T VN
Chn thng ngc (CTN) l mt nhúm cp cu ngoi khoa thng gp,
gõy nh hng trc tip n b mỏy hụ hp v tun hon nờn cú th nhanh
chúng dn n t vong [1]. CTN l mt cp cu u tiờn s 1 trong chn oỏn,
vn chuyn v x lớ. L nguyờn nhõn hng u gõy t vong sau chn thng
s v chn thng ty sng. CTN cú th gp bt k a phng no Vit
Nam cng nh trờn th gii. Vớ d nh M, t l CTN l 12 ca/1 triu dõn,
trong ú cú 4 ca phi iu tr ti bnh vin; riờng nm 1985 cú 94.000 nn
nhõn cht do tai nn giao thụng cú 45 50% liờn quan n CTN. Trong bỏo
cỏo ca Hi ng an ton quc gia M (2002) thy t l t vong do CTN
chim 35% cỏc t do chn thng kớn [10]. Ti Vit Nam, theo nghiờn cu
ca Nguyn Hu c v cs, trong vũng 30 thỏng, t thỏng 1/2004 n thỏng
6/2006, Bnh vin Vit c ó iu tr phu thut cho 703 bnh nhõn b chn
thng ngc [15]. Ti bờnh vin Nhõn dõn Gia nh TP.HCM t 2001 n
2004, ó iu tr cho 302 trng hp chn thng v vt thng ngc [2].
CTN bao gm 2 nhúm tn thng chớnh l chn thng ngc kớn
(CTNK) v vt thng ngc. Chấn thơng ngực kín là những chấn thơng do
một vật từ đập mạnh vào lồng ngực gây tổn thơng ở thành ngực hoặc các cơ
quan trong lồng ngực nhng không làm rách da và các tổ chức phần mềm bao
quanh lồng ngực, tức là khoang màng phổi không thông thơng với không khí
bên ngoài.
Vết thơng ngực hay vết thơng ngực hở là chấn thơng vào thành ngực gây
thủng thành ngực, tức là khoang màng phổi bị thông thơng với không khí bên
ngoài Mi nhúm li cú nhiu th bnh vi tờn gi khỏc nhau, nh trong CTNK
hay gp: trn mỏu trn khớ khoang mng phi, trn khớ mng phi, ng dp
nhu mụ phi, mng sn cũn trong vt thng thu ngc chia lm hai loi
vt thng ngc h (VTNH) v vt thng ngc kớn (VTNK) gm cỏc th:
1
vết thương ngực đơn thuần, vết thương tim, vết thương ngực bụng [1], [9],
[10]. Nguyên nhân chủ yếu gây CTN là tai nạn giao thông, lao động (ngã cao,
tường đổ…) hoặc tai nạn sinh hoạt ( bị đánh, bị chém, đạn bắn, ngã cầu
thang…).
CTN thường tác động trực tiếp đến cơ quan tuần hoàn và hô hấp là
những cơ quan quan trọng duy trì chức năng sống còn của cơ thể và còn kết
hợp với các chấn thương khác như chấn thương sọ, chấn thương bụng ( vỡ các
tạng), chấn thương cột sống, gãy các chi …. nên bệnh nhân thường khá nặng
nề. Để chẩn đoán chính xác và kịp thời các thể CTN mà chủ yếu tổn thương là
màng phổi và phổi, ngoài các dấu hiệu lâm sàng thì chẩn đoán hình ảnh với
các phương pháp thăm khám khác nhau đóng vai trò rất quan trọng. Chụp X
quang lồng ngực thường chụp với tư thế nằm nên các dấu hiệu không điển
hình khó đánh giá được hết các tổn thương. Chụp cắt lớp vi tính lồng ngực có
thể đánh giá một cách tổng quát và đầy đủ các tổn thương nhưng khó có thể
tiến hành chụp cấp cứu ngay, giá thành lại đắt, không phải cơ sở y tế nào cũng
được trang bị. Siêu âm với nhiều ưu điểm của mình như giá thành rẻ, dễ trang
bị, không nhiễm xạ, phát triển rộng khắp tới hầu hết các cơ sở y tế, nhất là rất
cơ động, có thể làm cấp cứu ngay tại giường đã được ưu tiên hàng đầu trong
việc đánh giá các thể tổn thương CTN.
Từ những năm 80, máy siêu âm đã xuất hiện ở một số ít bệnh viện trong
đó có bệnh viện Việt Đức, một bệnh viện ngoại khoa, siêu âm đã được sử
dụng để chẩn đoán CTN, nhưng phần lớn chỉ mô tả triệu chứng siêu âm. Đã
có nhiều báo cáo, nghiên cứu ứng dụng siêu âm trong chẩn đoán chấn thương
ngực nhưng rất ít trong số đó đề cập đến giá trị cụ thể của siêu âm trong đánh
giá và phân loại các tổn thương do CTN. Vì những lý do trên chúng tôi thực
hiện đề tài: “Nghiên cứu giá trị của siêu âm trong chấn thương màng phổi
và phổi” với các mục tiêu sau:
2
1. Đặc điểm hình ảnh của siêu âm trong chấn thương màng phổi và
phổi
2. Đối chiếu kết quả siêu âm và phim X quang với chụp cắt lớp vi tính
và điều trị ngoại khoa.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU LỒNG NGỰC
Lồng ngực là phần cơ thể nằm giữa cổ và bụng. Giới hạn trên lồng ngực
gồm có bờ trên đốt sống ngực 1 ở sau, bờ trên cán ức ở trước, cùng với hai
xương - sụn sườn 1 ở hai bên. Giới hạn dưới là cơ hoành [4].
Hình 1.1. Giải phẫu lồng ngực [8]
1.1.1. Thành ngực
1.1.1.1.Cơ và da thành ngực
Các cơ thành ngực với các lớp cơ nằm thành 3 lớp bao xung quanh lồng
ngực gồm: các cơ ngực lớn, ngực bé, các cơ gian sườn, cơ dựng cột sống
Các cơ này cùng với khung xương lồng ngực tạo nên thành ngực bảo vệ các
4
cơ quan quan trọng như phổi, tim …. Các cơ còn góp phần vào chức năng hô
hấp. [3], [4], [8], [12].
1.1.1.2.Khung xương cứng
Khung xương cứng của thành ngực gồm xương ức ở phía trước, cột
sống ở phía sau, nối với nhau bằng các xương sườn. Giữa các xương sườn có cơ
và bó mạch liên sườn, phía ngoài xương sườn có các cơ và da che phủ, sát mặt
trong có lá thành màng phổi. Sự phối hợp co dãn của các cơ hô hấp và dây chằng
bám vào khung xương làm thành ngực có tính đàn hồi [3], [8], [12].
Trong CTN, phải có lực tác động mạnh mới làm gẫy được khung xương
cứng để gây tổn thương vào bên trong lồng ngực. Khi gãy xương sườn thì rất
dễ làm rách lá thành màng phổi làm máu từ ổ gãy xương chảy vào khoang
màng phổi. Mặt khác nếu tổn thương co vật nhọn (dao, kéo) đâm xuyên qua
thành ngực thì có nguy cơ gây vết thương bó mạch liên sườn làm chảy máu
nhiều vào khoang màng phổi [10].
1.1.1.3. Cơ hoành
Là một cơ lớn ngăn cách giữa ngực – bụng. Bên phải cao hơn trái từ 0,5
– 1,5 cm. Đỉnh vòm hoành lên đến khoang liên sườn 5 đường nách giữa [3],
[4], [12], nên đối với các VTNH có vị trí vết thương ở mức đỉnh vòm hoành
thì dễ xuyên thủng cơ hoành gây vết thương ngực – bụng (VTNB).
Cơ hoành có nhiều lỗ để cho các tạng, mạch máu, thần kinh từ lồng
ngực xuống ổ bụng hay ngược lại từ ổ bụng đi lên ngực [3], [4], [12]. Cơ
hoành là cơ hô hấp chính của lồng ngực, đảm bảo trên 70% dung tích hô hấp
bình thường [10]. Do vậy, những bệnh nhân béo hoặc có chấn thương bụng phối
hợp sẽ gây rất nhiều cản trở hô hấp cho bệnh nhân CTN. Ngoài ra, khi chính cơ
hoành bị tổn thương (vỡ hoặc thủng) thì dịch ổ bụng sẽ di chuyển lên khoang
màng phổi, hoặc các tạng trong ổ bụng có thể chui qua chỗ vỡ gây lên thoát vị hoành.
5
1.1.2. Các cơ quan bên trong lồng ngực
1.1.2.1. Phổi:
Phổi là một tạng lớn nằm trong lồng ngực và là cơ quan chủ yếu của bộ
máy hô hấp. Hai bên có 2 phổi ngăn cách nhau bởi trung thất. Phổi thường
gồm 3 thùy ở bên phải (trên, giữa, dưới), 2 thùy ở bên trái (trên và dưới). Mỗi
thùy phổi được phân chia thành các phân thùy phế quản – phổi, mỗi phân thùy
có thể có một phế quản phân thùy, một động mạch và một tĩnh mạch phân
thùy [3], [4], [12].
Phổi có hệ mạch máu rất phong phú xuất phát từ hai hệ thống, thứ nhất
là hệ tiểu tuần hoàn (động – tĩnh mạch phổi), có nhiệm vụ trao đổi khí, dòng
máu có lưu lượng lớn, nhưng áp lực thấp dưới 30mmHg. Thứ hai là hệ động
mạch phế quản, có nhiệm vụ nuôi dưỡng nhu mô phổi, kích thước mạch máu
và lưu lượng nhỏ, nhưng áp lực cao như áp lực trong đại tuần hoàn. Do các hệ
thống mạch máu phổi luôn bám sát hệ thống khí phế quản, nên những tổn
thương làm rách nhu mô phổi trong CTN thường vừa gây chảy máu, vừa gây
xì khí ra ngoài đường hô hấp, cụ thể bên trong thì gây tràn máu – tắc nghẽn
đường hô hấp, bên ngoài gây tràn máu – tràn khí màng phổi (TM-TKMP). Vết
thương càng gần rốn phổi thì càng nguy hiểm vì các mạch máu lớn hơn và
phế quản to hơn. Do áp lực trong hệ tiểu tuần hoàn thấp, nên với các tổn
thương nhu mô phổi ngoại vi ( thường gặp trong CTN) thì chảy máu thường
tự cầm vì thế thường gây tràn máu khoang màng phổi, thậm chí có máu cục
trong khoang màng phổi khi chảy máu nhiều do tổn thương các mạch máu lớn
trong trung thất hay tổn thương động mạch liên sườn và động mạch ngực trong.
Nhu mô phổi mềm, xốp như bọt biển và co dãn rất mạnh theo nhịp thở,
nên không tự giữ được hình thể, hơn nữa lại có nhiều sợi đàn hồi làm phổi có
xu hướng co nhỏ lại rốn phổi, thể hiện rõ trong các tổn thương cấu trúc
khoang màng phổi của CTN.
6
1.1.2.2. Màng phổi và khoang màng phổi:
Màng phổi là một bao thanh mạc bao bọc xung quanh phổi, gồm hai lá là
lá thành và lá tạng, được tiếp nối với nhau tại rốn phổi. Lá thành áp sát toàn
bộ mặt trong thành ngực (chỉ ngăn cách bằng một lớp mô liên kết mỏng gọi là
mạc nội ngực), dính chặt vào mặt trên cơ hoành và phủ lên thành bên của
trung thất. Lá tạng bao bọc xung quanh bề mặt phổi (trừ rốn phổi), mặt ngoài
nhẵn bóng và nằm áp sát vào lá thành tạo nên khoang màng phổi, ở giữa có
thấm thanh dịch giúp cho sự cọ sát giữa hai lá được dễ dàng khi thở. Lá tạng
cũng lách vào các khe liên thùy làm ngăn cách các thùy với nhau, ở mặt trong
dính chặt vào phổi đến nỗi khi tách ra sẽ làm tổn thương nhu mô phổi. Ở vùng
đỉnh phổi, màng phổi được giữ tại chỗ bằng các dây chằng treo đỉnh màng
phổi, đến từ đốt sống và xương sườn lân cận.
Khoang màng phổi là một khoang ảo, 2 lá màng phổi tuy áp sát nhau
nhưng vẫn dễ dàng trượt lên nhau giúp cho nhu mô phổi nở ra và co lại theo
nhịp hô hấp. Nhưng khoang màng phổi có một đặc điểm quan trọng là có áp
lực âm tính hơn áp lực của khí quyển và thay đổi theo động tác thở, khi thở
vào có áp lực từ -10 đến -6mmHg, khi thở ra từ -4 đến -2 mmHg. Nhờ áp lực
âm tính của khoang màng phổi mà lá tạng luôn được kéo sát vào lá thành,
giúp nhu mô phổi luôn được căng phồng và nở ra đến sát thành ngực. Hai
khoang màng phổi tuy hoàn toàn cách biệt nhau, nhưng có áp lực âm tính như
nhau, nên hai nửa lồng ngực luôn ở trạng thái cân bằng.
Trong CTN, khi có tràn máu hay tràn khí khoang màng phổi, chúng
choán chỗ làm tách 2 lá màng phổi ra và đẩy bẹp nhu mô phổi vào, hơn nữa
khi đó sẽ mất áp lực âm tính trong khoang màng phổi, làm cho nhu mô phổi
co dúm về phía rốn phổi [12]. Mặt khác, nếu chỉ có một bên ngực bị tổn
thương thì áp lực bên đó sẽ thay đổi ( thường là dương tính hơn), gây ra
7
chênh áp lực với ngực bên kia, dẫn đến sự dịch chuyển trung thất và tác
động đến bộ máy tuần hoàn.
1.1.2.3. Trung thất .
Trung thất là một khoang trong lồng ngực. Trung thất được giới hạn phía
trước bởi mặt sau xương ức và các sụn sườn; phía sau là bởi mặt trước cột
sống ngực; ở trên là lỗ trên của lồng ngực, nơi trung thất thông với nền cổ;
phía dưới là cơ hoành, nơi các thành phần đi từ ngực xuống bụng và ngược
lại; 2 bên là lá thành trung thất của màng phổi. Trung thất thường được chia
thành nhiều khu, có hai cách phân chia khác nhau:
• Cách cổ điển: chia trung thất thành hai phần là trung thất trước và
trung thất sau, ranh giới là một mặt phẳng đi qua khí quản và hai phế quản
chính.
• Cách phân chia hiện tại: cách này đã được đưa ra và thống nhất ở hội
nghị quốc tế các nhà giải phẫu, theo đó thì trung thất được chia thành 4 khu là:
Trung thất trên (nằm trên mặt phẳng ngang đi ngay trên khoang màng ngoài
tim) chứa các thành phần là khí quản, tĩnh mạch cánh tay đầu, tuyến ức, cung
động mạch chủ, ống ngực, thực quản. Trung thất trước (khoang rất hẹp nằm
giữa màng ngoài tim và mặt sau xương ức) chứa thành phần mạch máu nhỏ,
mô mỡ và mô liên kết, tuyến ức ở trẻ em. Trung thất giữa là khoang chứa tim,
màng ngoài tim, động mạch chủ lên, thân động mạch phổi, các tĩnh mạch phổi
và các dây thần kinh hoành. Trung thất sau (nằm sau tim và màng ngoài tim,
tức là mặt phẳng đứng ngang khí quản và hai phế quản chính) gồm các thành
phần như thực quản cùng các dây thần kinh X, động mạch chủ xuống, ống
ngực và các thân giao cảm.
Tất cả các cơ quan trong trung thất đều nằm trong một đám mô mỡ và
tổ chức tế bào lỏng lẻo, nên khi chấn thương rất dễ tụ máu, thậm chí cả tràn
khí trung thất, nên số lượng nhiều sẽ gây chè ép vào cơ quan trung thất, nhất
8
là cản trở máu tĩnh mạch trở về tim. Việc nắm chắc phân bố giải phẫu các cơ
quan trong trung thất có ý nghĩa gợi ý tổn thương rất tốt trong CTN, khi dựa
vào vị trí chấn thương – vết thương trên thành ngực, ví dụ như vết thương vào
vùng nguy hiểm của tim gợi ý vết thương tim, Mặt khác do cấu trúc là các mô
mềm, nên trung thất dễ bị đẩy hoặc bị kéo khỏi vị trí bình thông thường, thậm
chí lắc lư trong CTN, khi có sự mất cân bằng áp lực giữa hai bên màng phổi
[3], [4], [12].
1.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ HÔ HẤP :
Hoạt động hít vào – thở ra nhờ vào các cơ hô hấp, tính đàn hồi của
ngực – phổi, và dựa trên nguyên lý không khí đi từ nơi áp suất cao đến nơi áp
suất thấp. Áp suất trong phế nang luôn gần bằng áp suất khí quyển. Bình
thường, cơ hoành đảm bảo 70 % dung tích hô hấp. Cụ thể:
Thì hít vào, lồng ngực chủ động dãn ra, kéo theo nhu mô phổi nở, làm
dãn và giảm áp suất trong các phế nang, không khí tự vào phổi do chênh áp
với áp xuất khí quyển. Lồng ngực dãn ra theo ba chiều:
Chiều thẳng đứng: do cơ hoành co thẳng ra làm tăng chiều cao của lồng
ngực. Bình thường cơ hoành hạ xuống khoảng 1,5cm, nhưng hít vào gắng sức
thì nó có thể thay đổi tới 7 - 8cm.
Chiều ngang và chiều trước sau: sự co cơ ở thành ngực làm các xương
sườn từ tư thế chếch xuống chuyển sang nằm ngang, dẫn đến tăng thể tích
trước sau và ngang của lồng ngực. Cơ liên sườn là cơ quan trọng nhất tham
gia vào cơ chế này. Khi hít vào gắng sức, thì có thêm một số các cơ khác tham
gia vào như cơ ức đòn chũm, cơ ngực to.
Ngược lại, thì thở ra là một thì thụ động, do ngừng co cơ hô hấp nên
lồng ngực co hồi lại nhờ sự đàn hồi của thành ngực – phổi và sự chống đối lại
của các tạng trong ổ bụng làm cho khoang liên sườn xẹp xuống và cơ hoành
nâng lên cao. Việc giảm thể tích lồng ngực sẽ ép vào các phế nang, làm tăng
9
áp suất so với khí quyển, đẩy không khí từ phổi ra ngoài [13].
Qua đó có thể thấy việc đảm bảo áp lực âm tính trong khoang màng
phổi, sự toàn vẹn của lồng ngực, và sự thông thoáng của đường hô hấp đóng
vai trò rất quan trọng trong sinh lý hô hấp.
Khi có các thương tổn giải phẫu trong chấn thương vết thương ngực
như gãy xương sườn, thủng khoang màng phổi, hoặc tắc nghẽn đường hô hấp do
máu, dị vật, đờm dãi sẽ dẫn đến rối loạn sinh lý hô hấp và suy hô hấp.
1.3. CÁC TỔN THƯƠNG CHÍNH VÀ SINH LÝ BỆNH TRONG CHẤN
THƯƠNG NGỰC, VẾT THƯƠNG NGỰC:
1.3.1. Thương tổn thành ngực:
1.3.1.1. Thủng thành ngực:
Thành ngực bị xuyên thủng từ ngoài da vào khoang màng phổi do các
vật nhọn đâm vào, gây ra vết thương ngực, dẫn đến hậu quả chung là tràn máu
– tràn khí khoang màng phổi. Lỗ thủng ở thành ngực lớn hay nhỏ tuỳ theo tác
nhân gây chấn thương. Ngoài rách – thủng phần mềm, thì xương sườn có thể
bị đứt – gãy, nếu vết thương đi qua bờ dưới xương sườn thì thường làm đứt bó
mạch liên sườn, gay chảy máu rất nhiều vào khoang màng phổi. Thương tổn
nội tạng trong ngực, ngoài rách nhu mô phổi trong vết thương ngực đơn
thuần, còn có thể bị vết thương tim, thủng cơ hoành, rách các mạch máu – phế
quản lớn… tạo nên các thể bệnh khác nhau của vết thương ngực.
Cùng với mảng sườn di động, vết thương ngực còn đang hở (vết thương
lớn, không tự bịt kín hoặc chưa được sơ cứu, khoang màng phổi thông thương
tự do với bên ngoài) là 2 thương tổn rất nặng trong chấn thương ngực, do các
rối loạn sinh lý bệnh trầm trọng mà đặc trưng là 2 hội chứng hô hấp đảo
ngược và trung thất lắc lư.
10
1.3.1.2. Gãy xương sườn:
Có thể gãy một hay nhiều xương. Nếu do va đập trực tiếp (là cơ chế
thường gặp) thì đầu gãy thường đâm vào trong gây thủng màng phổi và phổi.
Nếu do đè ép gián tiếp thì đầu gãy thường hướng ra ngoài.
Gãy (đứt) xương sườn trong vết thương ngực thường kèm theo đứt
động mạch liên sườn gây chảy máu nhiều.
Mức độ di lệch của hai đầu xương gãy có thể là gãy rạn, di lệch ngang,
di lệch chồng. Nếu có di lệch thì đầu xương gãy thường chọc rách màng phổi
– phổi do nằm sát mặt trong xương.
Máu chảy từ ổ gãy xương (100 – 300ml/ 1 ổ gãy) hình thành khối máu
tụ dưới da và có thể chảy vào khoang màng phổi nếu có rách màng phổi thành
gây tràn máu màng phổi.
1.3.1.3. Gãy xương ức:
Thường do chấn thương rất mạnh, trực tiếp vào vùng xương ức. Gây
suy hô hấp nặng và thương tổn các tạng bên trong lồng ngực, đặc biệt là tim.
1.3.1.4. Vỡ ( thủng) cơ hoành:
Thủng cơ hoành hay gặp trong vết thương vùng ngực dưới (thường từ
khoang liên sườn 5 đường nách giữa trở xuống), gây vết thương ngực bụng.
Có thể gặp vết thương vùng bụng xuyên lên ngực qua cơ hoành.
Vỡ cơ hoành hay gặp trong chấn thương do đè ép hoặc ngã cao. Bên
trái hay gặp hơn phải. Nếu vỡ bên trái, các tạng trong bụng và dịch tiêu hoá
thường chuy qua chỗ vỡ lên khoang màng phỏi gây thoát vị hoành và nhiễm
trùng khoang màng phổi. Nếu vỡ bên phải thường kèm theo tổn thương gan,
máu bị hút lên khoang màng phổi gây tràn máu màng phổi dữ dội.
1.3.2. Thương tổn ở khoang màng phổi:
Tuy có cấu trúc giải phẫu đơn giản, song biểu hiện ở khoang màng phổi
là hậu quả thường gặp của hầu hết các thương tổn ở thành ngực hoặc các tạng
trong lồng ngực và chính biểu hiện này tạo ra nhiều triệu chứng, hội chứng
trên lâm sàng, đồng thời quyết định thái độ điều trị.
11
1.3.2.1. Tràn khí màng phổi:
Do không khí tràn vào, làm mất áp lực âm tính trong khoang màng phổi,
nên nhu mô phổi bị co rúm lại, các khoang liên sườn dãn rộng ra và đẩy trung
thất sang bên đối diện. Không khí có thể vào khoang màng phổi từ 2 nguồn:
+ Ngoài vào: qua vết thương ngực.
+ Trong ra: do rách nhu mô phổi (phế nang, phế quản…)
Trong chấn thương ngực, nếu có thương tổn thành ngực gây rách lá
thành màng phổi, thì không khí từ khoang màng phổi có thể chui ra nằm dưới
da, hình thành tràn khí dưới da.
Có dạng thương tổn nặng là tràn khí dưới áp lực (do có van ở thành ngực, ở
chỗ vỡ phế quản lớn), làm không khí vào khoang màng phổi theo 1 chiều mà
không thoát ra được, gây chèn ép rất nặng nề vào phổi và trung thất.
1.3.2.2. Tràn máu màng phổi:
Máu chảy vào khoang màng phổi sẽ chèn ép, làm mất áp lực âm, làm phổi
co lại và đè đầy trung thất. Máu vào khoang màng phổi từ nhiều nguồn:
+ Thành ngực: từ xương sườn gãy, cơ, động mạch liên sườn…
+ Nội tạng: từ phổi, tim, các mạch máu lớn…
Khi lượng máu chiếm trên 10% dung tích khoang màng phổi – tương
đương trên X quang thấy lấp kín góc sườn hoành, thì mới biểu hiện triệu
chứng lâm sàng:
Máu trong khoang màng phổi không đông, thường là nước máu đen.
Khi bị chảy máu nhiều và cấp tính (tổn thương mạch máu) thì có cả nước máu
lẫn cục máu đông.
1.3.2.3. Tràn máu - tràn khí màng phổi:
Là thương tổn thường gặp nhất trong chấn thương, vết thương ngực. Về
mặt giải phẫu bệnh là sự phối hợp của cả 2 thương tổn nêu trên.
12
1.3.3. Thương tổn ở các tạng:
1.3.3.1. Rách phế nang hoặc phế quản nhỏ (nhu mô phổi ngoại vi):
Gây tràn máu – tràn khí vào khoang màng phổi.
1.3.3.2. Rách khí quản, phế quản lớn:
- Gây tràn khí màng phổi nhiều, dễ gặp thể tràn khí dưới áp lực.
- Tràn khí dưới da vùng cổ – mặt – ngực nếu thương tổn khí quản.
- Có thể gặp tràn khí vào trung thất.
- Máu chảy từ thương tổn vào trong lòng khí – phế quản gây ho khạc
máu sớm trên lâm sàng.
1.3.3.3. Tụ máu ( đụng dập ) phổi:
Ít gặp, chủ yếu trong chấn thương do ngã cao. Nhu mô phổi bị rách và
dập từng mảng, chảy máu trong nhu mô phổi nguy cơ gây xẹp phổi nặng nề
về sau, rất khó điều trị.
1.3.3.4. Xẹp phổi:
- Co rúm nhu mô phổi: sau khi chấn thương, do tràn máu – khí gây mất áp
lực âm trong khoang màng phổi, làm phổi bị co rúm lại như đã mô tả ở trên.
- Xẹp phổi:
+ Là hiện tượng tắc các phế quản làm phổi xẹp, nguyên nhân chủ yếu
gây tắc phế quản là sự tăng tiết đờm dãi (do giảm thông khí phổi, co rúm nhu
mô) và đụng dập – chảy máu vào trong lòng các phế quản do chấn thương.
+ Do tắc các phế quản nên nhu mô phổi không nở lại được mặc dù điều
trị trả lại áp lực âm khoang màng phổi. Như vậy, đây là hậu quả thứ phát sau
các thương tổn khác, đặt ra rất nhiều vấn đề trong săn sóc bệnh nhân sau chấn
thương ngực.
+ Khác với biểu hiện “đè đẩy” trên lâm sàng và X quang của tràn máu –
khí màng phổi gây co rúm nhu mô, ảnh hưởng của xẹp phổi lại là biểu hiện
“co kéo” như: ngực xẹp, kéo trung thất về bên thương tổn, kéo cơ hoành lên
cao, xẹp khoang liên sườn…
13
1.3.3.5. Tim và màng tim
- Trong vết thương tim:
+ Rách màng tim và tim do vật nhọn đâm.
+ Hay gặp khi vết thương nằm ở vùng tam giác nguy hiểm của tim
(đỉnh là núm vú trái, đáy là xương ức).
+ Hậu quả:
o Chảy máu ra ngoài hay vào khoang màng phổi, thường gây tử vong
do mất máu, rất ít gặp trên lâm sàng. Thường nguyên nhân là dị vật lớn gây
vết thương rộng.
o Chảy máu vào khoang màng tim, máu đông, tăng áp lực khoang
màng tim bịt kín tạm thời vết thương, ít mất máu nhưng gây chèn ép tim cấp
tính. Đây là thể gặp chủ yếu trên lâm sàng.
- Trong chấn thương ngực (chấn thương tim):
+ Tổn thương có thể đi từ rất nhẹ là tụ máu màng ngoài tim đến rách vỡ
các buồng tim, các cấu trúc trong tim, và nặng nhất là đứt rời cuống tim.
+ Tỉ lệ tử vong rất cao, hầu hết chỉ có loại thương tổn vỡ 1 buồng tim
gây chảy máu và chèn ép tim cấp là có thể gặp trên lâm sàng.
+ Thường do chấn thương vào vùng xương ức và sụn sườn.
1.3.3.6. Quai động mạch chủ:
Hay gặp trong chấn thương kín do tai nạn ô tô, thường gây rách co động
mạch chủ. Máu chảy ra ngoài thường gây tụ máu trung thất, ứ máu phía trên,
thiếu máu phía dưới.
1.3.3.7. Thực quản:
Vỡ thực quản là tổn thương hiếm gặp, do thực quản là tạng nằm ở sâu
và được các tạng khác bao quanh. Thực quản cổ là đoạn thực quản thường bị
tổn thương do chấn thương nhất.
14
Trong chấn thương vùng ngực, bụng, vỡ thực quản thường là hậu quả
của một cú thúc mạnh vào vùng thượng vị. Trong trường hợp này, tổn thương
thường ở 1/3 dưới thực quản và có thể ở trên hay dưới cơ hoành. Tổn thương
phối hợp cũng thường gặp.
1.4. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG CHUNG TRONG CHẤN THƯƠNG,
VẾT THƯƠNG NGỰC: [1], [6], [9], [10], [13], [15], [25]
1.4.1. Triệu chứng cơ năng:
+ Đau ngực: thường xuất hiện ngay sau bị thương với nhiều mức độ
khác nhau, đau có tính chất liên tục và tăng dần theo thời gian.
+ Khó thở: xuất hiện ngay sau khi bị thương với các thể nặng , hoặc
muộn hơn với các thể nhẹ. Cũng có tính chất liên tục và tăng dần.
+ Ho khạc ra máu sớm: đây là triệu chứng ít gặp nhưng có giá trị chẩn
đoán cao. Xuất hiện ngay từ những giờ đầu sau khi bị thương và chỉ gặp trong
trường hợp bị thương vào khí quản hoặc phế quản gốc hoặc nhu mô phổi bị
đụng dập rất nặng ( hiếm gặp).
1.4.2. Triệu chứng thực thể:
1.4.2.1. Triệu chứng toàn thân:
- Triệu chứng toàn thân chủ yếu bao gồm các dấu hiệu về toàn trạng như:
mạch, huyết áp, nhiệt độ, màu sắc da và niêm mạc….
- Các triệu chứng toàn thân có thể thay đổi tuỳ theo từng thể bệnh của chấn
thương, vết thương ngực:
+ Thể thông thường: mạch thường nhanh. Huyết áp còn bình thường.
Màu sắc da và niêm mạc hơi nhợt và tím nhẹ.
+ Thể có mất máu nhiều: mạch nhanh. Huyết áp có thể còn bình thường
hay tụt. Màu sắc da và niêm mạc nhợt rõ. Chân tay lạnh, có thể vã mồ hôi ở
mặt, trán, ngực, khi có sốc mất máu nặng.
15
+ Thể suy hô hấp nặng: mạch nhanh. Huyết áp có thể tụt ở giai đoạn
muộn. Màu sắc da và niêm mạc tím rõ. Có thể phổi hợp với các dấu hiệu của
thể mất máu nhiều.
+ Thể có hội chứng chèn ép tim cấp tính: mạch nhanh, mất mạch ngoại
vỉ khi hít sâu. Huyết áp động mạch bị tụt và kẹt. Áp lực tĩnh mạch trung ương
tăng cao ( >15cmH
2
O). Tĩnh mạch cổ nổi, gan to, phản hồi gan – tĩnh mạch cổ
dương tính. Có thể phối hợp với các dấu hiệu của thể mất máu nhiều hay suy
hô hấp nặng.
- Ngoài ra, khám toàn thân còn cho phép phát hiện đánh giá các thương tổn
phối hợp, trong đó có những thương tổn nặng tạo nên bệnh cảnh đa chấn thương
như: chấn thương sọ não, chấn thương vết thương bụng, chấn thương thận, vỡ
xương chậu và các biến chứng, gãy xương đùi, gãy cột sống…
1.4.2.2. Triệu chứng tại bộ máy hô hấp:
-Nhìn:
-Biến dạng lồng ngực: ngực bên thương tổn có thể phồng lên (tràn khí
màng phổi), xẹp xuống (tràn máu màng phổi), và giảm biên độ hô hấp so với
bên lành.
-Phập phồng cánh mũi, co kéo các cơ hô hấp ở cổ – ngực khi thở, rõ khi
có suy hô hấp nặng.
-Trong vết thương ngực:
+ Có vết thương trên thành ngực: tuy trên nguyên tắc lỗ vào của vết
thương có thể từ nơi khác (bụng, cổ…) nhưng hầu hết (trên 95%) lỗ vào đều
nằm trên thành ngực. Qua vết thương có 2 khả năng:
• Thấy phì phò máu – khí qua vết thương: ít gặp do phần lớn nạn nhân
được sơ cứu sau khi bị thương. Nhưng nếu có thì đây là dấu hiệu khẳng định
chắc chắn ngay trên lâm sàng là vết thương ngực.
• Thường không còn thấy phì phò máu – khí nữa, do vết thương đã
16
được sơ cứu bằng băng ép, khâu kín….
+ Xác định vị trí vết thương: có vai trò rất quan trọng trong định hướng
thăm khám và chẩn đoán. Ví dụ như vết thương ở vùng tam giác nguy hiểm
của tim nguy cơ bị vết thương tim cao, hay vết thương từ khoang liên sườn 5
đường nách giữa trở xuống nguy cơ bị vết thương ngực – bụng…
- Trong chấn thương ngực:
• Vùng xây xát da, tụ máu trên thành ngực: thường gặp, gợi ý có chấn
thương ngực. Đánh giá vị trí, độ lớn của vùng xây xát da này có vai trò định
hướng trong thăm khám và chẩn đoán, ví dụ như ở vùng trước xương ức dễ có
chấn thương ngực 2 bên và chấn thương tim; ở phần thấp thành ngực bên trái dễ
kèm vỡ lách, hay bên phải dễ vỡ gan.
• Vùng hô hấp đảo ngược của mảng sườn di động: thường xuất hiện
ngay trên vùng xây xát – tụ máu thành ngực. Cụ thể thấy ở thì hít vào, trong
khi lồng ngực phồng lên thì vùng mảng sườn lại thụt vào và ngược lại, ở thì
thở ra, trong khi lồng ngực xẹp xuống thì vùng mảng sườn lại phồng lên.
- Sờ:
• Thở: thường nhanh nông, tần số > 25 lần / phút khi có suy hô hấp.
• Dấu hiệu đau chói của ổ gãy xương sườn.
• Tràn khí dưới da quanh vùng bị thương: rất có ý nghĩa vì giúp khẳng
định trên lâm sàng là có chấn thương ngực (hầu hết có gãy xương sườn, rách
phổi, tràn máu – tràn khí màng phổi)
- Gõ:
• Vang hơn ở vùng cao khi có tràn khí màng phổi.
• Đục hơn ở vùng thấp khi có tràn máu màng phổi hay xẹp phổi.
- Nghe:
• Rì rào phế nang phổi: giảm hoặc mất ở bên thương tổn.
• Tim: tiếng tim mờ trong hội chứng chèn ép tim.
17
1.5. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH TRONG
CHẤN THƯƠNG NGỰC
Sau khi Roentgen phát minh tia X năm 1985 thì đồng nghĩa với sự ra
đời của hình ảnh học và nó được ứng dụng vào thăm khác hầu hết các bộ phận
trong cơ thể trong đó có đánh giá về lồng ngực.
Năm 1971 Hounsfield và Ambrose (Anh) cho ra đời chiếc máy chụp cắt
lớp vi tính đầu tiên, đã đánh dấu một bước tiến mới trong chẩn đoán, điều trị
và nghiên cứu khoa học y học [5].
Siêu âm cũng là một trong những tiến bộ kỹ thuật của những năm 1970
về chẩn đoán hình ảnh và đóng góp vai trò quan trọng trong chẩn đoán chấn
thương trong đó có CTN.
Ngoài ra còn có cộng hưởng từ, chụp xạ hình phổi và chụp mạch máu
cũng là các phương pháp chẩn đoán hình ảnh áp dụng trong CTN.
Mỗi phương pháp có ưu, nhược điểm khác nhau trong đánh giá CTN,
do đó sử dụng mỗi phương pháp còn phụ thuộc vào thể chấn thương và tình
trạng lâm sàng của bệnh nhân.
1.5.1. Chụp X quang lồng ngực [5], [6], [11], [19], [25], [26], [30], [4].
Chụp X quang lồng ngực là thăm khám hình ảnh đầu tiên thường được
sử dụng trong chấn thương ngực có thể cung cấp các thông tin sau:
1.5.1.1. Thành ngực và hai vòm hoành:
+ Hình tràn khí dưới da thành ngực: tạo thành các vệt sáng nằm giữa
khung xương sườn và da, nằm ở thành ngực và có xu hướng lan lên nền cổ
cùng bên hoặc hai bên.
+ Hình gãy xương sườn: vị trí, hình thái, di lệch
+ Góc sườn - hoành: mờ và mất góc nhọn trong tràn máu màng phổi.
+ Vòm hoành: trong chấn thương ngực có rách cơ hoành, vòm hoành
mất độ cong sinh lý và có hình các tạng trong ổ bụng thoát vị qua vết rách cơ
18
hoành lên lồng ngực (bóng hơi dạ dày hoặc các bóng có mức hơi-mức nước
nhỏ của các quai ruột nằm trên lồng ngực).
1.5.1.2. Khoang màng phổi:
+ Tràn khí khoang màng phổi: có hình tăng sáng của khí nằm giữa
thành ngực và nhu mô phổi bị ép thu về phía rốn phổi. Có thể chia ra ba mức
độ tràn khí khoang màng phổi:
- Nhẹ: phổi bị ép vào trong phạm vi 1/3 ngoài của phế trường.
- Vừa: phổi bị ép vào tới phạm vi của 1/3 giữa phế trường.
- Nặng: phổi bị ép hoàn toàn vào phạm vi 1/3 trong cùng của phế trường.
+ Tràn dịch - máu khoang màng phổi: có hình mờ góc sườn - hoành và
phần dưới của trường phổi, giới hạn trên của vùng mờ làm thành một đường
cong lõm lên trên và vào trong phía rốn phổi (đường cong Damoiseau). Có thể
chia ra ba mức độ tràn dịch màng phổi:
- Nhẹ: mờ hoặc tù góc sườn - hoành.
- Vừa: mờ hết vòm hoành nhưng giới hạn trên của hình mờ do tràn dịch
(đường cong Damoiseau) chưa vượt quá góc dưới xương bả vai.
- Nặng: giới hạn trên của hình mờ do tràn dịch đã vượt quá góc dưới
xương bả vai.
+ Kết hợp tràn dịch và tràn khí khoang màng phổi: có hình tràn khí
màng phổi ở phía trên và hình tràn dịch màng phổi ở phía dưới phế trường.
Ranh giới giữa hai vùng tràn khí và tràn dịch thường là một mức ngang.
Hình 1.2. Các mức độ tràn máu khoang màng phổi [5], [10]
19
1.5.1.3. Nhu mô phổi:
+ Hình rốn phổi đậm và các đốm mờ không đều trong nhu mô phổi do
tăng tiết, ứ trệ đường thở và xung huyết trong nhu mô phổi.
+ Hình xẹp phổi: đám mờ hình tam giác có đỉnh ở rốn phổi và đáy ở
phía ngoại vi trường phổi. Gặp trong xẹp phổi do đường thở bị tắc vì ứ trệ các
chất xuất tiết hoặc máu.
+ Hình phổi bị ép về phía rốn phổi trong tràn khí màng phổi.
1.5.1.4. Trung thất:
+ Hình trung thất bị chèn đẩy sang bên lành trong tràn dịch hay tràn khí
khoang màng phổi.
+ Hình tràn khí trung thất: có hình hai dải tăng sáng nằm dọc hai bên
trung thất trên phim chụp ngực thẳng. Trên phim chụp nghiêng có thể thấy rõ
các cột khí chạy dọc giữa các cơ quan trong trung thất.
1.5.1.5. Tim
+ Có thể bị chèn đẩy sang bên lành (cùng trung thất) trong tràn dịch
tràn khí khoang màng phổi.
+ Hình bóng tim to ra, mất các cung tim thông thường trong tràn máu
màng ngoài tim.
1.5.2. Siêu âm trong CTN
Trước đây, người ta nghĩ rằng siêu âm mà không thể được sử dụng
trong đánh giá ngực. Cơ quan chính của ngực là phổi chứa đầy không khí mà
nó không phải là một chất dẫn siêu âm tốt. Bên cạnh đó, các xương sườn cản
trở đường vào của siêu âm. Tuy nhiên, siêu âm đã trở thành một phương pháp
quan trọng trong việc đánh giá bất thường của ngực, như tổ chức đặc hoặc
dịch nằm giữa thành ngực và phổi, cho phép truyền sóng âm dễ dàng, làm cho
siêu âm có thể sử dụng được rộng rãi trong chẩn đoán một số bệnh lý của phổi .
Siêu âm trong CTN giúp phát hiện các trường hợp tụ máu thành ngực,
tràn dịch màng tim, tràn dịch màng phổi, tràn khí màng phổi hoặc kết hợp cả
20
tràn khí – tràn dịch, đụng dập nhu mô phổi …. do các thương tổn của chấn
thương vùng ngực gây ra. Ngoài ra còn kết hợp và phát hiện các tổn thương
do chấn thương các cơ quan vùng bụng. Kỹ thuật siêu âm tiếp cận phổi bằng
cả hai đường là khoang liên sườn và các đường nách giữa, nách sau.
1.5.3. Chụp cắt lớp vi tính
Là phương pháp chẩn đoán hình ảnh có thể đánh giá đánh giá toàn bộ
các thể CTN. Thăm khám được tiến hành với các lớp cắt 10mm từ nền cổ đến
hết túi cùng khoang màng phổi hai bên. Những tổn thương ở thành ngực,
màng phổi và phổi có thể không tiêm thuốc cản quang, với những tổn thương
ở trung thất và hệ tuần hoàn thì chụp với lớp cắt mỏng hơn, chụp xoắn ốc và
tiêm thuốc cản quang [25],[30],[4].
1.5.3.1. Thành ngực:
- Hình ảnh tổn thương gãy các xương sườn trên của sổ xương. Có thể
đánh giá vị trí, số thứ tự xương sườn bị gãy trên hình ảnh dựng 3D.
- Hình ảnh tràn khí dưới da được đánh giá tốt khi thấy hình ảnh tỷ trọng
khí nằm giữa da và cơ thành ngực
- Tụ máu thành ngực: Hình ảnh tổn thương tăng tỷ trọng đều hoặc
không đều, ranh giới rõ ở vị trí chấn thương, khi tiêm thuốc cản quang tổn
thương không bắt thuốc cản quang.
1.5.3.2. Tràn khí khoang màng phổi:
- Hình ảnh khí trong khoang màng phổi thể hiện bằng tỷ trọng khí nằm
giữa lá thành và lá tạng màng phổi.
- Nhu mô phổi co lại rốn phổi
- Hình ảnh lá tạng màng phổi.
1.5.3.3. Tràn dịch, máu cục khoang màng phổi:
- Nằm ở phần thấp ( phía lưng) khi bệnh nhân nằm ngửa.
- Hình ảnh tỷ trọng dịch máu hoặc khối tăng tỷ trọng (tỷ trọng máu cục)
nằm trong khoang màng phổi.
- Đè đẩy nhu mô phổi về phía rốn phổi.
21
1.5.3.4. Đụng dập nhu mô phổi:
-Hình ảnh tổn thương đám mờ không đồng đều do các phế nang chứa
khí xen kẽ các phế nang phế quản chứa dịch máu, ranh giới thường không rõ
trong nhu mô phổi tương ứng với vị trí chấn thương.
-Thường kèm theo tràn dịch khoang màng phổi.
1.5.3.5. Tràn dịch màng ngoài tim:
- Hình ảnh tỷ trọng dịch nằm giữa màng ngoài tim.
- Khi có tiêm thuốc cản quang, hình ảnh dịch không ngấm thuốc cản quang.
- Đánh giá có hình ảnh thoát thuốc từ các buồng tim vào khoang màng
ngoài tim trong chấn thương thủng cơ tim.
1.5.3.6. Tổn thương mạch máu lớn:
- Tổn thương được đánh giá khi có hình ảnh thoát thuốc cản quang ra
khoang màng phổi hoặc trung thất. Hoặc các tổn thương giả phình động mạch.
1.5.3.7. Tổn thương thực quản và khí phế quản:
- Mất liên tục của thực quản hoặc khí phế quản.
- Hình ảnh tỷ trọng khí trong trung thất.
1.5.3.8. Vỡ cơ hoành:
- Mất liên tục cơ hoành.
- Tổn thương đụng dập nhu mô phổi vùng đáy phổi.
- Thoát vị các tạng trong ổ bụng vào lồng ngực.
1.5.4. Chụp cộng hưởng từ:
- Ít được sử dụng trong đánh giá CTN vì bệnh nhân thường nặng, đa
chấn thương cần cấp cứu ngay, thời gian khám xét kéo dài, khó theo dõi bệnh
nhân, đồng thời đây là xét nghiệp tương đối đắt tiền.
- Có giá trị cao trong đánh giá các tổn thương tim, mạch máu và các
22
thành phần trong trung thất với các lớp cắt theo mặt phẳng đứng dọc, theo mặt
phẳng chính diện và mặt phẳng chếch.
1.5.5. Chụp xạ hình phổi
Hầu như không được áp dụng trong chẩn đoán cấp cứu chấn thương
ngực do khám xét mất nhiều thời gian, bệnh nhân chịu 1 liều phóng xạ lớn,
giá thành cao cho một lần xét nghiệm. Lượng thông tin cung cấp ít, chủ yếu
đánh giá các tổn thương cơ tim hoặc đánh giá các tổn thương xương sườn
trên hình ảnh X quang không có mà bệnh nhân có triệu chứng đau [18].
Ở nước ta hiện chưa áp dụng phương pháp này cho thăm khám chấn
thương ngực.
1.5.6. Chụp mạch máu:
Là phương pháp can thiệp nội mạch theo phương pháp Seldinger với
ống thông luồn vào động mạch từ động mạch đùi, đánh giá các tổn thương ở
mạch máu phổi và động mạch chủ như vỡ động mạch, giả phình động mạch. Với
phương pháp này có thể vừa chẩn đoán vừa điều trị cho bệnh nhân [34].
Ở nước ta hiện ít áp dụng phương pháp này cho thăm khám chấn
thương ngực.
1.6. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ CTN [13], [10], [9], [11], [32]
1.6.1.Sơ cứu sau khi bị thương:
- Làm thông thoáng đường hô hấp, thở ôxy.
- Hồi sức, truyền dịch nếu có sốc mất máu.
- Kháng sinh, giảm đau (họ Paracétamol), phòng uốn ván nếu có xây xát.
- Sớm chuyển vào phòng mổ hay chuyển đến cơ sở có khả năng điều trị thực thụ.
- Riêng đối với thể có tràn khí rất nhiều (ngực căng phồng, tràn khí dưới da
nhiều, suy hô hấp rất nặng) => cần chọc kim vào khoang màng phổi + tổ chức
dưới da để giảm áp => chuyển ngay đi mổ.
23
- Nhanh chóng bịt kín VTNH : thường bịt dễ dàng bằng băng ép với 1 lớp gạc
dầy. Nếu VT lớn có thể phải khâu da tạm thời (nếu có điều kiện). Nút Depage
chỉ dành cho VT rất lớn.
1.6.2.Điều trị phẫu thuật: chủ yếu là dẫn lưu tối thiểu khoang màng phổi.
- Vô cảm: thường gây tê tại chỗ.
- Phẫu thuật:
+ Dẫn lưu màng phổi tối thiểu qua khoang liên sườn 5 - nách giữa, trường
hợp tràn khí >>> tràn máu, có thể đặt thêm 1 dẫn lưu khí qua khoang liên
sườn 2 - giữa đòn.
+ Hầu hết không cần can thiệp gì trên các ổ gãy xương sườn.
Xét chỉ định mở ngực:
Nếu dẫn lưu ra ngay > 1500 ml máu /thời gian từ khi bị thương tới khi mổ
< 6 giờ, hoặc theo dõi sau dẫn lưu thấy ra > 200 ml /giờ x 3 giờ liền mới
xét chỉ định mở ngực (cần cân nhắc kĩ, tham khảo ý kiến chuyên khoa) để cầm
máu các tổn thương mạch lớn ở thành ngực và nhu mô phổi.
Nếu dẫn lưu ra khí nhiều - Phổi không nở - Huyết động không cải thiện
(SaO
2
thấp) mới xét chỉ định mở ngực khâu các chỗ rách phổi - phế quản
quá lớn.
Đường mở ngực thường đi qua khoang liên sườn 5.
1.6.3. Điều trị sau mổ :
- Săn sóc dẫn lưu màng phổi, cố gắng rút vào 48 - 72 giờ sau mổ, nếu tràn khí
nhiều thì có thể để lâu hơn, tới 5 - 7 ngày.
- Hướng dẫn bệnh nhân tập lí liệu pháp sớm ngay sau mổ, lưu ý không dùng
biện pháp thổi bóng nếu còn tràn khí nhiều.
- Kháng sinh, giảm đau, ho long đờm, giảm viêm.
- Ăn uống nâng cao thể trạng. Bù máu nếu thiếu.
- Theo dõi biến chứng :
24
+ Nhiễm trùng vết mổ: Cắt chỉ da sớm, thay băng, kháng sinh theo KSĐ.
+ Xẹp phổi: tích cực làm lí liệu pháp.
- Tiên lượng : nhìn chung khá tốt nếu điều trị đúng và tích cực. Vì đau ngực
do gãy xương sườn còn kéo dài tới cả tháng Việc cho giảm đau, giảm viêm
và tập lí liệu pháp cần kéo dài nhiều tuần sau mổ.
1.7. SIÊU ÂM CÁC TỔN THƯƠNG TRONG CTN
Trong CTN tổn thương chủ yếu là tổn thương ở màng phổi và phổi như
tràn máu khoang màng phổi, tràn khí khoang màng phổi, đụng dập nhu mô
phổi…., tổn thương các xương vùng ngực khó đánh giá cụ thể bằng siêu âm. Các
tổn thương khác như tổn thương tim, tổn thương mạch máu lớn, khí quản, thực
quản … cần kết hợp các phương pháp thăm khám chẩn đoán hình ảnh khác.
1.7.1. Các dấu hiệu siêu âm bình thường [1], [16], [20], [26], [31].
1.7.1.1. Siêu âm thời gian thực:
- Dấu hiệu trượt màng phổi (sliding sign): trên siêu âm thời gian thực
với cử động hô hấp bình thường ta có thể thấy lá thành và lá tạng trượt lên
nhau. Dấu hiệu này sẽ mất đi khi có tràn khí màng phổi.
A B
Hình 1.3. Dấu hiệu trượt màng phổi
A: Sliding sign với đầu dò 5 MHz. B: Sliding sign với đầu dò 12MHz. S:
Bóng cản của xương sườn
1.7.1.2. Siêu âm 2D:
25