Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

đánh giá sự chấp nhận của phụ nữ với các biện pháp tránh thai tại huyện mê linh - hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.8 KB, 88 trang )

Lời cảm ơn
Trong quá trình học tập và hoàn thành luân văn này tôi đã nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ của thầy cô, bạn bè đồng nghiệp cùng các cơ quan.
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn:
Đảng ủy, Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau đại học, Bộ môn Phụ Sản
Trường Đại học Y Hà Nội.
Đảng ủy, Ban giám đốc Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương.
Chi ủy, chi bộ, Ban giám đốc Bệnh viện Đa Khoa Huyện Mê Linh nơi
tôi công tác.
Ban giám đốc Trung tâm dân số kế hoạch hóa gia đình huyện Mê Linh
và đội ngũ cán bộ và cộng tác viên dân số các xã nơi tôi thực hiện đề tài.
Đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn tới:
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Minh, Bộ môn Phụ sản Trường Đại học Y Hà
Nội, người thầy đã dìu dắt, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn tới các thầy cô giáo và các nhà khoa học trong hội đồng
thông qua đề cương và bảo vệ luận văn đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho
tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả người than trong gia đình,
bạn bè và đồng nghiêp đã động viên, chia sẻ những khó khăn với tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà nội, ngày…tháng …năm 2012
Bùi Đức Tiệp
1
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đề tài “Đánh giá sự chấp nhận của phụ nữ với các
biện pháp tránh thai tại huyện Mê Linh năm 2009” là đề tài do bản than
tôi thực hiện.
Các số liệu trong bản luận văn là hoàn toàn trung thực, chưa từng được


công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu nào khác.
Bùi Đức Tiệp
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo thống kê mới nhất của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) dân số thế
giới đến nay đã lên tới 7 tỷ người, dân số nước ta theo kết quả thống kê năm
2009 là 85.846.997 người và cho đến nay dân số nước ta đứng hàng thứ 13
trên thế giới, xấp xỉ 86.92 triệu người, mật độ dân số 263 người / km2. Dân số
Việt Nam tiếp tục tăng, với mức tăng 1 triệu người/năm, tương đương với
dân số trung bình của một tỉnh, trong đó Hà Nội chiếm 6.561.900 người, mật
độ dân số 1962 người/ km2 [7]. Mặc dù, trong những năm qua chương trình
CSSKBMTE-KHHGĐ tại Việt Nam có nhiều thành tựu đáng kể, tỷ lệ sử dụng
các biện pháp tránh thai hiện đại tăng theo hàng năm nhưng tiềm ẩn những nguy
cơ thiếu bền vững tình trạng các cặp vợ chồng mang thai ngoài ý muốn và nạo
phá thai vẫn còn cao, tỷ lệ phụ nữ trong tuổi sinh sản từ 15-49 tuổi hiện có chồng
nạo phá thai tối thiểu 1 lần là 94,2%, tỷ lệ phụ nữ này bị biến chứng sau nạo phá
thai là 8,4% [7], [8].
Theo GS.TS Nguyễn Đình Cử - Viện trưởng Viện dân số và các vấn đề
xã hội, Việt Nam đang phải đối diện với một thách thức bởi sự biến đổi dữ
dội về cơ cấu dân số. Với tỉ lệ dân số trong độ tuổi trong độ tuổi lao động
chiếm tỉ lệ 63%[9], số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tiếp tục tăng khá nhanh và
sẽ đạt mức cực đại vào những năm 2020 – 2025, vì vậy, dù đã đạt mức sinh
thay thế nhưng dân số nước ta vẫn cứ tiếp tục tăng trong khoảng 30 năm nữa
theo “đà tăng dân số” của quy luật nhân khẩu học. Vấn đề này dẫn đến những
thách thức về việc đảm bảo các phương tiện và dịch vụ tránh thai [9].
Nhằm giảm tỷ lệ tăng dân số, chương trình DS-KHHGĐ đã đẩy mạnh
nhằm giảm tỷ lệ sinh trung bình của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ xuống còn
2,1% trong những năm gần đây. Đáp ứng với mục tiêu đó, ngành y tế và các
cơ quan chức năng có liên quan thường xuyên vận động và cung cấp các dịch
vụ về KHHGĐ cho các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ ở tất cả các địa

phương trên cả nước. Với mục tiêu quan trọng nhất là nghiên cứu các biện
pháp tránh thai hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam là đa dạng hóa các
3
biện pháp tránh thai nhằm đáp ứng sự lựa chọn cho người sử dụng. Hiện nay
đã có rất nhiều biện pháp tránh thai đang được sử dụng, được xếp thành hai
nhóm chính: Các biện pháp tránh thai không dùng thuốc và các biện pháp
tránh thai có dùng thuốc có hormon. Dụng cụ tử cung (DCTC) tránh thai là
một trong những phương pháp tránh thai tạm thời, thường được dùng rộng rãi
ở những nước đang phát triển vì đơn giản, rẻ tiền và hiệu quả, bên cạnh đó
còn có các biện pháp tránh thai bằng thuốc và các biện pháp tránh thai hiện
đại khác. Ở Việt Nam, dạng DCTC Multiload và TCu 380 đang được sử
dụng rộng rãi. Gần đây, sản phẩm DCTC mang tên Mirena (dụng cụ tử cung
có chứa nội tiết) đã xuất hiện trên thị trường.
Huyện Mê Linh là huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội có trên 94%
phụ nữ biết ít nhất một biện pháp tránh thai, tỷ lệ áp dụng biện pháp tránh thai
là 87%, 76% trong số này áp dụng các BPTT hiện đại [10], tuy nhiên sự phát
triển này không đồng đều giữa các vùng và điều thật nghịch lý khi số trường
hợp thai ngoài ý muốn và nạo phá thai còn cao. Vấn đề này cho thấy sự khác
nhau giữa hiểu biết các BPTT và chấp nhận áp dụng các BPTT trong thực tế,
giữa tính thuận tiện và việc sử dụng các biện pháp tránh thai có hiệu quả ở
huyện Mê Linh, vẫn còn một số phụ nữ không áp dụng biện pháp tránh thai,
hoặc sử dụng biện pháp tránh thai không hiệu quả, không liên tục. Vấn đề nào
ảnh hưởng đến việc áp dụng các BPTT đối với phụ nữ trong tuổi sinh sản có
gia đình có nhu cầu tránh thai tại Mê Linh
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá sự chấp nhận của
phụ nữ với các biện pháp tránh thai tại huyện Mê Linh - Hà Nội”
Với hai mục tiêu nghiên cứu:
1. Xác định tỷ lệ phụ nữ áp dụng biện pháp tránh thai tại huyện Mê Linh.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan có ảnh hưởng đến việc chấp nhận
biện pháp tránh thai khi sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại.

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
4
1.1 Tình hình sử dụng và lựa chọn các biện pháp tránh thai trên thế giới
và Việt Nam.
* Theo số liệu của UBDSQG, năm 2002[31], Trên thế giới, số phụ nữ có
chồng sử dụng BPTT để thực hiện KHHGĐ chiếm tỷ lệ 61%, trong đó:
- Các nước đã phát triển: 69 %
- Các nước đang phát triển: 59 %
- Châu á: 64 %
Việt Nam là nước có tỷ lệ đứng đầu trong khu vực Đông Nam á với tỷ lệ
75%. Sau đó là Singapore 74%, Thái Lan 72%, Malaysia 55% và sau cùng là
Campuchia chỉ có 24%[31].
* Theo số liệu của WHO năm 2003[32] về tình hình sử dụng các biện
pháp tránh thai của phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ ( từ 15 tuổi – 49 tuổi) trong khu
vực Châu Á -Thái Bình Dương là:
Bảng 1.1. Tình hình sử dụng các biện pháp tránh thai của phụ nữ ở tuổi
sinh đẻ (15-49 tuổi) trong khu vực châu á Thái Bình Dương[32]
Tên nước CPR(%) 2000 CPR 9%) 2004
Australia 76,0 82,9
Cambodia 16,1 19,0
China 83,0 84,0
Japan 59,0 59,0
Lao PDR 19,0 28,8
Malaysia - -
Philippines 28,0 33,4
Republic of Korea 80,5 79,3
Singapore 62,0 72,5
Viet Nam 75,82 76,9
- Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai ở phụ nữ Việt Nam năm 2000 là

75,82% và năm 2004 là 76,9%[32]
- Trung quốc năm 2000 là 83,0%, năm 2004 là 84,0%
- Thấp nhất là Campuchia, chỉ có 16,1% vào năm 2000 và 19,0% năm 2004.
* Cũng theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO)[38], [40] về việc
áp dụng các biện pháp tránh thai ở các nước trong khu vực Châu á- Thái Bình
Dương, tỷ lệ cũng rất khác nhau.
5
Bảng 1.2. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai ở các nước khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương
Tên nước
Tỷ lệ

chung
Các phương pháp tránh thai
Triệt sản
nam-nữ
Viên Tiêm DCTC BCS P.P
khác
Cambodia 16,1 25,4 27,8 6,9 13,8 4,4 21,7
China 83,0 53,7 1,5 0,8 39,6 0,8 2,8
Cook Island 53,0 17,9 35,8 32,9 5,2 3,8 11,1
Fiji 40,45 44,7 22,0 5,0 13,2 15,8 -
Lao PDR 19,0 20,3 32,8 8,5 12,2 0,9 25,0
Korea (S) 80,5 49,3 3,0 3,2 13,3 17,5 13,6
Mongolia 43,0 34,5 18,9 4,6 16,7 10,3 15,4
Papua New Guinea 5,0 25,2 27,8 7,0 13,7 4,4 21,7
Philipines 28,0 22,9 20,1 4,8 8,3 3,8 40,1
Singgapore 62,0 26,0 13,2 2,7 14,7 26,3 16,7
Vietnam 75,8 8,9 6,8 0,6 51,6 8,1 23,9
Tỷ lệ dùng thuốc tránh thai có hormon ở Lào là cao nhất (thuốc uống

32,8%, thuốc tiêm 8,5%). Tiếp đến là Campuchia (thuốc uống 27,8%, thuốc
tiêm 6,9%). Trong khi đó thấp nhất là Trung Quốc (thuốc uống 1,5%, thuốc
tiêm 0,8%) và Hàn Quốc (thuốc uống 3,0%, thuốc tiêm 3,2%). Việt Nam chỉ
có tỷ lệ cao hơn hai nước này (thuốc uống 6,3%, thuốc tiêm 0,6%).
* Ở Việt Nam, số phụ nữ đã có chồng lựa chọn và sử dụng các biện pháp
tránh thai theo số liệu của WHO năm 2000[39] cho biết: Tỷ lệ dùng thuốc
tránh thai uống là 7% thuốc tiêm và các dạng khác là 0 %. Trong đó tỷ lệ áp
dụng phương pháp đặt DCTC vẫn là cao nhất, chiếm 42% trong các biện pháp
tránh thai.
6
Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ tránh thai ở phụ nữ có chồng tại Việt Nam năm 2000[39]
1.2.Các biện pháp tránh thai
1.2.1 Các biện pháp tránh thai tạm tời áp dụng cho nữ [1] [3] [25] [30] [31]
[32] [38] [46] [53] [55] [65]
* Thuốc uống tránh thai:
Các thuốc tránh thai uống lạo một thành phần cũng như hai thành phần
do nhiều nước sản xuất với những tỷ lệ kết hợp khác nhau đều có bản chất
hóa học là những steroid sinh dục (estrogen và progestin) có tác dụng ức chế
quá trình phóng noãn. Tỷ lệ thất bại do dùng thuốc không quá 1% (với các
loại thuốc thế hệ mới) nhưng thực tế thay đổi rất nhiều từ 2-8%, tuy nhiên khi
sử dụng chúng có nguy cơ cao với các bệnh như huyết khối, tim mạch, ung
thư sinh dục, béo phì
* Thuốc tiêm tránh thai.
Các loại thuốc tiêm tránh thai đều có bản chất hóa học là progestin thải
trừ chậm (12 tuần) có tác dụng ức chế quá trình phóng noãn, hiệu quả tránh
thai cao, nhược điểm trong thời gian dùng thuốc thường bị khô âm đạo, mất
ham muốn tình dục, kinh nguyệt ít
* Thuốc cấy tránh thai
7
Là một progestin thải trừ chậm 3-5 năm, hiệu quả tránh thai cao, nhược

điểm phải đến cơ sở y tế để thực hiện thủ thuật cấy thuốc.
* Màng ngăn âm đạo và mũ cổ tử cung.
Là biện pháp ngăn không cho tinh trùng xâm nhập lên đường sinh dục
trên, phương pháp này tỷ lệ thất bại cao ngày nay không dùng nữa.
* Tính ngày an toàn ( Ogino- Knauss).
Phương pháp này được đề xuất từ năm 1924 bởi Ogino một thầy thuốc
người Nhật, trên nguyên lý hiện tượng phóng noãn thường xảy ra ở một thời
gian nhất định có liên quan đến chu khỳ kinh nguyệt tới, trước kỳ kinh tới 12-
16 ngày, dựa vào nguyên lý này người ta tính ngày an toàn để giao hợp.
Phương pháp này chỉ áp dụng được với những người có chu kỳ kinh nguyệt
ổn định và vợ chồng luôn sống gần nhau.
* Ghi biểu đồ thân nhiệt
Cơ sở phương pháp được Squire (1868), Van de Valde (1904),
Rubeistein(1937) và Palmer (1938) phát hiện trong vòng kinh đường biểu
diễn thân nhiệt của người phụ nữ biểu hiện hai giai đoạn rõ rệt, giai đoạn đầu
nhiệt độ thấp, giai đoạn sau nhiệt độ cao hơn, 24-48 giờ trước khi nhiệt độ
xuống thấp nhất thì hiện tượng phóng noãn xảy ra, sau khi phóng noãn thành
lập hoàng thể, do tác động của progesteron nên thân nhiệt tăng lên. Năm 1948
Ferin đề xướng đo thân nhiệt làm biện pháp tránh thai. Phương pháp này đòi
hỏi phải theo dõi tỉ ,ỉ và chính xác thì hiệu quả cũng khá cao.
* Thuốc diệt tinh trùng
Các hóa chất diệt tinh trùng nếu kết hợp với một biện pháp khác thì kết
quả tránh thai cao. Nhược điểm thuốc gây kích ứng niêm mạc hoặc dị ứng.
* Sử dụng dụng cụ tử cung
Dụng cụ tử cung là một biện pháp tránh thai có hiệu quả cao dễ áp dụng
thời gian tránh thai lâu. Dụng cụ tử cung có nhiều loại lúc đầu chỉ là một
chiếc vòng bằng chỉ tằm , sau đó là vòng bằng kim loại như bạc, thép không
gỉ, tiến tới bằng chất dẻo, chất dẻo mang kim loại đồng hoặc bạc hay tẩm nội
tiết tố (levonogestren). Hình dạng từ dụng cụ tử cung kín ( vòng kín) ddeesns
dụng cụ tử cung hở [1] [2] [3] [14] [25] [30] [65] [69] [85]

8
1.2.2 Các biện pháp tránh thai vĩnh viễn áp dụng cho nữ
Đó là phương pháp phẫu thuật thắt và cắt hai vòi tử cung, có nhiều
phương pháp phẫu thuật như Pomeroy, Irving hoặc nội soi dùng kẹp Yoon
để thắt hai vòi tử cung hay mở cùng đồ đốt diện hoặc cắt đoạn. Các phương
pháp này vẫn có một tỷ lệ thất bại do thắt nhầm vào dây chằng tròn, hoặc tuột chỉ
buộc, ngoài ra còn có những biện pháp sử dụng hóa chất để làm tắc vòi tử cung.
1.3. Cơ chế tác dụng của các biện pháp tránh thai bằng DCTC, thuốc
tránh thai, Bao cao su
1.3.1. Sinh lý kinh nguyệt và sự phóng noãn[3], [6], [11], [21], [23], [28], [41]
* Trong nghiên cứu y học và sinh lý phụ khoa từ đầu thế kỷ XX, các nhà
nghiên cứu đã tìm ra các vùng chức năng và các hoạt động sinh lý thông qua
các sản phẩm chế tiết của nó:
Vùng dưới đồi:
Tiết ra hormon giải phóng: Gonadotropin Releasing Hormone (Gn –
RH), khi hormon này được chế tiết kích thích tuyến yên hoạt động chế tiết ra
FSH và LH.
Tuyến yên:
Tiết hai loại hormon: Luteinizing hormone (LH) và Follicle Stimuleiting
Hormone (FSH).
Hai loại hormon này có chức năng kích thích nang noãn trưởng thành,
phóng noãn, hình thành hoàng thể và kích thích hoàng thể chế tiết. Đặc biệt là
vào trước ngày phóng noãn LH và FSH tăng nhanh đột ngột - đạt đỉnh cao để
kích thích phóng noãn.
Buồng trứng:
Có hai loại hormon quan trọng là: Estrogen và Progesteron được chế tiết
theo sự kích thích của LH và FSH.
Trong chu kỳ kinh nguyệt nồng độ Estrogen có hai đỉnh cao do nang
noãn chín và do hoàng thể chế tiết.
Progesteron được chế tiết vào nửa sau của chu kỳ dưới tác động của LH.

* Cơ chế kinh nguyệt và sự phóng noãn là theo cơ chế hồi tác (feed
back) của trục dưới đồi – tuyến yên – buồng trứng. Trong đó vai trò chủ yếu
9
là do sự chế tiết hai loại hormon của buồng trứng là Estrogen và Progesteron.
LH, FSH làm nang noãn phát triển – chế tiết Estrogen đến lúc LH, FSH đạt
đỉnh cao, sẽ gây phóng noãn. Sau khi hình thành hoàng thể Estrogen và
Progesteron gây ra hiện tượng kinh nguyệt. Lúc đó tuyến yên lại tăng chế tiết
LH, FSH. Tiếp tục chu kỳ kinh nguyệt kế tiếp.
1.2.2. Cơ chế tác dụng của thuốc tránh thai có hormon [12],[13], [25]
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, người ta đã bắt đầu tiến hành nghiên
cứu về thuốc tránh thai có hormon dựa trên cơ chế sinh lý kinh nguyệt và sự
phóng noãn. Bằng cách đưa vào cơ thể phụ nữ liều lượng nhỏ một loại
hormon đơn thuần (progesteron) hoặc hai loại kết hợp là (estrogen và
progesteron) dưới dạng các chế phẩm tạo ra nồng độ các hormon của buồng
trứng thường xuyên trong máu, gây ra các thay đổi về nồng độ và chu kỳ bài
tiết của các loại hormon hướng sinh dục khác trong cơ thể. Không có đỉnh
nồng độ LH, FSH dẫn đến không có hiện tượng phóng noãn và một số thay
đổi khác ở bộ phận sinh dục nữ. Kết quả là không có hiện tượng thụ thai xẩy
ra. [12], [13], [25]
* Tác dụng tránh thai: được biết đến 4 cơ chế phối hợp và bổ sung lẫn
nhau[13], [16], [44].
1. Tác dụng quan trọng nhất là ức chế phóng noãn do ức chế cả trục dưới
đồi, tuyến yên làm giảm chế tiết LH và FSH. Nang noãn không trưởng thành
không tạo được nồng độ đỉnh của LH và FSH, dẫn đến hiện tượng phóng
noãn không xẩy ra.
2. Thay đổi chất nhầy ở cổ tử cung: Thường làm chất nhầy ở cổ tử cung
đặc quánh lại, ngăn cản không cho tinh trùng xâm nhập vào buồng tử cung.
Không có hiện tượng thụ tinh xẩy ra.
3. Thay đổi cấu trúc của niêm mạc tử cung, niêm mạc tử cung không
phát triển do tác dụng của progesteron không thích hợp cho trứng làm tổ.

10
4. Rối loạn chức năng vòi tử cung, người ta nói tới sự thay đổi nhu động
làm cho sự di chuyển của trứng không thuận lợi và làm ngăn cản sự làm tổ
của trứng.
Như vậy vai trò quan trọng nhất của thuốc tránh thai có hormon là ức
chế phóng noãn, ngoài ra còn có cơ chế tác động đến cổ tử cung, vòi trứng và
niêm mạc tử cung. Nhưng còn phụ thuộc vào từng loại thuốc và hàm lượng
khác nhau thì cơ chế nào là chính và có cơ chế phối hợp khác nhau.
1.2.3. Cơ chế tránh thai và tác dụng của dụng cụ tử cung (DCTC)[45] [46]
1.2.3.1. Cơ chế tránh thai của DCTC
Cơ chế tác dụng chính của dụng cụ tử cung là gây ra phản ứng “viêm”
tại niêm mạc tử cung, làm thay đổi về “sinh hóa” tế bào “nội mạc tử cung”
không thuận lợi để trứng làm tổ, có thể có hiện tượng thực bào lên tinh trùng.
Qua thực tế hiện đại người ta đã quan sát thấy tỷ lệ có thai tăng lên khi dùng
DCTC phối hợp với các thuốc chống viêm. Đây là cơ chế tác dụng tránh thai
đầu tiên của DCTC. Người ta còn kể ra vai trò của DCTC làm thay đổi hoạt
động nhu động của vòi tử cung, trứng về buồng tử cung sớm hơn bình thường
không phù hợp với giai đoạn của niêm mạc tử cung chờ đón trứng làm tổ
nhưng cũng có nhiều tác giả phản đối về cơ chế này.
Nhiều công trình nghiên cứu đã xác nhận cơ chế tránh thai của DCTC,
bản chất của các cơ chế là sự biến đổi sinh hóa, sinh lý và biến đổi tại chỗ
khiến noãn di chuyển quá nhanh trong vòi Fallop hoặc noãn đã thụ tinh khi di
chuyển vào buồng tử cung khó gắn và phát triển trong buồng tử cung hay ảnh
hưởng đến số lượng, sự di chuyển của tinh trùng trong đường sinh dục nữ.
Có 2 cơ chế chính là:
+ Cơ chế vật lạ
+ Vai trò của ion đồng (Cu)
Đối với loại dụng cụ tử cung có đồng:
- Hiệu quả ngừa thai của DCTC tăng lên bởi sự phóng thích liên tục của
đồng vào buồng tử cung, Ion đồng có tác dụng gây độc cho giao tử (cụ thể là

11
gây độc cho tinh trùng), mặt khác nó còn làm tăng phản ứng viêm và có thể
gây ra co cơ tử cung ngăn chặn sự làm tổ của trứng
- Ion đồng còn làm thay đổi sinh hoá của chất nhầy cổ tử cung, từ đó ảnh
hưởng đến sự di động, hoạt hoá và khả năng sống sót của tinh trùng.
- Đồng làm thay đổi niêm mạc tử cung, ngăn chặn sự làm tổ của trứng.
Đối với dụng cụ tử cung có progesterone:
- Progesterone ngăn chặn hoạt động chu kỳ của nội mạc tử cung do nồng
độ progesterone cao, tạo điều kiện không thuận lợi cho trứng thụ tinh không
thể làm tổ ở niêm mạc tử cung, không ở giai đoạn “hoài thai”.
- Có thể gây ra ức chế phóng noãn nhờ có progesteron có trong DCTC,
tuy nhiên tác dụng này không rõ rệt.
1. Cơ chế vật lạ của DCTC:
* Những biến đổi về sinh hóa:
Dụng cụ tử cung là một vật lạ nên phản ứng tổ chức với vật lạ bằng phản
ứng viêm không đặc hiệu, đặc trưng chính của phản ứng viêm là hoạt hóa một
số tế bào, thay đổi tính thấm thành mạch, cùng những thay đổi về sinh tổng
hợp, chuyển hóa và giáng hóa.
Khi viêm có hiện tượng hóa hướng động và thâm nhiễm bạch cầu gây
hiện tượng thực bào (tiểu thực bào) tinh trùng hoặc noãn.
Tại ổ viêm phóng thích các sản phẩm chuyển hóa của axit arachidonic
trong pha đáp ứng nhanh của quá trình viêm là các prostalandin D
2
, F

, E
2
,
leukotrien B
4

, leukotrien C
4
, D
4
và cùng E
4
. Các prostalandin và leukotrien C
4
,
D
4,
E
4
, này gây co thắt các cơ trơn, tăng vận động cơ tử cung, làm phôi không
làm tổ được hoặc trứng di chuyển quá nhanh trong vòi tử cung còn
leukotrien B
4
, gây hóa ứng động thực bào, ngoài ra prostagladin còn ức chế
ngưng tập tiểu cầu, làm giảm tác dụng co mạch dẫn đến chảy máu kéo dài.
Phản ứng miễn dịch với vật là tạo ra kháng thể dẫn tới nội mạc tử cung
biệt hóa không đồng bộ, đây là yếu tố không thuận lợi cho phôi làm tổ.
Tại chỗ do kích thích của quá trình viêm, chế tiết nhầy ở niêm mạc tử cung
thay đổi là yếu tố không thuận lợi cho tinh trùng di chuyển lên vòi tử cung.
12
Sự biến đổi tại ổ viêm các phản ứng sinh hóa và sinh lí làm biến đổi cấu
trúc của các mucopolysacarit, hoặc protein tế bào nội mô.
Các sản phẩm trung gian hóa học trong quá trình viêm làm thay đổ pH
môi trường làm ảnh hưởng tới sự di chuyển của tinh trùng và sự thâm nhập
của tinh trùng qua màng trong suốt của noãn.
Mặt khác dụng cụ tử cung còn tồn tại trong buồng tử cung là yếu tổ kích

thích gây viêm kéo dài nên các hiện tượng trên liên tục xảy ra và hình thành
các globulin miễn dịch, đại thực bào .
* Những biến đổi về hình thái:
Nội mạc tử cung ở giữa chu kỳ kinh nguyệt, dưới kính hiển vi điện tử
quét, bề mặt nội mạc tử cung biểu lộ rõ lớp chế tiết bị mỏng đi ở những phụ
nữ mang dụng cụ tử cung, những tắc mạch nhỏ, những vi mạch xuất hiện, sự
biến hình của bạch cầu và biến đổi của fibrinogen (Hiện tượng này cũng xảy
ra ở dụng cụ tử cung mang đồng). Bằng kỹ thuật quang phổ hấp phụ nguyên
tử (Atomic absorption spectrophotometer) người ta đã xác định được nồng độ
foliculin trong huyết thanh ở những người đặt DCTC chứa đồng cho thấy Ion
đồng ở buồng tử cung làm giảm nồng độ foliculin huyết thanh do đó gián tiếp
ảnh hưởng đến nội mạc tử cung .
Theo Seth Thomas Shaw có sự gia tăng bạch cầu tại chỗ, và sự biến đổi
hình thái các tế bào ở vùng tiếp giáp với dụng cụ tử cung.
Thời gian hoàng thể ngắn lại 2-3 ngày.
Chất nhầy cổ tử cung cũng bị thay đổi.
2. Vai trò của kim loại đồng(Cu):
* Những biến đổi về sinh hóa.
Sự ăn mòn đồng: Sự ăn mòn kim loại phụ thuộc vào phản ứng hóa học
xảy ra trên bề mặt của kim loại đồng, bắt đầu bằng sự oxy hóa do tiếp xúc với
các dịch thể của tổ chức tại buồng tử cung. Đồng bị oxy hóa biến thành đồng
một (Cu
+1
) rồi từ đồng một biến thành đồng hai (Cu
+2
) theo phương trình sau:
8Cu + O
2
+2H
2

=Cu
2
O+ 4H
+1
+ 4e
-1
Cu
2
O+ 2H
+2
= 2Cu
+2
+H
2
+2e
-1
2Cu
+1
 Cu
0
+ Cu
+2
13
Sự kiện này diễn ra chậm hơn và có khuynh hướng kết hợp với glyxerin
và histamin. Sự thay đổi tỷ số Cu
+1
/ Cu
+2
là kết quả của sự oxy hóa các gốc tự
do mà gốc chính là hydro hoặc đồng kết hợp với SO

2
để tạo thành H
2
S và CuS
hoặc Cu
2
S .
Tỷ lệ mất đồng: Đồng bị ăn mòn tỷ lệ thuận với thời gian đặt trong
buồng tử cung và tùy theo loại DCTC, trong thời gian 65 tháng sử dụng trung
bình lượng đồng mất từ DCTC MLCu375 37µg/ngày, Tcu 200, MLCu250
mất 64µg/ ngày .
Bằng kỹ thuật hấp thụ nguyên tử (Atomic absorption
spectrophotometer), hóa ứng dụng, kỹ thuật âm quang (photoacoustic)
3. Ưu điểm và nhược điểm:
Ưu điểm:
- Rẻ tiền (trừ DCTC Mirena có giá khá cao)
- Tỷ lệ tránh thai cao: 95- 97%
- Hiệu quả tránh thai có thể kéo dài trong nhiều năm (05 năm)
- Có thai lại dễ dàng sau khi tháo DCTC.
- Không phải thực hiện biện pháp tránh thai hỗ trợ.
- Phụ nữ có thể chủ động trong việc đặt và mang DCTC.
- Dùng được cho những người có chống chỉ định với estrogen, không
ảnh hưởng đến cơ chế đông máu, huyết áp, chuyển hóa, không gây u nội mạc
tử cung
Nhược điểm:
- Cần đến cơ sở y tế để đặt DCTC, tháo hay thay theo thời hạn quy định
của từng loại DCTC.
- Có thể có rong huyết trong vài chu kỳ đầu sau đặt DCTC.
- Có thể có triệu chứng đau lưng, đau thắt do cơn co tử cung, đau có thể
khỏi tự nhiên hay dùng thuốc giảm đau.

- Ra nhiều khí hư trong thời gian đầu do phản ứng của nội mạc tử cung,
hiện tượng này sẽ giảm dần nếu không có nhiễm trùng nội mạc tử cung
- Có khoảng 2-5% rơi DCTC trong 3 tháng đầu sau đặt, nếu không phát
hiện, nguy cơ có thai dễ xảy ra.
- Có những nghiên cứu cảnh báo DCTC có liên quan đến sự gia tăng
chửa ngoài tử cung(GEU)
14
- Có những nghiên cứu khác nói về tình trạng vô sinh 2 sau khi tháo
DCTC do tình trạng viêm nhiễm bộ phận sinh dục, dẫn đến việc đánh giá
chưa đầy đủ khi quyết định đặt DCTC cho khách hàng.
Những trường hợp không nên sử dụng DCTC
DCTC tránh thai là biện pháp tránh thai hiệu quả cao có thể áp dụng rất
rộng rãi. Nhưng một số trường hợp sau đây cần tránh
Tuyệt đối:
- Có thai hay nghi ngờ có thai.
- Viêm nhiễm đường sinh dục.
- Xuất huyết tử cung bất thường chưa rõ nguyên nhân.
- Viêm niêm mạc tử cung sau khi sinh hay sau phá thai nhiễm trùng
trong 3 tháng.
- Bệnh ác tính đường sinh dục.
Tương đối:
- Chưa có con ở một số nước vẫn đặt DCTC ở những phụ nữ trẻ chưa có
con, thậm chí cả những phụ nữ chưa lập gia đình như Anh và một số nước Mỹ
La Tinh.
- Tiền sử thai ngoài tử cung, tái tạo vòi tử cung.
- Rối loạn đông máu.
- Bất thường về tâm thần cản trở việc theo dõi DCTC
- Bệnh van tim.
- Lạc nội mạc tử cung.
- U xơ tử cung.

- Sa sinh dục độ II, III.
- Nguy cơ mắc bệnh lây truyền qua đường sinh dục cao.
- Tiền sử dị ứng đồng, bệnh Willson, bất thường trong hấp thu chuyển
hoá đồng.
Các loại DCTC được phân loại như sau[45][46].
+ Theo hình dạng:
- Dụng cụ tử cung kín: OTA, DANA. Ngày nay không còn sử dụng cho
các loại DCTC khép kín vì khi DCTC chui vào ổ bụng vì lý do nào đó, nó dễ
gây tắc ruột.
- Dụng cụ tử cung hở: Tcu, Multiload
+ Theo cấu trúc:
15
- Dụng cụ tử cung không có hoạt chất: thế hệ đầu tiên của dụng cụ tử
cung cấu tạo bằng Poliethilen (Dana, Lippes ).
- Dụng cụ tử cung có đồng (vòng TCu).
- Dụng cụ tử cung có chứa Progestatis: vòng Progestasert có hình chữ J,
thân chữ T là nơi chứa Progesterol, hormone này giải phóng từ từ phát huy tác
dụng tránh thai.
Multiload:
- Các cành ngang cong mềm, giúp cho vòng giữ được vị trí trong tử cung
- Có nhiều cỡ.
- Mềm dẻo dễ đặt.
- Không gây tổn thương góc đáy.
- Không rơi ra ngoài vì có răng cưa.
Tcu 380A:
- Diện tích vòng đồng rất rộng, hiệu quả ngừa thai cao.
- Vị trí đồng ở cao, số lượng đồng ở cành ngang giúp cho đồng phóng ra
đến tận đáy tử cung, đảm bảo tốt cho sự ngừa thai.
- Đặt vào và lấy ra dễ dàng.
Mirena:

- Hiện đại so với DCTC thông thường, Mirena có progestin được phóng
thích đều đặn tạo nên hiệu quả tránh thai cao hơn.
- Mirena cũng có thể làm giảm đau bụng kinh hay các triệu chứng của
lạc nội mạc tử cung như đau vùng chậu, xuất huyết bất thường
- Giá của vòng Mirena là khá cao so với mặt bằng chung.
Khi nào cần tháo DCTC:
- Muốn có thai.
- Muốn áp dụng một phương pháp tránh thai khác
- DCTC hết hạn (thường là 5 năm).
- Viêm nhiễm đường sinh dục hay viêm vùng chậu cấp tính.
- Rong kinh, rong huyết.
- Đau bụng dưới nhiều, không đáp ứng với thuốc giảm đau.
- Có thai trong lúc mang DCTC.
- DCTC tuột thấp hay nằm lệch trong buồng TC.
Dụng cụ tử cung hay vòng tránh thai là biện pháp tránh thai hiệu quả cao
và tác dụng kéo dài, có thể sử dụng rộng rãi. DCTC Tcu hay vòng Multiload
đều rất rẻ tiền. Tuy nhiên, giá Mirena thì khá cao, nếu khả năng tài chính cho
16
phép thì Mirena là một sự lựa chọn tốt. DCTC Mirena có hiệu quả ngừa thai
rất cao cũng như kèm theo một số lợi ích khác do Mirena có chứa progestin.
1.2.4. Tác dụng của Bao cao su
Bao cao su nam giới(BCS) là một biện pháp tránh thai có hiệu quả và
đồng thời cũng là một cách để phái nam thể hiện trách nhiệm của mình!.
* BCS là gì.
BCS là một loại bao mỏng, mềm và nhạy cảm làm bằng cao su nhân tạo,
được lồng vào dương vật đã cương cứng khi giao hợp để tránh thai.
* Tác dụng của BCS:
BCS hoạt động như là một hàng rào cơ học, không cho tinh trùng vào
trong âm đạo và gặp trứng. Tương tự, bao cao su ngăn các vi sinh vật gây
bệnh tiếp xúc với vùng da lành của bạn tình. Do đó ngoài nhiệm vụ tránh thai,

BCS còn tránh được một số bệnh lây truyền qua đường tình dục bao gồm
HIV/AIDS khi quan hệ tình dục bừa bãi với bạn tình đang có bệnh.
Ngoài ra, BCS được dùng để khám phụ khoa hoặc chất tiết dịch khác
khi không có găng tay. Có thể dùng BCS để thổi bong bóng cho mục đích
tuyên truyền.
* Hiệu quả của BCS như thế nào:
Nếu luôn được sử dụng và sử dụng đúng cách, hiệu quả của BCS đạt vào
khoảng 97%.
Càng ngày, BCS càng được quảng cáo rộng rãi trên các phương tiện
truyền thông đại chúng nên hiện nay, không chỉ có nam giới mà cả phụ nữ
cũng đi mua BCS để khuyến khích hoặc bắt buộc các ông dùng. Người này
dùng để tránh thai người khác lại coi đó là phương tiện để đề phòng các bệnh
LTQĐTD và HIV/AIDS.
BCS giúp cánh mày râu được chủ động trong việc tránh thai, không phải
phụ thuộc hoàn cảnh vào phụ nữ. Điều này cũng khiên cho hai bên nam nữ
thêm “đoàn kết” vì phái nữ thích phái nam nhận lấy chút trách nhiệm này.
* Ưu điểm của BCS:
An toàn, hiệu quả và dễ sử dụng
17
Dễ tìm kiếm, giá thành rẻ, không cần đến cơ sở y tế để kê đơn hoặc
khám trước khi sử dụng. So với các biện pháp “ tránh thai có phương tiện hỗ
trợ”, BCS là “ tự nhiên” nhất. Nó không can thiệp vào hoạt động của cơ thể
và không có tác dụng phụ, thậm chí lại còn có thể giúp cho nhiều bạn trai
thêm “dai sức” hơn, thỏa mãn bạn tình nhiều hơn. Bạn gái thì được khô ráo,
không bị tinh dịch chảy vào âm đạo và làm ướt âm đạo sau khi giao hợp.
Là công cụ đắc lực để phòng lây nhiễm các bệnh LTQĐTD và
HIV/AIDS
Khắc phục xuất tinh sớm, giúp nam giới kéo dài hơn quá trình giao hợp
* Nhược điểm của BCS:
Màng BCS và chấtbôi trơn có thể ây ngứa cho một số người

Phải dùng đúng cách mới có hiệu quả cao
Có thể làm gián đoạn việc quan hệ tình dục
Chỉ được dùng một lần, do vậy phải chuẩn bị BCS trước mỗi lần quan hệ
tình dục
BCS không phòng tránh được tất cả các bệnh LTQĐTD
* Một số trục trặc với BCS
Trong khi quan hệ tình dục, người nao có thể gặp một số trục trwacj
ngoài ý muốn với BCS như tuột bao, rách bao Nguyên nhan của sự cố trên
thường là quan hệ quá mạnh, BCS đã quá hạn sử dụng, BCS kém chất lượng,
trước khi đeo BCS chưa bóp hết khí ra ngoài Trong trường hợp này, nguy cơ
bị lây truền các bệnh LTQĐTD như lậu, giang mai, sùi mào gà, HIV/AIDS và
nguy cơ có thai ngoài yw muốn có thể xảy ra.
Tuột BCS: cách xử xử lý là người nữ thót mình lại để rút ngắn âm đạo,
cho ngón tay vào xung quanh thành âm hộ để lấy bao ra. Nếu không thành
công ,bạn đừng ngần ngại mà hãy nhờ bác sĩ giúp đỡ. Khi chọn BCS, cần
chọn cỡ vừa với mình, tránh sử dụng loại BCS cỡ lớn dễ gây tuột bao.
Rách BCS: Cần ngừng quan hệ tình dục ngay khi nghi ngờ rách BCS,
đặc biệt là trước khi xuất tinh thì nguy cơ lây lan bệnh hoặc có thai ngoài ý
muốn cho bạn gái sẽ giảm đi đáng kể.
Các loại BCS :
18
Ở thị trường việt nam có rất nhiều loại BCS, bao gồm những loại sản
xuất trong nước, ngoài nước có xuất xứ rõ ràng hoặc không rõ ràng.
BCS thông thường phổ biến có bề mặt trơn láng được sản xuất trong
nước như: OK, Trust, Super hoặc ở nước ngoài như : Pleasure, Index v.v
BCS có bề mặt ngoài nhám hơn như: ausny, Asinny. Mục đích làm tăng
thêm sự cọ xát chút ít ở âm đạo BCS có gắn thêm các hòn bi nhựa nhỏ ở
chung quanh. Mục đích là làm tăng thêm sự cọ sát ở âm đạo, tuy nhiên trong
lúc giao hợp mạnh những hòn bi nhựa này có thể rớt ra và nằm trong âm đạo
của người phụ nữ.

BCS đắt tiền nhất, mới nhất là loại BCS giống như là “đúc sẵn”, đồng
nhất là màu trắng trong suốt, dẻo dai. Có hai loại : loại có gai và loại “đúc”
như những viên bi tròn. Trên thị trường hiện nay là Magic band, giá khoảng
60.000 đồng, được sản xuất tại Nhật Bản. Vì giá đắt nên nhiều người tiết kiệm
, sau khi sử dụng xong, rửa sạch , cất và sử dụng lại. Điều này có thể dẫn đến
không đảm bảo sạch sẽ cơ quan sinh dục và dễ gây nhiêm bệnh.
BCS có tẩm thuốc Nonoxynol 9, tên thương mại là Duex, chất thuốc này
có tác dụng diệt tinh trùng bắn ra ngoài, làm bất hoạt HIV, loại virut gây ra
AIDS. Loại BCS này ít gặp trên thị trường.
Để việc sử dụng BCS thêm thú vị bạn hãy lựa chọn cho mình một loại
BCS thích hợp. Bạn có thể hỏi người bán hàng để chọn BCS có độ dày , màu
sắc, mùi vị, kích thước và kiểu dáng như ý.
Nguồn cung ứng bao cao su: Hiện nay, BCS đã được phép kinh doanh
rộng rãi, có thể tìm mua ở :
Các hiệu thuốc tây, các cửa hàng dụng cụ y khoa.
Trung tâm dân số kế hoạch hóa ra đình.
Hệ thống các siêu thị .
Các máy bán bao cao su tự động.
Ngoài ra, BCS còn thường xuyên được cấp phát miễn phí trong các
trương trình giáo dục, tuyên truyền về sức khỏe sinh sản, Kế hoạch hóa ra
đình và phòng chống HIV/AIDS. Có thể tìm kiếm BCS miễn phí ở:
Các phòng tư vấn sức khỏe cộng đồng.
19
Các góp thân thiện tư vấn sức khỏe sinh sản vị thành niên.
Lưu ý: Không nên mua BCS này bán trên lề đường vì nắng, sức nóng có
thể làm hỏng BCS mà nhìn ngoài không phát hiện được.
Sử dụng BCS đúng cách:
Bước 1: Kiểm tra thời hạn dùng ở vỏ ngoài. Đảm bảo là BCS còn Mói ,
chưa hết hạn, vỏ nguyên vẹn, không quăn queo, bao không rách, không giòn,
màu không loang lổ.

Bước 2: Cẩn thận khi mở BCS, đẩy bao về một phía, tránh đụng vào các
vật nhọn như móng tay có thể làm thủng bao.
Bước 3: Kiểm tra chiều quấn của BCS, vòng cuốn bao phải ở phái ngoài.
Có hai loại BCS: Loại bao có túi nhỏ ở đầu có thể mang thẳng vào và loại bao
đầu tròn không có túi nhỏ, cần phải cầm đầu kéo dài ra vài phân để tao một
túi nhỏ. Đó là nơi để chứa tinh dịch khi xuất tinh.
Bóp túi nhỏ để đuôi không khí ra ngoài trước khi đeo BCS. Tránh để
không khí vẫn còn ở đầu BCS khi đeo vào dương vật vì như vậy có thể gây
vỡ bao trong khi quan hệ.
Bước 4: Đeo BCS vào sát đầu dương vật đã cương cứng và se nhẹ cho
vòng bao tròng vào hết chiều dài dương vật. Nếu BCS rách trong khi giao
hợp, lập tức phải đeo ngay bao mới. Khi rút dương vật ra phải giữ BCS ở
phần gốc để tránh cho tinh dịch chảy ra ngoài.
Bước 5: Tháo BCS bằng cách vuốt ve nhẹ từ gốc dương vật ra phía trước
đồng thời túm miệng BCS để không cho tinh dịch chảy ra ngoài.
BCS chỉ được dùng một lần và vứt vào thùng rác sau khi thắt nút ở đầu
để tránh rò rỉ tinh dịch. Bạn có thể gói BCS bằng giấy vệ sinh hoặc cho vào
túi nhựa trước khi ném chúng đi. Nên nhớ rằng trẻ em và vật nuôi đôi khi tới
thùng rách chơi hoặc tìm thức ăn. Nếu cần thiết , hãy vứt BCS vào thùng rách
nào ngoài tầm với của trẻ em và vật nuôi. Không nên vứt BCS vào bồn vệ
sinh để tránh gây hiện tượng tắc.
Bảo quản BCS như thế nào?
- Khi dùng BCS, không dùng thêm dầu ăn để bôi trơn vì dầu này có thể
phá hủy BCS.
20
- Để BCS ở những nơi khô, mát , tránh những nơi ánh nắng trực tiếp
chiếu vào hay ở nhiệt độ cao.
- Mỗi khi BCS chỉ sử dụng một lần.
- Không dùng BCS nếu vỏ bao đã rách hoặc nếu BCS bị khô, dính hay
đổi màu.

- BCS có mùi thơm không để bừa bộn, tránh trường hợp bi gián, chuột cắn.
1.3. Lịch sử phát triển và sử dụng thuốc tránh thai có hormon và Dụng
cụ tử cung
Sự phát triển và sử dụng thuốc tránh thai trên thế giới
* Trong quá trình sử dụng thuốc tránh thai có hormon người ta nhận ra
rằng: Khi đưa vào cơ thể một lượng thuốc nhất định sẽ làm thay c đổi nồng độ
và chu kỳ bài tiết các loại hormon khác nhau trong cơ thể. Thuốc có tác dụng
tránh thai cao nhưng cũng có nhiều tác dụng phụ gây ảnh hưởng đến sức khỏe
cũng như sự khó chịu trong cuộc sống sinh hoạt, làm việc của người phụ nữ
[22], [48], [49].
Vì vậy các nhà nghiên cứu đã cho ra đời nhiều loại thuốc tránh thai có
hormon dưới các dạng khác nhau về thành phần cũng như công thức để phù
hợp với sinh lý tự nhiên của cơ thể phụ nữ, tạo ra sự an toàn và tiện lợi cho
người sử dụng. Hàm lượng thuốc có xu thế ngày càng giảm để khắc phục
những tác dụng phụ và những ảnh hưởng khác cho cơ thể [15], [50], [51].
Biện pháp tránh thai bằng thuốc có hormon đã được áp dụng từ thập kỷ
60 của thế kỷ XX. Xu thế ngày càng được phát triển và đa dạng cùng với sự
tiến bộ của các công trình nghiên cứu của ngành dược lý.
* Hiện nay biện pháp tránh thai bằng thuốc có hormon được trên 100
triệu phụ nữ trên khắp thế giới sử dụng.
Tỷ lệ sử dụng thuốc tránh thai có hormon trong tổng số các biện pháp
tránh thai được áp dụng ở các nước đã phát triển chiếm 16%, ở các nước đang
phát triển chiếm 6%[34].
Lịch sử phát triển của thuốc tránh thai có hormon đã được trải qua nhiều
giai đoạn tại Mỹ [27], [52].
21
Rock (1957) Pincus (1960) và Garcia là những người khởi đầu cuộc điều
tra nghiên cứu toàn diện về ức chế dụng trứng bằng các tác nhân có chất
progesteron (progestational). Công trình nghiên cứu này chứng tỏ việc rụng
trứng có thể loại trừ theo ý muốn. Những hợp chất được dùng là dẫn xuất của

19 – nortestosteron, uống từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 25 của chu kỳ kinh
nguyệt ( ngày đầu tiên có kinh là số 1). Năm 1955, ở Puertorico, dưới sự chỉ
đạo của Pincus và cộng sự ở Trung tâm Puertorico KHHGĐ, thuốc đã được
bắt đầu thử nghiệm ngừa thai trên một số thực địa rộng ở San Juan; đó là sự
phối hợp giữa chất progestin: Norethynodrel và chất estrogen mestranol; kết
quả của những nghiên cứu đã ngày càng phát triển rộng khắp hầu hết các nơi
trên thế giới.
Trong số các thuốc steroid uống có tác dụng ngừa thai đầu tiên ức chế
dụng trứng, có các thuốc vốn đã có hoạt tính estrogen và một số chế phẩm
progestin có lẫn cả estrogen ( được phát hiện sau này). Ở một chừng mực nào
đó, đây là một cơ may, vì điều đó nó chứng tỏ được rằng chất estrogen đã làm
tăng thêm tác dụng triệt tiêu của progestin và dẫn đến việc sử dụng chung một
hỗn hợp hai chất steroid. Do thử nghiệm có kết quả, các liều lượng progestin
và estrogen đã được giảm xuống và làm giảm tác dụng phụ mà vẫn giữ được
hiệu quả tránh thai tốt.
Ở nhiều nước, việc dùng viên thuốc tránh thai rất hiệu quả và cần thiết,
dưới đây là ví dụ:
- Lần đầu tiên, năm 1956[12],[13], sau khi nghiên cứu nhiều chất
progestatif tổng hợp, Rock, Garcia và Pincus chọn ra một progestatif không
tinh khiết (Norethinodrel) có lẫn tạp chất estrogen (ethinylestradiol 3 methyl
ete) dùng dưới dạng thuốc viên tròn (pilule) gọi là “viên Pincus” để thử ở San
Juan, Puertorico là nơi đông dân cư nhất vùng. 18 tháng sau đã công bố kết
quả thử: viên Pincus hơn hẳn các viên thuốc và các phương pháp ngừa thai
khác. Chỉ số là 3,21 trên 100 nữ/ năm ( có thai ngoài ý muốn). Sau đó lại
22
được thử ở Los Angeles ( Mỹ), Ấn Độ (1961), Texas (Mỹ 1962), ở Luân Đôn
(1962). Năm 1967 ở Pháp, Pháp lệnh cho phép hiệu thuốc bán thuốc ngừa
thai, theo đơn thầy thuốc.
Ở Việt Nam, những năm 1970 đã dùng thuốc ngừa thai hay còn gọi là
thuốc tiết chế sinh sản. Ngày nay có nhiều loại thuốc ngừa thai hormon

steroid hiệu quả lên tới 99%. Thuốc đã ra đời kịp thời góp phần giải quyết
công tác KHHGĐ.
- Năm 1960, Food and Drug Aminitration (FDA) phê chuẩn việc dùng
thuốc viên tránh thai kết hợp
- Năm 1973 FDA phê chuẩn việc dùng viên thuốc tránh thai liều thấp chỉ
chứa progestin.
- Năm 1974 Al Yugpe giới thiệu viên tránh thai khẩn cấp (OVRD)
- Năm 1990 FDA phê chuẩn việc dùng que cấy Norplant
- Năm 1992 FDA phê chuẩn việc dùng thuốc tiêm Depo Provera
- Năm 2011 FDA phê chuẩn việc dùng một loại miếng dán Ortho- Evra
Tại Việt Nam, theo số liệu của Viện thông tin Thư viện Y học Trung
ương năm 2002[3]. Tỷ lệ sử dụng thuốc uống tránh thai so với tổng số các
biện pháp tránh thai được chấp nhận trong KHHGĐ năm 2002 đã tăng lên khá
cao: Hà Nội là 18,2% và Vĩnh Phúc là 29,0% và tỷ lệ này cũng tương đương
với các địa phương khác trong cả nước. Thông tin này cho thấy biện pháp
tránh thai bằng thuốc có hormon đã được chấp nhận sử dụng tại Việt Nam với
tỷ lệ ngày càng tăng một cách đáng kể trong những năm gần đây theo xu
hướng chung của thế giới.
1.3.1. Các dạng thuốc tránh thai có hormon đang được sử dụng trên thế giới.
1.3.1.1. Viên tránh thai kêt hợp [2], [17], [64].
Ban đầu người ta dùng Estrogen tổng hợp ( Ethynyl estrdiol) liều cao,
nhưng qua thực nghiệm hiện đại thấy rằng có nhiều tác dụng phụ liên quan
thành phần của thuốc đặc biệt là các cơ quan : Gan, mật, bệnh về tim mạch
23
Ngày nay người ta cố gắng giảm liều Ethynyl estrdiol xuống đến mức thấp
nhất có thể để giảm các tác dụng phụ của (E.E)
- Theo hàm lượng Estrogen chứa trong viên thuốc tránh thai có hai loại:
+ Viên tránh thai liều lớn: Hàm lượng ethinyl estradiol (E.E) trong mỗi
liều thuốc là 50 µg.
+ Viên thuốc tránh thai liều nhỏ: Hàm lượng (E.E) chứa trong mỗi viên

thuốc từ 20 µg - 40 µg (Mercilon, Triquilon).
- Theo cách phối hợp giữa hai loại nội tiết estrogen và progestin có thể
chia ra các loại sau:
+ Viên kết hợp: Hàm lượng (E.E) và progestatif giống nhau trong mọi
viên thuốc và vỉ thuốc.
+ Dạng kế tiếp: Phần đầu vỉ thuốc và các viên chỉ chứa (E.E), phần sau
vỉ thuốc các viên chứa cả (E.E) và progestatif.
+ Dạng hai pha: Hàm lượng (E.E) và progestatif thay đổi 1 lần trong
vỉ thuốc.
+ Dạng ba pha: Hàm lượng (E.E) và progestatif thay đổi 2 lần trong vỉ thuốc.
1.3.1.2. Viên thuốc tránh thai chỉ có progestin[16], [19], [52].
- Liều nhỏ: có thể dùng liên tục, dùng cả trong thời kỳ cho con bú.
- Liều lớn: có thể dùng kết hợp với điều trị phụ khoa
- Viên tránh thai khẩn cấp: là loại thuốc có liều lượng progesteron cao (750
µg Levonorgestrol) dùng cho những người không giao hợp thường xuyên.
Uống 1 viên trong vòng 72 giờ sau cuộc giao hợp không được bảo vệ,
uống thêm viên thứ 2 sau liều thứ nhất 12 giờ đồng hồ.
1.3.1.3. Thuốc tiêm tránh thai[4], [18], [52].
- Loại thuốc được sử dụng là Depo-Provera(DMPA). Bản chất thuốc
là progestatif, tùy theo hàm lượng lọ thuốc có thể tránh thai được thời
gian khác nhau.
- Tác dụng tránh thai nhờ làm teo NMTC và làm đặc chất nhầy cổ tử
cung nên có nhiều tác dụng phụ: mất kinh, ra máu thấm giọt giữa kỳ, khô âm
đạo, giảm nhu cầu tình dục, dùng lâu có thể gây những biến chứng về tim
mạch, loãng xương gần giống ở người mãn kinh.
24
1.3.1.4. Thuốc cấy tránh thai[20],[53], [52]
- Loại 6 thanh chứa mỗi thanh 6mg Levonorgestrel-progestin được giải
phóng dần dần vào cơ thể, có tác dụng tránh thai trong 5 năm.
- Loại 1 thanh chứa 68 mg levonorgestrel có tác dụng tránh thai trong 3 năm

- Thuốc có tác dụng tránh thai cao nhưng gây nhiều tác dụng phụ và phải
nhờ can thiệp thủ thuật cấy ghép của y tế.
1.3.1.5. Miếng dán tránh thai qua da ( Transdemal patch) [34], [38], [41], [59]
Có hai loại:
- OR THO EVRA: chứa 6mg Norelgestromin và 0,75 mg Ethinyl estradiol.
- EVRA: chứa 6 mg Norelgestromin và 0,6 mg Ethinyl estradiol.
Thuốc được thấm qua da với liều lượng rất thấp, mỗi miếng dán có tác
dụng tránh thai trong 7 ngày.
1.3.1.6. Dụng cụ tử cung chứa hormon [58]
- Là loại DCTC hình chữ T, phần thân là một hình trụ được bọc bởi một
màng polydimethylsiloxane, chứa 52mg levonorgestrel.
- Nồng độ ổn định và thấp hơn so với mảnh ghép hay viên uống tránh
thai. Đủ hiệu quả để tránh thai trong 78 tháng.
1.3.2. Sự phát triển của dụng cụ tử cung trên thế giới [47].
Từ nhiều thế kỷ trước theo A. Southam những người Ả Rập, Thổ Nhĩ
Kỳ, Ai cập đi buôn chuyên chở hàng bằng lạc đà dài ngày qua sa mạc đã biết
đặt hòn sỏi vào dạ con lạc đà để tránh có thai và đẻ, ảnh hưởng tới quá trình
vận chuyển. [ ]
Năm 1909 Richard Richter một thầy thuốc người Đức lần đầu tiên đã
thực hành đặt dụng cụ vào trong buồng tử cung để tránh thai gọi là
Intrauterine contraceptive device (IUCD) hay Intrauterine device (IUD), đó là
một chiếc vòng bằng chỉ tơ tằm (silkworm gut) đường kính 27 mm [ ] Sau
đó lần lượt các tác giả như Dickson, Smith (1913) đã dùng quae bằng bạc đặt
vào dạ con để chữa bệnh, năm 1921 Dickson lại dùng que bằng bạc để đặt vào
25

×