Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính tại công ty cổ phần bảo hiểm petrolimex

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.51 KB, 70 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BH Bảo hiểm
DNBH Doanh nghiệp bảo hiểm
DNBHPNT Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
TTCK Thị trường chứng khoán
PJICO Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC BẢNG
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức bộ máy của PJICO đến 31/12/2011 Error: Reference
source not found
Biểu 2.1: Thị phần doanh thu bảo hiểm gốc của PJICO 2006-2010 Error:
Reference source not found
Biểu 2.2: Vốn chủ sở hữu, doanh thu, lợi nhuận PJICO 2006 -2010 Error:
Reference source not found
Biểu 2.3: Tài sản, doanh thu và vốn đầu tư trở lại nền kinh tế của PJICO giai đoạn
2006-2010 Error: Reference source not found
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, với trình độ phát triển cao của nền kinh tế - xã hội,
thị trường ngày càng mở rộng và phát triển theo mối quan hệ kinh tế khu vực và
quốc tế - Đây là điều kiện môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh bảo hiểm nói chung gắn liền hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp
bảo hiểm nói riêng có cơ hội phát triển. Tuy nhiên hoạt động đầu tư nhằm nâng cao
hiệu quả kinh doanh và phát triển nguồn vốn, gia tăng giá trị thặng dư luôn là vấn


đề doanh nghiệp quan tâm chú trọng hàng đầu.
Nếu như trước năm 2000 - năm giao thời thể hiện sự thay đổi căn bản trong
hoạt động đầu tư tài chính, hoạt động quản lý đầu tư và danh mục đầu tư trong đầu
tư tài chính còn mang tính tự phát, chưa có khái niệm khoa học về quản lý tài chính
và quản lý rủi ro. Từ năm 2000 trở lại đây, các ngân hàng thương mại Việt Nam nói
chung và hoạt động kinh doanh Bảo hiểm nói riêng là một trong những tổ chức
định chế tài chính đã và đang dần thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm giảm thiểu
rủi ro để tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh như đa dạng hoá danh mục đầu tư.
Tuy nhiên trong thực tế đầu tư và quản lý danh mục đầu tư là một trong những lĩnh
vực nhạy cảm, mọi sự biến động của nền kinh tế điều có thể ảnh hưởng trực tiếp
đến như sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp, trong đó bảo hiểm không nằm
ngoại lệ. Vì vậy, việc xây dựng giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả đầu tư, các
phương pháp đo lường, đánh giá rủi ro, qua đó tìm ra các giải pháp nhằm kiểm soát
rủi ro trong hoạt động đầu tư thích hợp thực sự cần thiết đối với sự tồn tại và phát
triển của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Từ năm 2008 đến nay, nền kinh tế Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, thách
thức (xuất khẩu giảm, lạm phát tăng, đầu tư nước ngoài và kiều hối đều giảm
mạnh ) do những yếu tố tiêu cực xuất hiện sau thời gian tăng trưởng nóng và ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Các doanh nghiệp là những người đầu
tiên gánh chịu những khó khăn này. Chính vì thế, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
doanh vốn tại doanh nghiệp bảo hiểm càng trở nên cấp thiết trong giai đoạn khủng
hoảng kinh tế thế giới vừa qua và hậu thời kỳ khủng hoảng.
Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO là một trong những doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ đứng tốp đầu của cả nước. Với những thành tựu đạt được của đơn vị
trong thời gian qua. Bên cạnh đó còn có nhiều thách thức nhất là tình hình kinh tế
thế giới và trong nước còn diễn biến phức tạp, bức tranh kinh tế hồi phục chưa rõ
nét, Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO xác định mục tiêu: Tăng trưởng đi đôi với

ổn định; Nhiệm vụ trọng tâm: Bảo toàn đi đôi với phát triển, không ngừng gia tăng
vốn chủ sở hữu thông Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc và
nâng cao hiệu quả trong công tác đầu tư tài chính một cách linh hoạt và thận trọng.
Trên cơ sở nhận thức tầm quan trọng của hoạt động đầu tư tài chính trong doanh
nghiệp bảo hiểm, bằng những kiến thức lý luận cơ bản mà em đã được tiếp thu
trong quá trình học tập kết hợp với kiến thức thực tế, vì vậy em quyết định chọn đề
tài: “Nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm
Petrolimex” làm chuyên đề thực tập của mình.
1. Mục đích chuyên đề
- Chuyên đề làm rõ các vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư và hiệu quả hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Đánh giá đúng thực trạng hoạt động đầu tư và hiệu quả hoạt động đầu tư tại
PJICO.
- Đề xuất các giải pháp phù hợp để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động
đầu tư tại PJICO.
2. Đối tượng và phạm vi chuyên đề
- Đối tượng chuyên đề là hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Phạm vi chuyên đề là hoạt động đầu tư tại PJICO giai đoạn 2006 đến 2010.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư và hiệu quả hoạt động
đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm. Làm rõ các đặc trưng về nguồn vốn, về hạn
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
mức và lĩnh vực đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm cũng như các yếu tố ảnh hưởng
tới hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư và hiệu quả hoạt động đầu tư tại
PJICO: Các kết quả đã đạt được, các hạn chế và nguyên nhân.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng, từ đó đề xuất giải pháp nhằm phát triển hoạt
động đầu tư và hiệu quả hoạt động đầu tư tại PJICO trong những năm tới.

4. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động đầu tư và hiệu quả hoạt động đầu tư trong
doanh nghiệp bảo hiểm.
Chương II: Thực trạng đầu tư và hiệu quả hoạt động đầu tư tại PJICO giai đoạn
2006 -2010.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại PJICO.
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
1.1. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
1.1.1. Khái niệm
Đầu tư là thuật ngữ đã được đề cập trong nhiều tác phẩm của các nhà kinh tế
học hiện đại như P.A.Samuelson, Pierce Conson,…Nhìn chung, các nhà kinh tế học
xem xét khái niệm đầu tư trên cơ sở các quan điểm khác nhau: Quan điểm kinh tế,
quan điểm tài chính hay quan điểm kế toán. Theo Pierce Conson, đầu tư trên quan
điểm kinh tế được xem xét ở góc độ hiệu quả, trên quan điểm tài chính được xem
xét ở góc độ vốn, và trên quan điểm kế toán là sự ghi chép và kết quả đầu tư.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, khái niệm đầu tư cũng được đề cập
nhiều trong sách báo cũng như các phương tiện thông tin đại chúng khác. Theo
nghĩa rộng, đầu tư có thể hiểu là sự hy sinh nguồn lực hiện tại (như tiền, sức lao
động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư
trong tương lai. Với khái niệm này, tất cả những hành động chi dùng vốn và nguồn
lực trong hiện tại nhằm mục đích thu được lợi ích nào đó trong tương lai đều có thể
gọi là đầu tư.
Theo quan điểm của tác giả: Hoạt động đầu tư của DNBH là việc sử dụng
các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư tài chính nhằm đem lại lợi nhuận tương lai

cho doanh nghiệp. Nếu xét hoạt động đầu tư của DNBH trên cả góc độ huy động
và chi dùng vốn nhàn rỗi, đây thực chất là hình thức đầu tư gián tiếp trên quan điểm
tài chính. Sử dụng tiền nhàn rỗi từ vốn chủ sở hữu và phí bảo hiểm thu được nhưng
chưa sử dụng, DNBH cung cấp vốn cho nền kinh tế như một trung gian tài chính
thông qua thị trường tài chính dưới các hình thức như gửi tiền ngân hàng, mua
chứng khoán hay góp cổ phần . Chính vì vậy, xét trên quan điểm kinh tế phát
triển, hoạt động đầu tư của DNBH thực chất là loại hình đầu tư tài chính. Cũng như
các doanh nghiệp nói chung, DNBH cũng có hoạt động đầu tư tài sản cố định (như
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
xây dựng trụ sở làm việc của doanh nghiệp), và đầu tư tài sản lưu động (như mua
sắm các đồ dùng văn phòng), đồng thời DNBH cũng có hoạt động đầu tư phát triển
(như xây dựng nhà cửa hay đào tạo bồi dưỡng nguồn lực). Nhưng đây là những hoạt
động đầu tư chi dùng vốn của doanh nghiệp, không phải chi dùng vốn nhàn rỗi từ
các quỹ dự phòng nghiệp vụ và phí bảo hiểm thu được. Phạm vi nghiên cứu của
chuyên đề là hoạt động đầu tư vốn nhàn rỗi của DNBH.
1.1.2. Vai trò của hoạt động đầu tư
Doanh thu cao, tăng trưởng mạnh song hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam không hề tương xứng. Nhiều doanh nghiệp công bố
mức lãi hàng chục, hàng trăm tỷ đồng nhưng thực tế hiệu quả của nghiệp vụ kinh
doanh chính là bảo hiểm lại là con số âm, đó là thực trạng của thị trường bảo hiểm
Việt Nam trong những năm gần đây.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, năm 2008 có đến 16/25 doanh nghiệp BHPNT
bị thua lỗ về nghiệp vụ bảo hiểm, tổng số lỗ toàn thị trường là 163 tỷ đồng. Năm
2009, chỉ có 10 doanh nghiệp BHPNT có lãi với số lãi rất thấp, và toàn thị trường
vẫn lỗ trên 200 tỷ đồng. Hậu quả là các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ phải
lấy lãi từ đầu tư tài chính bằng vốn chủ sở hữu và dự phòng để bù đắp. Điều đó dẫn
đến cổ tức chia cho các cổ đông thấp, kém hấp dẫn trên thị trường chứng khoán.
Điều này ảnh hưởng lớn tới thương hiệu của doanh nghiệp trong hoạt động kinh

doanh bảo hiểm và có thể dẫn đến việc khó khăn trong phát triển mở rộng kinh
doanh, thu hút nguồn nhân lực… Nguyên nhân của tình trạng thua lỗ nghiệp vụ bảo
hiểm kéo dài triền miên và mang tính phổ biến hiện nay được nhận định chủ yếu do
chi phí khai thác lớn và bồi thường ngày càng tăng so với số phí thu được. Tình
trạng này được dự báo còn tiếp diễn và đó là vấn đề cần quan tâm của các doanh
nghiệp bảo hiểm. Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam đang chịu nhiều ảnh hưởng
xấu từ vấn đề lạm phát, cạnh tranh… nên các cổ đông ngày càng gia tăng sức ép đối
với vấn đề lợi tức của mình.
Xuất phát từ những yếu tố đó, các doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay chỉ còn
trông cậy vào đầu tư tài chính và hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính của doanh
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nghiệp ngoài ý nghĩa đem lại lợi nhuận để trả cổ tức còn tạo ra sức mạnh tài chính
hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc của mình.
Bên cạnh đó hoạt động đầu tư tài chính là một nhiệm vụ quan trọng tạo ra lợi
nhuận từ việc tận dụng các nguồn vốn nhàn dỗi của doanh nghiệp bảo hiểm mà
nhiều doanh nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác không có.
Như vậy, có thể nói đầu tư tài chính là hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt
đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bảo hiểm:
- Thu nhập từ hoạt động đầu tư là một nguồn quan trọng tạo lợi nhuận cho
doanh nghiệp bảo hiểm. Hoạt động đầu tư ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp bảo hiểm. Bên cạnh chính sách dịch vụ (thường là mối quan
tâm hàng đầu ở các khách hàng truyền thống) thì chính sách phí lại đóng vai trò
quan trọng trong việc thu hút các khách hàng mới. Một trong những điều kiện quan
trọng để có khả năng thực hiện giảm phí để thu hút khách hàng là doanh nghiệp
phải có được lợi nhuận cao từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm và đầu tư tài chính.
- Thông qua hoạt động đầu tư, doanh nghiệp bảo hiểm cũng có thể xây dựng,
thắt chặt thêm các mối quan hệ với các khách hàng, từ đó, góp phần mở rộng quy
mô hoạt động của doanh nghiệp. Ví dụ như qua việc cho một tổ chức nào đó vay

tiền, hoặc góp vốn vào một doanh nghiệp, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có thể thực
hiện khai thác bảo hiểm tại các doanh nghiệp, tổ chức đó. Qua đó lại làm tăng quy
mô phí bảo hiểm cũng như quy mô nguồn vốn để phục vụ cho đầu tư tài chính.
- Hoạt động đầu tư cũng giúp các doanh nghiệp bù đắp sự mất giá của đồng
tiền, bảo toàn quỹ tài chính bảo hiểm trước rủi ro lạm phát…
1.1.3. Các hình thức đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
Điều 11 của Nghị định số 46/2007/NĐ-CP quy định: Việc đầu tư từ nguồn vốn
chủ sở hữu phải đảm bảo an toàn, hiệu quả và tính thanh khoản theo hướng dẫn của
Bộ Tài chính. Doanh nghiệp bảo hiểm được phép đầu tư ra nước ngoài theo quy
định của pháp luật đối với phần vốn chủ sở hữu vượt quá mức vốn pháp định hoặc
biên khả năng thanh toán tối thiểu, tuỳ số nào lớn hơn. Nhưng phải được sự chấp
thuận của Bộ Tài chính.
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Điều 98 của Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 quy định: Doanh
nghiệp bảo hiểm chỉ được sử dụng vốn nhàn rỗi của mình để đầu tư ở Việt Nam
trong các lĩnh vực sau: Mua trái phiếu Chính phủ; mua cổ phiếu, trái phiếu doanh
nghiệp; kinh doanh bất động sản; góp vốn vào các doanh nghiệp khác; cho vay theo
quy định của Luật các tổ chức tín dụng; gửi tiền tại các tổ chức tín dụng.
a. Mua trái phiếu Chính phủ
Đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chính phủ phát hành trái phiếu để
huy động tiền nhàn rỗi trong dân và các tổ chức kinh tế, xã hội. Chính phủ luôn
được coi là Nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường; vì vậy, trái phiếu Chính
phủ được coi là loại chứng khoán có ít rủi ro nhất. Trái phiếu Chính phủ Việt Nam
thời gian vừa qua được phát hành gồm 6 loại: Tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc,
trái phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng Tổ quốc, trái phiếu đầu tư, trái phiếu công
trình Trung ương.
Doanh nghiệp bảo hiểm có thể mua trái phiếu Chính phủ để đầu tư đem lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp từ nguồn vốn nhàn rỗi của mình một cách không hạn chế.

Đầu tư trái phiếu chính phủ thường là loại đầu tư an toàn với các ưu thế sau:
Một là: Có được một khoản thu nhập thường xuyên ổn định. Người nắm giữ
trái phiếu có thể có thu nhập từ lãi trái phiếu và khoản chênh lệch giá từ việc bán
trái phiếu trước hạn.
Lãi suất của trái phiếu thường được ấn định ngay từ đầu và cố định trong suốt
vòng đời của trái phiếu nên có thể coi trái phiếu là một loại đầu tư có thu nhập cố
định. Đặc điểm này tạo điều kiện cho nhà đầu tư có thể tính được dòng thu nhập dự
kiến trong tương lai.
Khả năng chuyển đổi của trái phiếu trước ngày đáo hạn cũng đảm bảo cho khả
năng huy động vốn dài hạn của người phát hành và thu hồi vốn nhanh chóng của
người mua. Trong trường hợp cần thiết, doanh nghiệp bảo hiểm có thể bán trái
phiếu để thực hiện nghĩa vụ với khách hàng.
Hai là: Trái phiếu chính phủ có độ an toàn cao. Trái phiếu trên thị trường
thường do chính phủ phát hành. Do vậy việc thanh toán gốc và lãi trái phiếu thường
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
được đảm bảo khá chắc chắn. Hơn nữa, đối với mục tiêu mua và lưu giữ trái phiếu
thì việc biến động giá trái phiếu không ảnh hưởng đến dòng thu nhập từ lãi trái
phiếu và số vốn thu hồi. Đặc điểm này rất phù hợp với các doanh nghiệp đầu tư
bằng nguồn vốn dài hạn. Một doanh nghiệp bảo hiểm có thể nắm giữ nhiều loại trái
phiếu với các kỳ hạn khác nhau.
Tuy nhiên, khi thực hiện đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, các nhà đầu tư phải
chịu những rủi ro nhất định, như: Rủi ro về giá, rủi ro lạm phát, rủi ro về điều khoản
được quyền mua lại… .
b. Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp
Trái phiếu doanh nghiệp: Là những trái phiếu do doanh nghiệp Nhà nước,
công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành để tăng vốn hoạt động.
Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại và rất đa dạng.
Doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của mình để mua

trái phiếu doanh nghiệp. Đầu tư trái phiếu doanh nghiệp cũng có một số ưu nhược
điểm giống đầu tư trái phiếu Chính phủ, tuy nhiên độ an toàn thường thấp hơn
nhưng lãi suất thường cao hơn so với trái phiếu Chính phủ.
Đầu tư cổ phiếu: Trong trường hợp công ty làm ăn có lãi, nhà đầu tư có thể
thu được lợi nhuận dưới dạng cổ tức, lãi càng lớn thì cổ tức được chia càng nhiều,
từ đó tăng thu nhập cho nhà đầu tư. Ngoài ra người giữ cổ phiếu còn nhận được thu
nhập từ cổ phiếu thông qua khoản chênh lệch giá khi bán cổ phiếu.
Khả năng chuyển nhượng của cổ phiếu cho phép nhà đầu tư có thể bán một
phần hoặc toàn bộ số cổ phần mình sở hữu khi cần thiết để đáp ứng nhu cầu về vốn
tại một thời điểm nhất định. Tuy nhiên để thực hiện được điều này cũng đòi hỏi
phải có một thị trường chứng khoán phát triển.
Bên cạnh những ưu thế trên, việc đầu tư cổ phiếu cũng có một số bất lợi sau:
Một là: Chi phí để thu thập thông tin khi tiến hành đầu tư cao ảnh hưởng đến
lợi nhuận đầu tư. Trước khi mua cổ phiếu của một công ty nào đó, nhà đầu tư
thường phải tìm hiểu tình hình hoạt động của công ty đó. Các chi phí này thường
lớn, đặc biệt đối với các công ty nhỏ hoặc mới thành lập.
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hai là: Sự không ổn định của nguồn thu nhập từ cổ phiếu. Do lượng cổ tức
được hưởng phụ thuộc chủ yếu vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát
hành và chính sách chia cổ tức của công ty. Trong trường hợp công ty làm ăn không
có lãi hoặc ban quản trị công ty quyết định giữ lại toàn bộ lợi nhuận để tăng vốn thì
nhà đầu tư sẽ không được chia cổ tức. Do vậy, nhà đầu tư khó dự đoán được chính
xác nguồn thu nhập dự kiến trong tương lai.
Ba là: Người giữ cổ phiếu có quyền ưu tiên thấp hơn người giữ trái phiếu đối
với các tài sản của công ty trong trường hợp công ty phá sản. Người giữ cổ phiếu sẽ
chỉ được trả tiền nếu quỹ còn lại sau khi thanh toán cho người giữ trái phiếu và các
chủ nợ khác.
Bốn là: Sự biến động bất thường của giá cổ phiếu do tác động của rất nhiều

yếu tố khác nhau làm nhà đầu tư khó dự đoán trước được. Giá cổ phiếu thường có
xu hướng biến động nhiều hơn giá trái phiếu vì cổ phiếu không có ngày đáo hạn và
không có giá trị đáo hạn. Điều này làm cho kinh doanh cổ phiếu được xếp vào một
trong những lĩnh vực đầu tư mạo hiểm.
Vì mức độ rủi ro cao hơn và đặc điểm dòng tiền không đều của cổ phiếu nên
các nhà bảo hiểm bị luật pháp hạn chế về tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu- tối đa 35%vốn
nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ trong trường hợp không có bảo lãnh.
Ngoài ra để đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm tăng khả năng sinh lời và giảm
thiểu rủi ro đầu tư, doanh nghiệp bảo hiểm cũng thực hiện đầu tư vào nhiều loại cổ
phiếu khác nhau.
c. Kinh doanh bất động sản
Kinh doanh bất động sản đem lại cho các doanh nghiệp bảo hiểm khoản thu
nhập dưới dạng thu nhập cho thuê bất động sản, cơ hội tăng giá của tài sản đã
đầu tư. Trong trường hợp cho thuê được bất động sản, đây sẽ là một nguồn thu
nhập cao, thường xuyên, khá ổn định. Tỷ lệ thu nhập hiện tại nhận được từ đầu
tư bất động sản thường lớn hơn tỷ lệ cổ tức được chia khi đầu tư cổ phiếu
thường. Đối với các doanh nghiệp đầu tư từ nguồn vốn dài hạn thì đây là một
loại hình đầu tư hiệu quả.
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đầu tư bất động sản cũng là một hình thức khuyếch trương quảng cáo hình
ảnh của doanh nghiệp qua việc cung cấp những toà nhà cao cấp, chất lượng cho
khách hàng.
Tuy nhiên dòng thu nhập nhận được từ đầu tư bất động sản thường khó dự
đoán trước vì khả năng không cho thuê được, giá trị bất động sản có thể dao động
đáng kể qua thời gian… . Sự biến động giá cả thị trường bất động sản chịu tác động
của nhiều yếu tố khác nhau, khó có thể lường trước được. Do đó sẽ là mạo hiểm nếu
doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư quá nhiều vào bất động sản để cho thuê hoặc chờ giá
tăng, sau đó bán đi thu lợi nhuận từ chênh lệch giá.

Một đặc điểm bất lợi nữa là bất động sản có tính lỏng rất thấp. Việc chuyển
nhượng một bất động sản thường đòi hỏi những thủ tục phức tạp, thời gian lâu dài,
đặc biệt khi thị trường địa ốc chưa phát triển như ở nước ta.
Chính vì vậy, ở các doanh nghiệp bảo hiểm, đầu tư bất động sản không được
vượt quá 20% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
d. Góp vốn vào các doanh nghiệp khác
Với hình thức đầu tư này, chủ đầu tư được tham gia quá trình quản lý công ty
liên doanh, và được hưởng lãi theo kết quả kinh doanh dưới dạng lãi liên doanh.
Ưu điểm của hình thức này là lãi liên doanh cũng không phải chịu thuế thu
nhập vì nó được trích từ nguồn lợi nhuận để lại của công ty. Nếu công ty làm ăn
thuận lợi thì nhà đầu tư có cơ hội có được một khoản thu nhập từ đầu tư cao.
Tuy nhiên, ngược lại, nếu kinh doanh gặp khó khăn thì nhà đầu tư sẽ không
thu được lãi, thậm chí cả vốn trong trường hợp công ty làm ăn thua lỗ, bị phá sản.
Một điểm nữa là hiệu quả của việc góp vốn liên doanh cũng phụ thuộc rất lớn
vào đối tác cùng tham gia liên doanh, đặc biệt là bên góp vốn chi phối.
Nhìn chung, dựa trên các quy định của luật pháp về lĩnh vực và hạn mức
đầu tư, căn cứ vào điều kiện thực tế về môi trường đầu tư cũng như đặc điểm
nguồn vốn đầu tư, chiến lược phát triển riêng của doanh nghiệp, mỗi doanh
nghiệp bảo hiểm có thể lựa chọn cho mình một danh mục đầu tư thích hợp với
các hình thức đầu tư đa dạng.
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đ. Cho vay theo quy đinh của Luật tổ chức tín dụng
Doanh nghiệp bảo hiểm có thể cho vay theo Luật các tổ chức tín dụng số 47:
2010/QH12 được Quốc hội nước Công hoà xã hôi chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ
họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2010.
e. Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng
Doanh nghiệp bảo hiểm có thể mở các tài khoản thanh toán không kỳ hạn và
các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn ở các tổ chức tín dụng để hưởng lãi suất theo như

thoả thuận.
Đây là loại hình đầu tư đơn giản, có mức độ an toàn vốn cao. Nhà đầu tư có
thể tính tương đối chính xác các khoản thu nhập trong tương lai. Tính thanh khoản
của các khoản đầu tư này là rất lớn. Chính vì vậy, đây vẫn là hình thức đầu tư chủ
yếu đối với các doanh nghiệp bảo hiểm ở các nước thị trường vốn chưa phát triển
như nước ta.
Tuy nhiên, hình thức đầu tư này lại chịu ảnh hưởng rất lớn của lạm phát, của
sự bất ổn định của lãi suất. Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng thường có lãi suất
không cao bằng các loại hình đầu tư khác.
1.2. Hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
1.2.1. Khái niệm hiệu quả hoạt động đầu tư
a. Khái niệm
Xét góc độ thuật ngữ chuyên môn hiệu quả kinh tế là “Mối quan hệ giữa đầu
vào các yếu tố khan hiếm với đầu ra hàng hoá và dịch vụ, có thể được đo lường
theo hiện vật gọi là hiệu quả kỹ thuật hoặc theo chi phí thì được gọi là hiệu quả
kinh tế. Khái niệm hiệu quả kinh tế được dùng như một tiêu chuẩn để xem xét
các tài nguyên được thị trường phân phối như thế nào” (Từ điển thuật ngữ kinh tế
học, trang 244-NXB Từ điển bách khoa Hà Nội 2001).
Về bản chất hiệu quả hoạt động kinh doanh là sự so sánh giữa kết quả thu
được với chi phí lao động đã bỏ ra. Tiêu chuẩn của hiệu quả hoạt động kinh doanh
là tối đa hóa kết quả hoặc tối thiểu hóa chi phí trên nguồn vốn sẵn có.
Về mặt định lượng: Kết quả thu được so với chi phí bỏ ra, nếu số này càng lớn thì
hiệu quả hoạt động kinh doanh càng cao. Thể hiện việc sử dụng các nguồn lực tốt hơn.
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Về mặt định tính: Thể hiện ở trình độ và năng lực quản lý ở các khâu, các cấp
quản lý thông qua việc nỗ lực thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội gắn liền với nhiệm
vụ chính trị.
Như vậy hiệu quả là sự so sánh, phản ánh mối quan hệ giữa kết quả thực hiện

các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó
trong những điều kiện nhất định.
Từ những phân tích trên ta có thể định nghĩa: Hiệu quả hoạt động đầu tư của
DNBH là mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu trong hoạt động đầu
tư thương mại của DNBH và chi phí mà DNBH bỏ ra để có kết quả đó trong
những điều kiện nhất định.
Hiệu quả hoạt động đầu tư là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn lực sẵn có của đơn vị để thực hiện mục tiêu đặt ra. Nó không chỉ là chỉ
tiêu phản ánh chất lượng tổ chức quản lý kinh doanh của một doanh nghiệp, mà còn
là vấn đề sống còn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Để đạt hiệu quả ngày càng cao và vững chắc, đòi hỏi các doanh nghiệp không
những phải khai thác được các khả năng tiềm ẩn về lao động, vốn … mà còn phải
nắm vững tình hình cung, cầu trên thị trường, đối thủ cạnh tranh… , hiểu được thế
mạnh thế yếu của doanh nghiệp để khai thác hết mọi tiềm năng hiện có, tận dụng
được những cơ hội kinh doanh trên thị trường.
b. Phân loại hiệu quả hoạt động đầu tư
Hiệu quả hoạt động đầu tư có thể được xem xét ở các góc độ khác nhau:
- Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế:
+ Hiệu quả tài chính còn được gọi là hiệu quả sản xuất – kinh doanh hay hiệu
quả doanh nghiệp, là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu
quả tài chính phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được
và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế.
+ Hiệu quả kinh tế quốc dân còn được gọi là hiệu quả kinh tế - xã hội là hiệu
quả tổng hợp được xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Chủ thể của hiệu quả kinh
tế - xã hội là toàn bộ xã hội mà người đại diện cho nó là Nhà nước. Vì vậy những
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
lợi ích và chi phí được xem xét trong hiệu quả kinh tế - xã hội xuất phát từ quan
điểm toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

- Hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp:
+ Hiệu quả trực tiếp là hiệu quả được xem xét trong phạm vi chỉ một dự án,
một doanh nghiệp (một đối tượng) …
+ Hiệu quả gián tiếp là hiệu quả mà một đối tượng nào đó tạo ra cho đối tượng
khác. Việc xây dựng một dự án này có thể kéo theo việc xây dựng hàng loạt các dự
án khác. Hiệu quả của dự án đang xem xét là hiệu quả trực tiếp còn hiệu quả của
các dự án khác là hiệu quả gián tiếp.
- Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài: Căn cứ vào lợi ích nhận được trong
những khoảng thời gian dài hay ngắn người ta chia thành:
+ Hiệu quả trước mắt là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian ngắn.
Lợi ích xem xét trong loại hiệu quả này là lợi ích trước mắt, mang tính tạm thời.
+ Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian dài.
1.2.2. Đặc điểm hiệu quả hoạt động đầu tư của DNBH
Kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm tạo cho DNBH một nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi từ lúc thu phí bảo hiểm đến khi thực hiện thanh toán tiền bồi thường hoặc
trả tiền bảo hiểm cho khách hàng. DNBH có thể sử dụng nguồn vốn đó đầu tư kiếm
lời. Chính những đặc điểm hình thành nên nguồn vốn đầu tư đã quyết định tới đặc
điểm hiệu quả hoạt động đầu tư của DNBH, cụ thể:
- Hiệu quả hoạt động đầu tư của DNBH là hiệu quả tài chính hay hiệu quả kinh
tế xét trong phạm vi một doanh nghiệp.
- Hiệu quả hoạt động đầu tư của DNBH là hiệu quả của quá trình sử dụng
nguồn vốn nhàn rỗi để thực hiện hoạt động đầu tư thương mại của DNBH.
- Do phụ thuộc vào tính chất nguồn vốn đầu tư (thường là ngắn hạn) nên hiệu
quả hoạt động đầu tư của DNBH thường biến động, cơ cấu hiệu quả cũng thường
thay đổi.
- Hiệu quả hoạt động đầu tư của DNBH thường bị tác động và quản lý bởi
những quy định mang tính chất đặc thù riêng có của pháp luật đối với việc sử dụng
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

vốn đầu tư của DNBH.
- Do vừa phải đảm bảo hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm gốc vừa tập trung
vốn cho hoạt động đầu tư thương mại nên ngoài những yếu tố tác động của thị
trường tài chính, tiền tệ… hiệu quả của hoạt động đầu tư thương mại của DNBH
chịu ảnh hưởng rất lớn của hoạt động bảo hiểm gốc.
- Ngoài việc đóng góp vào hiệu quả chung của DNBH, hiệu quả từ hoạt động
đầu tư của các DNBH còn hỗ trợ và thúc đẩy phát triển hoạt động bảo hiểm gốc.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư
Hiệu quả đầu tư là những gì mà chủ đầu tư có thể thu về từ những yếu tố đầu
ra được tạo ra trong toàn bộ quá trình hoạt động sau khi trừ đi tất cả chi phí và giá
trị của nguồn lực đã bỏ ra ban đầu, là một mục tiêu quan trọng của hoạt động đầu tư
nói chung và hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng.
Hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm có thể được tính toán
bằng các chỉ tiêu tuyệt đối hoặc tương đối:
- Chỉ tiêu tính hiệu quả tuyệt đối:
E = K-C
- Chỉ tiêu tính hiệu quả tương đối:
E = K/C
Trong đó:
E: là hiệu quả đầu tư
K: là kết quả nhận được theo định hướng mục tiêu
C: là chi phí bỏ ra
Trên thực tế để đánh giá đúng đắn hiệu quả hoạt động đầu tư của một DNBH
người ta thường sử dụng hệ thống các chỉ tiêu sau:
a. Chỉ tiêu đánh giá quy mô đầu tư của DNBH
- Quy mô nguồn vốn đầu tư: Nguồn vốn đầu tư càng lớn cho thấy quy mô hoạt
động đầu tư của DNBH càng lớn, và đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến kết
quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có số lượng vốn chuyển vào
đầu tư cho nền kinh tế càng lớn, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu
cao hoặc doanh thu phí bảo hiểm cao hoặc cả hai.

SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Doanh thu hoạt động đầu tư: Doanh thu hoạt động đầu tư thường tỷ lệ thuận
với quy mô hoạt động đầu tư, đồng thời cũng phản ánh một phần kết quả hoạt động
đầu tư của doanh nghiệp.
b. Hiệu quả hoạt động đầu tư tổng quát
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
Hiệu quả hoạt động
đầu tư
=
Kết quả thu được từ hoạt động đầu tư
Chi phí cho hoạt động đầu tư
Kết quả thu được từ hoạt động đầu tư, có thể là:
- Doanh thu từ hoạt động đầu tư.
- Lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư.
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra cho hoạt động đầu tư trong
kỳ thì thu được bao nhiêu đồng kết quả từ hoạt động đầu tư. Chỉ tiêu này càng cao
chứng tỏ hiệu quả của hoạt động đầu tư của doanh nghiệp càng lớn. Để nâng cao chỉ
tiêu này, một mặt doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp tăng nhanh quy mô kết quả
đầu ra (doanh thu hoặc lợi nhuận), mặt khác cần giảm chi phí hoạt động đầu tư của
doanh nghiệp.
Do hoạt động đầu tư có thể trong ngắn hạn và dài hạn, vì thế cần xem xét các
chỉ tiêu:
Hiệu quả hoạt động
đầu tư ngắn hạn
=
Kết quả từ hoạt động đầu tư ngắn hạn
Chi phí cho hoạt động đầu tư ngắn hạn
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng chi phí hoạt động đầu tư ngắn hạn trong kỳ

thì thu được bao nhiêu đồng kết quả đầu ra (doanh thu hoặc lợi nhuận)
Hiệu quả hoạt động
đầu tư dài hạn
=
Kết quả từ hoạt động đầu tư dài hạn
Chi phí cho hoạt động đầu tư dài hạn
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng chi phí hoạt động đầu tư dài hạn trong kỳ
thì thu được bao nhiêu đồng kết quả đầu ra (doanh thu hoặc lợi nhuận).
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Kỳ đầu tư các doanh nghiệp thường tính theo năm tài chính: Các khoản đầu tư
dưới một năm được coi là ngắn hạn, từ một năm trở lên được coi là dài hạn. Các
doanh nghiệp thường định ra kế hoạch đầu tư trong danh mục đầu tư để lựa chọn
việc đầu tư ngắn hạn hay dài hạn. Như đầu tư cổ phiếu, gửi ngân hàng thường là
ngắn hạn; đầu tư bất động sản, góp vốn liên doanh… thường là dài hạn.
c. Hiệu quả sử dụng vốn hoạt động đầu tư tổng hợp theo doanh thu
Là tỷ số giữa tổng mức doanh thu đầu tư với tổng vốn đầu tư cho hoạt động
đầu tư thương mại của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn hoạt
động đầu tư trong kỳ thì thu được bao nhiều đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao,
phản ánh mức độ sử dụng vốn hoạt động đầu thương mại của doanh nghiệp trong kỳ
càng lớn. Để nâng cao chỉ tiêu này doanh nghiệp cần tập trung chú trọng đến đầu tư
ngắn hạn và tốc độ quay vòng của dòng đầu tư. Để giải quyết hợp lý cơ cấu vốn của
hoạt động đầu tư thương mại nhằm đem lại hiệu quả cao, doanh nghiệp cần tập
trung giải quyết những vấn đề sau đây:
- Đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa vốn cho hoạt động đầu tư ngắn hạn và dài hạn.
- Đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa danh mục các loại hình đầu tư khác nhau (đầu tư các
loại cổ phiếu, chứng khoán, bất động sản, và các tài sản khác).
- Giảm tuyệt đối các khoản vốn đầu tư vào các hoạt động đầu tư không có hiệu
quả hoặc không mang lại hiệu quả kinh tế cao.

d. Tỷ suất lợi nhuận theo tổng số vốn đầu tư của hoạt động đầu tư
Là tỷ số giữa tổng mức lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư với tổng số vốn
của hoạt động đầu tư. Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn của hoạt động đầu tư của
doanh nghiệp trong kỳ thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao,
chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp càng lớn.
Từ các chỉ tiêu tổng quát trên, có thể tính và phân tích các chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả hoạt động đầu tư dài hạn và ngắn hạn. Ngoài ra, còn có thể chi tiết hơn việc phân
tích hiệu quả của từng danh mục đầu tư thương mại của DNBH như cổ phiếu, trái
phiếu, tín phiếu, cổ phần và các hoạt động đầu tư khác.
e. Chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán đối với DNBH
Đảm bảo khả năng thanh toán là một trong những nguyên tắc quan trọng trong
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm. Các DNBH phải luôn duy trì khả
năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Do vậy, các
chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm rất được coi trọng
khi phân tích hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
Một số chỉ tiêu khả năng thanh toán áp dụng đối với DNBH PNT được tính
trên cơ sở sau:
+ Hệ số thanh toán nhanh
Hệ số thanh toán nhanh =
Các khoản phải thu + Tiền mặt + Đầu tư
ngắn hạn
Tổng nợ ngắn hạn
Là khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Hệ số thanh toán nhanh > 1
chứng tỏ doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán, ngược lại, nếu hệ số này < 1 thì
khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp là yếu, càng gần 0 thì khả năng thanh
toán nhanh của doanh nghiệp càng yếu.
+ Hệ số thanh toán ngắn hạn

Hệ số thanh toán NH =
Tổng số tài sản lưu động + Đầu tư ngắn hạn
Tổng số nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh
nghiệp cao hay thấp. Nếu Hệ số thanh toán xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ
khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là bình thường.
+ Khả năng thanh toán biên
Khả năng thanh toán biên =
Biên khả năng thanh toán
Biên khả năng thanh toán tối thiểu
Chỉ tiêu này cho biết khả năng đảm bảo thanh toán biên của doanh nghiệp bảo
hiểm (theo NĐ 46/2007/NĐ-CP), trong đó:
- Biên khả năng thanh toán là phần chênh lệch giữa giá trị tài sản và các khoản
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nợ phải trả của doanh nghiệp bảo hiểm tại thời điểm tính biên khả năng thanh toán.
- Biên khả năng thanh toán tối thiểu: Được đề tại mục 1.2.2.4
f. Tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản (ROA)
Chỉ tiêu này đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của doanh
nghiệp
ROA =
Lợi nhuận ròng dành cho cổ đông thường
Tổng tài sản
Tài sản của một doanh nghiệp được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu.
Cả hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp,
hiệu quả của việc sử dụng các nguồn vốn này được phản ánh qua chỉ số ROA. ROA
càng cao thì có nghĩa doanh nghiệp đang kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu
tư ít hơn.
g. Tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE)

Chỉ tiêu này đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của doanh
nghiệp
ROE =
Lợi nhuận ròng dành cho các cổ đông
thường
Vốn cổ phần thường
Chỉ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích luỹ
tạo ra bao nhiêu đồng lời. Hệ số này thường được làm căn cứ để nhà đầu tư phân
tích so sánh với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường để từ đó quyết định đầu tư.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động đầu tư của DNBH
1.3.1. Các nhân tố chủ quan:
- Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn đầu tư:
+ Quy mô nguồn vốn chủ sở hữu:
Đây là một nguồn quan trọng tác động đến quy mô nguồn vốn đầu tư. Nguồn
vốn chủ sở hữu càng lớn thì quy mô nguồn vốn đầu tư có thể huy động càng lớn.
Theo luật định, nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp ngoài phần đã sử dụng để
ký quỹ tại ngân hàng và phần đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động có thể
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
được sử dụng để đầu tư.
+ Quy mô phí bảo hiểm huy động:
Có thể thấy nhân tố trực tiếp tác động đến quy mô của quỹ dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm chính là quy mô lượng phí bảo hiểm huy động được. Khi nguồn phí bảo hiểm
huy động được tăng lên sẽ là điều kiện tiên quyết làm tăng quỹ dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm, từ đó tăng quy mô nguồn vốn có thể đầu tư của DNBH. Chính vì vậy, xét
sâu xa, các chính sách sản phẩm, bán hàng, khuyếch trương mở rộng quy mô bảo hiểm
gốc sẽ là nhân tố có tác động rất lớn đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
+ Phí bảo hiểm gốc thực giữ lại:
Nếu một doanh nghiệp bảo hiểm có doanh thu bảo hiểm gốc lớn nhưng phí

thực giữ lạ chiếm tỷ trọng ít (phần nhượng tái lớn) dẫn đến quy mô của các dự
phòng nghiệp vụ nhỏ, nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư sẽ nhỏ.
+ Trình độ quản lý
Nếu doanh nghiệp bảo hiểm có doanh thu lớn nhưng quản lý không tốt, các
khoản về nợ phí bảo hiểm, tạm ứng cao, hoặc việc quản lý dòng tiền không hiệu quả
(vì thường các doanh nghiệp bảo hiểm có các chi nhánh nằm rải rác trên một địa
bàn rộng lớn), bồi thường quá lớn, cũng là nhân tố ảnh hưởng tới quy mô của
nguồn tiền để đầu tư.
- Tính chất nguồn vốn có thể đầu tư:
Nếu doanh nghiệp có nguồn vốn chủ sở hữu lớn thì sẽ chủ động hơn trong
quyết định đầu tư, bởi nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn ít chịu sự hạn chế của
pháp luật nhất nên sẽ ảnh hưởng tích cực tới tính chủ động trong lựa chọn dự án đầu
tư của doanh nghiệp.
Nguồn vốn từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm chịu sự kiểm soát của luật pháp
về loại hình cũng như hạn mức đầu tư. Phí bảo hiểm của DNBH PNT thường có
tính chất ngắn hạn hơn và ít ổn định hơn vì hợp đồng bảo hiểm PNT thường có thời
hạn một năm và khách hàng thường có xu hướng thay đổi doanh nghiệp bảo hiểm
nhiều hơn nên việc đầu tư cũng khác hơn so với DNBHNT.
- Tổ chức hoạt động đầu tư:
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Để có một hình thức tổ chức hoạt động đầu tư hợp lý đòi hỏi phải xem xét
nhiều nhân tố, đặc biệt là quy mô DNBH, tính chất nghiệp vụ bảo hiểm và quy định
của pháp luật.
Tuỳ theo đặc điểm và điều kiện riêng có của mình, mỗi doanh nghiệp bảo
hiểm sẽ lựa chọn cho mình một mô hình tổ chức hoạt động đầu tư thích hợp. Nếu tổ
chức hoạt động đầu tư hợp lý sẽ giúp làm tăng hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh
nghiệp và ngược lại.
- Quan điểm đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm:

Trên cơ sở các quy định của luật pháp, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm lại có một
quan điểm đầu tư khác nhau, tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động đầu tư. Với
các quan điểm đầu tư khác nhau, các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có một danh mục
đầu tư khác nhau.
Với quan điểm đầu tư thận trọng, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chú trọng đầu tư
vào các khoản mục có độ an toàn cao như trái phiếu chính phủ, các khoản cho vay
với các tổ chức có khả năng tài chính tốt Còn với quan điểm đầu tư mạo hiểm
hơn, họ có thể thực hiện những khoản đầu tư hứa hẹn khả năng sinh lời cao nhưng
lại ẩn chứa độ rủi ro lớn như đầu tư chứng khoán, bất động sản
Các quan điểm đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm thường được thể hiện qua
chiến lược đầu tư, các chính sách đầu tư của doanh nghiệp. Nếu xây dựng được
chiến lược và chính sách đầu tư đúng đắn thì hoạt động đầu tư của doanh nghiệp sẽ
có hiệu quả cao, bảo toàn và phát triển được nguồn vốn.
- Khả năng của đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ thực hiện đầu tư:
Đây cũng là một trong những yếu tố đóng vai trò hết sức quan trọng quyết
định hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư của DNBH được thực
hiện trong rất nhiều lĩnh vực rất đa dạng và chịu nhiều rủi ro. Điều này đòi hỏi đội
ngũ cán bộ đầu tư phải có năng lực, có sự phán đoán nhanh nhạy để từ đó có các đối
sách phù hợp, kịp thời.
- Khả năng thu thập thông tin:
Thông tin kịp thời, chính xác, đầy đủ là cơ sở giúp cho việc phân tích hoạt
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
động đầu tư được tốt, từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Thông tin
là yếu tố có ý nghĩa rất quan trọng đối với bộ phận làm công tác đầu tư, là cơ sở để
họ phân tích và ra quyết định đầu tư đúng đắn. Thông tin của nhà đầu tư có thể
được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như qua tìm hiểu thị trường, thông tin từ
đối tác, từ hồ sơ của đối tượng đầu tư, từ các công trình nghiên cứu, các phương
tiện thông tin đại chúng (báo, đài)… .

1.3.2 Các nhân tố khách quan:
- Hệ thống luật pháp, chính sách của Nhà nước:
+ Các quy định về hạn mức đầu tư của DNBH.
Không giống như phần lớn các nhà đầu tư, các doanh nghiệp bảo hiểm phải
tuân theo các quy tắc về giới hạn loại hình và khối lượng các khoản đầu tư mà họ
thực hiện. Các quy tắc này được đưa ra để yêu cầu các nhà bảo hiểm thực hiện sự
tôn trọng việc đa dạng hoá đầu tư và bảo vệ khách hàng khỏi sự đe dọa của sự vỡ
nợ đối với nhà bảo hiểm khi họ thực hiện các hoạt động đầu tư quá mạo hiểm nhằm
thu được lợi nhuận cao.
Để đảm bảo quyền lợi của khách hàng và cũng là xuất phát từ lợi ích của bản
thân doanh nghiệp bảo hiểm, đảm bảo giữ uy tín của doanh nghiệp. DNBH phải
luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, đồng thời thực hiện các khoản đầu tư có độ an toàn cao với khả năng sinh lời
phù hợp. DNBH được coi là có đủ khả năng thanh toán khi đã trích lập đầy đủ dự
phòng nghiệp vụ theo quy định và có biên khả năng thanh toán không thấp hơn biên
khả năng thanh toán tối thiểu theo quy định của chính phủ.
Chính phủ thường yêu cầu các nhà bảo hiểm phải tuân theo các nguyên tắc chỉ
đạo khi lựa chọn đầu tư. Các nguyên tắc này đòi hỏi danh mục đầu tư của nhà bảo
hiểm phải được đa dạng hoá và hình thành các tài sản chất lượng cao đại diện cho
mức độ rủi ro đầu tư thấp. Các quy tắc này có hai dạng chung sau:
* Một là đưa ra giới hạn về danh mục đầu tư.
Ví dụ: Tại Việt nam, theo Nghị định 46/2007/NĐ-CP ngày 27/03/2007 của
Chính phủ chỉ cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư tối đa 35% vốn nhàn rỗi
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tự dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm để đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp
không có bảo lãnh, góp vốn vào các doanh nghiệp khác. Tối đa 20% vốn nhàn rỗi từ
dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm đối với kinh doanh bất động sản và cho vay.
* Hai là đưa ra các quy tắc thận trọng, các nguyên tắc chỉ đạo mà nhà bảo

hiểm phải tuân theo khi thực hiện các quyết định đầu tư.
+ Mức độ hoàn thiện của hệ thống luật pháp nói chung, luật pháp về hoạt động
kinh doanh bảo hiểm và về hoạt động đầu tư trong DNBH nói riêng.
Một quốc gia có hệ thống luật pháp hoàn thiện sẽ tạo hành lang pháp lý thuận
lợi thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, khuyến khích các
doanh nghiệp mở rộng hoạt động đầu tư.
+ Ngoài ra, quan điểm của Nhà nước trong việc khuyến khích hoặc phát triển
một ngành nghề nào đó cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư. Nó ảnh
hưởng đến sự lựa chọn các lĩnh vực để đầu tư: Thường tập trung đầu tư vào các lĩnh
vực được ưu tiên phát triển.
- Tình hình phát triển kinh tế xã hội:
Một nền kinh tế đang trong thời kỳ tăng trưởng phát triển cần thu hút nhiều
nguồn vốn phục vụ quá trình phát triển đó sẽ là điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu
tư điều đó giúp hiệu quả đầu tư mang lại sẽ cao hơn.
Ngược lại, nếu nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, trì trệ hoặc lạm phát
tăng cao có thể dẫn đến làm ngưng trệ hoạt động đầu tư hoặc nguồn vốn đầu tư
mang đi đầu tư sẽ không mang lại hiệu quả do sự mất giá của đồng tiền, điều đó ảnh
hưởng xấu đến hiệu quả đầu tư.
Một yếu tố khác ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư đó là tăng thu nhập của người
dân, thu nhập của người dân tăng cao thì việc họ chú ý tới an toàn của bản thân họ
và gia đình sẽ được quan tâm hơn, qua đó làm tăng khả năng khai thác bảo hiểm
gốc, từ đó tăng quy mô nguồn vốn đầu tư.
- Môi trường đầu tư trong và ngoài nước:
+ Sự hình thành và mức độ phát triển của thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị
trường bất động sản, thị trường lao động, có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đầu
SV: Nguyễn Thành Bắc Lớp: Tài chính doanh nghiệp
22

×