Tải bản đầy đủ (.docx) (162 trang)

VALUE AT RISK VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 162 trang )

z
z
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
MÔN HỌC QUẢN TRỊ RỦI RO TÀI CHÍNH
ĐỀ TÀI THUYẾT TRÌNH:
VALUE AT RISK
VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO THỊ TRƯỜNG
Giảng viên hưỡng dẫn: TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Các nhóm giảng đường TC IV K34
Năm Học 2011
2
MỤC LỤC
1. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO
1.1. Khái niệm chung về rủi ro
1.1.1. Rủi ro (risk) và Bất trắc (uncertainty)
“Không phải tất cả bất trắc đều có thể đo lường, bất trắc có thể đo lường,
hay là rủi ro, là tập hợp con của bất trắc. Hay theo cách nói khác, các công thức
toán học có thể được áp dụng để bất trắc có thể chuyển thành rủi ro. Vì thế, bất
trắc là một khái niệm chung hơn, mọi rủi ro đều liên quan đến bất trắc, nhưng
không phải mọi bất trắc đều là rủi ro bởi vì không phải mọi bất trắc đều có thể đo
lường, và một lần nữa, các công thức toán học không thể được áp dụng.”
Định nghĩa về rủi ro là một bất trắc có thể đo lường là phát biểu của Frank
Knight, người đã phát triển nó vào giữa đầu thế kỉ 20.
Trong cuộc sống chúng ta đối diện với nhiều tình huống mà không thể biết
được chuyện gì tốt xấu sẽ xảy ra. Những tình huống như vậy có người gọi là rủi
ro có người cho là bất trắc. Tuy nhiên, hai khái niệm này không hoàn toàn giống
nhau, hiểu được sự khác biệt này sẽ giúp chúng ta có cách hành xử hợp lý hơn.
Rủi ro (risk) là những tình huống có nhiều biến cố có thể xảy ra và ta biết
xác suất xuất hiện và kết quả của các biến cố này. Ví dụ như thảy xí ngầu, nếu


viên xí ngầu này chất lượng tốt, người thảy xí ngầu không gian lận thì ta biết
3
chắc chắn rằng có 6 khả năng xảy ra và xác suất của mỗi biến cố là 1/6. Trong
trường hợp này không thể làm gì để thay đổi xác suất cũng như giá trị của biến
cố.
Bất trắc (Uncertainty) là tình huống ta không biết chắc chắn chuyện gì xảy
ra cũng như khả năng xảy ra những biến cố này. Người ta không thể chỉ định rõ
chuyện gì sẽ xảy ra, khả năng chắc chắn là bao nhiêu phần trăm. Doanh nhân khi
đầu tư thì không chắc rằng dự án sẽ thành công hay thất bại hoàn toàn, nhưng
anh tin rằng với nỗ lực của mình, có thể làm cho khả năng thành công cao hơn.
Mỗi lần đi thi, mặc dù không biết chắc chắn đề thi là gì, nhưng nếu có sự chuẩn bị
tốt, thì khả năng đạt kết quả cao là rất khả quan.
1.1.2 So sánh Rủi ro (Risk) và Bất trắc (Uncertainty)
 Giống : Là những tình huống có nhiều biến cố xảy ra
 Khác :
Rủi ro Bất trắc
Biết xác suất xuất hiện của biến cố
Không biết khả năng xảy ra của
biến cố
Biết kết quả của các biến cố
Không biết chắc chắn chuyện gì
xảy ra
Không có khả năng tác động làm thay đổi Có khả năng tác động làm thay đổi
1.1.3. Vậy từ “Risk Management” có thật sự đúng?
Khi đề cập đến “Risk” chúng ta không thể tác động làm thay đổi xác suất
xảy ra, vậy phải chăng từ đúng phải là “Uncertaity Management”
Vậy thì phân biệt rủi ro và bất trắc để làm gì? Chúng ta thường đối diện với
bất trắc hơn là rủi ro. Những trường hợp rủi ro thường thấy là đánh bài cào,
thẩy xí ngầu, mua vé số Những trường hợp này người tham gia không thể làm
gì được để kết quả tốt hơn.

4
Những gì xảy ra trong thực tế chủ yếu là bất trắc, chúng ta không biết tất cả
các khả năng có thể xảy ra cũng như xác suất xuất hiện của những khả năng này.
Điều chúng ta thấy là có những biến cố xảy ra nhiều hơn, và đặc biệt là chúng ta
có thể tác động để thay đổi xác suất xuất hiện cũng như kết quả của biến cố. Có
một điều là đôi khi chúng ta lại nghĩ rằng đó là những tình huống rủi ro. Một nhà
đầu tư mua cổ phiếu mà không thể tác động gì diễn biến giá cổ phiếu trên thị
trường thì anh ta đang đối diện với rủi ro và giống như đánh bạc. Nhưng nếu
những nhà đầu tư này hoạt động tích cực, anh ta có thể làm tăng khả năng thành
công của việc đầu tư của mình.
Trong trường hợp khác, khả năng mắc các chứng bệnh là bất định chứ
không phải rủi ro, ta có thể làm tăng hoặc giảm khả năng bệnh xảy ra bằng lối
sống, bằng cách ăn uống và sinh hoạt. Chúng ta có thể tác động để làm giảm thiệt
hại của những sự kiện này. Đó chính là ý nghĩa của việc xem tương lai là rủi ro
hay bất định. Sự khác biệt giữa rủi ro và bất định là khả năng chúng ta có thể tác
động để thay đổi xác suất xảy ra các biến cố và kết quả của biến cố. Nếu chúng ta
không làm gì cả thì đó là rủi ro, còn nếu chúng ta có thể tham gia làm hạn chế
thiệt hại và tăng những lợi ích thì đó là bất trắc.
Bảo hiểm là mua rủi ro hay bất trắc? Với những gì mà các công ty bảo hiểm
đang làm chủ yếu họ xem là rủi ro vì họ không thực hiện bất cứ việc gì để nhằm
giảm những khả năng xảy ra thiệt hại cho thân chủ. Họ xem từng cá nhân có
những xác suất xảy ra thiệt hại và đánh bạc trên những sự kiện này. Những
người mua bảo hiểm có thể vì yên tâm với những tài sản được bảo hiểm nên họ
bất cẩn hơn, vì thế có thể làm tăng xác suất xảy ra thiệt hại (Moral hazard). Tại
sao các công ty bảo hiểm không tham gia làm giảm xác suất thiệt hại cho khách
hàng? Thứ nhất làm như thế tốn chi phí, thứ 2, những hành động giảm thiểu rủi
ro cho khách hàng là hàng hoá công cộng, sẽ có những người hưởng ké (free-
rider), thứ 3 nếu xác suất thiệt hại giảm người ta sẽ không mua bảo hiểm.
5
Khi chạy mô phỏng trong phân tích rủi ro, người ta gán các phân phối xác

suất cho các biến đầu vào để xem kết quả thay đổi như thế nào. Đây là cách chúng
ta chuyển bài toán bất trắc thành bài toán rủi ro. Tuy nhiên cách làm này chỉ là
giả định để mô hình toán có thể thực hiện được, trong thực tế khó có thể xác định
được các giá trị và xác suất một cách rõ ràng. Dù sao đi nữa, bằng cách làm này
ta có thể hiểu được những khả năng và phạm vi xảy ra kết quả từ đó ra quyết
định tốt hơn.
Nói tóm lại, những giải thích ở trên chủ đích muốn nói lên một điều: Tương
lai sẽ là bất trắc chứ không phải rủi ro. Nếu đã là bất trắc thì chúng ta có thể tác
động tích cực nhằm làm giảm xác suất thiệt hại (tăng xác suấtthành công), tạo ra
nhiều biến cố tốt hơn và làm tăng giá trị cho tương lai. Ngược lại nếu không chủ
động can thiệp chúng ta cũng sẽ chỉ phó mặc cho rủi ro xảy ra, và nhiều khi cũng
sẽ làm cho kết quả xấu hơn.
1.2. Phân loại rủi ro
1.2.1. Rủi ro thị trường
1.2.1.1 Khái niệm
Rủi ro thị trường là sự không chắc chắn trong giá trị của công ty hoặc dòng
tiền liên quan với các biến động của các nguồn gốc cơ sở của rủi ro. Hay rủi ro thị
trường là rủi ro mà giá trị của việc đầu tư sẽ giảm do sự thay đổi trong các yếu tố
thị trường như lãi suất, tỉ giá hoặc là giá hàng hóa.
Đối với thị trường chứng khoán, rủi ro thị trường xuất hiện do phản ứng
của các NĐT đối với các hiện tượng trên thị trường. Những sự sụt giảm đầu tiên
trên thị trường là nguyên nhân gây sợ hãi đối với các NĐT và họ sẽ cố gắng rút
vốn, tạo phản ứng dây chuyền, khiến giá cả chứng khoán rơi xuống thấp so với
giá trị cơ sở.
6
Nhắc đến rủi ro thị trường, ta thường bắt gặp khái niệm độ bất ổn. Độ bất
ổn thường xuyên đề cập đến độ lệch chuẩn của sự thay đổi trong giá trị của một
công cụ tài chính với một giới hạn thời gian cụ thể. Nó thường được dùng để định
lượng rủi ro của các công cụ trong 1 khoảng thời gian nhất định. Độ bất ổn
thường được thể hiện trong thời kỳ năm, và nó, hoặc có thể là một số tuyệt đối ($

5) hoặc 1 giá trị tương đối (5%).
1.2.1.2 Tính toán
Rủi ro thị trường thường được đo lường bằng cách sử dụng phương pháp
giá trị có rủi ro (VaR) . Giá trị có rủi ro được tạo thành như là một kỹ thuật quản
lý rủi ro, nó chứa một số giả định hạn chế tính chính xác của nó. Giả định đầu tiên
là các thành phần của danh mục đầu tư được đo lường vẫn không thay đổi trong
giai đoạn duy nhất của mô hình. Đối với giới hạn thời gian ngắn, giả định hạn chế
này thường được coi là chấp nhận được. Đối với giới hạn thời gian dài hơn,
nhiều giao dịch trong danh mục đầu tư có thể đáo hạn trong giai đoạn mô hình
hóa. Can thiệp dòng chảy tiền mặt, thay đổi về lãi suất thả nổi,… được bỏ qua
trong kỹ thuật mô hình hóa duy nhất. Rủi ro thị trường cũng có thể đối lập với rủi
ro riêng – rủi ro đo lường của việc suy giảm trong đầu tư do sự thay đổi trong
một ngành công nghiệp hoặc một khu vực cụ thể.
Giá trị có rủi ro VaR sẽ được phân tích kỹ hơn trong phần sau.
1.2.1.3 Phân loại
Ba yếu tố rủi ro thị trường bao gồm:
a. Rủi ro lãi suất: là rủi ro lãi suất sẽ thay đổi
Đây là rủi ro mà hấu hết các nhà đầu tư quan tâm nhất.
Rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro hệ thống, hay còn gọi là rủi ro
không phân tán được khi đầu tư vào các công cụ phái sinh. Rủi ro lãi suất nói đến
sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương của
các tài sản tài chính, nguyên nhân là do dao động trong mức lãi suất chung.
7
Rủi ro lãi suất bao gồm rủi ro lãi suất ngắn hạn và rủi ro lãi suất dài hạn.
Trong rủi ro lãi suất ngắn hạn, có rủi ro do thay đổi lãi suất LIBOR, rủi ro do thay
đổi lãi suất T – bill, rủi ro do thay đổi lãi suất các thương phiếu và nhiều rủi ro
khác có liên quan với từng mức lãi suất cụ thể.
Ví dụ, nếu như nhà quản trị rủi ro đang ở trong vị thế nắm giữ các công cụ
phái sinh dựa trên những thay đổi trong mức lãi suất LIBOR và các công cụ phái
sinh dựa trên những thay đổi trong lãi suất của thương phiếu, họ phải tập trung

phân tích đến mối tương quan giữa các mức lãi suất này. Một vị thế mua LIBOR
và bán thương phiếu sẽ có khả năng phòng ngừa được phần nào rủi ro, do lãi
suất LIBOR có mối tương quan xác định với lãi suất thương phiếu. Như vậy, bạn
sẽ phải tiến hành xem xét toàn bộ hiệu quả của tất cả các cội nguồn của rủi ro mà
công ty sẽ phải đối phó.
b. Rủi ro tiền tệ: là rủi ro tỉ giá hối đoái sẽ thay đổi
Đây là loại rủi ro mà người nắm giữ công cụ phái sinh phải gánh chịu khi tỉ
giá hối đoái thay đổi bất lợi làm ảnh hưởng tới giá trị của các tài sản tài chính.
Giả sử một doanh nghiệp vay một khoản vay 1 triệu $ trả chậm 1 năm, như
vậy số tiền VND doanh nghiệp phải bỏ ra vào thời điểm 1 năm sau phụ thuộc vào
tỉ giá hối đoái lúc đó. Để đề phòng sự lên giá của ngoại tệ, doanh nghiệp đã mua
một hợp đồng kỳ hạn 1 năm, giá mua kỳ hạn $là 20.500VNĐ. Rủi ro ở đây mà
doanh nghiệp phải gánh chịu là doanh nghiệp không thể dự đoán chính xác được
tỉ giá biến động như thế nào. Điều này có nghĩa là nếu tỉ giá hối đoái biến động
ngược với suy đoán ban đầu, doanh nghiệp sẽ thiệt hại trên giao dịch phái sinh
này.
c. Rủi ro hàng hóa: là rủi ro mà giá cả hàng hóa sẽ thay đổi bất lợi
Ví dụ, một người bỏ ra một khoản phí để mua một quyền chọn mua, tức là
người này đang phòng ngừa rủi ro giá tài sản sẽ tăng. Trường hợp đến thời kỳ
đáo hạn, giá tài sản giảm, như vậy người này đã phải chịu rủi ro do giá giao ngay
thay đổi không cùng chiều với giá giao sau.
8
Đây là rủi ro mà các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu rất quan
tâm, nếu loại bỏ các doanh nghiệp không có hoạt động xuất nhập khẩu, thì trong
nhóm các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh liên quan đến xuất khẩu, yếu tố
rủi ro tài chính xuất phát từ giá cả nguyên liệu lại là yếu tố quan trọng nhất
Như vậy, các hiệu quả từ những biến động của tất cả nguồn gốc dẫn đến rủi
ro của tài sản cơ sở sẽ cho ta thấy được những thay đổi trong vị thế của các công
cụ phái sinh và tài sản giao ngay.
1.2.2 Rủi ro tín dụng

1.2.2.1 Khái niệm:
Một công ty có thể đi vay với lãi suất cố định 10,5% hoặc lãi suất thả nổi
LIBOR cộng 1,1% (110 điểm cơ bản). Công ty có thể thực hiện một hoán đổi
thanh toán lãi suất cố định 9,25% và nhận lãi suất LIBOR. Những con số đơn giản
cho thấy rằng nhà kinh doanh có thể nhận một mức lãi suất thấp hơn bằng cách
phát hành nợ có lãi suất thả nổi và thực hiện một hoán đổi thanh toán lãi suất cố
định nhận lãi suất thả nổi. Hiệu ứng ròng là thanh toán lãi lãi suất LIBOR cộng
1,1% (110 điểm cơ bản) trên khoản nợ có lãi suất thả nổi, nhận LIBOR và thanh
toán 9,25 trên hoán đổi cộng vào trong lãi suất cố định 9,25 + 1,1 = 10,35 hoặc là
15 điểm cơ bản thấp hơn so với lãi suất cố định. Tuy nhiên, nếu công ty chỉ đơn
giản phát hành nợ lãi suất cố định ở mức 10,5% họ phải được xem như là không
có rủi ro tín dụng. Nếu công ty vay với lãi suất cố định thì giả định rằng không có
rủi ro tín dụng. Người cho vay không thể vỡ nợ. Nếu vay với lãi suất thả nổi và
hoán đổi nó sang khoản vay lãi suất cố định, sẽ có rủi ro là các nhà giao dịch hoán
đổi sẽ bị vỡ nợ, để lại khoản vay lãi suất thả nổi LIBOR.Bây giờ giả định rằng rủi
ro tín dụng của đối tác tham gia hoán đổi và được bù trừ với số điểm là 15 điểm
cơ bản giảm trong lãi suất. Việc hoán đổi này có giá trị hay không? Trong các
ngày đầu của thị trường, các khoản tiết kiệm có lẽ dủ lớn để có giá trị nhưng khi
thị trường trở nên hiệu quả hơn thì các khoản tiết kiệm giảm và có khả năng
bằng với khoản bù trừ đối với giả định của rủi ro tín dụng. Mặc dù vậy, rủi ro tín
dụng có thể có giá trị để chi phí vay thấp hơn.
9
Rủi ro vỡ nợ sẽ là rủi ro tiềm ẩn cho bất cứ bên nào sẽ nhận thanh toán từ
một bên khác. Rủi ro này, gọi là rủi ro tín dụng hoặc là rủi ro vỡ nợ là rủi ro bất
cứ người cho vay nào cũng phải gánh chịu. Và loại rủi ro này đã được nhắc đến
nhìu lần trong các công cụ phái sinh cũng như trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng. Chúng ta đã biết vì vốn khái toán của các công cụ phái sinh không có
rủi ro nên rủi ro tín dụng các các công cụ phái sinh thấp hơn nhìu so với rủi ro tín
dụng của các khoản cho vay.Những người sử dụng cuối cùng không phải là ngân
hàng thường không cho vay nhưng khi họ tham gia vào một hoán đổi thì họ đã

trở thành các nhà tín dụng
Rủi ro tín dụng được đề cập đến khi chứng ta thảo luận về các công cụ trên
thị trường OTC. Hợp đồng giao sau và các quyền chọn được niêm yết trên các sàn
giao dịch đều được công ty thanh toán bù trừ bảo đảm nên không bị rủi ro tín
dụng. Vì không bao giờ công ty thanh toán bù trừ vỡ nợ nên các hợp đồng này
được xem như không co rủi ro tín dụng. Các hợp đồng OTC gánh chịu rủi ro tín
dụng cao hay thấp tùy thuộc vào các bên tham gia, tùy thuộc vào loại hợp đồng
và tùy thuộc vào thời điểm của hợp đồng .
Vậy, Rủi ro tín dụng là gì? Rủi ro tín dụng là tính không chắc chắn và tiềm
ẩn về khoản lỗ do không có khả năng thanh toán của bên đối tác.
Rủi ro tín dụng là một hiện tượng thường gặp ở bất kì một ngân hàng
thương mại nào, nó cũng xảy ra trên mọi đối tượng, lĩnh vực, vùng đầu tư: Quốc
doanh, hợp tác xã, hộ sản xuất, cho vay sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, cho vay
khu vực nông thôn, thành thị… Rủi ro tín dụng xảy ra có thể do nguyên nhân chủ
quan về phía ngân hàng thương mại, khách hàng vay vốn nhưng cũng có thể do
nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch hoạ…
Rủi ro tín dụng là những rủi ro do khách hàng vay không thực hiện đúng các
điều khoản của hợp đồng tín dụng, với biểu hiện cụ thể là khách hàng chậm trả nợ, trả
nợ không đầy đủ hoặc không trả nợ khi đến hạn các khoản gốc và lãi vay, gây ra
những tổn thất về tài chính và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
thương mại.
10
Trong thị trường trái phiếu, rủi ro tín dụng được đánh giá bằng cách khảo
sát xếp hạng tín nhiệm của các đơn vị phát hành trái phiếu. Hiện nay có nhiều
công ty xếp hạng tín nhiệm trên thế giới, trong đó uy tín nhất phải kể đến là
Standard & Poor, Moody và Fitch. Mặc dù mỗi công ty sử dụng nhãn hiệu riêng
như “ba A” “B hai A” với ý nghĩa càng nhiều A càng tốt. Bạn sẽ thấy các xếp hạng
từ AAA, AA, BAA, BBB, BB, B… cho đến D. Các nhà phân tích các công ty phát hành
trái phiếu này căn cứ vào xếp hạng tín nhiệm trên các yếu tố khác nhau chủ yếu
là các yếu tố như tình trạng tài chính của nhà phát hành, tình trạng nền kinh tế

và công nghệ của nhà phát hành.
1.2.2.2 Nguyên nhân hình thành rủi ro tín dụng:
Trở lại ví dụ trên về hoán đổi lãi suất đã nói đến ở trên công ty đó vay với lãi
suất thả nổi và hoán đổi nó sang khoản vay lãi suất cố định, sẽ có rủi ro là các
nhà giao dịch hoán đổi sẽ bị vỡ nợ, để lại khoản vay lãi suất thả nổi LIBOR. Và rủi
ro tín dụng xuất phát từ đây.
Đối với ngân hàng thì hoạt động tín dụng là hoạt động luôn tiềm ẩn những
rủi ro mà không một nhà kinh doanh tài ba nào có thể dự đoán chính xác được
mức độ thiệt hại của nó. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng (nhà
giao dịch hoán đổi sẽ bị vỡ nợ)
a. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan
Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định: Một dẫn chứng như là: Nền
kinh tế VN vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp
phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô,
may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị
tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế: Quá
trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi
tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp,
những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua
lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường
11
Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng
hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành: Nền kinh tế thị trường thị trường tất
yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất
để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do đó có
sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác và đây cũng là một hiện tượng
khách quan.
Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi : Sự kém hiệu quả của cơ quan
pháp luật cấp địa phương. Thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của

NHNN. Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập
b. Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân xuất phát từ chính ngân hàng: Ngân hàng đưa ra chính sách
tín dụng không phù hợp với nền kinh tế và thể lệ cho vay còn sơ hở để khách
hàng lợi dụng chiếm đoạt vốn của ngân hàng, còn lỏng lẻo trong công tác kiểm
tra nội bộ các ngân hàng. Ngân hàng đôi khi quá chú trọng về lợi nhuận, đặt
những khoản vay có lợi nhuận cao hơn những khoản vay lành mạnh.
Nguyên nhân từ phía khách hàng
Nhiều doanh nghiệp sử dụng không đúng mục đích đăng ký ban đầu trong
hồ sơ xin vay vốn
Nhiều doanh nghiệp không đánh giá hết được những rủi ro khi sử dụng
đồng vốn, đánh giá chi phí vốn cũng như khả năng sinh lợi của đồng vốn
Do chính bản thân doanh nghiệp chủ ý muốn lừa đảo nhằm chiếm dụng vốn
của ngân hàng.…
1.2.2.3 Phân loại:
a. Rủi ro tín dụng của các công cụ phái sinh: bao gồm 2 loại: Rủi ro tín dụng hiện
hành và rủi ro tín dụng tiềm ẩn
Rủi ro tín dụng hiện hành (current credit risk): là rủi ro đối với một bên đối
tác khi bên kia không có khả năng thanh toán trong hiện tại. Chỉ có một bên đối
12
tác trong giao dịch phái sinh phải gánh chịu rủi ro này, đó là bên đối tác nắm giữ
hợp đồng với tư cách là một tài sản của mình
Rủi ro tín dụng tiềm ẩn: (potential credit risk) là rủi ro mà mỗi bên tham gia
sẽ vỡ nợ vào bất cứ lúc nào trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng
Cả hai loại rủi ro tín dụng hiện hành và rủi ro tín dụng tiềm ẩn của quyền
chọn trên thị trường OTC đều chỉ do người mua gánh chịu mà thôi. Vì người mua
trả phí cho người bán và không phải làm bất cứ điều gì, còn người bán thì không
gánh chịu rủi ro tín dụng. Mặc dù vậy, rốt cuộc là người mua có thể quyết định
thực hiện quyền chọn, chính vào lúc đó, người bán có thể bị phá sản. FRA và hoán
đổi rủi ro tín dụng theo hai cách. Mỗi bên đối tác phải làm điều gì đó cho bên thứ

hai. Nếu chúng ta cố định các yếu tố khác không thay đổi, thì rủi ro tín dụng của
một FRA hoặc một hoán đổi lãi suất được xác định bởi chất lượng tín dụng của
các đối tác tham gia, các điều khoản của hợp đồng và kiểu cấu trúc kỳ hạn. Ví dụ
chúng ta hãy xem một hoán đổi lãi suất vanilla thuần nhất 5 năm. Với cấu trúc kỳ
hạn theo hướng đi lên thì lãi suất kỳ hạn đang gia tăng. Các lãi suất này có thể
bằng với lãi suất thả nổi và cuối cùng sẽ bằng với lãi suất thả nổi nếu không có
thay đổi về lãi suất trong suốt thời gian hoán đổi. Khi hoán đổi được thiết lập lúc
ban đầu , bên thanh toán lãi suất cố định và nhận lãi suất thả nổi lúc đầu sẽ chi
trả nhiều hơn là nhận được, nhưng sau đó số tiền nhận được từ thả nổi sẽ bắt kịp
với các khoản thanh toán cố định. Vào bất kỳ thời điểm nào trong thời gian của
hợp đồng thì chỉ có một bên gánh chịu rủi ro tín dụng hiện hành mà thôi, đó
chính là bên đối tác nhận được giá trị dương của hợp đổng. Rủi ro tín dụng tiềm
ẩn sẽ phản ảnh hiệu ứng kết hợp của rủi ro thay đổi trong suốt thời gian còn lại
của hợp đồng. Cả hai bên đối tác đều phải gánh chịu rủi ro tiềm ẩn.
Trong trường hợp hoán đổi lãi suất, rủi ro tiềm ẩn sẽ lớn nhất trong suốt
khoảng giữa thời gian của hoán đổi. Rủi ro tín dụng tiềm ẩn thấp hơn vào lúc bắt
đầu hoán đổi vì chúng ta đã giả định rằng ngưởi ta sẽ không tham gia hoán đổi
nếu có bất cứ khó khăn đáng kể nào xảy ra vào lúc gần đáo hạn hợp đồng. Rủi ro
tín dụng tiềm ẩn cao trong suốt phần giữa của thời gian hoán đổi vì các bên
Rủi ro
lựa chọn
Rủi ro
tín dụng
Rủi ro giao dịch
Rủi ro danh mục
Rủi ro
nội tại
Rủi ro
tập trung
Rủi ro

bảo đảm
Rủi ro nghiệp vụ
13
tham gia hoán đổi có thời gian để phá hủy các điều kiện tài chính của mình. Rủi
ro tín dụng tiềm ẩn thấy trong suốt thời gian sau đó của vòng đời hoán đổi vì chỉ
còn lại ít khoản thanh toán hơn.
Chúng ta nên nhớ rằng hoán đổi lãi suất không liên quan đến tỷ giá của vốn
ban đầu giống như là hoán đổi tiền tệ. Điều này cũng làm cho rủi ro tín dụng thấp
vào cuối vòng đời hoán đổi lãi suất nhưng lại gia tăng đối với hoán đổi tiền tệ.
b. Rủi ro tín dụng trong các ngân hàng
Rủi ro tín dụng nếu phân chia theo tính chất nghiệp vụ thì bao gồm
- Rủi ro trong hoạt động cho vay: là khi khách hàng không trả được nợ hoặc
không có ý định trả nợ cho ngân hàng.
- Rủi ro trong hoạt động bảo lãnh: khi ngân hàng chấp nhận phát hành bảo
lãnh cho khách hàng cũng có nghĩa là ngân hàng phải chịu trách nhiệm trả tiền
thay cho khách hàng nếu họ không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã
thoả thuận với đối tác. Do vậy rủi ro mất vốn là rất lớn.
- Rủi ro trong hoạt động thuê mua : Trong thời gian sử dụng và nắm giữ tài
sản đặc biệt là trong cho thuê tài chính, khách hàng không thực hiện cam kết trả
tiền thuê hay bảo quản tài sản cho thuê dẫn đến mất mát và hư hỏng.
- Rủi ro trong hoạt động chiết khấu : xuất phát từ việc ngân hàng chiết khấu
các hối phiếu giả mạo. Hoặc cũng có thể là do khả năng tài chính yếu kém của người
thụ lệnh cũng như người hưởng thụ. Một trong hai bên sẽ phải trả tiền cho ngân
hàng, và rủi ro sẽ xảy ra trong trường hợp cả hai bên không có khả năng thanh toán.
* Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia
thành các loại sau
14
- Rủi ro giao dịch : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
xảy ra do những hạn chế trong quá trình giao dịch và kiểm định cho vay, đánh giá
khách hàng. Rủi ro giao dịch gồm có: rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro

nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn : Trước khi ngân hàng quyết định cho vay thì phải lựa
chọn đánh giá xem phương án vay vốn đó có hiệu quả hay không. Việc đánh giá
này thông qua quá trình phân tích tín dụng. Việc lựa chọn sai sẽ dẫn đến rủi ro
cho ngân hàng.
+ Rủi ro bảo đảm : phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều
khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách
thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo. Định sai hay thiếu
các tiêu chuẩn bảo đảm đều dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
+ Rủi ro nghiệp vụ : là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và
hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật
xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng,
được phân chia thành hai loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại : xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính
riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất
phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
15
+ Rủi ro tập trung : Khi ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối
với một khách hàng hoặc cho các doanh nghiệp hoạt động trong cùng một lĩnh
vực, một loại hình kinh doanh hay trong cùng một vùng lãnh thổ địa lý nhất
định vay, nếu những đối tượng ấy gặp phải rủi ro không có khả năng trả nợ thì
ngân hàng sẽ khó khăn trong việc thu hồi vồn, gây ra khó khăn trong các hoạt
động kinh doanh tiếp theo.
1.2.3 Rủi ro hoạt động
1.2.3.1 Khái niệm
Rủi ro hoạt động là rủi ro do thất bại trong hoạt động các giao dịch phái
sinh hoặc hệ thống quản trị rủi ro.
1.2.3.2 Nguyên nhân

Rủi ro này có thể do năng lực yếu kém của nhà quản lý, gặp sự cố máy tính
như bị virus hay lỗi phần mềm, thất bại của ban giám đốc trong việc quan sát và
ghi chép các giao dịch, hạn chế của ban giám đốc về am hiểu các giao dịch phức
tạp tiềm ẩn, không chuẩn bị được những tài liệu đúng quy tắc và vấn đề gian lận
của người giao dịch và ban giám đốc. Các rủi ro này có thể xảy ra trong hầu hết
các loại hoạt động kinh doanh nhưng do các giao dịch phái sinh phức tạp hơn và
thường liên quan đến khoản tiền khổng lồ nên rủi ro hoạt động trở nên rất quan
trọng và mang tính quyết định.
1.2.3.3 . Phòng ngừa
Rủi ro hoạt động có thể tránh được với các biện pháp phòng ngừa thích
hợp, chính sách sao lưu dự phòng toàn diện tại một số khu vực phải quản lý xa và
chính sách quản lý rõ ràng. Để tránh gian lận, các nhà hoạch định chính sách tự
đặt mình trong quan điểm của người muốn để gian lận và thiết lập các quy tắc
nhằm tránh sơ hở. Một điều phải luôn luôn ghi nhớ là việc thiếu kiểm tra và kiểm
soát có thế dẫn đến những thảm họa tài chính không thể lường trước được.
Vì vậy, có lẽ hầu hết tầm quan trọng của rủi ro hoạt động nằm ở hiệu quả
của kiểm soát nội bộ. Ví dụ, nếu một người nào đó được tham gia trong các giao
16
dịch phái sinh, thì hoạt động của người đó sẽ bị một người khác theo dõi và báo
cáo với cấp trên. Bất cứ người nào được phép giao dịch cũng bị hạn chế về phạm
vị hoạt động, nghĩa là họ chỉ được phép tham gia vào một số loại hợp đồng nào
đó mà thôi. Ngoài ra, họ còn bị khống chế số tiền giao dịch. Tiến trình kiểm soát
phải được thực hiện tốt để đảm bảo rằng các thành viên tham gia tuân thủ theo
những chính sách đã ban hành. Mặc dù vậy, một vài công ty không xây dựng
được các chính sách hợp lý và chưa thực sự tiến hành kiểm soát một cách có hiệu
quả. Trong thực tế cũng có thể xảy ra các giao dịch không có ủy quyền. Một cá
nhân trong một công ty nếu thực hiện một giao dịch không thích hợp hoặc giao
dịch này đặt công ty vào rủi ro quá mức ( rủi ro mà công ty không được phép
thực hiện) thì cá nhân đó được gọi là nhà giao dịch rogue. Họ là người giao dịch
trong phạm vi công ty nhưng lại ngoài giới hạn kiểm soát của công ty.

Ngày nay, rủi ro hoạt động được mọi người quan tâm một cách đặc biệt
nhưng đây là một trong các phương pháp quản trị rủi ro khó nhất. Khó khăn thứ
nhất là rất khó nhận diện và định nghĩa rủi ro hoạt động. Khó khăn thứ hai là rủi
ro hoạt động không dễ dàng thích hợp với các phân tích. Nhưng cũng may là các
khoản lỗ do rủi ro hoạt động xảy ra không thường xuyên, tuy nhiên khi chúng xảy
ra thì tổn thất rất đáng kể.
Việc hiếm khi xảy ra của rủi ro hoạt động đã mang lại hai vấn đề chủ yếu:
Một là, do ít xảy ra nên chúng không tuân theo các kỹ thuật thống kê chuẩn
để phân tích, phân phối chuẩn hoặc ngay cả các phân phối thông thường khác
đều không phù hợp với các trường hợp không bình thường của những tổn thất
rủi ro hoạt động.
Hai là, có quá ít số liệu về tổn thất do rủi ro hoạt động gây ra.
Một khi công ty bị những tổn thất như thế, tốt nhất là họ không nên biểu lộ
những thông tin này ra bên ngoài bởi vì đây là những thông tin cho thấy sự lúng
túng và tình trạng luộm thuộm trong hệ thống nội bộ của công ty. Việc hiếm khi
xảy ra trong quá khứ và thiếu số liệu về rủi ro hoạt động đã gây khó khăn cho
chúng ta trong việc dự đoán các tổn thất như vậy sẽ xảy ra ở đâu và xảy ra vào
17
lúc nào. Tuy nhiên, các bộ phận quản trị rủi ro bắt đầu nhận thấy khó khăn này
và do đó họ cũng đã cố gắng cung cấp thông tin số liệu giữa các công ty với nhau.
Ngày nay rủi ro hoạt động càng được nhiều công ty đưa vào danh mục quản
lý trong các chính sách bảo hiểm truyền thống của họ. Khi một công ty bảo hiểm
cung cấp dịch vụ bảo vệ giọng hát của một ca sĩ trong buổi hòa nhạc, có nghĩa là
công ty đang đảm bảo chống lại một trường hợp hiếm xảy ra của bản chất rủi ro
hoạt động. Khi công ty bảo hiểm chống lại sự gian lận của công nhân, đây chính
là một loại rủi ro hoạt động. Vì vậy chúng ta không có gì ngạc nhiên khi thấy các
công ty bảo hiểm bắt đầu tiếp thị các sản phẩm bảo hiểm rủi ro hoạt động trong
lĩnh vực tài chính đặc biệt là trong mối quan hệ với các giao dịch liên quan đến
các công cụ phái sinh. Chúng ta biết rằng hiện nay không có hợp đồng phái sinh
nào để bảo vệ chống lại rủi ro hoạt động. Các nhà nghiên cứu thị trường phái

sinh đang thảo luận bắt đầu hướng về việc tạo ra công cụ phái sinh rủi ro hoạt
động và chúng ta tin rằng chắc chắn các công cụ này sẽ xuất hiện trong một
tương lai gần.
1.2.4 Rủi ro thanh khoản
Rủi ro liên quan đến 1 giao dịch do tình trạng chợ chiều, được thể hiện qua
việc có ít các dealer và chênh lệch giá mua, giá bán quá lớn.
Rủi ro thanh khoản là rủi ro xảy ra khi một công ty cần tham gia một giao
dịch phái sinh và nhận thấy rằng thị trường của giao dịch này quá thưa thớt đến
nỗi mà giá cả trên thị trường của giao dịch gồm một khoản chiết khấu hoặc một
phần bù cho tính thanh khoản. Bất kỳ một nhà tạo lập thị trường nào trên một
công cụ không có tính thanh khoản sẽ gánh chịu rủi ro đáng kể và phải chi trả
cho chênh lệch giá mua vào bán ra khá cao ngay cả khi họ không sẵn lòng giao
dịch.
Hầu hết các công cụ phái sinh vanilla thuần nhất đều có rủi ro thấp nhưng
mà các giao dịch ngoại lai lại có rủi ro thanh khoản cao. Mặc dù vậy, rủi ro thanh
khoản hầu như không bị giới hạn đối với các công cụ phái sinh. Điều này được
chứng minh trong khoản thời gian tháng 8 tháng 9 năm 1998 khi Qũy quản trị
18
vốn dài hạn (LTCM) – là một quỹ phòng ngừa rủi ro khá nổi tiếng trong lĩnh vực
trong lĩnh vực tài chính – nhận thấy rằng họ đang nắm giữ các vị thế của các trái
phiếu có tính thanh khoản rất thấp ở khắp nơi trên thế giới. Mặc dù LTCM đã có
hệ thống quản trị rủi ro khá tinh tế và công ty cũng sở hữu một số nhà kinh
doanh thông minh nhất nhưng họ đã không đánh giá được một cách đầy đủ
những tác động của tính không thanh khoản trong suốt cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu mà các thị trường khắp nơi trên thế giới cùng bị sụp đổ đồng loạt.
LCTM đã gánh chịu các tổn thất nghiêm trọng đến mức mà Cục dự trưc liên bang
Mỹ đã phải can thiệp bằng cách dàn xếp các ngân hàng có các chính sách trợ giúp
tài chính cho LCTM.
1.2.5 Rủi ro thanh toán.
Thường phổ biến trong các giao dịch quốc tế. Giả sử một ngân hàng ở nước

A tham gia một giao dịch tài chính với một công ty ở nước B trong đó cả ngân
hàng và công ty buộc phải thanh toán cho nhau chứ không thanh toán ròng (vd
một hoán đổi tiền tệ thường được thực hiện mà không sử dụng netting bởi vì
thanh toán xảy ra dưới hai dòng tiền khác nhau. Ngân hàng và doanh nghiệp
cách nhau 12 giờ trong đó ngày của ngân hàng được bắt đầu trước. Vào ngày
thanh toán, ngân hàng chuyển ngân quỹ của mình sang cho công ty dưới giả định
khi thị trường mở cửa công ty sẽ chuyển ngân quỹ lại cho ngân hàng. Tuy nhiên,
khi thị trường mở cửa công ty thông báo rằng mình bị phá sản và sẽ tạm hoãn
tất cả các khoản thanh toán. Như vậy, ngân hàng sẽ không có tiền và sẽ cùng số
phận với các chủ nợ khác của công ty. Rủi ro này thình thoảng được gọi là rủi ro
Herstatt, Herstatt là tên của một ngân hàng Đức vào năm 1974 bị phá sản cũng
trong một hoàn cảnh tương tự như vậy, rủi ro thanh toán có thể xuất hiện mà
không có phá sản, tình trạng không trả được nợ và sự gian lận.
1.2.6 Rủi ro kế toán.
Là sự không chắc chắn trong cách xử lý các nghiệp vụ kế toán đặc trưng cho
các giao dịch phái sinh. Kế toán các công cụ phái sinh là một nguồn rủi ro đáng kể
và đã gây ra tranh luận trong nhiều năm mãi cho đến giờ. Những người sử dụng
các công cụ phái sinh luôn luôn quan ngại đến cách mà họ giải thích nguyên nhân
các công cụ phái sinh được công khai một cách không thỏa đáng sau các sự kiện
19
xảy ra và họ cũng quan ngại đến việc họ sẽ bị yêu cầu phải trình bày lại các giao
dịch trong quá khứ có thu nhập thấp
1.2.7 Rủi ro pháp lý
Rủi ro pháp lý là rủi ro mà hệ thống pháp luật sẽ không còn bảo đảm thực
hiện được hợp đồng. ví dụ, giả sử một nhà giao dịch tham gia vào một hoán đổi
với một đối tác mà đối tác này do gần đây bị thiệt hại một khoản lỗ nên đã từ
chối thanh toán cho nhà giao dịch, hai bên đang tranh luận nhà giao dịch nên
chấp nhận hoặc là phía đối tác không có quyền về mặt pháp lý để tham gia hoán
đổi. Các tranh luận này đã được chính quyền địa phương giải quyết khá thành
công. Rủi ro do không thực thi các hợp đồng là một vấn đề rất nghiêm trọng đối

với các nhà giao dịch. Rủi ro này có thể làm cho một hoán đổi hoặc một FRA trở
thành một quyền chọn hết sức dễ dàng, bởi vì đối tác sẽ ra đi không thực hiện
thanh toán nếu thị trường biến động không có lợi cho họ. Không có gì quá ngạc
nhiên khi chúng ta thấy rằng không có đối tác nào từng quả quyết là họ đã thất
bại hoặc là không có quyền thực hiện các công cụ phái sinh sau khi đã kiếm tiền
trên những công cụ này
Rủi ro pháp lý là những sự kiện pháp lý bất lợi xảy ra một cách bất ngờ, gây nên
thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất đối với doanh nghiệp trong quá trình hoạt động.
Rủi ro pháp lý có những đặc điểm sau đây:
* Thứ nhất, đó là khả năng xảy ra sự sai lệch bất lợi so với dự tính của doanh
nghiệp.
* Thứ hai, sai lệch bất lợi mà doanh nghiệp gặp phải xảy ra trong quá trình
hoạt động của doanh nghiệp
* Thứ ba, các sai lệch bất lợi mà doanh nghiệp gặp phải có nguyên nhân
trực tiếp chính là các quy định của pháp luật.
1.3. Quản trị rủi ro là gì?
Quản trị rủi ro là xác định mức độ rủi ro mà một công ty mong muốn, nhận
diện được mức độ rủi ro hiện nay của công ty đang gánh chịu và sử dụng các
20
công cụ phái sinh hoặc các công cụ tài chính khác để điều chỉnh mức độ rủi ro
thực sự theo mức rủi ro mà mình mong muốn.
1.4. Tại sao cần quản trị rủi ro ?
Lý do chính để tiến hành quản trị rủi ro là những quan ngại có liên quan đến
độ bất ổn của lãi suất, tỷ giá, giá cả hàng hoá và giá cổ phiếu trong hoạt động
kinh doanh của các công ty và các định chế tài chính. Các công ty có xu hướng
chấp nhận rủi ro trong nội bộ ngành mà công ty đang hoạt động và mong muốn
né tránh được những rủi ro từ các yếu tố ngoại sinh.
Một vài công ty bắt đầu tiến hành quản trị rủi ro do nhìn vào gương của
một số các công ty không làm như thế, và họ cũng đã gặp phải những thất bại
khá đau buồn.

Một vài nhân tố khác đã đóng góp vào những tăng trưởng trong việc sử
dụng các công cụ phái sinh để quản trị rủi ro . Đầu tiên phải kể đến là sự bùng nổ
kỹ thuật thông tin đã cho phép xử lý một khối lượng tính toán khổng lồ và phức
tạp để định giá các công cụ phái sinh một cách nhanh chóng với chi phí thấp nhất
và theo dõi các vị thế đã được thực hiện trên các công cụ phái sinh. Một số các
nhân tố khác là môi trường pháp lý ngày càng tỏ ra thông thoáng. Ở các nước
phát triển mà điển hình là Mỹ, CFTC đã thừa nhận sự hình thành một thị trường
chuyên biệt vào đầu những năm 1980, đã mở ra hướng phát triển cho một gia
tanwg cề số lượng các hợp đồng giao sau cải tiến như hợp đồng giao sau
Eurodollars và hợp đồng giao sau chỉ số chứng khoán. Các hợp đồng này tạo ra
một động lực dẫn đến nhiều cải tiến hơn nữa trên các thị trường chính thức và
thị trường OTC.
Lợi ích của quản trị rủi ro:
Các công ty quản trị rủi ro để giảm thuế, giảm chi phí phá sản, bởi vì các
nhà quản trị quan tâm đến tài sản của riêng họ, để tránh đầu tư lệch lạc, để thực
hiện vị thế đầu cơ khi có dịp, để kiếm được lợi nhuận kinh doanh chênh lệch hoặc
để giảm rủi ro tín dụng và từ đó làm giảm chi phí đi vay.
21
Cần phải lưu ý là bản thân việc giảm rủi ro không là lý lẽ hoàn hảo để lý giải
về việc tại sao công ty phải phòng ngừa và quản trị rủi ro. Các công ty nào chấp
nhận rủi ro thấp hơn, thì trong dài hạn họ sẽ nhận được tỷ suất sinh lợi thấp hơn.
Hơn nữa, nếu như các cổ đông của họ thực sự muốn rủi ro thấp hơn, họ có thể dễ
dàng điều chỉnh lại các danh mục đầu tư của họ bằng cách thay thế các chứng
khoán rủi ro cao bằng chứng khoán rủi ro thấp. Quản trị rủi ro phải tạo ra giá trị
cho cổ đông, tức là làm ra cho họ những gì mà bản thân cổ đông không thể tự
mình làm được. Nói rộng ra thì quản trị rủi ro sẽ làm giảm thiểu được khả năng
phá sản vốn rất tốn kém, tiết kiệm được tiền thuế, và tạo điều kiện dễ dàng cho
công ty đầu tư vào các dự án có lời và bằng những lợi ích nhận được như thế, rõ
ràng là giá triij sẽ được tạo ra cho các cổ đông.
1.5. Các quy định về quản trị rủi ro (basel)

1.5.1. Basel 1
Sau hàng loạt vụ sụp đổ của các ngân hàng vào thập kỷ 80, một nhóm các
Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) đã tập
hợp tại thành phố Basel, Thụy Sĩ vào năm 1987 tìm cách ngăn chặn xu hướng
này. Sau khi nhóm họp, các cơ quan này đã quyết định hình thành Uỷ ban Basel về
giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision), đưa ra các
nguyên tắc chung để quản lý hoạt động của các ngân hàng quốc tế.
Năm 1988, Uỷ ban này đã phê duyệt một văn bản đầu tiên lấy tên là Hiệp
ước về vốn của Basel (Basel I), yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải
nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra.
Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của ngân
hàng, do đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số
rủi ro của ngân hàng đó. Mục đích của Basel I nhằm:
- Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.
- Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm
giảm cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
22
Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc
tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của ngân
hàng. Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2 loại:
- Vốn cấp 1 (vốn cơ bản): Vốn loại 1 bao gồm lượng vốn dự trữ sẵn có và các
nguồn dự phòng được công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay.
- Vốn cấp 2 (vốn bổ sung): Vốn cấp 2 bao gồm tất cả các vốn khác như các
khoản lợi nhuận trên tài sản đầu tư, nợ dài hạn với kỳ hạn lớn hơn 5 năm và các
khoản dự phòng ẩn (như trợ cấp cho các khoản vay và trợ cấp cho các khoản cho
thuê). Tuy nhiên, các khoản nợ ngắn hạn không có bảo đảm không bao gồm trong
định nghĩa về vốn này. Tổng vốn sẽ bằng tổng của vốn cấp 1 và vốn cấp 2.
- Vốn cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn
Vốn cấp 1 >= Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
Vốn tính theo rủi ro gia quyền

Tài sản tính theo rủi ro gia quyền (RWA) = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro
phân định cho từng tài sản trong bảng CĐKT) + Tổng (Nợ tương đương x
Mức rủi ro ngoại bảng)
Theo quy định của Basel I, các ngân hàng cần xác định được tỷ lệ vốn tối
thiểu cần có để bù đắp cho rủi ro. Lúc đó, các nhà hoạch định chính sách của ngân
hàng trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận ra các
nguy cơ từ rủi ro tín dụng, và vì vậy, mức rủi ro tín dụng mà ngân hàng đối mặt
được xác định là tài sản điều chỉnh theo rủi ro của ngân hàng. Theo Basel I, tổng
vốn của một ngân hàng cần ít nhất bằng 8% rủi ro tín dụng của ngân hàng đó.
Tỷ lệ vốn tối thiểu = (Tổng vốn/tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro) > 8%
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia
quyền
5 định mức về vốn:
23
- Mức vốn tốt: CAR > 10%
- Mức vốn thích hợp: CAR > 8%
- Thiếu vốn: CAR < 8%
- Thiếu vốn rõ rệt: CAR < 6%
- Thiếu vốn trầm trọng: CAR < 2%
Chúng ta hãy xem xét các bước tính dưới đây để hiểu hơn về tài sản điều
chỉnh theo rủi ro và yêu cầu về vốn theo Basel I. Bảng 1 chỉ ra các hạng mục đã
được định trước về mức độ nhạy cảm với rủi ro trên bảng cân đối kế toán, như là
độ nhạy cảm với các sự kiện ngoài dự kiến gây ra tổn thất, được tính theo 4 loại
trọng số rủi ro (0%, 20%, 50% và 100%).
Bảng 1. Trọng số rủi ro theo loại tài sản
Trọng số rủi ro Phân loại tài sản
0%
Tiền mặt và vàng nằm trong ngân hàng.
Các nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và Bộ Tài chính.
20%

Các khoản trả nợ của ngân hàng có quy mô lớn
Chứng khoán phát hành bởi các cơ quan Nhà nước
50% Các khoản vay thế chấp nhà ở,…
100%
Tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của doanh
nghiệp, các khoản nợ từ các nước kém phát triển, các
khoản vay thế cấp cổ phiếu, bất động sản,…
Theo đó, các trọng số rủi ro khác nhau với các loại tài sản khác nhau sẽ cho
ra những yêu cầu về vốn khác nhau như bảng 2.
Bảng 2.
Loại tài sản Trọng Tỷ lệ Số tiền Tài sản Yêu cầu
24
số rủi
ro
vốn
điều chỉnh
theo trọng
số rủi ro
về vốn tối
thiểu
Trái phiếu Chính phủ 0% 8% 1.000 USD 0 USD 0 USD
Trái phiếu đô thị 20% 8% 1.000 USD 200 USD 16 USD
Thế chấp nhà ở 50% 8% 1.000 USD 500 USD 40 USD
Vay không bảo đảm 100% 8% 1.000 USD 1.000 USD 80 USD
Theo biến đổi của thị trường, năm 1996, Hiệp ước Basel I được sửa đổi có
tính đến rủi ro thị trường. Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị trường
chung và rủi ro thị trường cụ thể. Rủi ro thị trường chung đề cập đến những thay
đổi về giá trị thị trường do có sự biến động lớn trên thị trường. Rủi ro thị trường
cụ thể là những thay đổi về giá trị của một loại tài sản nhất định. Có 4 loại biến số
kinh tế làm phát sinh rủi ro thị trường, đó là tỷ giá lãi suất, ngoại hối, chứng

khoán và hàng hóa. Rủi ro thị trường có thể được tính theo 2 phương thức hoặc
là bằng mô hình Basel tiêu chuẩn hoặc là bằng các mô hình giá trị chịu rủi ro nội
bộ của các ngân hàng. Những mô hình nội bộ này chỉ có thể được sử dụng nếu
ngân hàng thoả mãn các tiêu chuẩn định tính và định lượng được quy định trong
Basel.
1.5.2 Basel II
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm
1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là Basel I
đã không đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp và với mức
độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp.
Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước mới
thay thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn của Basel
(Basel II) đã chính thức được ban hành. Với cách tiếp cận mới dựa trên 3 cột trụ
25
chính, Basel II đã buộc các ngân hàng quốc tế phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc cơ
bản:
a. Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn
để trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi
ro thị trường và rủi ro tác nghiệp (Cột trụ 1). Theo đó, cách tính chi phí vốn đối
với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, thay đổi nhỏ với rủi ro thị trường nhưng
hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp.
b. Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về
những loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên
sẽ có thể đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này (Cột trụ
2).
Với cột trụ này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát:
 Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn
của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm
duy trì mức vốn đó.
 Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn

nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả năng
giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên nên
thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết
quả của quy trình này.
 Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối
thiểu theo quy định.
 Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân
hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi
ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
Tính toán tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu

×