Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Mô hình quản lý tập thể Quyền tác giả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.1 KB, 44 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn chủ đề nghiên cứu
Ttrong nhiều năm trở lại đây, sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghệ
thông tin cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã tạo ra nhiều con
đường, nhiều hình thức, phương pháp khác nhau để phân phối, khai thác và chia
sẻ các tài sản trí tuệ hay điển hình là các tác phẩm làm cho việc bảo vệ các tài
sản này trở nên ngày một khó khăn hơn. Chỉ cần một vào thao tác đơn giản là
các tác phẩm có thể được sao chép một cách dễ dàng thông qua những thiết bị
điện tử hiện đại và phát tán đi rộng rãi đến với người sử dụng. Điều này làm cho
việc bảo vệ quyền tác giả của các chủ thể quyền trở nên khó khăn hơn, gây thiệt
hại lớn cho họ nếu các tài sản này bị khai thác trái pháp phép và tệ hơn nữa là sẽ
làm giảm sút sự lao động sáng tạo của xã hội.
Tuy nhiên hiện nay hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập thêm vào là sự
quản lý lỏng lẻo của nhà nước khiến cho việc bảo vệ quyền tác giả của các chủ
thể quyền chưa được thực thi triệt để, làm cho quyền tác giả của họ bị xâm hại
nặng nề mà không biết phải kêu cứu đến ai. Trước yêu cầu cấp thiết đó của xã
hội, các tổ chức quản lý tập thể được ra đời và xem như là một cơ chế mới để
bảo vệ và thực thi các quyền lợi của chủ thể quyền. Nghiên cứu các vấn đề về
quản lý tập thể và các tổ chức quản lý tập thể sẽ giải quyết những yêu cầu làm
sao để bảo vệ và thực thi quyền tác giả của các chủ thể trong một cách triệt để và
hiệu quả nhất. Xuất phát từ mong muốn đó, tác giả khóa luận đã nghiên cứu đề
tài với chủ đề “Hoạt động quản lý quyền sao chép thông qua tổ chức quản lý tập
thể” vơi mong muốn có thể có một cái nhìn tổng quát đối với vấn đề còn khá
mới mẻ này
2. Mục tiêu nghiên cứu:
1
Tổng hợp các vấn đề lý luận quy định về hoạt động quản lý quyền sao
chép thông qua tổ chức tập thể nhằm làm rõ 4 mục tiêu chính sau:
• Xác định khung pháp lý của quyền sao chép trong pháp luật Việt Nam
• Xác định thế nào là tổ chức quản lý tập thể và cơ chế vận hành của nó
• Tìm hiểu cách mà các tổ chức quản lý tập thể thực thi việc quản lý


quyền sao chép như thế nào trong thực tiễn
• Tìm ra giải pháp nâng cao hoạt động quản lý tâp thể quyền sao chép
một cách hữu hiệu nhất và đưa ra ý kiến đề xuất để pháp luật được
hoàn thiện.
3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân tích
tài liệu, tổng hợp và xử lý các thông tin, số liệu thu thập được phù hợp với mục
tiêu thực hiện đề tài, phân tích thực tiễn chứng minh cho lý luận
4. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu mô hình hoạt động và việc thực thi pháp
luật của các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan tại Việt Nam
hiện nay. Tuy nhiên do lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan là một phạm trù
quá rộng mà trong phạm vi nội dung khóa luận này không thể bao quát hết nên
bài viết chỉ tiếp cận đến một mảng của quyền tác giả đó là quyền sao chép trong
quyền tác giả để phân tích và đánh giá.
5. Kết cấu khóa luận
2
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hoạt động quản lý quyền sao chép
thông qua tổ chức quản lý tập thể
Trong chương 1 tác giả tâp trung đi vào cơ sở lý luận của quyền tác giả,
quyền sao chép và các tổ chức quản lý tập thể. Phân tích làm rõ một số vấn đề lý
luận liên quan đến quản lý tập thể và tổ chức quản lý tập thể
Chương 2: Hoạt động quản lý quyền sao chép thông qua các tổ chức quản lý tập
thể và thực trạng hiện nay
Trong chương 2 tác giả đi vào cơ chế hoạt động vận hành của các tổ chức
quản lý tập thể tại Việt Nam và nêu lên thực tiễn hoạt động quản lý quyền sao
chép của các tổ chức quản lý tập thể.
Chương 3: Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý của các tổ chức quản lý tập
thể và một số kiến nghị về vấn đề quản lý tập thể quyền sao chép tại Việt Nam
Ở chương 3 tác giả tiến hành phân tích đánh giá những mặt đã đạt được và

những mặt chưa đạt được của các tổ chức quản lý tập thể thông qua đó đưa ra
một số kiến nghị nhằm nâng cao hoạt động quản lý tập thể quyền sao chép của
các tổ chức quản lý tập thể tại Việt Nam hiện nay
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN
LÝ QUYỀN SAO CHÉP THÔNG QUA TỔ CHỨC QUẢN LÝ
TẬP THỂ
1.1 Khái quát hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
về hoạt động quản lý quyền sao chép thông qua tổ chức quản lý
tập thể:
1.1.1 Pháp luật quốc tế:
Trên thế giới vào thời kỳ cổ đại và trung cổ con người còn chưa biết đến
quyền về sáng tạo hay các quyền về sở hữu đối với các sản phẩm trí tuệ, đối
tượng được coi trọng lúc này là các quyền về tài sản vật chất cụ thể. Chẳng hạn
như một người chỉ có quyền tài sản đối với một cuốn sách nhưng không có bất
cứ quyền nào đối với những nội dung bên trong cuốn sách đó, vậy nên nếu việc
ăn cắp một quyển sách là sai trái thì việc sao chép nội dung từ cuốn sách đó lại là
hoàn toàn hợp pháp
1
.
Sau đó, cùng với sự phát triển của ngành in ấn và xuất bản vào khoảng
năm 1440, các tác phẩm văn học nghệ thuật trở nên dễ dàng được sao chép và sử
dụng trong công chúng một cách rộng rãi thì lúc này người ta mới bắt đầu chú
trọng đến quyền lợi của các tác giả sáng tạo nên các sản phẩm trí tuệ - mà hiện
nay thuật ngữ pháp lý gọi là quyền tác giả hay bản quyền. Những ý tưởng đầu
tiên về quyền tác giả được bắt đầu từ khoảng đầu thế kỷ 18 với đạo luật đầu tiên
về tác quyền được ban hành bởi Nữ hoàng Anh Anne năm 1710. Tiếp theo đó
như là một sự đáp lại các nhu cầu bảo vệ quyền lợi vừa mới được công nhận
trước sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và các loại máy móc tân

1 />4
tiến, các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả bắt đầu xuất hiện vào năm 1777 tại
Pháp và ngày càng không ngừng được nhân rộng trên toàn thế giới
2
. Đến cuối
thế kỷ 19 thì quyền tác giả và các vấn đề về quản lý tập thể đã được khái quát
hóa cụ thể và được công nhận lần đầu tiên trong Công ước Berne 1886, hiện có
162 quốc gia thành viên.
Từ đó đến nay, quyền tác giả và vấn đề về tổ chức quản lý tập thể đã trở
thành một phần quan trọng trong các hệ thống pháp luật các quốc gia và pháp
luật quốc tế. Để điều chỉnh mối quan hệ toàn cầu về lĩnh vực này, hàng loạt Hiệp
định, Công ước, Hiệp ước đa phương, song phương … đã được soạn thảo, ký kết
và có hiệu lực trên khắp các châu lục. Các tổ chức quản lý tập thể cũng theo đó
được phát triển và hiện nay đã có mặt trên 100 quốc gia trên toàn thế giới. Trong
đó liên quan đến nội dung quyền tác giả, quyền sao chép và tổ chức quản lý tập
thể có thể kể đến một số văn bản pháp luật quốc tế quan trọng sau:
• Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật là công ước
quan trọng nhất về quyền tác giả được ký kết vào năm 1971 tại Paris và
bắt đầu có hiệu lực áp dụng tại Việt Nam từ ngày 26 tháng 10 năm 2004.
• Hiệp định Trips về những khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ, có hiệu lực tại Việt Nam ngày 11 tháng 1 năm 2007, hiện có
157 quốc gia thành viên.
• Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc sao
chép trái phép bản ghi âm của họ, có hiệu lực tại Việt Nam ngày 6 tháng 7
năm 2005, hiện có 77 quốc gia thành viên
• WCT là Hiệp ước của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới WIPO về Quyền
tác giả, thông qua tại Geneva ngày 20 tháng 12 năm 1996. Tuy WCT
không có hiệu lực áp dụng tại Việt Nam nhưng một số quy định của nó
được vận dụng trong Luật Sở hữu trí tuệ (sau đây gọi tắt là Luật SHTT) ví
dụ như các quy định liên quan đến sao chép điện tử, biện pháp công nghệ,

truyền phát trên Internet.
2 Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO (2005), Colletive Management in Reprography, pp 6.
5
1.1.2 Pháp luật Việt Nam
Ở nước ta các khái niệm về quyền tác giả và tổ chức quản lý tập thể đều đi
chậm hơn một bước so với thế giới. Nếu trên thế giới quyền tác giả đã được khái
quát và định nghĩa lần đầu trong các hệ thống văn bản pháp luật quốc tế từ
những năm cuối thế kỷ 19 thì ở Việt Nam phải đến giữa thế kỷ 20 ý tưởng về
quyền tác giả như một quyền con người mới được manh nha xuất hiện và được
đề cập tới lần đầu tiên trong bản Hiến pháp năm 1946. Kế thừa từ đó đến nay đã
có rất nhiều văn bản pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh các vấn đề về quyền tác
giả có thể liệt kê như:
• Bộ luật Dân sự 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2006 quy định các nguyên tắc nền tảng cơ
bản của Luật SHTT
• Luật Sở hữu trí tuệ, bắt đầu có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm 2006, được
sửa đổi bổ sung bởi Luật sửa đổi một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ ngày
19 tháng 06 năm 2009 bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010
(sau đây tác giả xin được gọi chung là Luật Sở hữu trí tuệ) quy định về
quyền tác giả và các vấn đề liên quan tại các phần thứ 1, 2, 5 và 6 của văn
bản.
• Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 21 tháng 09
năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Bộ luật Dân sự,
Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
• Nghị định số 85/2011/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 20 tháng 09
năm 2011 sửa đổi Nghị định 100/2006/NĐ-CP hướng dẫn Bộ luật Dân sự,
Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
• Nghị định của Chính phủ số 131/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 10 năm 2013
quy định xử phạt hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan.
Đối với vấn đề tổ chức quản lý tập thể ở nước ta vẫn còn rất mới mẻ và

chưa hề có tiền lệ nào trước đây cho nên hiện nay vẫn chưa có văn bản điều
6
chỉnh riêng, các quy định còn nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau.
Ngoài các văn bản pháp luật điều chỉnh về quyền tác giả kể trên thì còn có một
số quy định liên quan đến vấn đề tổ chức quản lý tập thể có thể kể đến như:
• Chỉ thị số 36/2008 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 36/2008/CT-TTg
ngày 31 tháng 12 năm 2008 về việc tăng cường quản lý và thực thi quyền
tác giả, quyền liên quan.
• Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 21 tháng 04
năm 2010 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội do trong pháp
luật Việt Nam thì Tổ chức quản lý tập thể được xem là một loại hình Hội
• Nghị định số 33/2012/NĐ-CP của Chính Phủ được ban hành ngày 13
tháng 04 năm 2012 sửa đổi Nghị định 45/2010/NĐ-CP quy định về tổ
chức, hoạt động và quản lý hội.
1.2 Quyền tác giả
Trước tiên khi muốn tiếp cận lĩnh vực quyền sao chép và các hoạt động quản
lý tập thể có liên quan thì ta phải tìm hiểu các khái niệm về quyền tác giả bao
quát bên ngoài trước.
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của quyền tác giả
Quyền tác giả hay còn gọi là Bản quyền là khái niệm dùng để nói về
quyền phi vật thể đối với các sản phẩm trí tuệ trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật
và khoa học. Pháp luật nước ta định nghĩa quyền tác giả tại khoản 2 điều 4 Luật
SHTT như sau: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm
do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Cũng theo đó tại khoản 7 điều 4 Luật SHTT
khái niệm “Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật
và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”
Ngoài ra theo khoản 1 điều 6 Luật SHTT cũng quy định căn cứ xác lập
quyền tác giả “phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới
7
một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình

thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay ch-
ưa đăng ký”
Như vậy ta có thể thấy quyền tác giả có ba đặc điểm chính sau:
• Một là quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức thể hiện của tác phẩm, không
bảo hộ nội dung tác phẩm.
Ví dụ cùng là ý tưởng về tình cảm cha con nhưng có người sẽ thể hiện ý
tưởng này dưới một một bài hát, người khác sẽ lại thể hiện dưới một bài
thơ hay bài văn nào đó. Bài hát, bài thơ hay bài văn chính là hình thức thể
hiện của ý tưởng. Quyền tác giả sẽ tập trung bảo hộ các hình thức này mà
không bảo hộ ý tưởng về tình cảm cha con của tác phẩm
• Hai là quyền tác giả được tự động phát sinh kể từ khi tác phẩm được định
hình dưới một hình thức vật chất nhất định mà không cần phải trải qua quy
trình thẩm định xét duyệt của bất kỳ cơ quan nhà nước nào, không phân
biệt tác phẩm đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký bảo hộ hay chưa
đăng ký bảo hộ.
• Ba là quyền tác giả mang tính độc quyền. Chỉ những tổ chức cá nhân nào
sáng tạo ra hay sở hữu tác phẩm thì mới có quyền tác giả đối với tác phẩm
đó
1.2.2Nội dung quyền tác giả
Sau khi tác phẩm được định hình và quyền tác giả đã được phát sinh thì
trong nội dung quyền tác giả sẽ chia thành hai mảng đó là quyền nhân thân và
quyền tài sản.
1.2.2.1 Quyền nhân thân
Quyền nhân thân trong quyền tác giả hay còn được gọi là quyền tinh thần
theo công ước Berne bao gồm quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền
nhân thân gắn với tài sản.
8
Quyền nhân thân không gắn với tài sản: là những quyền gắn liền với các
giá trị nhân thân của tác giả và không thể chuyển giao gồm:
• Quyền được đặt tên tác phẩm.

• Quyền đứng tên tác phẩm.
• Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm.
Quyền nhân thân gắn với tài sản: là quyền công bố tác phẩm hoặc cho
người khác công bố tác phẩm. Sau khi tác phẩm hoàn thành, tác giả có quyền
quyết định xem có công bố phổ biến tác phẩm đến công chúng hay không. Nội
dung quyền này cho phép tác giả quyết định việc ai sẽ là người trình bày tác
phẩm trước công chúng, trình bày theo hình thức nào, cách thức ra sao, vào thời
gian nào, địa điểm nào… đều sẽ do chính tác giả quyết định lựa chọn. Quyền
nhân thân gắn với tài sản chính là tiền đề làm phát sinh quyền tài sản.
Việc quy định quyền nhân thân có ý nghĩa như một sự thừa nhận của pháp
luật rằng chính tác giả là người đã làm nên tác phẩm đó cũng như là biểu hiện
của việc tôn trọng công sức và những giá trị nhân thân của tác giả đã làm nên tác
phẩm.
1.2.2.2 Quyền tài sản
Quyền tài sản trong quyền tác giả được các văn bản pháp luật quốc tế ghi
nhận là quyền kinh tế, quyền này được hiểu là quyền được hưởng các lợi ích vật
chất khi tác phẩm được khai thác sử dụng bằng các hình thức khác nhau bao gồm
các quyền:
• Sao chép tác phẩm: Sao chép ở đây có thể là hành vi sao chép từ máy
photocopy, quét scan dữ liệu trên máy vi tính hoặc sao lưu dữ liệu trong
đĩa CD, VCD
• Làm tác phẩm phái sinh: Quyền này cho phép người nắm giữ quyền tác
giả quyết định việc cho hay không cho người khác làm tác phẩm phái sinh
trên tác phẩm gốc của mình
9
• Biểu diễn tác phẩm trước công chúng: Biểu diễn tác phẩm trước công
chúng là việc chủ sở hữu quyền tác giả hoặc một tổ chức, cá nhân nào đó
được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép sẽ trình diễn tác phẩm của họ đến
công chúng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
• Phân phối nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm: đây là quyền của

chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác
thực hiện bằng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng
có thể tiếp cận được để bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng
khác bản gốc hoặc bản sao tác phẩm.
• Truyền đạt tác phẩm đến công chúng: Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
có quyền tự mình thực hiện việc truyền đạt tác phẩm đến công chúng hoặc
cho phép người khác thực hiện thay mình thông qua các phương tiện hữu
tuyến, vô tuyến, qua mạng thông tin điện tử, truyền tín hiệu qua vệ tinh,
truyền hình cáp v v…
• Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính:
áp dụng cho các tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính mà không áp
dụng cho các lọai hình tác phẩm khác.Việc cho thuê chỉ có một thời hạn
để dử dụng nhất định.
Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có thể độc quyền thực hiện hoặc cho
phép người khác thực hiện các quyền tài sản này.Tổ chức, cá nhân nào khi khai
thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền nhân thân gắn với tài sản và
quyền tài sản thì phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật
chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.
1.2.3 Chủ thể quyền tác giả
Các chủ thể quyền tác giả bao gồm tác giả (đồng tác giả) và chủ sở hữu
quyền tác giả
Theo quy định tại khoản 1 điều 13 Luật SHTT thì “Tác giả là người trực
tiếp sáng tạo ra một phần hay toàn bộ tác phẩm”.Còn chủ sở hữu quyền tác giả
10
là “tổ chức cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản trong
quyền tác giả” hay có thể hiểu chủ sở hữu quyền tác giả là người được độc
quyền sử dụng và định đoạt tác phẩm.
Như vậy ở đây sẽ xảy ra 2 trường hợp:
• Chủ sở hữu quyền tác giả đồng thời là tác giả
Theo quy định tại điều 37 của Luật SHTT Việt Nam thì chủ sở hữu quyền

tác giả đồng thời là tác giả khi tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở –
kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm. Lúc này tác giả hay chủ sở hữu
tác phẩm sẽ có đầy đủ các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác
phẩm do mình sáng tạo
• Chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả
Pháp luật Việt Nam quy định chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là
tác giả trong các trường hợp là: tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả
hoặc giao kết hợp đồng với tác giả; người thừa kế; người được chuyển
giao quyền; Nhà nước, trong trường hợp tác phẩm còn thời hạn bảo hộ,
không có người thừa kế, người thừa kế từ chối di sản, hoặc không được
quyền nhận di sản.
3
Trong trường hợp này chủ sở hữu quyền tác giả sẽ
nắm giữ quyền tài sản và quyền nhân thân gắn liền với tài sản, còn tác giả
sẽ là người nắm giữ quyền nhân thân không gắn với tài sản.

1.3 Quyền sao chép
Quyền sao chép là một trong các quyền tài sản thuộc quyền tác giả nên nó
mang theo cả những thuộc tính đặc điểm của quyền tác giả. Trong các văn bản
điều ước quốc tế cũng như văn bản pháp luật quốc gia các nước đều công nhận
quyền sao chép là một độc quyền và thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả. Vậy câu
hỏi đặt ra ở đây: như thế nào là sao chép?
3 Nội dung này được quy định tại các điều 40, 41, 42 Luật SHTT Việt Nam
11
1.3.1 Các hành vi được xem là sao chép
Theo khoản 10 điều 4 Luật SHTT thì “Sao chép” được giải thích là “việc
tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất
kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc
tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử”
Như vậy chỉ cần hành động tải một bài hát hoặc một bài thơ trên mạng về

máy tính của mình thì cũng đã được coi là hành vi sao chép. Việc sao chép lại
bằng tay hay sao chụp lại bằng máy các bức tranh, bài giảng, bài phát biểu, bài
thuyết trình đều được xem là một trong các hình thức sao chép
Tuy nhiên ở đây cần phải phân biệt thế nào là “sao chép” và “trích dẫn”.
Trong khi hành vi “sao chép” được mô tả là tạo ra bản sao một phần hay toàn
bộ tác phẩm thì “trích dẫn” lại được xem là việc sử dụng hợp lý một phần nhỏ
tác phẩm của người khác nhưng không đáng kể để phục vụ cho việc bình luận và
minh họa cho tác phẩm của mình và việc trích dẫn đó không phải là nhằm vào
bất cứ một mục đích kinh doanh thương mại nào. Bên cạnh đó việc trích dẫn
phải không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng bình thường của tác phẩm và phải
tuân theo các quy định của pháp luật vể quyền tác giả.
4
Tất cả các hành vi sử
dụng tác phẩm mà không nằm trong khoảng giới hạn của trích dẫn thì đều bị
xem là hành vi sao chép. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là sử dụng
Một số hình thức sao chép thông dụng có thể kể đến như:
• In ấn và xuất bản: đây là hai hình thức sao chép cổ nhất và được xem là
ngành công nghiệp văn hóa của nhân loại
• Sao chụp: ở đây là hành vi sao chép lại bằng các máy móc hiện đại sao
chụp lại tác phẩm như sử dụng máy photocopy sao chụp lại tác phẩm hoặc
chụp lại bằng các máy ảnh
4 Khoản 1 điều 24 Nghị định 100/2006 được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 85/2011 của Chính Phủ ban hành các
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và
quyền liên quan.
12
• Sao chép cơ học: được hiểu là hành vi sao chép tác phẩm dưới dạng bản
ghi âm hay ghi hình, bao gồm các quy trình điện âm học và điện tử được
sản xuất cơ học.
• Sao chép số là hành vi sao chép dựa trên phương tiện công nghệ số ví dụ
sao chép lên máy CD hoặc DVD, số hóa bằng máy Quét (scan), lưu trữ

điện tử trong cơ sở dữ liệu…
1.3.2 Khung pháp lý của quyền sao chép trong quyền tác giả
Quyền sao chép trong quyền tác giả là một trong những quyền tài sản cơ
bản và quan trọng nhất thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả.
Theo quy định của pháp luật SHTT Việt Nam
5
thì “Quyền sao chép tác
phẩm là một trong các quyền tài sản độc quyền thuộc quyền tác giả, do chủ sở
hữu thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao tác phẩm
bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản sao dưới
hình thức điện tử”
Theo đó mọi hành vi sao chép tác phẩm đều phải được sự đồng ý của chủ
sở hữu quyền tác giả kể cả việc sao chép đó là một phần hay toàn bộ tác phẩm,
không phân biệt hình thức, phương tiện được sử dụng để sao chép, kể cả sao
chép điện tử.
Tuy nhiên bên cạnh việc quy định độc quyền sao chép cho chủ sở hữu,
pháp luật còn quy định những trường hợp ngoại lệ được xem là giới hạn và các
trường hợp loại trừ của quyền tác giả nhằm hài hòa lợi ích của tác giả với lợi ích
của công chúng, đảm bảo khuyến khích sự sáng tạo cũng như tạo điều kiện để
công chúng có thể tiếp cận những giá trị nghệ thuật, khoa học, góp phần phát
triển nền kinh tế, văn hóa, xã hội. Liên quan đến vấn đề này, Tổ chức SHTT Thế
5 Khoản 2 điều 23 Nghị định 100/2006 được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 85/2011 của Chính Phủ ban hành các
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và
quyền liên quan
13
giới WIPO đã đề xuất “nguyên tắc phép thử ba bước” được ghi nhận tại điều
9(2) Công ước Berne 1971 và điều 10 Hiệp ước về Quyền tác giả của (WCT) để
các quốc gia xây dựng khung giới hạn phù hợp gồm 3 điều kiện như sau:
• Chỉ là trường hợp đặc biệt nhất định, không phải là tổng quát
• Không được làm mâu thuẫn tới việc khai thác bình thường của tác phẩm

• Không gây phương hại bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của các chủ thể
quyền.
Theo đó pháp luật về sở hữu trí tuệ ở nước ta cũng xây dựng khung giới hạn
cho quyền sao chép theo nguyên tắc phép thử 3 bước và được chia thành hai
loại:
• Loại thứ nhất là việc sử dụng tự do, tức việc khai thác, sử dụng tác phẩm
đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút thù lao.
Việc sử dụng này được quy định cụ thể tại điều 25 Luật SHTT Việt Nam
bao gồm các trường hợp như: tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên
cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân; Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong
thư viện với mục đích nghiên cứu; Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo
hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công
cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó… Tuy nhiên việc khai
thác, sử dụng tự do ở các trường hợp này không được áp dụng đối với tác
phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.
• Loại thứ hai là loại cấp phép bắt buộc, tức việc khai thác, sử dụng tác
phẩm đã công bố không phải xin phép, nhưng phải trả tiền được quy định
tại điều 26 Luật SHTT Việt Nam trong các trường hợp như: Tổ chức phát
sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ hay không có tài
trợ, quảng cáo không thu tiền hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào. Tuy
nhiên việc khai thác, sử dụng tác phẩm đã công bố trong các trường hợp
này không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm
của chủ sở hữu, không gây phương hại đến quyền của tác giả, chủ sở hữu
14
quyền tác giả; phải thông tin về tác giả và nguồn gốc xuất xứ của tác
phẩm.
Như vậy, ngoài những trường hợp ngoại lệ nêu trên thì tất cả các hành vi
sao chép tác phẩm đều phải được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả. Chủ
sở hữu quyền tác giả có nhiệm vụ tự quản lý quyền lợi của mình; tự tiến hành
khai thác quyền để đạt được các lợi ích mong muốn, bù đắp các tiêu hao trong

quá trình sáng tạo mà chủ sở hữu đã đầu tư vào, đồng thời tiếp tục tái đầu tư cho
các hoạt động sáng tạo ra các giá trị văn học, nghệ thuật và khoa học mới.
Nhưng trong thực tế việc quản lý cá nhân quyền tác giả là bất khả thi đối với
quyền sao chép. Một chủ sở hữu quyền tác giả không thể liên lạc với tất cả các
người sử dụng tác phẩm để giám sát họ có sử dụng quyền sao chép hợp pháp hay
không, thương lượng giấy phép và tiền thù lao cho việc sử dụng tác phẩm của
họ. Ngược lại, một tổ chức phát sóng cũng không thể xin phép mỗi tác giả cho
tất cả các công việc phải sử dụng bản quyền của mình. Sự khó khăn trong hoạt
động quản lý cá nhân cho chủ sở hữu quyền và cho người sử dụng đã tạo ra một
nhu cầu làm xuất hiện các tổ chức quản lý tập thể được xem như là một “lối đi”
cho việc quản lý quyền trong thời đại hiệnn nay
6
1.4 Quản lý tập thể và các tổ chức quản lý tập thể :
1.4.1 Khái niệm quản lý tập thể và tổ chức quản lý tập thể:
Ở nước ta khái niệm “quản lý tập thể” vẫn còn là khái niệm hoàn toàn mới
mẻ và vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào định nghĩa tổng quát về nó. Theo
tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO thì “quản lý tập thể” được khái niệm là
“việc thực thi quyền tác giả và quyền liên quan của các tổ chức thay mặt chủ sở
6 Vũ Mạnh Chu , Về vấn đề tổ chức quản lý tập thể , />15
hữu quyền tác giả và các tổ chức này hành động vì lợi ích của các chủ sở hữu
quyền đó”
7
Các tổ chức phi chính phủ được thành lập để thực hiện công việc quản lý
này sẽ được gọi là Tổ chức quản lý tập thể (Collective management organization
– CMO)
Như vậy hiểu đơn giản thì quản lý tập thể là việc quản lý một, hoặc một số
quyền của chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan thông qua một Tổ chức
quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan (CMO) được thành lập hợp pháp
8
Việc quản lý tập thể quyền của chủ sở hữu quyền tác giả sẽ bao gồm 4

công việc chính
9
sau:
• Giám sát tác phẩm đang được sử dụng ở đâu, khi nào và bởi ai
• Đàm phán với người sử dụng hoặc người đại diện của họ
• Thực hiện cấp phép và thu tiền thù lao dựa trên tác phẩm một cách hợp lý
• Phân phối lại tiền đền bù cho các chủ thể quyền một cách hợp lý
Pháp luật SHTT nước ta thì lại không định nghĩa thế nào là quản lý tập thể
mà chỉ nêu khái niệm của tổ chức đại diện tập thể tại khoản 1 điều 56 Luật
SHTT như sau: “Tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan là tổ
chức phi lợi nhuận do các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền
liên quan thỏa thuận thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật để bảo vệ
quyền tác giả, quyền liên quan”
7 www.wipo.int/copyright/en/management/
8 />9 Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO (2005), Collective Management in Reprography, pp
16
Tuy thuật ngữ đại diện tập thể và quản lý tập thể có đôi chút khác biệt
nhau nhưng nội dung của các từ ngữ này đều để chỉ về các tổ chức có chức năng
thực thi quyền tác giả, quyền liên quan. Do đó tổ chức đại diện tập thể và tổ chức
quản lý tập thể có thể sử dụng thay thế nhau. Điều này được khẳng định thêm tại
Chỉ thị số 36 năm 2008 của Thủ tướng Chính Phủ khi sử dụng tổ chức quản lý
tập thể thay vì đại diện tập thể.
1.4.2 Đặc điểm hoạt động của các tổ chức quản lý tập thể:
Đầu tiên khi nói về một tổ chức quản lý tập thể thì ta có thể thấy ngay đặc
điểm đặc trưng và cơ bản nhất của một tổ chức quản lý tập thể đó chính là yếu tố
“tập thể hóa”. Yếu tố “tập thể hóa” này thể hiện ở chỗ việc quản lý được thực
hiện bởi một tập thể và chỉ phục vụ những đối tượng tập thể chứ không đơn
thuần là chỉ thực thi những nhiệm vụ quản lý quyền. Hay nói cách khác tổ chức
tập thể thuộc sở hữu và điều hành bởi một nhóm các chủ thể quyền để phục vụ
cho lợi ích lẫn nhau của họ, phục vụ cho lợi ích tập thể chứ không riêng bất kỳ

một chủ thể nào. Chính điều này làm cho tổ chức quản lý tập thể trở nên khác
biệt so với các tổ chức quản lý quyền khác.
Đặc điểm thứ hai của tổ chức quản lý tập thể mà ta phải nói đến là lĩnh
vực hoạt động của các tổ chức này chỉ gói gọn trong phạm vi phạm vi quyền tác
giả và quyền liên quan. Do đặc thù của quyền tác giả, quyền liên quan là dễ bị
xâm phạm và sử dụng trái phép, việc quản lý cá nhân đối với các quyền này là
bất khả thi nên các tổ chức quản lý tập thể ra đời để giải quyết yêu cầu về quản
lý quyền một cách hiệu quả. Tổ chức quản lý tập thể không hoạt động trong lĩnh
vực quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với các giống cây trồng.
Các lĩnh vực cụ thể hiện đang có các tổ chức quản lý tập thể hoạt động
trên toàn thế giới gồm: quyền biểu diễn trong tác phẩm âm nhạc, quyền công
diễn, quyền sao chép cơ học, quyền tái tạo bằng hình thức sao chụp, quyền phát
sóng, quyền liên quan…
17
1.4.3 Vai trò của các tổ chức quản lý tập thể :
Tổ chức quản lý tập thể được ra đời là để phục vụ lợi ích cho các chủ thể
quyền và góp phần bảo đảm thực thi một cách có hiệu quả quyền tác giả, quyền
liên quan theo đúng pháp luật.
• Đối với chủ sở hữu quyền tác giả, tổ chức là người bảo vệ cho các quyền
và lợi ích mà chủ sở hữu được hưởng theo đúng quy định của pháp luật.
• Đối với người sử dụng, tổ chức đóng vai trò là người giám sát đảm bảo
nghĩa vụ tôn trọng và tuân thủ pháp luật của công chúng đồng thời thông
qua đó nâng cao nhận thức của người dân về quyền tác giả và quyền liên
quan.
• Đối với hoạt động quản lý của Nhà nước, tổ chức là công cụ thực thi pháp
luật góp phần chia sẻ và giảm bớt gánh nặng cho nhà nước đối với những
công việc vượt quá hoạt động quản lý của các cơ quan chức năng có thẩm
quyền.
• Đối với sự phát triển của xã hội, tổ chức QLTT đóng vai trò thúc đẩy lao
động sáng tạo ra các giá trị tinh thần giàu đẹp và góp phần giữ gìn nền văn

hóa đậm đà bản sắc dân tộc
1.4.4 Phân loại các mô hình tổ chức quản lý tập thể :
Theo tổng kết của tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
10
, hiện có một số mô hình
tổ chức quản lý tập thể tại các quốc gia như :
• Mô hình tổ chức quản lý tập thể truyền thống
10 />18
Là loại mô hình hoạt động theo nguyên tắc tổ chức quản lý tập thể sẽ là đại
diện thay mặt các thành viên đã uỷ quyền tham gia đàm phán, thương lượng
giá và điều khoản sử dụng với người dùng, cấp giấy phép phát hành cho phép
sử dụng, thu và phân phối tiền bản quyền. Chủ sở quyền không tham gia trực
tiếp vào bất cứ giai đoạn nào trong quá trình đàm phán nhưng sẽ được hưởng
lợi từ việc phân phối lại của tổ chức quản lý tập thể.
• Mô hình tổ chức quản lý tập thể là trung tâm cấp phép sử dụng.
Trong mô hình này tổ chức quản lý tập thể hoạt động như là một trung tâm
đại lý cho các chủ sở hữu là hội viên. Việc cấp phép cho người sử dụng như
thế nào ra sao đều là do hội viên của tổ chức quy định bao gồm các điều
khoản về thù lao và các điều khoản về điều kiện sử dụng. Khác với mô hình
truyền thống, hội viên thuộc mô hình này tham gia vào các quá trình đàm
phán cấp phép cho người sử dụng.
• Mô hình tổ chức quản lý tập thể một cửa
Là một loại liên minh của các tổ chức quản lý tập thể riêng biệt. Mô hình này
tập trung việc cấp phép sử dụng từ các nguồn dữ liệu về tác phẩm, cuộc biểu
diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng của các tổ chứa quản lý tập thể khác
nhau.
Trong số các loại mô hình cấp phép nêu trên thì mô hình tổ chức quản lý
tập thể một cửa tỏ ra ưu việt hơn vì hoạt động cấp phép tập trung vào một đầu
mối, công việc sẽ thuận lợi, nhanh chóng và dễ dàng cho bên sử dụng. Mặt khác,
mô hình này còn đáp ứng được các yêu cầu phát sinh về việc ngày càng có nhiều

sản phẩm đa phương tiện được sáng tạo, bao gồm những sản phẩm có hoặc do
nhiều tác phẩm tạo thành. Tuy nhiên việc áp dụng mô hình này hiện nay vẫn còn
vấp phải nhiều khó khăn do hệ thống pháp luật nước ta còn chưa được hoàn thiện
và khâu thực thi pháp luật vẫn còn nhiều vướng mắc.
19
1.4.5 Các tổ chức quản lý tập thể tại Việt Nam:
Hệ thống quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan của Việt Nam
được ra đời với sự xuất hiện đầu tiên của Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm
nhạc (19/4/2002). Đến nay, hệ thống này đã hình thành được 4 tổ chức gồm:
VLCC: Trung tâm bản quyền tác giả văn học Việt Nam
VCPMC: Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam
RIAV: Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam
VIETRRO: Hiệp hội quyền sao chép Việt Nam
1.4.5.1 Nền tảng cho việc thành lập và hoạt động của các tổ chức quản lý tập
thể tại Việt Nam:
Các tổ chức quản lý tập thể ở Việt Nam được thành lập và hoạt động dựa
trên cơ sở pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật về ủy quyền dân sự, pháp luật về
hoạt động quản lý hội và các văn bản thỏa thuận.
Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một văn bản hướng dẫn chính thức nào về
vấn đề quản lý tập thể ngoài các quy định trong luật SHTT và các văn bản hướng
dẫn thi hành có liên quan
11
. Mặc dù quy định tại các văn bản trên rất chung
chung và sơ sài nhưng vẫn là cơ sở pháp lý quan trọng, vì các văn bản đó cho
phép người nắm giữ quyền có quyền thỏa thuận với nhau để thành lập tổ chức
quản lý tập thể đối với quyền của mình, đồng thời đưa ra một số nguyên tắc
chung điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của loại hình tổ chức này. Đây
chính là cơ sở nền tảng cho việc thành lập các tổ chức quản lý tập thể.
11 Điều 56 Luật Sở hữu trí tuệ và điều 46 Nghị định 100 năm 2006 được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 85 năm
2011 của Chính Phủ ban hành các quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật

Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
20
Bên cạnh đó do các văn bản pháp luật về vấn đề quản lý tập thể còn quá
mơ hồ nên mọi hoạt động của tổ chức quản lý tập thể hầu hết là dựa trên các văn
bản thỏa thuận. Các văn bản thỏa thuận này đóng vai trò bổ sung những nội dung
cần thiết không được quy định trong văn bản pháp luật hoặc cụ thể hóa nội dung
các nguyên tắc trong văn bản pháp luật, phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh thực
tế.
Một số văn bản thỏa thuận quan trọng cần phải kể đến như:
• Điều lệ
Là văn bản thỏa thuận quan trọng nhất của các tổ chức quản lý tập thể bao
gồm các nội dung chủ yếu như quy định về tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc,
phạm vi hoạt động, thành viên, cơ cấu tổ chức, tài chính, kiểm soát, giải
quyết tranh chấp… trong đó người nắm giữ quyền là thành viên của tổ
chức. Điều lệ mang ý nghĩa thể hiện ý chí chung của tập thể về tất cả mọi
vấn đề cốt yếu để hình thành và vận hành một tổ chức quản lý tập thể
• Hợp đồng ủy quyền
Các tổ chức quản lý tập thể hoạt động chủ yếu dựa trên sự ủy quyền của
các thành viên do đó hợp đồng ủy quyền của người nắm giữ quyền là một
trong các thỏa thuận quan trọng nhất đối với tổ chức quản lý tập thể là ủy
quyền.
• Hợp đồng sử dụng
Hợp đồng sử dụng là văn bản thỏa thuận giữa tổ chức quản lý tập thể và
người sử dụng. Văn bản này quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng và của tổ chức quản lý tập thể. Nội dung của Hợp đồng sử dụng phụ
thuộc vào trường hợp cụ thể, do thỏa thuận giữa các bên.
• Hợp đồng đại diện song phương
Đây là hợp đồng ủy quyền đại diện lẫn nhau giữa các tổ chức quản lý tập
thể trong nước và các tổ chức quản lý tập thể nước ngoài. Nguyên tắc
quan trọng nhất trong loại hợp đồng này là đối xử quốc gia hoặc hoặc

không phân biệt đối xử giữa người nắm giữ quyền trong nước và người
nắm giữ quyền nước ngoài.
• Các văn bản thỏa thuận khác
21
1.4.5.2 Địa vị pháp lý của các tổ chức quản lý tập thể tại Việt Nam:
Các tổ chức quản lý tập thể ở Việt Nam có địa vị pháp lý là tổ chức xã hội
- nghề nghiệp, hoạt động theo mô hình hội hoặc trung tâm bản quyền, tuân theo
nguyên tắc phi lợi nhuận, tự nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí và chịu trách
nhiệm trước pháp luật, đại diện theo ủy quyền cho các cá nhân.
Tổ chức quản lý tập thể hiện nay được thành lập có tư cách pháp nhân, có
con dấu và tài khoản riêng.
Quyền và Nghĩa vụ của các tổ chức quản lý tập thể được quy định tại
khoản 3 điều 56 như sau:
• Thực hiện các hoạt động khuyến khích sáng tạo và các hoạt động xã hội
khác;
• Hợp tác với các tổ chức tương ứng của tổ chức quốc tế và của các quốc gia
trong việc bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan;
• Báo cáo theo định kỳ và đột xuất về hoạt động đại diện tập thể cho cơ
quan nhà nước có thẩm quyền;
• Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật
Như vậy qua chương 1, tác giả đã nêu ra những lý luận chung cho việc hình
thành và cơ sở pháp luật cho việc hoạt động quản lý quyền sao chép của các tổ
chức quản lý tập thể tại Việt Nam cũng như vai trò của các tổ chức này trong đời
sống hiện nay. Trong chương sau tác giả sẽ đề cập đến thực trạng hoạt động của
các tổ chức này trong đời sống hiện nay.
22
CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ QUYỀN SAO CHÉP THÔNG QUA
CÁC TỔ CHỨC QUẢN LÝ TẬP THỂ VÀ THỰC TRẠNG HIỆN
NAY TẠI VIỆT NAM

2.1 Hoạt động quản lý quyền sao chép của các tổ chức quản lý
tập thể:
Hiện cả 4 tổ chức quản lý tập thể đều có chức năng quản lý quyền sao
chép tác phẩm nhưng ở những lĩnh vực khác nhau. Cụ thể là:
• VLCC - Trung tâm Quyền tác giả văn học Việt Nam: quản lý quyền
sao chép trong tác phẩm văn học
• VCPMC - Trung tâm Bảo vệ Quyền tác giả âm nhạc Việt Nam:
quản lý quyền sao chép trong tác phẩm âm nhạc
• VIETRRO - Hiệp hội quyền sao chép Việt Nam: quản lý quyền sao
chép sao chép dưới hình thức sao chụp và sử dụng số, sau khi tác
phẩm đã được xuất bản dưới hình thức ấn phẩm hoặc số hóa
• RIAV – Hiệp hội công nghiệp ghi âm Việt Nam: quản lý quyền sao
chép trong lĩnh vực sản xuất băng đĩa ghi âm, ghi hình.
Các tổ chức này được xây dựng trên mô hình tổ chức quản lý tập thể
truyền thống với các hoạt động chính: cấp phép quyền sao chép; phân phối tiền
thù lao từ hoạt động sao chép của người sử dụng; hoạt động bảo vệ quyền và lợi
23
ích hợp pháp của tổ chức, thành viên khi bị xâm hại từ các hành vi sao chép trái
phép và một số hoạt động khác của tổ chức. Sơ đồ quy trình hoạt động của các tổ
chức quản lý tập thể đươc thể hiện như sau:
2.1.1 Hoạt động cấp phép quyền sao chép
Hoạt động cấp phép sao chép của tổ chức quản lý tập thể là hoạt động trao
quyền sao chép tác phẩm cho những người muốn sử dụng tác phẩm thông qua
các hành vi sao chép.
Hiện trên thế giới có 3 loại hình cấp phép để sao chép sử dụng tác phẩm
bao gồm: mô hình cấp phép tự nguyện , mô hình cấp phép tự nguyện mở rộng và
mô hình cấp phép theo pháp luật
12

• Mô hình cấp phép tự nguyện:

Là loại mô hình dựa hoạt động dựa trên sự tự nguyện ủy quyền của
các chủ sở hữu quyền tác giả và các tổ chức quản lý tập thể chỉ có
thể thực hiện việc cấp phép trên phạm vi những quyền đã được ủy
thác.
Các tổ chức quản lý tập thể trên thế giới hoạt động theo mô hình
này có thể kể đến như: Trung tâm làm sạch bản quyền Mỹ -
Copyright Clearance Center (CCC) được thành lập năm 1978,
Trung tâm cấp phép quyền sao chép Nhật Bản - Japan Reprographic
Rights Center (JRRC) được thành lập năm 1991
12 Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO (2005), Collective Management in Reprography
24
Cấp phépỦy quyền
Người sử
dụng
Chủ sở
hữu
Tổ chức QLTT
Thu tiền sử
dụng
Phân phối
lại
• Mô hình cấp phép tự nguyện với sự hỗ trợ của pháp luật: Sự hỗ trợ
này ở đây có hai dạng
Một là hỗ trợ một nửa, tức là luật vẫn để cho các chủ sở hữu
quyền tác giả được tự quyết định có ủy quyền của mình cho các tổ
chức quản lý tập thể hay không. Nhưng đối với những tổ chức nào
có số lượng người ủy quyền lớn thì luật pháp sẽ cho chép tổ chức đó
được cấp phép cho tất cả các chủ sở hữu quyền trong một lĩnh vực
nhất định kể cả những người có ủy quyền và không ủy quyền. Dạng
này gọi là mô hình cấp phép mở rộng. Một sô tổ chức quản lý tập

thể điển hình theo mô hình này gồm Tổ chức KOPINOR của Na Uy
thành lập năm 1980, Hiệp hội chủ sở hữu quyền sao chép
COPYRUS của Nga được thành lập năm 2002
Hai là hỗ trợ toàn phần, tức là việc quản lý tập thể là bắt
buộc, tất cả các chủ sở hữu đều phải thực hiện ủy thác quyền của
mình cho các tổ chức quản lý tập thể, việc cấp phép sao chép tác
phẩm đều phải thông qua các tổ chức này. Dạng này gọi là mô hình
quản lý tập thể bắt buộc. Trung tâm quyền sao chép nước Pháp CFC
được thành lập năm 1984, Hiệp hội các nhà xuất bản và các tác giả
âm nhạc SEAM được thành lập năm 1988 là hai tổ chức hoạt động
theo mô hình này trên thế giới
• Mô hình cấp phép dựa trên giấy phép pháp lý
Đối với mô hình này việc cấp phép không dựa trên sự đồng ý
hay không đồng ý của chủ sở hữu quyền mà dựa trên các quy định
của pháp luật hoặc dựa trên hệ thống thu thuế bắt buộc thu tiền từ
vật ghi như đĩa quang trắng, ổ cứng máy vi tính.
Còn ở tại Việt Nam căn cứ theo các quy định của pháp luật hiện hành thì
các tổ chức quản lý tập thể chỉ có thể lựa chọn áp dụng mô hình cấp phép tự
25

×