tới một mức độ
nhất định thì mới có thể thoát khỏi tự túc, tự cấp. Tuy nhiên, tuỳ theo phương
hướng sản xuất và điều kiện cụ thể của từng vùng mà mức độ tập trung các
yếu tố sản xuất cũng khác nhau.
Trang trại có cách thức tổ chức sản xuất và quản lý sản xuất tiến bộ dựa
trên cơ sở sản xuất ngày càng đi vào chuyên môn hoá, thâm canh, ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật, từng bước thực hiện kế hoạch và ngày càng gắn với thị
trường. Việc thâm canh, chuyên môn hoá càng được các trang ftrại coi trọng
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời các hoạt động của

trang trại ngày càng xuất phát từ nhu cầu thị trường về nông sản phẩm và
hướng vào đáp ứng nhu cầu thị trường.
Chủ trang trại là người có ý chí, có khả năng tổ chức quản lý, có kinh
nghiệm tổ chức sản xuất và hiểu biết nhất định về sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên, phần lớn các tố chất đó nói chung chưa hội đủ ở người chủ trang trại
khi mới thành lập trang trại mà đều phải trải qua một quá trình nhất định gắn
liền với việc tạo lập, xây dựng và phát triển trang trại.
b.Vai trò, vị trí của kinh tế trang trại:
*Ở nước ta hiện nay, mặc dù mới phát triển trong những năm gần đây
nhưng kinh tế trang trại đã thể hiện là một hình thức sản xuất có vị trí quan
trọng và đã thể hiện vai trò tích cực cả về mặt kinh tế và xã hội:
Về kinh tế, trên nhiều vùng trang trại đã góp phần phát triển các loại cây
trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, khắc phục dần tình trạng sản xuất phân
tán, manh mún. Phát triển kinh tế trang trại ở nước ta bước đầu đã đóng vai
trò quan trọng trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nông thôn do đã
biết khai thác và hiệu quả các nguồn lực trong nông nghiệp, nông thôn.
Về mặt xã hội, phát triển kinh tế trang trại góp phần tạo thêm việc làm,
tăng thêm thu nhập cho lao động trong nông thôn. Mặt khác, phát triển kinh tế
trang trại còn thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng trong nông thôn, làm gương
cho các hộ nông dân về cách thức tổ chức quản lý sản xuất góp phần vào việc
thay đổi diện mạo nông thôn ở nhiều nơi.
Về mặt môi trường, nhìn chung phát triển kinh tế trang trại có tác dụng
bảo vệ môi trường. Các chủ trang trại có ý thức khai thác hợp lý và quan tâm
bảo vệ các yếu tố môi trường: đất đai, nguồn nước, bảo vệ rừng do sản xuất tự
chủ và vì lợi ích thiết thực của họ.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2.Chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế trang trại:
*Mốc quan trọng có ý nghĩa to lớn là Nghị quyết số 10/NQ-TƯ ngày 5-4-
1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.

Nghị quyết 10 khoán sản phẩm đến hộ và nhóm hộ xã viên; diện thích
giao khoán cho hộ ổn định đến 15 năm; mức khoán ổn định 5 năm và chỉ sửa
đổi mức khoán khi điều kiện vật chất-kỹ thuật đã thay đổi; phần sản phẩm
vượt khoán thuộc về hộ nông dân, hộ nông dân có toàn quyền sử dụng hoặc
bán nơi nào có lợi.
*Hội nghị BCH Trung ương lần 6 (khóa VI) tháng 3-1989 đã chính thức
xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ.
*Nghị quyết hội nghị BCH Trung ương lần 5 (khóa VII) ghi rõ: “Nhà nước
khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, tư nhân trong nông, lâm, ngư
nghiệp...”.
*Tháng 7-1993, luật đất đai mới được ban hành thay thế luật đất đai năm
1988:
Ruộng đất được giao cho hộ nông dân sử dụng ổn định, lâu dài. Người
sử dụng đất có các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và
thế chấp quyền sử dụng đất trong thời hạn được giao. Việc này đã tạo điều
kiện cơ bản để kinh tế hộ chuyển sang một bước phát triển mới.
*Tháng 11-1998, hội nghị Bộ Chính trị về nông nghiệp, nông thôn đã đề ra
chủ trương khuyến khích các cá nhân, các hộ nông dân phát triển trang trại kể
cả trang trại tư nhân có quy mô lớn.
*Ngày 2-2-2000, Chính phủ ra nghị quyết 03/2000/NQ-CP về kinh tế trang
trại nêu rõ:
Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông
nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm mở rộng quy mô và
nâng cao hiệu quả khu vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản.
Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai,
vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, góp phần phát triển nông nghiệp bền
vững; tạo việc làm, tăng thu nhập; khuyến khích làm giàu đi đôi với xóa đói
giảm nghèo, phân bố lại lao động, dân cư, xây dựng nông thôn mới.
Quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất hình thành trang trại gắn liền
với quá trình phân công lại lao động trong nông thôn, từng bước chuyển lao

động sang các lĩnh vực phi nông nghiệp, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông
thôn.
3.Xu hướng hình thành và phát triển kinh tế trang trại:
a.Xu hướng hình thành:
*Tùy điều kiện cụ thể từng nơi mà trang trại có thể được hình thành theo
một trong các xu hướng chủ yếu sau:
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Các hộ nông dân đi xây dựng kinh tế mới hoặc các hộ nông dân địa
phương được giao đất sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp với quy mô đủ lớn lập
thành các trang trại nuôi trồng gia súc, thủy sản…
Các hộ nông dân tập trung ruộng đất qua hình thức chuyển nhượng, trao
đổi để có thể liền khoảnh, liền thửa, có quy mô ruộng đất đủ lớn tiến hành sản
xuất theo hình thức trang trại. Đây là xu hướng phổ biến hiện nay, và đang là
một trong những chủ trương của Đảng và nhà nước trong chiến lược cải cách
ruộng đất.
Các tổ chức, cá nhân nhận thầu diện tích đất của nhà nước lập trang trại
chăn nuôi, nuôi trồng…
Một số ít người ở thành thị về nông thôn nhận chuyển nhượng đất, thuê
đất lập trang trại.
b.Xu hướng phát triển:
*Nhìn chung các trang trại ở nước ta sẽ phát triển theo xu hướng sau:
Tích tụ và tập trung sản xuất: Sau khi hình thành các trang trại vẫn tiếp
tục quá trình tích tụ nhằm tập trung sản xuất nhằm mở rộng quy mô và nâng
cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh. Quá trình này chủ yếu là tích tụ
vốn, đầu tư thâm canh, ứng dụng khoa học công nghệ và tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất.
Chuyên môn hóa sản xuất: Do trang trại là sản xuất hàng hóa nên chuyên
môn hóa là điều kiện cần thiết, là xu hướng phát triển của kinh tế trang trại.
Tuy nhiên chuyên môn hóa phải kết hợp với đa dạng hóa nhằm sử dụng đầy

đủ các điều kiện nguồn lực sản xuất của trang trại, hạn chế tối đa những rủi do
có thể xáy ra: biến động thị trường, thiên tai, dịch bệnh…
Nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh sản xuất: Để trang trại phát
triển theo hướng sản xuất hàng hóa và nâng cao hiệu quả sản xuất đòi hỏi phải
không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật và thâm canh sản xuất. Đồng thời
đây cũng là điều kiện cần thiết để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh có
hiệu quả.
Hợp tác và cạnh tranh: Trong quá trình sản xuất kinh doanh các trang trại
cũng phải hợp tác với các trang trại khác, các đơn vị sản xuất kinh doanh khác
để cùng nhau giải quyết vấn đề mà một trang trại thì không thể làm được hoặc
giả quyết kém hiệu quả. Đồng thời các trang trại cũng phải cạnh tranh với các
trang trại kinh doanh cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực sản xuất với mình để
đảm bảo hàng hóa của mình sản xuất ra có thể tiêu thụ hết, muốn vậy phải
không ngừng nâng cao năng suất,chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất.
4.Một số nhân tố hình thành và phát triển kinh tế trang trại:
a.Các tiềm năng về điều kiện tự nhiên:
*Vị trí địa lý:
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hà Nội nằm giữa trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, giáp với Thái Nguyên ở
phía Bắc, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía đông và đông nam, giáp Vĩnh Phúc ở
phía tây, Hà Tây ở phía nam.
Dạng địa hình chủ yếu của Hà Nội là đồng bằng được bồi đắp bởi các
dòng sông với các bãi bồi đại, bãi bồi cao và các bậc thềm. Xen giữa các bãi
bồi đại và các bãi bồi cao còn có các vùng trũng với các hồ, đầm (dấu vết của
các lòng sông cổ) .
Phần lớn diện tích Hà Nội nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông
Hồng với độ cao trung bình từ 15m đến 20m so với mặt biển.
Còn lại chỉ có khu vực đồi núi ở phía bắc và phía tây bắc của huyện Sóc
Sơn thuộc rìa phía nam của dãy núi Tam Đảo có độ cao từ 20m đến hơn

400m, đỉnh Chân Chim cao nhất là 462m.
*Khí hậu:
Khí hậu Hà Nội là khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa
nhiều và mùa đông lạnh, mưa ít.
Nằm trong vùng nhiệt đới, Hà Nội quanh năm tiếp nhận được lượng bức
xạ mặt trời dồi dào và có nhiệt độ cao. Do chịu ảnh hưởng của biển, Hà Nội
có độ ẩm và lượng mưa khá lớn.
• Trung bình hằng năm, nhiệt độ không khí 23,6
o
C, độ ẩm 79%,
lượng mưa 1245 mm.
• Mỗi năm có khoảng 114 ngày mưa. Hà Nội có đủ bốn mùa xuân,
hạ, thu, đông. Sự luân chuyển của các mùa làm cho khí hậu Hà Nội thêm
phong phú, đa dạng và có những nét riêng.
• Từ tháng 5 đến tháng 8 là mùa hè: nóng và thi thoảng có mưa rào.
• Từ tháng 9 đến tháng 11 là mùa thu. Thời tiết khô ráo, trời cao,
xanh ngắt, gió mát, nắng vàng.
• Từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau là mùa đông: Thời tiết lạnh, khô
ráo.
• Từ tháng 2 đến tháng 4 là mùa xuân: Cây cối xanh tốt với hàng
ngàn loài hoa khoe sắc.
• Nhiệt độ thấp nhất là 2,70C (tháng 1/1955).
• Nhiệt độ cao nhất: 42,80C(tháng 5/1926).
*Sông ngòi:
Hà Nội là thành phố gắn liền với những dòng sông, trong đó sông Hồng
là lớn nhất. Sông Hồng bắt đầu từ dãy Ngụy Sơn (Trung Quốc), ở độ cao
1776m, chảy theo hướng tây bắc - đông nam vào Việt Nam từ Lào Cai và
chảy ra vịnh Bắc Bộ. Sông Hồng chảy qua Hà Nội dài khoảng 30 km.
Đê sông Hồng được đắp từ năm 1108, đoạn từ Nghi Tàm đến Thanh Trì,
gọi là đê Cơ Xá. Ngày nay sông Hồng ở Việt Nam có 1267 km đê ở cả hai

bên tả, hữu ngạn. Độ cao mặt đê tại Hà Nội là 14 m so với mặt nước biển.
Sông Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt đời sống cũng như trong
sản xuất. Lượng phù sa của sông Hồng rất lớn, trung bình 100 triệu tấn/năm.
Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vùng châu thổ. Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp cá giống đáng kể
cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ.
b.Các tiềm năng về kinh tế- xã hội:
Có nhiều tiềm năng thúc đẩy việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại
như: đất đai, vốn, nguồn nhân lực, hệ thống cơ chế chính sách, hệ thống cơ sở
hạ tầng, khoa học-kỹ thuật…nhưng ở đây em chỉ xem xét một số tiềm năng
dưới đây:
*Tiềm năng đất đai:
Đất đai là nguồn lực quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc hình
thành và phát triển của kinh tế trang trại. Mục đích chủ yếu của trang trại là
sản xuất hàng hóa, trang trại hoạt động sản xuất tập trung với quy mô ruộng
đất và các yếu tố khác là tương đối lớn vì vậy đối với trang trại đất đai có vai
trò hết sức quan trọng. Vai trò của chúng được thể hiện trên các mặt:
-Đất đai hoạt động với tư cách là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt
tham gia vào quá trình sản xuất, nhất là các sản phẩm của ngành trồng trọt.
Nó không chỉ quyết định quy mô của trang trại như thế nào mà còn quyết định
trang trại kinh doanh loại sản phẩm nào, chất lượng ra sao. Các trang trại chăn
nuôi tuy cần ít diện tích đất đai hơn nhưng cũng cần có diện tích quy hoạch
bãi chăn thả, trồng trọt để làm thức ăn cho gia súc.
-Đất đai còn là chỗ dựa, địa điểm tổ chức xây dựng các công trình phục
vụ sản xuất nông nghiệp, hoặc các công trình phục vụ cho quá trình hậu sản
xuất nông nghiệp như làm xưởng chế biến, nhà kho…
Đất đai có một số đặc điểm cơ bản sau:
-Đất đai là sản phẩm của tự nhiên đồng thời là sản phẩm của xã hội:

Đất đai là sản phẩm của tự nhiên vì đất đai có trước con người, đất đai
được sử dụng vào trong các ngành và trong đời sống xã hội là sản phẩm của
quá trình biến đổi lý hóa và các tác động tự nhiên.
Đất đai là sản phẩm của xã hội vì con người đã khai phá, chiếm hữu
đất đai, dùng đất đai vào hoạt động sản xuất nông nghiệp tạo ra của cải. Trong
quá trình đó con người làm giảm độ màu mỡ của chúng. Đất đai hiện tại là sự
kết tinh sức lao động của nhiều thế hệ qua quá trình canh tác, cải tạo và sử
dụng chúng.
-Đất đai có hạn về số lượng và khả năng tái tạo của đất đai là không có
giới hạn:
Đất đai có vị trí cố định và có hạn về số lượng, vì nó là lớp bề mặt của
vỏ trái đất. Đất đai có hạn về mặt số lượng đối với mỗi cơ sở kinh doanh, mỗi
địa phương, mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, do có khả năng tái tạo nên đất đai có sự biến động về chất
lượng mặc dù thường xuyên được sử dụng phục vụ các mục đích khác nhau
của con người. Khả năng tái tạo của đất thể hiện ở độ phì của đất. Đây là yếu
tố quyết định đến chất lượng đất, nó là tổng hợp các điều kiện đảm bảo cho
cây sinh trưởng và phát triển.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
-Chất lượng đất đai không đồng nhất và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên
của từng vùng:
Chất lượng của đất phụ thuộc vào độ phì của đất, độ phì của đất phị
thuộc vào nguồn gốc của đất và khả năng tái tạo đất đai của con người khi sử
dụng. Những nhân tố trên không đồng nhất với nhau nếu xét trên phạm vi
toàn thế giới, trong mỗi quốc gia hay trong mỗi vùng.
Ngoài ra, sự biến động và khai thác độ phì phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội của từng vùng, điều kiện tự nhiên các mùa khác nhau thì
khác nhau đồng thời chúng cũng khác nhau theo từng vùng.
*Tiềm năng về vốn:

Khái niệm về vốn của trang trại:
-Vốn sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền giá trị của tất cả các yếu
tố sản xuất được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh trang trại. Vốn
là yếu tố xuất hiện đầu tiên và các yếu tố khác trên cơ sở đó mới xuất hiện
được và quá trình sản xuất kinh doanh mới có thể thực hiện được. Trong quá
trình sản xuất kinh doanh vốn được vận động theo quá trình lưu thông và
quay trở lại quá trình sản xuất tiếp theo. Do đó về phương diện tài, quản lý
vốn trong sản xuất kinh doanh thực chất là quá trình quản lý tiền vốn sao cho
nó mang lại hiệu quả và hiệu xuất sinh lời cao nhất.
-Vốn của trang trại có thể tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau, trong
đó hình thái dễ nhận biết nhất của vốn là tiền mặt được sử dụng làm tiền vốn
trong kinh doanh. Tuy nhiên, phần lớn vốn của trang trại tồn tại dưới các hình
thái hiện vật. Đó là giá trị của các tư liệu sản xuất sử dụng trong sản xuất kinh
doanh của trang trại như: bất động sản, nhà xưởng, giá trị các sản phẩm đang
trong quá trình sản xuất dở dang. Ngoài ra vốn còn có thể là các sản phẩm sau
khi thu hoạch đang trong quá trình dự trữ, bảo quản hoặc sản phẩm đang
trong quá trình tiêu thụ.
Những đặc điểm của vốn:
-Trong sự cấu thàn vốn cố định, ngoài những tư liệu lao động có nguồn
gốc kỹ thuật còn có cả những tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học như cây
lâu năm, súc vật làm việc, súc vật sinh sản. Trên cơ sở tính quy luật sinh học,
các tư liệu lao động này thay đổi giá trị sử dụng của mình khác với các tư liệu
lao động có nguồn gốc kỹ thuật.
-Sự tác động của vốn sản xuất vào quá trình sản xuất và hiệu quả kinh
doanh không phải bằng cách trực tiếp mà thông qua đất, cây trồng, vật nuôi.
Cơ cấu và chất lường của vốn sản xuất phải phù hợp với yêu cầu từng loại đất
đai, từng đối tượng sản xuất là sinh vật.
-Chu kỳ sản xuất dài và tính thời vụ trong nông nghiệp, một mặt làm cho
sự tuần hoàn và luân chuyển vốn chậm chạp, kéo dài thời gian thu hồi vốn cố
định, tạo ra sự cần thiết phải dự trữ đáng kế trong thời gian tương đối dài của

vốn lưu động và làm cho vốn ứ đọng, mặt khác tạo ra sự cần thiết về khả năng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tập trung hóa cao về phương tiện kỹ thuật trên một lao động nông nghiệp so
với công nghiệp.
-Sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc vào nhiều điều kiện tự nhiên nên
việc sử dụng vốn gặp nhiều rủi ro, làm tổn thất hoặc giảm hiệu quả sử dụng
vốn.
-Một bộ phận sản phẩm của trang trại không qua lĩnh vực lưu thông mà
được chuyển trực tiếp làm tư liệu sản xuất cho bản thân trang trại, do vậy
vòng tuần hoàn vốn được chia làm vòng tuần hoàn đầy đủ và vòng tuần hoàn
không đầy đủ.
*Tiềm năng về lao động:
Lao động là hoạt động có mục đích của con người thông qua công cụ lao
động tác động đến đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng thành của cải vật
chất cần thiết cho nhu cầu của con người. Từ khái niệm trên, ta có thể thấy vai
trò quan trọng của lao động:
-Lao động là điều kiện chủ yếu cần thiết cho nhu cầu của con người, là
cơ sở của sự tiến bộ về kinh tế, văn hóa và xã hội. Trong bất cứ một quá trình
sản xuất kinh doanh nào cũng đều có lao động, đối tượng lao động và tư liệu
lao động. Sản xuất kinh doanh không thể tiến hành được nếu thiếu đối tượng
lao động và tư liệu lao động, tuy nhiên, nếu không có lao động của con người
thì cũng không thể phát huy được tác dụng của tư liệu sản xuất.
Thông thường chủ trang trại thường phân biệt lao động trong trang trại
gồm hai mặt:
-Về số lượng, nguồn lao động trong trang trại là tổng số người có khả
năng lao động thực sự tham gia lao động trực tiếp hoặc gián tiếp vào các hoạt
động sản xuất của trang trại. Nếu nhìn nhận theo khía cạnh độ tuổi có lao
động trong độ tuổi và lao động ngoài độ tuổi lao động, theo khía cạnh trình độ
chuyên môn có lao động kỹ thuật và lao động giản đơn.

-Về chất lượng, nhuông lao động trong trang trại cũng được hiểu theo
nhiều khía cạnh. Ở khía cạnh cá nhân, chất lượng nguồn lao động thể hiện ở
phẩm chất, sức khỏe, kỹ năng… của người lao động. Ở khía cạnh tập thể, chất
lượng nguồn lao động thể hiện ở trình độ hợp tác lao động, sự hợp tác của các
cá nhân với toàn tập thể trong quá trình lao động đạt hiệu quả cao.
Lao động trong trang trại gắn chặt với đất đai, điều kiện tự nhiên và cây
trồng vật nuôi, công cụ lao động… vì vậy lao động trong trang trại cũng có
những đặc điểm nhất định:
-Trình độ, kỹ năng, nhận thức của người lao động trong trang trại nói
chung là còn thấp. Đặc biết đối với những trang trại ở trung du, miền núi,
vùng đồng bằng xa trung tâm. Lao động thuê ngoài chủ yếu là lao động thủ
công, thậm chí nhiều chủ trang trại cũng có trình độ văn hóa và kiến thức kỹ
thuật rất thấp.
-Địa điểm lao động của người lao động trong các trang trại thường phân
tán do sản xuất nông nghiệp có địa bàn không gian rộng, thậm chí nhiều trang
trại còn có những khu đất cách xa nhau.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
-Ở nước ta hiện nay, trang trại gia đình chiếm tỷ trọng lớn, vì vậy trang
trại vẫn sử dụng lao động gia đình là chính ngoài ra còn thuê thêm nột số lao
động thường xuyên hoặc thời vụ, những người được thuê mướn chủ yếu là
người địa phương có quen biết hoặc có quan hệ họ hàng với chủ trang trại, do
đó đây không phải là mối quan hệ chủ thợ và bị chi phối nhiều bởi tình cảm
cá nhân.
*Tiềm năng về cơ chế chính sách:
Có nhiều khái niệm, định nghĩa khác nhau về cơ chế chính sách: “chính
sách là một hệ thống quan điểm, chủ trương, biện pháo và quản lý được thể
chế hóa bằng pháp luật của nhà nước để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội
của đất nước”. Ở đây, chính sách nông nghiệp nông thôn được hiểu là tổng
thể các biện pháp kinh tế và nhung biện pháp khác của nhà nước tác động đến

nông nghiệp nông thôn và các ngành, các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến
nông nghiệp, nông thôn nhằm đạt được những mục tiêu nhất định với những
điều kiện nhất định trong một thời gian xác định.
Hệ thống chính sách nông nghiệp, nông thôn có vai trò hết sức quan
trọng trong quản lý nhà nước về nông nghiệp nông thôn và được thể hiện trên
các mặt sau:
-Tạo lập các môi trường pháp lý và kinh tế khuyến khích nông nghiệp,
nông thôn phát triển phù hợp với mục tiêu phát triển của nông nghiệp, nông
thôn qua từng giai đoạn.
- Chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn đúng đắn là động lực thúc
đẩy và khơi dậy mọi tiềm năng các chủ thể sản xuất kinh doanh cũng như huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực như vốn, khoa học công nghệ, đất
đai và lao động... trong nông nghiệp, nông thôn.
-Chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn có tác động thúc đẩy chuyển
đổi cơ cấu nông nghiệp, nông thôn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-
xã hội của đất nước cũng như ở Hà Nội.
-Chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn có tác động trực tiếp đến
người sản xuất, điều chỉnh cơ cấu sản xuất, khai thác tiềm năng đất đai, lao
động và điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phát triển nông nghiệp, xây dựng kết
cấu hạ tầng nông thôn, xây dựng nông thôn theo hướng hiện đại.
-Điều tiết, hạn chế sự phát triển không phù hợp; xóa bỏ những xu hướng
phát triển mang tính tiêu cực trong ngành, ở những địa phương trong những
thời điểm nhất định.
-Chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn tạo điều kiện cho sự phát
triển sản xuất hàng hoá và các thành phần kinh tế, nâng cao đời sống của nông
dân.
-Chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn làm cơ sở cho các biện
pháp khác được thực thi có hiệu quả.
-Phát huy vai trò dân chủ, kết hợp giữa phát triển nông nghiệp với kinh
tế, văn hóa, xã hội nông thôn, xây dựng nông thôn mới.

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Như vậy, chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn có vai trò rất quan
trọng, là yếu tố bao trùm có tác động mạnh mẽ và đảm bảo sự thành công của
các chiến lược phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và kinh tế xã hội nói
chung.
Sản xuất nông nghiệp nói chung và trang trại nói riêng được tiến hành
trên một không gian rộng lớn, phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện tự nhiên, do
đó các đặc điểm của chính sách phát triển trang trại cũng chịu sự chi phối của
các đặc điểm nông nghiệp, nông thôn:
-Các chính sách đối với trang trại thường mang tính hỗ trợ là chủ yếu.
Bởi vì sản xuất trang trại nói riêng, sản xuất nông nghiệp nói chung có điền
kiện sản xuất khó khăn hơn các ngành, lĩnh vực khác. Hơn nữa, sản xuất nông
nghiệp vừa tạo ra các sản phẩm hữu hình vừa tạo ra các sản phẩm vô hình là
những sản phẩm chưa được sự bù đắp chi phí của xã hội hoặc sự bù đắp chi
phí chưa thỏa đáng.
-Các chính sách nông nghiệp, nông thôn có tính vùng, tính khu vực rõ
rệt. Điều này đòi hỏi trong phát triển kinh tế trang trại ở các vùng khác nhau
phải có những chính sách hỗ trợ tương úng.
-Đôi khi một chính sách nông nghiệp có cả tính kinh tế và tính phi kinh
tế. Bởi vì nông thôn có cả những vấn đề kinh tế và xã hội đan xen, hòa quyện
vào với nhau, trong đó những vấn đề xã hội rất bức xúc và cớ nhiều điểm đặc
thù.
-Tổ chức triển khai văn bản chính sách phụ thuộc vào các đặc điểm tâm
lý, tập quán của người nông dân, của nguồn lao động trong nông thôn. Người
nông dân do tập quán canh tác đã tạo ra tâm lý thực dụng, vì vậy các chính
sách tác động phải có những biện pháp tổ chức thích hợp thì mới mang lại
hiệu quả như mong muốn.
*Tiềm năng về khoa học công nghệ:
Khoa học công nghệ là tập hợp từ bao gồm 2 phạm trù khoa học khác

nhau:
- Khoa học theo nghĩa chung nhất (như mọi người đều thống nhất) là hệ
thống những kiến thức, hiểu biết của con người về quy luật vận động và phát
triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy.
-Công nghệ là sự chuyển hoá những tri thức của khoa học thành các
phương thức và phương pháp sản xuất, vật chất hoá những tri thức khoa học
vào trong các công cụ lao động, đối tượng lao động, trong quy trình công
nghệ hoặc kết tinh lại thành kỹ năng nhằm chuyển hoá các nguồn lực thành
một loại sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó phục vụ nhu cầu con người.
Đối với nông nghiệp, nông thôn khoa học công nghệ thể hiện vai trò của
mình một cách rõ nét hơn:
- Khoa học công nghệ cho phép con người hiểu biết ngày càng rõ hơn
các quy luật của tự nhiên, từ quy luật của thời tiết khí hậu, quy luật hình thành
và vận động của đất đai, đến các quy luật về đồng hoá và dị hoá, về sinh
trưởng và phát triển của cây trồng vật nuôi.… Nhờ đó nông nghiệp có những
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tác động phù hợp với quy luật sinh học của sản xuất nhằm tạo ra nhiều sản
phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ. Hiểu biết các quy luật tự nhiên, đặc
biệt là các quy luật thời tiết, khí hậu con người còn có thể né tránh và khắc
phục những tác động tiêu cực, khai thác những tác động tích cực để kinh
doanh nông nghiệp ngày càng hiệu quả nhưng không tác động xấu đến môi
trường sống.
-Khoa học và công nghệ với nội dung chế tạo các công cụ sản xuất đã
tạo ra các điều kiện vật chất để nông nghiệp, nông thôn có thể nâng cao năng
suất lao động, hiệu quả sản xuất đồng thời làm thay đổi phương thức lao
động, tạo những điều kiện đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
phân công lao động nông nghiệp, nông thôn...
Đặc điểm của khoa học công nghệ nông nghiệp, nông thôn:
-Khoa học công nghệ nông nghiệp, nông thôn khá phức tạp và đa dạng.

Nông nghiệp, nông thôn là ngành sản xuất vật chất đa dạng và phức
tạp do đối tượng sản xuất là những cơ thể sống, lại đa dạng về chủng loại với
chu kỳ sản xuất và các đặc tính kinh tế-kỹ thuật không giống nhau.
-Khoa học và công nghệ nông nghiệp, nông thôn có tính vùng và tính địa
phương:
Nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên
nên có tính vùng rõ nét. Do đó không thể có một quy trình công nghệ chung
cho tất cả các vùng. Hơn nũa việc đổi mới khoa học công nghệ cũng chịu ảnh
hưởng của tập quán sản xuất và sinh sống của mỗi dân tộc, mỗi địa phương
khác nhau đòi hỏi khoa học công nghệ cũng phải phù hợp.
-Đối tượng áp dụng khoa học và công nghệ nông nghiệp, nông thôn là
nông dân, bộ phận dân cử có thu nhập thấp:
Trong bất cứ thời điểm phát triển nào thì nông dân vẫn là bộ phận dân
cư có thu nhập thấp trong xã hội. Hơn nữa ngành nông nghiệp là ngành có tỉ
suất lợi nhuận thấp, rủi ro cao hơn so với các ngành kinh tế khác. Do đó, việc
áp dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất còn nhiều khó khăn và bất
cập.
- Tính đa dạng của các loại hình công nghệ trong nông nghiệp:
Xét mối quan hệ tiến bộ khoa học- công nghệ, có hai loại hình công
nghệ. Một loại gọi là công nghệ thâm canh nhằm nâng cao năng suất sinh vật
và năng suất kinh tế trên mỗi đơn vị diện tích. Loại thứ hai gọi là công nghệ
cơ giới hoá và tự động hoá, chủ yếu nhằm nâng cao hiệu suất công việc tiết
kiệm thời gian lao động trong mỗi khâu công việc, giảm bớt hao phí lao động
sống. Lựa chọn sự kết hợp hai loại công nghệ nói trên như thế nào là tuỳ
thuộc mỗi giai đoạn phát triển của ngành nông nghiệp ở từng vùng khác nhau
để đáp ứng nhu cầu xã hội; nhu cầu rút bớt lao động nông nghiệp để phát triển
các ngành dịch vụ và sản xuất phi nông nghiệp ở nông thôn; vấn đề giải quyết
việc làm và thu nhập…
*Tiềm năng về công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông thôn:
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Công nghiệp hoá (CNH) nông nghiệp, nông thôn là một quá trình với nội
dung chủ yếu là:
-Trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn (thực hiện
các cuộc cách mạng về cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá, điện khí hoá...)
tạo các điều kiện nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành và nâng cao chất
lượng sản phẩm trong nông nghiệp, khai thác hợp lý các nguồn lực.
-Phát triển các công nghiệp chế biến để công nghiệp hoá các sản phẩm
nông nghiệp vừa khắc phục các hạn chế về đặc điểm sinh học của sản xuất
nông nghiệp, vừa nâng cao giá trị kinh tế của sản phẩm. Phát triển các ngành
công nghiệp và dịch vụ nâng cao đời sống vật chất tinh thần ở nông thôn.
Giai đoạn tiếp theo của quá trình CNH là thực hiện đại hóa (HĐH). Thực
chất HĐH là CNH ở trình độ cao hơn, là quá trình xây dựng và phát triển các
ngành kinh tế trên cơ sở áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại, trong
điều kiện tiến bộ khoa học và công nghệ diễn ra đồng bộ, toàn diện, nhanh
chóng và sâu sắc ở tất cả các yếu tố của công nghệ như: Công cụ lao động,
năng lượng, vật liệu, phương pháp công nghệ ở tất cả các ngành của nền kinh
tế cũng như trong nông nghiệp, nông thôn.
Trong điều kiện mới, ngày nay CNH ở nhiều nước đã gắn chặt với HĐH
và trở thành quá trình CNH, HĐH. Vì vậy, trong nội dung của CNH có chứa
đựng những yếu tố của HĐH, thực hiện CNH đồng thời với HĐH nền kinh tế.
Từ những khái niệm cơ bản về khoa học công nghệ và về CNH, HĐH nền
kinh tế cũng như nông nghiệp, nông thôn chúng ta có thể thấy rõ, vị trí và vai
trò của khoa học công nghệ trong CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
*Tiềm năng về đô thị hóa nông thôn:
Đô thị hoá có nghĩa và phạm vi rất rộng, có thể nêu ra một số khía cạnh
của đô thị hoá sau:
-Đô thị hoá đó là quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều
kiện sống theo kiểu đô thị. Trên quan điểm kinh tế quốc dân, đô thị hóa là một
quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc

dân, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị. Đồng thời phát
triển các vùng đô thị hiện có theo chiều sâu.
-Đô thị hóa là sự quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống
đô thị của các nhóm dân cư. Khi kết thúc thời kỳ quá độ thì các điều kiện tác
động đến đô thị hóa cũng thay đổi và xã hội sẽ phát triển trong điều kiện mới
mà biểu hiện tập trung là sự thay đổi cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động.
-Đô thị hóa nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật, là quá
trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho nông thôn (cách
sống, hình thức nhà cửa, phong cách sinh hoạt…). Thực chất đó là tăng
trưởng đô thị theo xu hướng bền vững.
-Đô thị hóa ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của
Thành phố do kết quả phát triển công nghiệp và cơ sở hạ tầng, tạo ra các cụm
đô thị, liên đô thị… góp phần đẩy nhanh đô thị hóa nông thôn.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
-Điều kiện tự nhiên: Trong thời kỳ kinh tế chưa phát triển mạnh mẽ thì
đô thị hóa phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Những yếu tố tự nhiên
như địa hình, tính chất thổ nhưỡng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của đô
thị hoá. Nếu trong điều kiện của 2-3 thập kỷ trước, Hà Nội khó có thể có
những khu đô thị cao tầng mọc lên trong điều kiện thổ nhưỡng của Hà Nội.
-Trình độ phát triển kinh tế, điều kiện xã hội: Sự phát triển của lực lượng
sản xuất là điều kiện để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là tiền đề cho đô thị
hóa. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong khu vực nông nghiệp của nền
kinh tế sẽ tạo ra quá trình đô thị hóa nông thôn.
-Văn hóa dân tộc: Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng của mình và
nền văn hóa đó có ảnh hưởng đến tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội…
nói chung và hình thái đô thị nói riêng.
Một số tiêu chí cơ bản đánh giá trình độ đô thị hóa:
-Các chỉ tiêu định lượng: Các chỉ tiêu đô thị/1 người: Diện tích cây xanh,

diện tích đất đường giao thông, diện tích các công trình công công, diện tích
nhà, nước, điện… GDP (hoặc giá trị sản xuất)/1 người. Trình độ dân trí. Số
giường bệnh / 1.000 dân. Các công trình văn hóa /1.000 dân. Tổng số máy
điện thoại /1000 dân.
-Các chỉ tiêu định tính: Chất lượng hạ tầng kỹ thuật; chất lượng hạ tầng
xã hội; trình độ văn minh đô thị, kiến trúc đô thị, môi trường…
II.THỰC TRẠNG CÁC TIỀM NĂNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRANG TRẠI Ở HÀ NỘI:
1.Quá trình hình thành kinh tế trang trại ở Hà Nội:
Cùng với cả nước, Hà Nội đã tích cực triển khai các nghị quyết của Đảng
và Chính phủ như Nghị quyết 10/NQ-TW ngày 5/4/1988, Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ VI của Ban chấp hành trung ương khóa VI tháng
3/1989 và nghị quyết số 03/2000/NQ-CP của Chính phủ ngày 2/2/2000.
Thành ủy Hà Nội đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành như chỉ thị
12/CT-TW, đối với từng đơn vị sản xuất nông nghiệp. Các chính sách này đã
đáp ứng nhu cầu trực tiếp, tạo ra động lực mới thúc đẩy mạnh mẽ nông
nghiệp, nông thôn phát triển trong đó có kinh tế trang trại.
Năm 1992 Thành ủy đã xây dựng chương trình 06 về phát triển kinh tế
ngoại thành và xây dựng nông thôn mới, trong đó tập trung chuyển đổi cơ cấu
sản xuất nông nghiệp hướng xây dựng vùng chuyên canh gắn với cơ sở chế
biến, khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển, phát triển ngành nghề
nông thôn. Tiếp sau đó là Chương trình 12 về phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn ngoại thành Hà Nội với nhiều nội dung quan trọng, trong đó có
phát triển kinh tế trang trại và kinh tế hợp tác xã.
Đến năm 2001, Hà Nội vẫn tiếp tục thực hiện nghị quyết 03/2000/NQ-CP
của chính phủ về phát triển trang trại. Nhờ đó đã tạo ra xung lực mới cho kinh
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tế trang trại ra đời và phát triển góp vào thắng lợi của nền nông nghiệp ở
ngoại thành Hà Nội nói chung trong những năm đổi mới.

Theo số liệu tổng hợp của Sở Nông nghiệp và PTNT Hà Nội, đến năm
2005, Hà Nội có 401 trang trại (kể cả một số xã nay đã trở thành phường của
2 quận mới Long Biên, Hoàng Mai). Trong số đó có 104 trang trại trồng trọt
(chiếm 25,93%), 127 trang trại thuỷ sản (chiếm 34,67%), 158 trang trại chăn
nuôi (chiếm 39,40%), 12 trang trại sản xuất dịch vụ khác (chiếm 2,99%).
2.Thực trạng các tiềm năng của kinh tế trang trại ở Hà Nội:
a.Thực trạng tiềm năng đất đai của trang trại:
Ngoại thành Hà Nội có quy đất nông nghiệp hạn hẹp và ngày càng bị thu
hẹp do tác động của đô thị hoá. Vì vậy, đất đai không được coi là thế mạnh
của phát triển kinh tế trang trại ở Hà Nội. Qua điều tra khảo sát, thực trạng đất
đai được xem xét trên các khía cạnh sau :
-Quy mô đất đai của trang trại: Bình quân chung các trang trại điều tra, mỗi
trang trại có 35.792,9 m2 đất tự nhiên, trong đó, đất thổ cư 14,78%, đất canh
tác 40,38%, đất chăn nuôi 1,93%, diện tích mặt nước 41,34% và đất kinh
doanh tổng hợp 11,64%. Tuy nhiên, quy mô diện tích bình quân của trang trại
ở các huyện và theo phương hướng kinh doanh khác nhau cũng chênh lệch
nhau, tuy không lớn.
-Xét theo huyện: Sóc Sơn là huyện có diện tích bình quân 1 trang trại lớn
nhất. Bình quân diện tích của trang trại Sóc Sơn là 41.551,6 m2, trong khi ở
các huyện khác bình quân diện tích đất của trang trại đạt khoảng 35.000m2.
-Xét theo phương hướng kinh doanh: Nhóm trang trại có hướng sản xuất,
kinh doanh chính là trồng trọt có tỉ trọng đất nông nghiệp là chủ yếu. Ngược
lại, nhóm trang trại lâm nghiệp thì tỉ trọng đất lâm nghiệp cao, được thể hiện
qua bảng 1.
-Nguồn gốc đất đai của trang trại: Nguồn gốc các loại đất để phát triển
trang trại rất đa dạng: đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp do Nhà nước giao, cho
thuê theo quy định hiện hành; đất công nhân viên, hộ nông dân nhận khoán,
thầu của lâm trường hay thuê của tư nhân, đất chuyển đổi, chuyển nhượng.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×