Tải bản đầy đủ (.pptx) (22 trang)

Nhà nước và pháp luật ấn độ thời cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (782.65 KB, 22 trang )

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
ẤN ĐỘ THỜI CỔ ĐẠI
BÀI THUYẾT TRÌNH CỦA TỔ 3
LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật là một trong những hiện tượng quan trọng nhất của kiến trúc
thượng tầng. Cùng với sự xuất hiện của nhà nước, pháp luật ra đời và trở
thành công cụ quản lí xã hội của giai cấp thống trị. Từ khi xuất hiện nhà
nước tới nay, pháp luật luôn đóng vai trò hết sức quan trọng và chi phối
tới tất cả các hoạt động của con người. Vì vậy, việc hiểu về nguồn gốc pháp
luật và các nguồn luật cũng rất cần thiết trong hoạt động nhận thức, hoạt
động thực tiễn và yêu cầu về lí luận, đặc biệt là trong việc ban hành, sửa đổi
pháp luật. Xác định rõ nguồn gốc và những nguồn luật thì mới có cơ sở tìm
hiểu về pháp luật thế giới cũng như pháp luật Việt Nam.Bài thuyết trình sau
vừa đi sâu vào ngiên cứu nguồn gốc pháp luật và nguồn luật vừa khái quát
hóa nhằm tạo cách nhìn vừa rộng, vừa sâu về vấn đề trên. Phương pháp
nghiên cứu kết hợp giữa tổng hợp,phân tích và chứng minh, cộng với
phương pháp lịch sử, tìm hiểu các nguồn tài liệu khác nhau để làm sáng tỏ
vấn đề trên. Hi vọng đề tài này sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình học
tập và nghiên cứu.
Make by
NỘI DUNG
CHƯƠNG I : NHÀ NƯỚC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Sự ra đời của nhà nước Ấn Độ cổ đại
1.1 Vị trí địa lý
Ấn Độ là một bán đảo ở Nam á, từ Đông Bắc đến Tây Bắc có núi chắn
ngang, trong đó có dãy Himalaya nổi tiếng. Ấn Độ chia làm hai miền Nam,
Bắc lấy dãy núi Vinđya làm ranh giới. Miền Bắc Ấn Độ có hai con sông lớn
là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange). Sông Ấn chia làm 5 nhánh, nên
đồng bằng lưu vực sông Ấn được gọi là vùng Pungiáp (vùng Năm sông).
Tên nước Ấn Độ là gọi theo tên con sông này. Sông Hằng ở phía Đông
được coi là một dòng sông thiêng. Từ xưa nhân dân Ấn Độ thường đến


khúc sông ở thành phố Varanadi (Bênarét) để cử hành lễ tắm mang tính
chất tôn giáo. Cả hai dòng sông này đã bồi đắp thành hai đồng bằng màu
mỡ ở miền Bắc Ấn Độ, vì vậy nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn
minh của đất nước này.
Make by
Cư dân Ấn Độ, về thành phần chủng tộc, gồm hai loại chính:
người Đraviđa chủ yếu cư chú ở miền Nam và người Arya chủ
yếu cư chú ở miền Bắc. Ngoài ra còn có nhiều tộc khác như
người Hy Lạp, người Hung Nô, người Arập Họ dần dần đồng
hóa với các thành phần cư dân khác, do đó vấn đề bộ tộc ở Ấn
Độ là một vấn đề hết sức phức tạp.
Thời cổ trung đại, phạm vi địa lý của nước Ấn Độ bao gồm cả
các nước Pakixtan, Bănglađét và Nêpan ngày nay.
1.1.1 Qúa trình lịch sử
a.Văn hóa Haráppa
Tài liệu lịch sử giúp chúng ta hiểu biết về thời kỳ này không phải là
tài liệu thành văn mà là tài liệu khảo cổ học. Vì vậy trước năm
1921, giai đoạn lịch sử này chưa được biết đến. Năm 1921 và
1922, các nhà khảo cổ học An Độ đã tìm thấy ở Haráppa và
Môhengiô Đarô thuộc lưu vực sông An hai thành phố cùng rất nhiều
hiện vật bị chôn vùi dưới đất. Những hiện vật ấy là di tích của một
thời kỳ lịch sử được gọi là văn hóa Haráppa hoặc nền văn minh lưu
vực sông An.
- Các hiện vật đã tìm thấy:
Haráppa và Môhengiô là hai thành phố rất lớn xây bằng gạch. Xung
quanh thành phố có thành và hào bao bọc. Trong thành phố có các
đường phố ngang dọc thẳng tắp. Mỗi thành phố có hàng trăm nhà
và cửa hiệu lớn nhỏ, trong đó phần nhiều là nhà hai tầng. Trong
nhà thường có đầy đủ tiện nghi như bếp, phòng tắm, ống dẫn
nước… Ở các di chỉ này, còn tìm thấy nhiều công cụ sản xuất, vũ

khí, đồ dùng trong đời sống hàng ngày, đồ trang sức, đồ tế lễ và
hơn 3000 con dấu có khắc chữ đồ họa. Các dụng cụ đó, có thứ
bằng đồng hoặc đồng thau, có thứ bằng đá.
Make by
- Tình hình xã hội.
Những hiện vật phát hiện được cho biết rằng trong xã hội thời kỳ đó đã có
sự phân hóa giàu nghèo rất rõ rệt. Việc phát hiện ra chữ viết, hơn nữa trên
một số con dấu có ghi những chữ như “người cầm quyền” (Sasa), “người
cai trị” (Pata), “vua của những ông vua” (Reja – reja) v.v… đã nói lên rằng
xã hội thời văn hóa Haráppa là xã hội có nhà nước.
Nền văn minh lưu vực sông An tồn tại từ khoảng đầu thiên kỷ III đến nửa
đầu thiên kỷ II TCN thì bị hủy diệt. Nguyên nhân của sự hủy diệt đó là nạn
lụt do nước sông An dâng lên. Cư dân ở đây phải di cư sang phía đông bỏ
lại các thành phố của họ bị vùi dần xuống lòng đất.
b. THỜI KỲ VÊ ĐA.
Từ giữa thiên kỷ II đến giữa thiên kỷ I TCN, Lịch sử An Độ được phản ánh
trong các tác phẩm văn học gọi là Vêđa, vì vậy thời kỳ này được gọi là thời
Vê đa. Vêđa vốn nghĩa là “hiểu biết”. Vêđa có 4 tập là Rích Vêđa, Xama
Vêđa, Atácva Vêđa và Yagiua Vêđa, trong đó Rích Vêđa là xưa nhất và
quan trọng nhất. Rích Vêđa gồm 1028 bài ca được sáng tác vào khoảng
giữa thiên kỷ II đến cuối thiên kỷ II TCN, còn ba tập Vêđa khác thì được
sáng tác vào khoảng đầu thiên kỷ I đến giữa thiên kỷ I TCN, vì vậy thời kỳ
Vêđa có thể chia làm hai thời kỳ nhỏ là:
Make by
- Thời kỳ Rích Vêđa (khoảng năm 1500 – 1000 TCN).
- Thời kỳ Hậu Vêđa (khoảng năm 1000 – 600 TCN).
Chủ nhân của thời kỳ Vêđa là người Arya (nghĩa là “người cao qúy” ) mới
từ trung Á di cư vào An Độ. Địa bàn sinh sống của họ trong thời kỳ này chủ
yếu là vùng lưu vự sông Hằng.
1. Tình hình kinh tế.

Trong thời Rích Vêđa, người Arya đang sống trong giai đoạn cuối của xã
hội
nguyên thủy. Ngành kinh tế quan trọnh nhất là chăn nuôi. Gia súc rất được
coi trọng nhất là bò. Bởi vậy, trong ngôn ngữ lúc bấy giờ “tù trưởng bộ lạc”
có nghĩa là kẻ chiếm hữu bò cái”, “chiến sĩ” có nghĩa là “người chiến đấu vì
bò cái”. Dần dần, do học tập được những kinh nghiệm sản xuất của dân
bản địa, người Arya đã chuyển sang đời sống định cư lấy nông nghiệp làm
nghề chính.
2. Sự ra đời của nhà nước. Do kinh tế phát triển, sự phân hóa giai cấp
cũng diễn ra rõ rệt, đến khoảng cuối thiên kỷ II TCN, thủ lĩnh quân sự dần
dần biến thành người có nhiều quyền uy và chức vụ ấy trở thành cha
truyền con nối. Họ đã biến thành những ông vua. Nhà nước đã ra đời.
Make by
1.2.Tổ chức bộ máy nhà nước
a.Tình hình chính trị.
- Các quốc gia ở miền Bắc An Độ và sự xâm lược của Alếchxăng
Makêđônia. Bắt đầu từ thế kỷ VI-TCN, An Độ mới có các tác phẩm lịch sử
ghi chép về tình hình chính trị của đất nước mình. Lúc bấy giờ ở miền Bắc
An Độ có 16 nước, trong đó mạnh nhất là nước Magađa.
Nước Magađa ở hạ lưu sông Hằng. Đây là nơi đất đai màu mỡ thích hợp
với việc phát triển nông nghiệp, đồng thời là nơi có nhiều thuận lợi trong
việc buôn bán bằng đường biển, do vậy Magađa đã lớn mạnh nhanh
chóng. Trên cơ sở ấy, Magađa không ngừng chinh phục các nước khác,
mở rộng phạm vi thống trị của mình đến tận miền Đông Bắc và miền Trung
An Độ.
Cũng thời gian ấy, ở miền Tây Bắc An Độ cũng chia thành nhiều nước nhỏ,
trong đó chỉ có nước Po là tương đối lớn. Lúc bấy giờ, ở Tây Á có nước Ba
Tư hùng mạnh một thời, nhưng đến năm 328 TCN, Ba Tư bị Makêđônia
tiêu diệt. Nhân đà thắng lợi ấy, năm 327 TCN, quân Makêđônia tấn công

vào miền Tây Bắc của An Độ. Quân đội của nước Po đã chiến đấu rất dũng
cảm nhung cuối cùng bị thất bại. Alếchxăng định tiến sang phía đông tấn
công nước Magađa nhưng quân sĩ không ủng hộ kế hoạch đó vì họ đã qúa
mệt mỏi sau một cuộc trường chinh nhiều năm.
Alếchxăng phải ra lệnh rút quân chỉ để lại một số quân chiếm đóng hai cứ điểm
Buxêphan và Nikêa mà thôi. Những vùng bị Alếchxăng chinh phục ở An Độ vẫn
được giữ nguyên chính quyền cũ nhưng phải lệ thuộc vào những kẻ đứng đầu hai
cứ điểm đó.
b. Vương triều Môrya. (321 – 187 TCN)
Ngay sau khi quân Alếchxăng rút lui, ở Ấn Độ đã dấy lên phong trào đấu
tranh giải phóng chống lại sự chiếm đóng của quân Makêđônia. Thủ lĩnh
của phong trào này là Sanđragúpta, biệt hiệu là Môrya (nghĩa là chim công).
Quân chiếm đóng Makêđônia bị đuổi khỏi Ấn Độ, Sanđragúpta làm chủ
được cả vùng Pungiáp. Tiếp đó, ông tiến quân về phía đông giành được
ngôi vua ở Magađa, lập nên một triều đại mới gọi là Vương triều Môrya, Đó
là triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử An Độ cổ đại. Theo truyền thuyết
đến khoảng năm 300TCN, Sanđragúpta theo đạo
Giaina và sau đó nhịn ăn tự tử theo tập quán của tôn giáo này.
Đến thời cháu của Sanđragúpta là Axôca (273 –236 TCN), nước Magađa
đạt đến giai đoạn cường thịnh nhất. Axôta là ông vua nổi tiếng nhất trong
lịch sử An Độ cổ đại. Axôca không ngừng tấn công các nước khác, do đó
cương giới Magađa càng được mở rộng.
Make by
Các mặt kinh tế, văn hoá của Magađa thời kỳ này cũng phát triển rõ rệt.
Ở kinh đô Pataliputơra và một số thành phố khác đã xây dựng nhiều
cung điện, đền chùa, nhà cửa, bệnh viện, phòng phát thuốc v.v… Đạo
Phật ra đời từ khoảng thế kỷ VI TCN đến thời kỳ này được chấn chỉnh và
trở thành quốc giáo. Như vậy, thời Axôca là thời kỳ ổn định, hùng mạnh
của vương triều Môrya, nhưng sau khi ông chết, vương triều này suy sụp
nhanh chóng và nước Magađa thống nhất dần dần tan rã.

3. Một số đặc thù của chế độ xã hội Ân Độ cổ đại
a. Chế độ Vácna. (đẳng cấp)
Trong thời kỳ lịch sử này ở Ấn Độ đã xuất hiện một chế độ đẳng cấp có
ảnh hưởng rất quan trọng và lâu dài trong xã hội nước này, đó là chế độ
Vácna. Chữ Vácna trong tiếng Xăng xkrít (một loại cổ ngữ của An Độ) có
nghĩa là “màu sắc” (chỉ màu da) nhưng thực ra chế độ Vácna là chế độ
chia cư dân thành 4 đẳng cấp có quyền lợi, nghĩa vụ và địa vị xã hội
khác nhau
Make by
- Bốn đẳng cấp đó là Braman (Bàlamôn), Ksatơria, Vaisya, Suđra.
Đẳng cấp Bàlamôn gồm những người làm nghề tôn giáo.
Đẳng cấp Ksatơrya gồm các chiến sĩ.
Đẳng cấp Vaisya gồm những người chăn nuôi, làm ruộng, buôn bán…
Đẳng cấp Suđra gồm thợ thủ công, đầy tớ. Họ vốn là con cháu của những bộ lạc bị
bại trận
b. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ Vácna.
- Theo truyền thuyết: các đẳng cấp Braman, Ksatơrya, Vaisya và Suđra được thần
Brama tạo ra theo thứ tự từ miệng, tay, đùi và bàn chân của thần.
- Sự thực, sự xuất hiện Vácna là do sự phân hóa giai cấp, sự phân công về nghề
nghiệp và sự phân biệt về bộ tộc.
Sự khác nhau giữa các đẳng cấp:
Giữa bốn đẳng cấp ấy có sự khác nhau về địa vị xã hội mà chủ yếu là về tôn giáo,
hôn nhân và quyền lợi trước pháp luật. Về tôn giáo, chỉ có ba đẳng cấp trên mới
được cúng thần và đọc kinh Vêđa, trong đó chỉ có Bàlamôn mới được giảng kinh
Vêđa và phụ trách việc cúng lễ. Do vậy, ba đẳng cấp trên được coi là sinh hai lần,
còn Suđra không được tham dự các nghi lễ tôn giáo nên chỉ được coi là sinh một
lần.
Make by
c. Đạo Bàlamôn.
Đầu thời Vê đa, cư dân An Độ thờ rất nhiều thần: đá, cây, cư dân, các động

vật, người chết, sông, núi… Đến những thế kỷ đầu thiên kỷ I TCN, các quan
niệm tôn giáo ấy được gọi chung là đạo Bàlamôn, đồng thời một hệ thống
giáo lý tương đối hoàn chỉnh cũng được hình thành.
Đối tượng thờ cúng cao nhất của đạo Bàlamôn là thần Brama. Đó là linh
hồn vũ trụ, là đấng Hoàn hảo sáng tạo ra thế giới và muôn loài, là vị thần
cao nhất, là chúa tể của các thần. Tuy nhiên thần Brama có phần trừu
tượng đối với nhân dân, nên có nơi người ta thờ thần Visnu, thần nhân ái
làm cho ruộng đồng tươi tốt như là vị thần cao nhất; Có nơi lại thờ thần
Siva, thần ác, thần phá hoại mọi lực lượng tự nhiên là vị thần
cao nhất. Ngoài ra đạo Bàlamôn còn thờ nhiều loại thần động vật như voi,
khỉ, và nhất là bò. Về sau, để thống nhất đối tượng thờ cúng của đạo
Bàlamôn, người ta quan niệm thần Brama, thần Visnu và thần Siva là một
bộ ba thể hiện một qúa trình: sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt. Về mặt xã hội,
đạo Bàlamôn là công cụ đắc lực để bảo vệ sự phân chia đẳng cấp. Cũng
chính vì vậy, đến giữa thiên kỷ I TCN, đạo Bàlamôn bị suy thoái và nhường
chỗ cho một tôn giáo mới là đạo Phật.
CHƯƠNG II : PHÁP LUẬT – BỘ LUẬT MANU
2. Đặc điểm của bộ luật Manu
Ấn Độ là vùng rừng núi, đất đai khô cằn, cư dân đa sắc tộc, là quê hương
của nền văn minh sông Ấn, sông Hằng rực rỡ, nơi Nhà nước ra đời từ rất
sớm và mang đậm bản sắc tôn giáo trong lịch sử. Chính vì vậy mà luật
pháp nhà nước Ấn Độ cổ đại đan xen quy chế đẳng cấp, giáo lý và tập
quán, mọi hành vi xử sự của con người phải chịu sự điều chỉnh bởi rất
nhiều thứ luật lệ.

Trong các triều vương quốc cổ đại Ấn Độ, Luật Manu là luật hoàn chỉnh
nhất. Theo truyền thuyết, luật này được chép lại từ lời răn của Manu - ông
tổ của tộc người Arya.
- Là bộ luật hàn chỉnh nhất trong tất cả các luật lệ cổ ở Ấn độ, được xây

dựng và khảng thế kỷ thứ II – I TCN bởi các giá sĩ Bà La Môn. Thực chất nó
là những luật lệ, những tập quán pháp của giai cấp thống trị được các giá
sĩ Bà La Môn tập hợp lại dưới dạng trường ca, được trình bày dưới dạng
câu sang vần.
- Gồm 2685 điều, chia thành 12 chương.
-
Nội dung của bộ luật không chỉ là những quan hệ pháp luật mà còn là
những vấn đế khác như chính trị, tôn giá, quan niệm về thế giới và vũ
trụ. Nhưng xét trên phương diện pháp lý, chúng ta có thể phân bộ luật
Manu thành những chế định cụ thể.
2.1 Chế định quyền sở hữu
-
Đối với ruộng đất: giống như phần chế độ ruộng đất đã trình bày. Đối
với đất thuộc quyền sở hữu của tư nhân thì được quyền mua bán
nhưng phải chịu sự giám sát của nhà nước (nếu người bán động sản
nhận được số tiền nhiều hơn giá quy định thì nhà nước sẽ thu hồi số
tiền dư đó)
-
Đối với những tài sản khác, nhà nước chỉ thừa nhận quyền sở hữu khi

chứng cứ cụ thể chỉ rõ nguồn gốc của nó (mua bán, thừa kế, ban
thưởng).
Gồm 808 trang. Đây là trang 3
Luật Manu chủ yếu quy định quyền sở hữu ruộng đất. Hình thức sở hữu
ruộng đất lúc bấy giờ là tập trung vào nhà Vua, Nhà nước và công xã.
Ruộng đất của nông dân do công xã phân chia, nghiêm cấm tuỳ tiện thay
đổi ranh giới hoặc chuyển dịch quyền tư hữu. Nếu làng xã tranh chấp đất
đai một cách man trá, thì đất đai đó bị nhà vua thu lại (Điều 9). Bên cạnh
ruộng
đất, Luật Manu quy định khá chi tiết về căn cứ làm phát sinh, thay đổi và

chấm dứt quan hệ sở hữu đối với vật: Nếu chủ sở hữu cho người khác sử
dụng đồ vật của mình trong vòng 10 năm không đòi lại thì họ mất quyền sở
hữu đó (Điều 147).
2.2 Chế định hợp đồng
Quy định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:
Không được ký với người điên, người say rượu, người già yếu, người
chưa đến tuổi thành niên.
Không được lừa dối hay dùng áp lực để ký hợp đồng.
Phải được ký công khai.
Đề cập nhiều đến hợp đồng vay mượn, cầm cố:
Trong đó quy định mức lãi tối đa phải trả mỗi tháng, mức lãi suất này tùy
thuộc the từng đẳng cấp trong xã hội.

Bà la Môn: 2%
Ksatơria: 3% (quan lại, binh sĩ)
Vaisia: 4% (thường dân)
Suđra: 5%
Nếu con nợ không trả được nợ thì bị biến thành nô lệ.
Nếu con nợ có khả năng trả nợ nhưng không chịu trả thì chủ nợ có quyền
đánh đập, hành hạ cn nợ ch đến khi đòi được nợ.
- Hợp đồng được chia nhiều loại như: Hợp đồng mua bán, vay mượn,
cầm cố, thuê mướn v.v. trong đó có kèm theo hình thức thưởng - phạt
nhưng phân biệt đẳng cấp rõ ràng; ví dụ: chủ nợ được thu giữ tài sản dùng
bạo lực hoặc bắt con nợ làm nô lệ.
2.3 Chế định hôn nhân gia đình
Hôn nhân mang tính chất mua bán. Người vợ được chồng mua về và tất
cả của hồi môn của người vợ thuộc quyền sở hữu của chồng.
Thừa nhận sự bất bình đẳng trong quan hệ vợ chồng:
Lúc nào người phụ nữ cũng phải chịu sự bảo hộ của đàn ông (tam tòng)
Vợ không được quyền ly dị chồng trong mọi trường hợp. Người chồng dù

tàn bạ, ngại tình vợ cũng phải tôn trọng và xem như một thánh nhân của
đời mình.
Make by
Ngược lại, chồng có quyền ly dị vợ nếu vợ không có con hoặc sinh tàn
con gái. Ngoài ra chồng được quyền đánh đập hành hạ vợ con mà không
bị tội.
Bộ luật quy định chỉ được kết hôn trong cùng đẳng cấp. Tuy nhiên, đàn
ông vẫn có thể lấy vợ thuộc đẳng cấp dưới.
2.4 Chế định thừa kế
Ban đầu, ở Ấn Độ chỉ thừa nhận hình thức thừa kế theo pháp luật (khi

người cha chết, mọi tài sản được chia đều cho các con còn sống). Về
sau,
dù ảnh hưởng của văn há phương tây, người Ấn cũng lập di chúc.
Đẳng
cấp Bà La Môn ủng hộ tục lệ mới này vì điều này làm cho tài sản của
giá
hội tăng lên, nếu người dân lập di chúc để lại tài sản cho giáo hội.
Tất cả các con đều có quyền thừa kế tài sản của người cha. Con gái
nhận
tài sản thừa kế để làm của hồi môn.
2.5 Chế định tội phạm và hình phạt (hình sự)
Những chế đình sự đề ra theo nguyên tắc: khoan dung đối với những
người chà đạp lên quyền lợi của kẻ dưới, trừng trị thẳng tay đối với
những người xâm phạm đến tính mạng, quyền lợi, nhân phẩm của đẳng
cấp trên.
Make by
Các hình phạt trong bộ luật rất dã man:
Luật quy định hình phạt rất nặng đối với tội trộm cắp. Trộm cắp và ban
đêm hay khét ngạch và nhà thì bị chặt tay hoăc ngồi trên chiếc cọc nhọn,

nếu phạm tội lần thứ ba thì bị tử hình. Nếu trộm cắp tài sản của vua hay
của đến chùa thì bị xử tử mà không cần xét xử.
Phạm tội gây rối trong dân chúng sẽ bị thiêu chết
Cũng giống như luật Hammurapi, chế định hình sự của luật Manu cũng
mang tính trả thù ngang bằng nhau.
Sử dụng phép thử tội: dầu sôi + phân bò hay rắn độc -> quan tòa được
phép thử tội nếu chứng cứ không rõ ràng -> ví dụ bắt nghi phạm nhúng tay
vào chảo dầu.
2.6 Chế định tố tụng
Rất coi trọng chứng cứ (nhân chứng, vật chứng) nhưng giá trị của
chứng
cứ lại phụ thuộc và đẳng cấp và giới tính.
Người làm chứng phải cùng đẳng cấp và giới tính với bị can.
Khi có sự mâu thuẫn giữa các chúng cứ thì chứng cứ của đẳng cấp trên
thì có giá trị hơn so với đẳng cấp dưới.
Make by
Make by
KẾT LUẬN
Qua bài thuyết trình này chúng em đã giới thiệu khá cụ thể và đầy đủ về nhá nước
và pháp luật Ấn Độ thời cổ đại .
Make by

×