Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

đánh giá tác dụng của viên luotai trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân nhồi máu não sau giai đoạn cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.67 MB, 99 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch máu não (TBMMN) do nhồi máu não (NMN) là một tình
trạng bệnh lý nặng rất thường gặp, theo tài liệu thống kê của Tổ chức Y tế
Thế giới (TCYTTG) tỷ lệ tử vong do TBMMN đứng hàng thứ ba sau bệnh
tim mạch và ung thư [Trích dẫn theo 17].
Ngày nay với sự tiến bộ của y học, tuy tỷ lệ tử vong do TBMMN ngày
càng giảm nhưng số lượng bệnh nhân bị tàn tật do TBMMN lại có xu hướng
gia tăng, để lại di chứng nặng về thần kinh, về tâm thần…gây nên nhiều thiệt
hại không những về kinh tế mà còn ảnh hưởng đến khả năng lao động của
người bệnh, tăng gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Chính vì vậy việc điều trị phục hồi di chứng, đặc biệt là di chứng liệt vận
động cho bệnh nhân TBMMN sau giai đoạn cấp là hết sức quan trọng và cấp
thiết, qua đó giúp cho người bệnh tránh bị tàn tật suốt đời, cải thiện chất
lượng cuộc sống, nhanh chóng tái hòa nhập xã hội.
Yhọc hiện đại (YHHĐ) đã và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn trong
việc phát hiện sớm, chẩn đoán, điều trị bệnh NMN trong giai đoạn cấp và
điều trị phục hồi di chứng sau giai đoạn cấp. Bên cạnh những thành tựu của
YHHĐ, y học cổ truyền (YHCT) cũng có nhiều đóng góp tích cực trong việc
điều trị và dự phòng bệnh, đặc biệt là điều trị phục hồi di chứng NMN sau
giai đoạn cấp. Bên cạnh việc điều trị bằng các phương pháp không dùng thuốc
như: châm cứu, xoa bóp bấm huyệt, dưỡng sinh người ta cũng nhận thấy có
rất nhiều bằng chứng về lợi ích của các thuốc có nguồn gốc từ các vị thuốc đông
dược trong việc phối hợp với các thuốc điều trị NMN kinh điển.
YHCT từ xa xưa đã có nhiều bài thuốc cổ phương, gia truyền quý được
lưu truyền và ghi chép trong các y văn cổ như: Bổ dương hoàn ngũ thang, Đại
1
tần giao thang, Địa long đan sâm hoàn, Hoa đà tái tạo hoàn, Thông mạch sơ
lạc phương, An cung ngưu hoàng hoàn, Ngưu hoàng thanh tâm hoàn và
nhiều vị thuốc quý như Tam thất, Đan sâm, Địa long Những bài thuốc, vị
thuốc này đã được đưa vào sử dụng từ hàng nghìn năm và cho đến ngày nay
nó vẫn còn nguyên giá trị, đã và đang được các thầy thuốc YHCT sử dụng


trên lâm sàng để điều trị bệnh TBMMN nói chung và nhồi máu não nói riêng,
đạt hiệu quả cao. Khai thác thế mạnh của thuốc YHCT trong phòng ngừa và
điều trị bệnh tật nói chung và bệnh TBMMN nói riêng là một hướng nghiên
cứu đã và đang được nhiều thầy thuốc quan tâm.
Panax Notoginseng Saponins (PNS) biệt dược Luotai là một loại thuốc
có nguồn gốc từ rễ củ tam thất, một trong nhiều vị thuốc đông dược quý được
sản xuất bởi Công ty cổ phần dược phẩm Côn Minh Trung Quốc. Thuốc có
tác dụng dược lý: Ức chế sự tạo huyết khối và cải thiện hoạt tính của chất
hoạt hóa plasminogen của mô (Tissue plasminogen activator: t-PA), ức chế sự
kết tập tiểu cầu, bảo vệ tế bào thần kinh: Chống oxy hóa, bảo vệ tổn thương
não khỏi sự thiếu oxy, giãn mạch máu, tăng lưu lượng tuần hoàn máu não -
tim, tăng khả năng chịu đựng tình trạng thiếu oxy bảo vệ tế bào thần kinh.
Trên lâm sàng thuốc được chỉ định điều trị trong các trường hợp: đột quỵ do
huyết khối, cơn thiếu máu não thoáng qua, phòng và điều trị di chứng của
bệnh mạch máu não. Điều trị bệnh lý tim mạch do huyết khối [47], [64], [66].
Luotai đã được nghiên cứu và sử dụng để điều trị thiếu máu não cục bộ
tại Trung Quốc. Đã có một số nghiên cứu tại Việt Nam về hiệu quả của
Luotai trong điều trị giai đoạn cấp của nhồi máu não, tuy nhiên chưa có
nghiên cứu đánh giá nào trên bệnh nhân nhồi máu não sau giai đoạn cấp.
Để góp phần đánh giá tác dụng của thuốc viên Luotai trong hỗ trợ điều
trị di chứng nhồi máu não đồng thời góp phần vào việc đa dạng hóa các loại
thuốc dùng trong điều trị di chứng TBMMN nhất là các loại thuốc có nguồn
2
gốc từ các vị thuốc YHCT, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá
tác dụng của viên Luotai trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân nhồi máu não
sau giai đoạn cấp”
Với hai mục tiêu cụ thể:
1. Đánh giá tác dụng của viên “Luotai” trong điều trị hỗ trợ phục hồi chức
năng vận động trên bệnh nhân nhồi máu não sau giai đoạn cấp.
2. Khảo sát tác dụng không mong muốn của thuốc “Luotai” .

3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.TÌNH HÌNH BỆNH TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
1.1.1.Những nghiên cứu về bệnh tai biến mạch máu não trên thế giới
Theo tài liệu của Tổ chức Y tế Thế giới, TBMMN là một trong những
nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn phế ở các nước trên Thế giới: Năm
2001 có 16 triệu trường hợp bị TBMMN lần đầu trong đó tử vong 5,75 trường
hợp (chiếm 36%). Năm 2003 có 27 triệu trường hợp bị bệnh lần đầu, tử vong
là 7,8 triệu [17].
Hiệp hội tim mạch Hoa Kỳ cho rằng có khoảng 500000 trường hợp
TBMMN xảy ra ở Hoa Kỳ trong năm 1986 và khoảng 400000 trường hợp
TBMMN xuất viện ở Hoa Kỳ, 3/4 trong số họ là những người đầu tiên mắc
bệnh, còn lại là TBMMN tái phát. Theo thống kê của trung tâm Rochester
Minnesota, tỷ lệ mới mắc ở Hoa Kỳ là 135/100000 dân (Broderick và cộng sự
1991). Cứ trung bình 53 giây lại có một trường hợp TBMMN xảy ra ở khu
vực Bắc Mỹ [52].
Tỷ lệ mới mắc ở Pháp theo Giroud là 145/100 000 dân. Tính toàn Châu
Âu, số người mới mắc TBMMN lần đầu tiên trong khoảng 141-219/100000
dân (1993) [Trích dẫn theo 13].
Ở Châu Á, theo hiệp hội Thần kinh các nước Đông Nam Á, các bệnh
nhân TBMMN điều trị nội trú ở Trung Quốc là 40%, Ấn Độ 11%, Philipin
10%, Triều Tiên 16%, Indonesia 8%, Việt Nam 7%, Thái Lan 6%, Malaysia
2%. Tỷ lệ mới mắc khá cao: 340-523/100000 dân ở Nhật Bản, 219/100000
dân ở Trung Quốc [Trích dẫn theo 17].
Theo J. M. Orgogozo (1985) 80% tai biến mạch máu não là nhồi máu
não và 20% là chảy máu não. Tỷ lệ mắc bệnh toàn bộ ước tính khoảng 500
cho 100.000 người với mức dao động từ 420 đến 1.000 và tỷ lệ di chứng ít
4
nhất cũng tới 1/4 số trường hợp.Tỷ lệ mới phát hiện trung bình hàng năm là

0,3- 1,1 cho 1.000 và tối đa là 3,1 cho 1000 người [18].
1.1.2.Những nghiên cứu về bệnh tai biến mạch máu não ở Việt Nam
Theo Nguyễn Văn Đăng (2006), thống kê tại Khoa Thần kinh bệnh viện
Bạch Mai từ năm 1991 đến năm 1993, có 631 trường hợp TBMMN, tăng gấp 2,5
lần so với thời kỳ từ năm 1986 đến năm 1989 [13].
Theo Lê Văn Thành và cộng sự (1996), tỷ lệ mới mắc chung ở miền
Nam là 161/100000 dân, ở Thành phố Hồ Chí Minh là 114/100.000 dân, ở
Kiên Giang là 241/100000 dân [36].
Theo Hoàng Khánh ở Huế tỷ lệ chảy máu não là 39,42% và nhồi máu
não là 60,58% [25].
Cũng theo Hoàng Khánh và cộng sự, TBMMN tăng lên rõ rệt theo
tuổi, chủ yếu 50 tuổi trở lên, đặc biệt ở tuổi 60 - 70, nam chiếm ưu thế
hơn nữ, đặc biệt là thể chảy máu não nam/nữ là: 1,63. Thể nhồi máu não
nam/nữ là: 1,19 [25].
Theo Doãn Thị Huyền và Lê Văn Thính, bệnh nhân nhồi máu não động
mạch não giữa tuổi trên 45 là 87,5%, tỷ lệ nam/nữ là 1,55/1 [22].
1.2. CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỐI VỚI NHỒI MÁU NÃO
Các yếu tố nguy cơ được chia thành hai nhóm:các yếu tố không cải
biến được và các yếu tố có thể cải biến được.
+ Nhóm các yếu tố nguy cơ không cải biến được: tuổi cao, giới tính,
khu vực địa lý, chủng tộc, yếu tố gia đình, di truyền.
 Tuổi: Theo nghiên cứu của nhiều tác giả, tai biến mạch máu não
có chiều huớng tăng theo lứa tuổi, tuổi càng cao càng có nguy cơ mắt bệnh
nhiều. Nhồi máu não hay gặp nhiều ở lứa tuổi trên 60 [14].
5
 Giới: Đa số các tác giả đều cho rằng tỉ lệ mắc bệnh TBMMN của bệnh
nhân nam và bệnh nhân nữ là tương đương, nhưng cũng có một số tác giả cho rằng
tỉ lệ mắc TBMMN ở nam giới bao giờ cũng cao hơn nữ giới [14], [26], [36].
+ Nhóm các yếu tố nguy cơ có thể cải biến được:
 Tăng huyết áp: Là yếu tố nguy cơ hàng đầu gây ra bệnh tai biến

mạch máu não. Khi huyết áp tâm thu từ 160 mmHg trở nên và hoặc huyết áp tâm
trương từ 95 mmHg trở lên, tỷ lệ TBMMN ở người tăng huyết áp so với những
người có huyết áp bình thường sẽ tăng từ 2,9 lần (đối với nữ) đến 3,1 lần (đối với
nam) [11], [30].
 Rối loạn chuyển hoá lipid: Lipid trong huyết tương tồn tại dưới
dạng kết hợp với apoprotein và được chia làm ba loại: Lipoprotein trọng
lượng phân tử thấp chiếm 40-50 % các loại lipoprotein tham gia vào cơ chế
gây dày lớp áo trong của thành mạch; lipoprotein trọng lượng phân tử cao
chiếm 17 – 23% các loại lipoprotein được cho là có tác dụng bảo vệ thành
mạch; triglycerid chiếm 8 – 12% các lipoprotein và cũng tham gia vào cơ chế
tạo mảng xơ vữa mạch [24], [49].
 Đái tháo đường: về bản chất tiểu đường là yếu tố nguy cơ gây
tắc các vi mạch và động mạch ngoại vi. Bệnh nhân tiểu đường có nguy cơ
mắc đột quị tương đối là 1,8 ở nam giới và 2,2 ở nữ giới. Dịch tễ học đã xác
nhận một ảnh hưởng có tính độc lập về TBMMN do thiếu máu não với một sự
tăng nguy cơ tương đối trong những người đái tháo đường giao động từ 1,8
đến gần 6 lần. Tỉ lệ tử vong của bệnh nhân đột quị có tiểu đường cũng rất cao.
Nếu kiểm soát đường huyết tốt sẽ làm đột quị sảy ra muộn hơn và biến chứng
vi mạch sảy ra chậm hơn [8], [25].
 Bệnh tim: Các bệnh lý tim mạch là yếu tố quan trọng gây ra nhồi
máu não ở các nước đang phát triển [61].
6
Các bệnh tim chủ yếu là rung nhĩ, bệnh van tim, nhồi máu cơ tim, suy
tim sung huyết, phì đại thất trái, hẹp hai lá. Theo nghiên cứu của Framingham
rung nhĩ làm tăng nguy cơ TBMMN lên 5 lần, phì đại thất trái làm tăng nguy
cơ TBMMN 2,3 lần [65].
 Cơn thiếu máu não thoáng qua: Là một hội chứng lâm sàng có
đặc điểm là mất cấp tính chức năng não cục bộ kéo dài dưới 24 giờ, là nguy
cơ với mọi loại tai biến mạch não. Dechampvallin nghiên cứu trong cộng
đồng ở Pháp thấy người mắc TBMMN có tiền sử TBMMN thoáng qua là

70% với nhồi máu não, 15% với chảy máu não và 15% không xác định thể
[Trích dẫn theo 11].
 Nghiện thuốc lá: Hút thuốc lá làm biến đổi nồng độ lipid mà
quan trọng là làm giảm yếu tố bảo vệ HDL, ngoài ra cũng làm tăng
fibrinogen, tăng tính đông máu, độ nhớt máu, tăng kết dính tiểu cầu [24],
[54].
 Các yếu tố nguy cơ khác: nghiện rượu, thay đổi thời tiết, sang
chấn tâm lý, dùng thuốc chống đông, béo phì, chế độ ăn, di truyền, nhiễm
khuẩn cũng là các yếu tố liên quan đến tai biến mạch máu não [41], [54].
7
Hình 1.1. Các động mạch và tuần hoàn bàng hệ của não
(Sơ đồ trích từ tài liệu của Netter Frank H [58])
8
1.3. QUAN ĐIỂM TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI
1.3.1. Một số đặc điểm về giải phẫu tuần hoàn não:
- Não được tưới máu bởi hai hệ thống động mạch xuất phát từ
động mạch chủ:
+ Hệ thống động mạch cảnh trong [hình 1.1].
+ Hệ thống động mạch sống - nền.
- Hệ thống động mạch cảnh trong cung cấp máu cho khoảng
2/3 trước của bán cầu đại não, gồm có bốn nhánh tận là động mạch não trước,
động mạch não giữa, động mạch thông sau và động mạch mạc trước. Mỗi
động mạch não chia làm hai nhánh: nhánh nông tạo nên động mạch vỏ não,
nhánh sâu đi thẳng vào phần sâu của não. Hai hệ thống nông và sâu độc lập
nhau.
- Hệ thống động mạch sống - nền ở thân não có đặc điểm
riêng gồm ba nhóm: Những động mạch trung tâm, những động mạch vòng
ngắn và những động mạch vòng dài, hai động mạch não sau là hai nhánh tận
cùng của động mạch thân nền.
- Tuần hoàn não có hệ thống nhánh thông quan trọng với ba

mức lớn:
Mức thứ nhất nối thông giữa các động mạch lớn phía trước não, giữa
động mạch cảnh trong, động mạch cảnh ngoài và động mạch sống - nền.
Mức thứ hai là đa giác Willis, giữ vai trò chủ yếu trong việc lưu thông
máu giữa các động mạch não. Mức thứ ba ở quanh vỏ não với sự nối thông
giữa các nhánh nông của các động mạch não [8], [13], [19].
1.3.2. Một số đặc điểm về sinh lý tuần hoàn não :
Có nhiều yếu tố liên quan đến trạng thái chức năng của não như: lưu
lượng máu não, tốc độ tuần hoàn, sự tiêu thụ ôxy và Glucose.
- Lưu lượng máu não là yếu tố cơ bản liên quan đến trạng thái chức năng
của não, lưu lượng máu não là lượng máu qua não trong một đơn vị thời gian
9
(thường tính bằng phút). Bình thường một phút có khoảng 750ml máu qua
não, theo Kety và Schmit (1977) thì số lượng máu não trong một phút là: 50-
52 ml/100g/phút.
- Lưu lượng máu ở chất xám cao hơn ở chất trắng và giữa các vùng cũng
có sự khác nhau cao nhất ở vùng đỉnh và thấp nhất ở vùng chẩm. Lưu lượng
máu não thay đổi theo tuổi, tuổi càng cao lưu lượng máu não càng giảm, ở trẻ
dưới 15 tuổi lưu lượng máu não là: 100ml/100g/phút, ở người 60 tuổi lưu
lượng máu não là: 36mg/100g/phút, lưu lượng máu não tăng khi lao động
chân tay, lao động trí óc hoặc khi các giác quan bị kích thích.
- Huyết áp động mạch và sức cản thành mạch là hai yếu tố chủ yếu ảnh
hưởng đến lưu lượng máu não. Theo Ingvar và cộng sự lưu lượng tuần hoàn
não trung bình ở người lớn là 49,8 ± 5,4 ml/100g não/phút, lưu lượng trong
chất xám là: 79,7 ±10,7 ml/100g não/phút.
- Nhồi máu não sẽ xảy ra khi lưu lượng máu não giảm xuống dưới 18-20
ml/100g não/phút, trung tâm của ổ nhồi máu não là vùng hoại tử có lưu lượng
máu từ 10 - 15 ml/100g não/phút, còn xung quanh vùng này có lưu lượng máu
là 20 - 25 ml/100g não/phút, tuy các tế bào não vẫn còn sống nhưng không
hoạt động đây là vùng nửa tối điều trị tai biến nhằm hồi phục tưới máu cho vùng

này, do vậy đây còn gọi là vùng điều trị [8], [13].
1.3.3. Định nghĩa tai biến mạch máu não.
- Theo Tổ chức Y tế Thế giới (1989): “TBMMN là dấu hiệu phát triển
nhanh trên lâm sàng của một rối loạn khu trú chức năng của não người bệnh
có thể tử vong ngay trong những ngày đầu, loại trừ nguyên nhân do sang
chấn, kéo dài trên 24 giờ do nguyên nhân mạch máu” [65].
1.3.4. Một số đặc điểm của nhồi máu não
1.3.4.1. Định nghĩa nhồi máu não :
10
- Thiếu máu cục bộ não (nhồi máu não) xảy ra khi một mạch máu bị tắc
một phần hoặc toàn bộ, hậu quả của sự giảm đột ngột lưu lượng tuần hoàn
não khu vực không được nuôi dưỡng sẽ bị huỷ hoại, nhũn ra.
- Vị trí của ổ nhồi máu thường trùng hợp với khu vực tưới máu của
mạch, cho phép trên lâm sàng phân biệt được tắc mạch thuộc hệ động mạch
cảnh hay hệ động mạch sống - nền [2], [8].
1.3.4.2. Phân loại nhồi máu não:
Theo phân loại quốc tế các bệnh lần thứ X (ICD- 1992), Mục I63 [46]:
- I63.0. Nhồi máu não do huyết khối các động mạch ngoài não.
- I63.1. Nhồi máu não do tắc các động mạch ngoài não.
- I63.2. Nhồi máu não do tắc hoặc hẹp các động mạch ngoài não.
- I63.3. Nhồi máu não do huyết khối các động mạch não.
- I63.4. Nhồi máu não do tắc các động mạch não.
- I63.5. Nhồi máu não do tắc hoặc hẹp động mạch não.
- I63.6. Nhồi máu não do huyết khối tĩnh mạch não không do nhiễm
khuẩn gây mủ.
- I63.7. Các loại nhồi máu não khác.
1.3.4.3. Nguyên nhân của nhồi máu não :
Có ba nguyên nhân lớn: lấp mạch não, co thắt mạch và tắc mạch [14]:
 Lấp mạch não (Thombosis): do tổn thương thành mạch tại chỗ, tổn
thương đó lớn dần lên rồi gây hẹp và tắc mạch (phần lớn do xơ vữa mạch),

chủ yếu gồm: viêm động mạch, bóc tách mạch cảnh, động mạch sống lưng,
động mạch đáy não, các bệnh máu, u não chèn ép các mạch não
 Co thắt mạch (Vasoconstriction): làm cản trở lưu thông máu: co thắt
mạch sau chảy máu dưới nhện, co thắt mạch não hồi phục nguyên nhân chưa
biết rõ, co thắt mạch sau đau nửa đầu, sau sang chấn, sau sản giật.
11
 Tắc mạch (Embolisme): là cục tắc từ một mạch ở xa não (tim, các
mạch lớn ở cổ) bong ra rồi đi theo đường tuần hoàn lên não, đến chỗ lòng
mạch nhỏ hơn sẽ nằm lại và gây tắc mạch.
1.3.4.4. Đặc điểm lâm sàng chung nhồi máu não
 Lâm sàng
Thời gian xảy ra nhồi máu não thường vào ban đêm hoặc sáng sớm, khởi
phát cấp tính, đột ngột, các triệu chứng lâm sàng tăng nhanh tối đa ngay từ
đầu, ý thức tỉnh táo hoặc lú lẫn, ít khi có hôn mê.
Liệt dây VII trung ương và liệt nửa người cùng bên khi tổn thương ở bán
cầu đại não, hoặc liệt dây III, dây VII ngoại vi bên tổn thương và liệt nửa
người bên đối diện, nếu tổn thương ở vùng thân não nói chung, có thể có rối
loạn ngôn ngữ nếu tổn thương bên bán cầu não ưu thế.
Rối loạn cơ vòng: bí tiểu tiện hoặc tiểu tiện không tự chủ.
Rối loạn thần kinh thực vật như tăng huyết áp nhẹ, thở nhanh nông, có
thể tăng tiết đờm rãi.
Rối loạn tâm thần: dễ xúc động, trầm cảm [8], [14].
 Cận lâm sàng
+ Xét nghiệm dịch não tuỷ: ở các bệnh nhân nhồi máu não dịch não tuỷ
thường không màu, trong suốt, albumin có thể tăng nhưng tế bào trong phạm
vi bình thường.
+ Chụp cắt lớp vi tính sọ não: giúp chẩn đoán phân biệt chảy máu não và
nhồi máu não, xác định vị trí kích thước vùng tổn thương.
Ở sau giai đoạn cấp tính bệnh nhân nhồi máu não có các ổ giảm đậm
độ, ổ này thường thấy rõ từ ngày thứ hai trở đi (sau khởi phát nhồi máu). Các

12
ổ giảm đậm độ do nhồi máu thường có hình thang, hình tam giác đáy quay ra
ngoài hay hình tròn, c
ác lỗ khuyết có hình tròn hoặc hình bầu dục, đường kính < 1,5 cm, vị trí
phù hợp với vùng phân bố của động mạch não [14].
+ Hình ảnh cộng hưởng từ (MRI): đây là phương pháp hiện đại nhất,
cho ta hình ảnh rõ ràng những vùng não tổn thương [26].
+ Chụp mạch máu não (Cerebral angiography): chụp động mạch có
thuốc cản quang được sử dụng để xác định bản chất, định khu và mức độ
nặng của bệnh lý gây tắc nghẽn mạch, hẹp mạch não.
+ Siêu âm Doppler: cho phép đánh giá tình trạng hẹp hay tắc nghẽn của
động mạch cảnh và động mạch đốt sống ở vùng cổ [26].
+ Xét nghiệm máu: giúp nhận biết những biểu hiện tăng đông, tăng độ
nhớt của máu, biểu hiện rối loạn chuyển hóa lipid máu, nồng độ glucose máu.
Công thức máu để phát hiện các nguyên nhân tiềm ẩn gây đột quỵ…[26].
1.3.4.5. Các hội chứng động mạch não
 Hội chứng động mạch não giữa
+ Những hội chứng động mạch não giữa nông:
- Từ yếu sau đó có thể liệt hẳn nửa thân, kèm rối loạn cảm giác, đặc biệt
là liệt không đồng đều, mặt, tay bao giờ cũng nặng hơn chân.
- Mất vận ngôn, thường do tổn thương bán cầu trái ưu thế.
- Những rối loạn về thị trường, bán manh hoặc bán manh góc dưới cùng
bên liệt.
- Với những trường hợp nặng, đầu quay về bên não thương tổn.
- Nếu thương tổn bán cầu phải, có triệu chứng như bệnh nhân không
nhận biết nửa thân liệt.
13
+ Hội chứng động mạch não giữa sâu:
- Yếu hoặc liệt đồng đều mặt, tay chân đơn lẻ, không rối loạn cảm giác,
có thể kèm theo nói khó hoặc không nói được.

+ Hội chứng toàn bộ động mạch não giữa:
- Bao gồm hai hội chứng kể trên, liệt nửa thân đồng đều, kèm cảm giác
rối loạn thị giác và ngôn ngữ [22], [37].
 Hội chứng động mạch não trước:
Liệt nửa người với đặc điểm nặng hơn chi dưới, kèm theo mất sử dụng ở
nửa người bên trái do tổn thương thể chai. Có thể có rối loạn cơ vòng tạm thời
do tổn thương tiểu thuỳ cạnh trung tâm.
 Hội chứng tắc động mạch cảnh trong:
- Nếu quá trình bệnh lý sảy ra từ từ, tuần hoàn ở bán cầu đại não được bổ
xung bởi hệ thống mạch cảnh bên đối diện, hệ thống động mạch sống – nền
và từ động mạch cảnh ngoài. Bệnh nhân có thể không có triệu chứng lâm sàng
rõ ràng, nếu thiếu máu ở mức độ nhẹ thì có biểu hiện triệu chứng não chung
kiểu suy nhược thần kinh giả hiệu.
- Nếu tắc đột ngột hoặc khi sự tuần hoàn bổ xung kém thì sự xuất hiện rõ
triệu chứng thần kinh khu trú. Điển hình là hội chứng mắt - tháp, biểu hiện:
mất thị lực ở mắt cùng bên động mạch cảnh bị tắc và hội chứng tháp (bại hoặc
liệt nửa người) bên đối diện bên động mạch bị tổn thương, giảm huyết áp
võng mạc trung tâm, sờ không thấy động mạch cảnh trong đập ở phía trên chỗ
bị tắc, nghe có thể thấy tiếng thổi tâm thu. Nếu động mạch cảnh chưa bị tắc
hoàn toàn, các triệu chứng thần kinh có thể tạm thời hoặc phục hồi dần một
phần sau vài tuần [trích dẫn theo 12].
1.3.4.6. Chẩn đoán xác định nhồi máu não.
 Lâm sàng:
Bệnh nhân mắc bệnh đột ngột hoặc từ từ, có tổn thương chức năng não,
14
tồn tại quá 24 giờ (hoặc tử vong trước 24 giờ), không có yếu tố chấn thương.
Tiền sử tăng huyết áp, vữa xơ động mạch, đái tháo đường, bệnh tim…
Tuổi thường trên 50 tuổi
Khởi phát đột ngột nhưng tiến triển tăng nặng dần dần hoặc tăng nặng
từng nấc.

Thường sảy ra vào ban đêm và gần sáng.
 Cận lâm sàng:
+ Chụp CLVT sọ não và/hoặc chụp cộng hưởng từ sọ não giúp phân biệt
nhồi máu não với chảy máu não. Xác định vị trí, kích thước vùng tổn thương.
+ Xét nghiệm máu: biểu hiện tăng đông máu, tăng độ nhớt của máu, phát
hiện biểu hiện: rối loạn chuyển hoá lipid máu, bệnh tiểu đường…
1.4. QUAN ĐIỂM TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN
1.4.1. Một số khái niệm về chứng trúng phong
Theo y học cổ truyền, TBMMN thuộc phạm vi chứng “trúng phong”
hay còn gọi là “thiên khô”, “thốt trúng”. Đó là tình trạng bệnh có các biểu
hiện chính là đột nhiên hôn đảo, bất tỉnh nhân sự, bán thân bất toại (bại liệt
nửa người), mồm méo mắt lệch, nói khó hoặc không nói được, chi thể tê bì.
Bệnh thường xảy ra đột ngột, diễn biến nhanh, tình trạng nặng nề, phức tạp,
thường gặp ở người cao tuổi [2 ], [7 ], [27].
Trúng phong là một bệnh lý về não. Gồm có hai thể là Trúng phong thể
chảy máu tương ứng với chảy máu não và Trúng phong thể thiếu máu tương
ứng với nhồi máu não [28].
1.4.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của trúng phong:
Qua các thời đại có nhiều học thuyết khác nhau [trích dẫn theo 15].
 Từ thời Hán – Đường về trước:
15
Trong Linh Khu nói: “Hư tà xâm nhập nửa người, khu trú ở dinh
vệ, dinh vệ hơi suy thì chân khí tán mất, tà khí đóng lại phát thành
chứng thiên khô”.
Sách Kim Quỹ cho rằng: “Mạch lạc hư không, phong tà thừa cơ xâm
phạm gây chứng trúng phong, tuỳ theo bệnh nặng nhẹ mà biểu hiện chứng
hậu ở kinh lạc hay tạng phủ”.
 Từ thời Hán – Đường về sau:
“Hà gian lục thư” chủ trương “Tâm hoả cực mạnh”, nhiệt khí uất kết
gây ra bệnh.

Trong “Đan khê tâm pháp – Trúng phong luận” cho rằng “Đàm thấp
sinh nhiệt” mà gây nên bệnh.
“Đông đản tập thư” cho rằng “Chính khí hư tụ”: Hư tổn chân khí nên
dễ bị trúng phong.
Diệp Thiên Sỹ thiên về phong dương: do huyết kém, thuỷ không hàm
mộc, can dương cang thịnh, phong dương vọng động, âm dương cùng tổ
thương là nguyên nhân gây trúng phong.
 Ngày nay các nhà khoa học cho rằng nguyên nhân gây trúng phong
có thể quy thành các nguyên nhân sau:
+ Lao dục quá độ: hao khí thương âm dễ gây nên dương khí bạo loạn,
khí huyết thượng nghịch mà phát bệnh.
+ Âm thực bất tiết (ăn uống không điều độ): do ăn uống không điều độ,
uống nhiều rượu, ăn nhiều chất cay béo ảnh hưởng đến công năng tỳ vị, thấp
nhiệt nội thịnh phạm vào mạch lạc, thượng tắc thanh khiếu gây bệnh.
+ Tổn thương về tình trí: do ngũ trí quá cực, tâm hoả thịnh lên hoặc
người vốn âm hư, thuỷ không hàm mộc, lại vì tình trí tổn thương, can dương
16
động lên mạnh, dẫn động tâm hoả, phong hoả cùng bốc, khí huyết nghịch lên,
tâm thần tối mờ đột nhiên ngã lăn ra không biết gì.
+ Khí xung trúng tà: thường còn được gọi dưới cái tên “Thốt trúng”,
hiện nay dễ liên hệ với trưòng hợp đột quỵ do xuất huyết não.
 Tóm lại nguyên nhân gây bệnh trúng phong theo YHCT chủ yếu là do hai
yếu tố ngoại phong và nội phong gây nên trong đó do nội phong là chính.
+ Nội phong: phong do bên trong cơ thể gây ra, do tình trí bị kích
thích quá động như: Qúa vui mừng, quá buồn rầu, tức giận quá mức làm cho
khí huyết âm dươngtrong cơ thể bị rối loạn, mất cân bằng âm dương làm cho
âm bị hãm ở dưới, can dương nhiễu loạn ở trên hoá phong động mà gây nên
bệnh [3], [4].
+ Ngoại phong: do ảnh hưởng các yếu tố bên ngoài như: Khí hậu, thời
tiết, môi trường, do lao động quá mức, sinh hoạt không điều độ, phong tà

nhân chính khí cơ thể suy giảm, tấu lý sơ hở, mạch lạc trống rỗng mà xâm
nhập vào [3], [4].
1.4.3. Triệu chứng lâm sàng của trúng phong:
- Trúng phong kinh lạc: Mức độ nhẹ, da thịt tê dại, đi đứng nặng nhọc,
không hôn mê, bỗng nhiên thấy miệng méo, tê liệt nửa người, rêu lưỡi trắng,
mạch huyền hoặc phù sác.
- Trúng phong tạng phủ: Bỗng nhiên lăn ra mê man bất tỉnh, nói ú ớ hoặc
không nói được, thở khò khè, miệng méo mắt lệch, tê liệt nửa người, nếu
nặng có thể tử vong [7], [27].
1.4.4. Di chứng trúng phong:
Sau giai đoạn cấp, hậu quả để lại của trúng phong là bán thân bất toại
(nửa người vận động không theo ý muốn). Biểu hiện qua các triệu chứng:
Thượng hạ chi của bán thân bên phải hoặc bên trái tê dại, không cử động, có
17
thể còn có cảm giác biết đau, biết nóng, lạnh, tay không còn cầm nắm được,
chân không đi lại được [Thích dẫn theo 1].
1.4.5. Các thể lâm sàng
 Trúng phong kinh lạc:
Gồm hai thể :
+ Thể mạch lạc hư trống phong tà xâm nhập, đột nhiên mồm méo mắt
xếch, da tê dại, nói ngọng, có thể bị liệt nửa người.
+ Thể can thận âm hư, phong đàm quấy nhiễu: thường đau đầu chóng
mặt, tai ù mắt mờ, ngủ ít, tự nhiên thấy cứng lưỡi không nói được, mồm méo
mắt xếch, lưỡi đỏ nhờn, mạch huyền hoạt [27].
 Trúng phong tạng phủ.
+ Bế chứng: Đột nhiên hôn mê bất tỉnh, răng cắn chặt, miệng mím chặt,
hai bàn tay nắm chặt, chân tay co giật.
+ Thoát chứng: Đột nhiên hôn mê bất tỉnh, nhắm mắt, miệng há, mũi thở rất
nhẹ, tay chân ra mồ hôi nhiều, đại tiểu tiện tự chảy, người mềm lưỡi rụt [7], [27].
1.5. ĐIỀU TRỊ NHỒI MÁU NÃO SAU GIAI ĐOẠN CẤP

Bệnh nhân bị nhồi máu não sau giai đoạn cấp thường để lại nhiều di
chứng nặng nề. Ngoài di chứng hay gặp là liệt nửa người, sau nhồi máu não
cũng còn thấy các khiếm khuyết chức năng khác như ngôn ngữ, nuốt, tâm trí,
tình dục
Tế bào thần kinh tuy không thể tái sinh được khi bị mất đi do bệnh lý
nhưng khi điều trị kịp thời vẫn có thể đem lại kết quả tốt cho nhiều trường
hợp hoặc phục hồi hoàn toàn, hoặc một phần. Bệnh nhân có thể thích nghi với
điều kiện liệt, có thể tự phục vụ sinh hoạt tối thiểu [20], [63].
1.5.1. Điều trị theo y học hiện đại.
1.5.1.1. Dùng thuốc:
18
Nguyên tắc chung là sử dụng thuốc bảo vệ thần kinh phối hợp với nhau,
ngăn ngừa chảy máu thứ phát, tái tắc mạch, thu nhỏ kích thước ổ nhồi máu,
thuốc chống ngưng tập tiểu cầu, ổn định huyết áp, điều trị yếu tố nguy cơ tăng
đường máu, tăng lipid máu và các nguy cơ khác
1.5.1.2. Điều trị phục hồi chức năng sau giai đoạn cấp:
- Phục hồi chức năng bao gồm các biện pháp y học, kinh tế xã hội,
giáo dục hướng nghiệp và kỹ thuật phục hồi để làm giảm tác động của giảm
khả năng và tàn tật, đảm bảo cho người tàn tật có cơ hội bình đẳng để hội
nhập hoặc tái hội nhập xã hội [9], [10].
Mục đích của việc phục hồi chức năng vận động sau giai đoạn cấp nhằm
đề phòng biến dạng khớp, co rút. Giúp bệnh nhân di chuyển với dụng cụ trợ
giúp hoặc độc lập di chuyển. Học lại các hoạt động chức năng hàng ngày như
mặc quần áo, di chuyển đi lại [43].
1.5.2. Điều trị theo y học cổ truyền.
Điều trị nhồi máu não sau giai đoạn cấp bằng y học cổ truyền có nhiều
phương pháp dùng thuốc và không dùng thuốc:
1.5.2.1. Phương pháp không dùng thuốc
Gồm: Châm cứu, thuỷ châm, xoa bóp, bấm huyệt, dưỡng sinh.
 Châm cứu

Châm cứu là một trong nhũng phương pháp điều trị bệnh có nhiều hiệu
quả. Theo lý luận của y học Phương đông, cơ thể phát sinh bệnh tật là do sự
mất cân bằng âm dương, châm cứu có tác dụng cơ bản là điều hoà cân bằng
âm dương. Châm cứu là tác động vào huyệt để điều chỉnh các rối loạn chức
năng của kinh mạch.
Trên hệ kinh lạc có khí huyết vận hành điều hoà làm cho cơ thể khoẻ
mạnh và chống lại các tác nhân gây bệnh. Mỗi đường kinh mang tính chất và
hoạt động tuỳ theo công năng của các tạng phủ mà nó mang tên, bệnh lý
của tạng phủ được phản ánh sự thay đổi bệnh lý trên các đường kinh mang
19
tên tạng phủ đó, hoặc trên các đường kinh có liên quan biểu lý với nó.
Châm cứu còn đề cập đến phản ứng tại chỗ đó là phương pháp điều trị A
thị huyệt [35], [42].
Châm cứu điều trị di chứng nhồi máu não nhằm tác động thông kinh lạc,
điều hoà khí huyết, đồng thời điều hoà chức năng của tạng phủ, chủ yếu là hai
tạng can, thận và điều khí dẫn huyết tới nơi bị liệt [24], [26], [27].
Thời kỳ hồi phục hoặc di chứng, đàm ứ rõ, chính khí dần hư suy, châm
cứu nhằm tăng dinh dưỡng tứ chi, bổ dương minh, hóa đàm trừ thấp, sơ thông
kinh mạch, hành khí hoạt huyết, huyết hành thì phong tất diệt, khôi phục chức
năng vận động [28].
 Xây dựng phác đồ huyệt châm cứu điều trị di chứng nhồi máu não
theo biện chứng luận trị [trích dẫn theo 12]:
+ Thể khí hư huyết ứ lạc mạch trở trệ: Trung quản, Túc tam lý, Khí hải,
Kiên ngung, Khúc trì, Ngoại quan, Hoàn khiêu, Tam âm giao, Dương lăng tuyền.
+ Thể can thận âm hư: Thái dương, Phong trì, Thái xung, Thái khê, Tam
âm giao, Kiên ngung, Khúc trì, Ngoại quan, Dương lăng tuyền, Túc tam lý.
+ Thể phong đàm huyết ứ bế trở kinh lạc: Phong trì, Thái dương, Thiên
đột, Kiên ngung, Khúc trì, Ngoại quan, hợp cốc, Dương lăng tuyền, Túc tam
lý, Thái xung
 Xây dựng phác đồ huyệt châm cứu theo triệu chứng bệnh:

+ Liệt mặt: Giáp xa, Địa thương, Thừa tương, Nghinh hương, Phong trì
+ Liệt chi trên: Hợp cốc xuyên Lao cung, Chi câu xuyên Ngoại quan,
Khúc trì xuyên Thủ tam lý, Kiên ngung xuyên Tý nhu, Cực tuyền, Bát tà, Giáp
tích
20
+ Liệt chi dưới: Phong thị, Huyết hải, Túc tam lý, Tam âm giao, Giải
khê, Thái xung, Giáp tích, Dương lăng tuyền, Trật biên, Hoàn khiêu, Ủy
trung, Thừa sơn, Côn lôn
+ Nếu thất ngôn thêm: Liêm tuyền, Ngoại kim tân.
 Kỹ thuật châm cứu kết hợp điện châm:
Sử dụng máy điện châm do công ty trang thiết bị y tế - Bộ Y Tế sản xuất.
Tần số kích thích khoảng 2 - 3 Hz (khoảng 120- 180 CK/phút).
Cường độ kích thích từ 2 µA đến 50 µA ở ngưỡng mà người bệnh có thể
chịu đựng được.
Châm cứu kết hợp điện châm ngày một lần. Thời gian mỗi lần từ 25 đến
30 phút.
Liệu trình điều trị châm cứu khoảng 30 ngày.
 Xoa bóp bấm huyệt:
Xoa bóp bấm huyệt là phương pháp chữa bệnh ra đời sớm nhất, được xây
dựng và phát triển trên cơ sở những kinh nghiệm quý báu tích luỹ được trong
đấu tranh bảo vệ sức khoẻ của người xưa, được lý luận của YHCT chỉ đạo.
Đối với bệnh nhân bị trúng phong sau giai đoạn cấp thường để lại những
di chứng rất nặng nề như: liệt vận động, liệt mặt, tê bại tay chân, rối loạn
ngôn ngữ, nói khó, bí đại tiểu tiện
Xoa bóp bấm huyệt làm thay đổi những phản ứng sinh học cục bộ tại
vùng được xoa bóp, thông qua phản xạ thần kinh có thể điều tiết được công
năng trong cơ thể, cải thiện sự tuần hoàn huyết dịch. Ngoài ra nó có thể
tăng cường sự lưu thông, giải quyết được sự tê dại các chi, lưu thông khí
huyết [3].
1.5.2.2. Phương pháp dùng thuốc y học cổ truyền

Sau giai đoạn cấp của nhồi máu não bệnh nhân còn lại di chứng liệt
phần lớn do khí hư huyết ứ trệ hoặc đàm thấp nên phương thuốc chữa là bổ
21
ích khí huyết, hành khí hoá ứ, sơ thông kinh lạc nhằm tăng cường sự lưu
thông, giải quyết được tê dại các chi, lưu thông khí huyết giúp việc phục hồi
nhanh chóng [27].
Theo Nội kinh “Phong khí thông vào can, phong sinh ra từ bên trong cơ thể
con người đều do can mà ra”, thuốc có tác dụng hành khí vì “huyết hành phong
tự diệt” mà “khí hành tất huyết hành”. Nên dùng các vị thuốc có tính vị qui kinh
can, thận và có tác dụng hành khí, hoạt huyết lưu thông kinh lạc để tăng cường
sự phục hồi chức năng vận động được nhanh chóng [3], [ 4].
Điều trị phục hồi di chứng của trúng phong thể thiếu máu thường kết hợp các
phương pháp: Hoạt huyết hoá ứ, thông kinh hoạt lạc, ích khí, bổ can thận.
Hiện nay có rất nhiều bài thuốc, vị thuốc y học cổ truyền đã và đang được
các danh y trong và ngoài nước sử dụng để điều trị di chứng nhồi máu não.
1.5.2.3. Một số nghiên cứu về điều trị nhồi máu não sau giai đoạn cấp bằng
các phương pháp YHCT trên Thế giới và tại Việt Nam
 Các nghiên cứu về điều trị Nhồi máu não sau giai đoạn cấp bằng
phương pháp châm cứu, thuỷ châm
Nguyễn Thuỳ Hương, Nguyễn Đức Thọ (1992) “Điều trị di chứng
TBMMN bằng điện châm” cho kết quả: tốt 61,63% với thời gian từ 15 đến 60
ngày [20].
Nguyễn Tài Thu, Vũ Thường Sơn (1995) “Nghiên cứu điều trị điện
châm phục hồi chức năng vận động cho 120 bệnh nhân liệt do TBMMN” kết
quả: Đỡ nhiều 40%, đỡ ít 37,5% [35].
Đặng Huyền Nga (2003) “Nghiên cứu biến đổi điện não đồ, lưu huyết
não trên bệnh nhân liệt do NMN được phục hồi bằng điện mãng châm”. Kết
quả bệnh nhân chuyển độ liệt là 97,8%, trong đó chuyển 1 độ là 37,8%,
chuyển 2 độ là 55,5% và chuyển 3 độ là 6,7% [31].
22

Trần Quang Hưng (2010) “Đánh giá tác dụng phục hồi chức năng vận
độnh ở bệnh nhân nhồi máu não bằng thuỷ châm Neurobion”. Kết quả 100%
bệnh nhân có sự cải thiện độ liệt theo Rankin [23].
Galbaa Davkharbayar (2011) “Đánh giá tác dụng hỗ trợ phục hồi chức
năng vận động ở bệnh nhân nhồi náu não sau giai đoạn cấp bằng thuỷ châm
Epinosine B”. Kết quả 100% bệnh nhân có sự cải thiện độ liệt theo Rankin [15].
 Các nghiên cứu về điều trị Nhồi máu não sau giai đoạn cấp bằng
phương pháp dùng thuốc YHCT
Trong nhiều thập kỷ gần đây tại một số nước Châu Á mà điển hình là
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đã đi đầu trong việc hiện đại hóa YHCT,
đã có nhiều tiến bộ trong việc nghiên cứu điều chế sản xuất thuốc YHCT. Bên
cạnh thuốc sắc, ngày càng có thêm nhiều dạng thuốc như thuốc tiêm, truyền
tĩnh mạch, thuốc viên có nguồn gốc từ các vị thuốc YHCT được nghiên
cứu, sản xuất và ứng dụng vào việc điều trị bệnh nói chung và TBMMN nói
riêng cho những kết quả tốt.
Khúc Hải Nguyên (1985) Bệnh viện Trung Y Cát Lâm Trung Quốc dùng
“Địa long đan sâm thang” điều trị cho 32 bệnh nhân. Kết quả: tốt 4 trường
hợp, khá 27 trường hợp, không kết quả 1 trường hợp, tỷ lệ đạt 96% [29]
Trương Văn Học (1987) ở Học viện Trung y Thiểm Tây Trung Quốc
dùng bài thuốc “Thông mạch sơ lạc phương” điều trị 110 trường hợp nhũn
não, kết quả: loại tốt (47,3%), khá (32,7%), trung bình (18,2%), không kết
quả (1,8%) [48].
Hà Tiểu Tiên (1989) ở Bệnh viện Tuyên vũ Bắc Kinh có bài “ Đào hồng
thông mạch phương” gia vị (Đào nhân, Hồng hoa, Xuyên khung, Xuyên sơn
giáp, Quế chi, Địa long, Bạch thược, Sinh kỳ, Đan sâm). Kết quả: 29 bệnh
nhân phục hồi tốt (63,3%), 14 bệnh nhân phục hồi khá (30,4%), 3 bệnh nhân
có tiến bộ (6,5%) [29], [48].
23
Tại Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu đánh giá tác dụng của một số
bài thuốc cổ phương dùng trong điều trị bệnh NMN sau giai đoạn cấp cho kết

quả khả quan:
Nguyễn Đức Vượng (2002) Bệnh viện Y học cổ truyền Quân đội nghiên
cứu bài thuốc “Kiện não hoàn” điều trị phục hồi di chứng NMN sau giai đoạn
cấp cho kết quả 50% phục hồi hoàn toàn, 36,5% còn lại di chứng nhẹ, 10% di
chứng vừa [50].
Vũ Thu Thủy và cộng sự (2005) nghiên cứu điều trị 75 trường hợp
NMM sau giai đoạn cấp chia hai nhóm: nhóm nghiên cứu sử dụng thuốc Hoa
đà tái tạo hoàn, nhóm đối chứng sủ dụng thuốc YHHĐ theo phác đồ điều trị
của Khoa Thần kinh Bệnh Viện Bạch Mai. Kết quả điều trị cho thấy ở nhóm
nghiên cứu phục hồi tốt 23,7% phục hồi khá 39,5% và thuốc có tác dụng rõ
rệt với các ổ nhồi máu dưới 3cm [44].
Nguyễn Văn Vụ (2006), trong “Nghiên cứu tác dụng điều trị nhồi máu
não sau giai đoạn cấp của thuốc Kỷ cúc địa hoàng hoàn và Tứ vật đào hồng”,
kết quả 88,35% giảm độ liệt, trong đó 11,7% phục hồi hoàn toàn, 18,3% đỡ
nhiều [51].
Nguyễn Bá Anh (2008) “Đánh giá tác dụng hỗ trợ điều trị của Nattospes
trên bệnh nhân nhồi máu não sau giai đoạn cấp”. Kết quả tỷ lệ chuyển dịch độ
liệt theo Rankin là 95,5%, mức tăng điểm trung bình Barthel sau điều trị là
32,78+ 10,0 so với trước điều trị và cao hơn so với nhóm chứng [1].
 Các phương pháp dùng thuốc YHCT kết hợp châm cứu điện châm
Trên thực tế lâm sàng, để điều trị cho bệnh nhân NMM sau giai đoạn cấp
các thầy thuốc thường hay kết hợp cả hai phương pháp dùng thuốc YHCT và
châm cứu điện châm. Những kết quả nghiên cứu của một số tác giả cho thấy
việc kết hợp của hai phương pháp này thường đem lại kết quả khả quan hơn.
Tôn Chi Nhân (2004) trong “ Nghiên cứu điều trị phục hồi chức năng vận
động cho bệnh nhân TBMMN bằng điện châm kết hợp thuốc YHCT nghiệm
24
phương” cho kết quả 68% phục hồi hoàn toàn, 22% di chứng nhẹ và 10% di
chứng vừa [32].
Trần Thị Quyên (2005) trong “Đánh giá phục hồi điều trị chức năng

vận động cho bệnh nhân TBMMN bằng thuốc viên Bổ dương hoàn ngũ thang
và điện châm” kết quả tốt 66,7%, trung bình đạt 33,3% [33].
Nguyễn Công Doanh (2011) trong “Nghiên cứu phục hồi chức năng
bệnh nhân nhồi máu não động mạch não giữa sau giai đoạn cấp bằng bài
thuốc Thông mạch dưỡng não ẩm và điện châm”, kết quả: 97,3% chuyển
dịch độ liệt theo Rankin trong đó 28,85% chuyển về độ I, 69,23% chuyển
về độ II [12].
1.6. SƠ LƯỢC VỀ THUỐC NGHIÊN CỨU
1.6.1. Nguồn gốc xuất xứ
Thuốc viên Panax Notoginseng Saponins (biệt dược Luotai) do công ty
cổ phần dược phẩm Côn Minh Trung Quốc nghiên cứu và sản xuất từ năm
2002 và được Công ty Dược phẩm Đông Đô Việt Nam nhập khẩu và phân
phối tại Việt Nam năm 2010 [47].
Thành phần chính của thuốc được chiết xuất từ rễ củ tam thất.
Trồng và thu hoạch: Cây Tam thất được trồng chủ yếu tại tỉnh Vân Nam
Trung Quốc. Cây trồng sau bảy năm mới tiến hành thu hoạch vào mùa thu
trước khi cây ra hoa.
Bộ phận dùng: Rễ củ.
Dịch chiết Saponins tiêu chuẩn hóa có nguồn từ Panax Notoginseng
(tam thất).
Có hai dạng bào chế: dạng thuốc tiêm và thuốc viên.
1.6.2. Thành phần
Hỗn hợp Saponins được tiêu chuẩn hóa trong đó thành phần chính chiếm
80%, gồm: Panax ginsenoside Rg 1: 25 - 35%; Panax ginsenoside Rb1: 30 -
40%; Panax ginsenoside Rd: 7 - 15%; Panax notoginsenoside R1: 5 - 10% [47].
1.6.3. Thành phần của thuốc viên:
25

×