1
Tuổi thọ trung bình của loài người đã tăng lên gần ba mươi năm trong
vòng một thế kỷ qua. Cùng với tăng tuổi thọ trung bình, số lượng người cao
tuổi (NCT) đang tăng lên nhanh chóng. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế
giới, năm 2000 thế giới có tới 580 triệu người trên 60 tuổi và dự đoán đến
năm 2020 sẽ đạt đến con số 1 tỷ người [1]. Ở Việt Nam theo điều tra dân số
năm 1999, số người trên 60 tuổi chiếm 8,2% tổng dân số [2]. Xu hướng già
hóa đang đặt nhân loại trước những thách thức to lớn trong thế kỷ XXI. Một
trong những thách thức đó là sự gia tăng các bệnh trong đó có bệnh ung thư
đặc biệt là ung thư phổi.
Ung thư phổi (UTP) hay ung thư phế quản là thuật ngữ để chỉ bệnh ác tính
của phổi xuất phát từ biểu mô niêm mạc phế quản, tiểu phế quản, phế nang, từ
các tuyến của phế quản, hoặc các thành phần khác của phổi [3], [4].
Theo thống kê tình hình ung thư trên toàn thế giới năm 2010, UTP có tỷ lệ
mới mắc cũng như tỷ lệ tử vong cao nhất trong các loại ung thư ở nam giới, và
đứng thứ hai ở nữ giới về tỷ lệ tử vong [5]. Ở Việt Nam, những thống kê tại Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2001 - 2004 cho thấy, UTP đứng
đầu trong các ung thư ở nam giới và đứng thứ 3 trong các ung thư ở nữ giới
[6], [7]. Tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 1996 - 1997
UTP chiếm 7,5% các bệnh phổi vào điều trị nội trú, gần đây tỷ lệ này là
16,6% [3,4] đứng hàng thứ 2 trong tổng số BN vào điều trị nội trú.
Để chẩn đoán ung thư phổi, cần dựa vào các triệu chứng lâm sàng, cận
lâm sàng, và các kỹ thuật xâm nhập lấy bệnh phẩm làm xét nghiệm mô bệnh
học. Một trong những lý do gây khó khăn cho chẩn đoán là nhiều biểu hiện
trên lâm sàng và xét nghiệm của bệnh ung thư phổi khá giống với các bệnh lý
2
khác ở phổi, nên bệnh nhân thường bị chẩn đoán nhầm với lao phổi, viêm
phổi. Đặc biệt đối với NCT việc chẩn đoán và phát hiện bệnh đôi khi còn gặp
nhiều khó khăn do người bệnh ngại đi khám, hoặc tâm lý cho rằng chỉ là biểu
hiện của tuổi già, không phải là bệnh lý. Vì vậy, phát hiện sớm các triệu
chứng lâm sàng thường gặp và sử dụng hợp lý các xét nghiệm để chẩn đoán
ung thư phổi là vấn đề cần phải được quan tâm. Trên thế giới có nhiều
nghiên cứu về chẩn đoán, điều trị ung thư phổi ở người cao tuổi. Ở nước
ta, các nghiên cứu về UTP thường tập trung ở độ tuổi từ trên 40 tuổi, [7], [8],
[9], [10], [11], [12], [13] chưa có nhiều nghiên cứu về UTP ở người cao tuổi
[14]. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc
điểm lâm sàng và cận lâm sàng của ung thư phổi ở người cao tuổi điều trị
tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai” nhằm 2 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng ung thư phổi ở bệnh nhân cao tuổi
2. Nhận xét một số đặc điểm cận lâm sàng của ung thư phổi ở bệnh
nhân cao tuổi.
3
!"#
Ung thư phổi hay ung thư phế quản là thuật ngữ để chỉ bệnh ác tính của
phổi xuất phát từ biểu mô niêm mạc phế quản, tiểu phế quản, phế nang, từ các
tuyến của phế quản, hoặc các thành phần khác của phổi[3], [4].
$%& ' !"#
1.1.2.1.Tình hình ung thư phổi trên thế giới
Ung thư phổi (UTP) được mô tả lần đầu tiên năm 1850. Khoảng 150 năm
trước nó là một bệnh hiếm gặp. Năm 1878, UTP chỉ chiếm 1% trong tổng số ca
ung thư được phát hiện qua mổ tử thi tại Viện Giải phẫu bệnh Dresden ở Đức.
Năm 1910, Alton Ochner (Đại học Washington) ghi nhận 1 trường hợp UTP qua
mổ tử thi, 17 năm sau ghi nhận trường hợp thứ 2. Năm 1985, ước tính có khoảng
921.000 trường hợp tử vong do UTP [3].
Những nghiên cứu dịch tễ học ghi nhận, UTP vẫn là loại ung thư thường
gặp nhất và có tỷ lệ tử vong cao nhất trong các loại ung thư. Năm 2007, ước tính
trên toàn thế giới có khoảng 1,55 triệu ca UTP mới mắc và khoảng 1,35 triệu ca
tử vong [15]. Tại Hoa Kỳ, UTP là loại ung thư có tỷ lệ tử vong cao nhất và tỷ
lệ mới mắc đứng thứ hai ở cả hai giới [5].
Các thống kê cho thấy, UTP phổ biến hơn ở nam giới. Năm 2007,
toàn thế giới ước tính có khoảng 1.108.371 ca UTP được phát hiện ở nam
giới chiếm 71,6% tổng số ca UTP mới được phát hiện, tỷ lệ nam/nữ là
2,5/1 [5]. Tại các nước đang phát triển, tỷ lệ nam/nữ thường cao hơn con số
trên, trong khi tại các nước phát triển, tỷ lệ UTP ở nữ có xu hướng ngày
4
một tăng nhanh. Theo thống kê của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, năm 2010,
số ca UTP mới phát hiện ở nam giới là 116.750 và ở nữ là 105.770 [16],
[17]. Năm 2013, dự đoán 228.190 mới phát hiện nam 118.080 và ở nữ:
110.110. Ước tử vong: 159.480 (nam: 87.260, nữ: 72.220), tỷ lệ UTP mới
phát hiện ở nữ giới đã xấp xỉ nam giới [18].
1.1.2.2. Tình hình ung thư phổi tại Việt Nam
Hiện nay đã có những số liệu ghi nhận về ung thư tương đối chính xác
và có thể đại diện cho tình hình ung thư của cả nước. Năm 1990, trên toàn
quốc số mới mắc ung thư ở Việt Nam là 52.721 trường hợp, trong đó 28.140
là nam giới, 24.581 là nữ giới. Tỷ lệ mắc ung thư đã được chuẩn hóa theo cấu
trúc dân số là 133/100.000 ở nam và 92/100.000 ở nữ [6].
Năm 2000 Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (International Agency
for Research on Cancer – IARC) phối hợp 2 trung tâm ghi nhận trên quần thể
ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã tính có khoảng 71.170 bệnh nhân mới
mắc ung thư, trong đó 37.259 trường hợp ở nam giới (ARS 144.94/100.000) và
33.911 trường hợp nữ giới (ARS: 102,91/100.000 dân). Hiện nay theo ước
tính hàng năm ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn trường hợp mới mắc ung thư
và có khoảng 75 nghìn trường hợp chết vì căn bệnh này [6]. Đối với UTP có
khoảng 9301 trường hợp mới mắc mỗi năm trong đó nam là 7201 (ARS là
30.14/100.000 và nữ giới là 2100 (ARS là 6.60/100.000) [6].
Tại Khoa Hô hấp - Bệnh viện Bạch Mai, số các trường hợp UTP nhập
viện tăng đều hàng năm: từ 1969 đến 1972 có 89 trường hợp UTP, từ 1974
đến 1978 có 186 trường hợp, từ 1981 đến 1985 có 285 trường hợp, từ 1996
đến 2000 có 639 trường hợp, chiếm 16,6% tổng số các bệnh nhân điều trị,
đứng hàng thứ hai sau bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính [3], [4], [8], [9].
5
()&*+, !"#
Nguyên nhân được cho là thủ phạm gây nên UTP là thuốc lá. Năm 1950,
lần đầu tiên người ta đã chứng minh mối liên quan giữa UTP với thuốc lá và
nhận thấy rằng 80% các UTP liên quan với yếu tố môi trường, khói thuốc lá, sự
nhiễm độc nước, không khí, điều kiện lao động, chế độ ăn uống. Khi có nhiều
yếu tố phối hợp thì nguy cơ mắc UTP càng cao [19]. Cho đến nay, người ta đã
xác định được nhiều nguyên nhân gây UTP, trong đó hút thuốc lá là một trong
những căn nguyên phổ biến nhất [20], [21], [22].
1.1.3.1. Thuốc lá
Thuốc lá chứa hơn 4.000 loại hoá chất, 200 loại có hại cho sức khoẻ,
khoảng hơn 60 chất chứa vòng Hydrocarbon thơm như: 3- 4 Benzopyren, các
dẫn xuất Hydrocarbon đa vòng có khí Nitơ, Aldehyt, Nitrosamin, Ceton có
tính chất gây ung thư [3], [4], [20].
Hút thuốc lá được coi là yếu tố nguy cơ chính gây nên UTP, khoảng
90% trong số 660.000 ca được chẩn đoán UTP trên thế giới có hút thuốc lá.
Mức độ tăng nguy cơ phụ thuộc vào: tuổi bắt đầu hút (hút càng sớm nguy cơ
càng cao), số bao - năm (càng lớn nguy cơ càng cao), thời gian hút càng dài
(nguy cơ mắc bệnh càng lớn), hút thuốc nguy cơ UTP cao gấp 10 lần so với
người không hút thuốc [3]. Theo Kthryn E. (2000), những người hút thuốc lá
01 bao/ngày trong 40 năm có nguy cơ bị UTP cao hơn người hút 02 bao/ngày
trong 20 năm [19]. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, ngay cả những người
không trực tiếp hút thuốc lá nhưng thường xuyên tiếp xúc với người hút thuốc
(hút thuốc lá thụ động) cũng có nguy cơ UTP rất cao [20], [21], [22].
1.1.3.2. Ô nhiễm không khí
Một số chất như amiantte (asbestos) thường có trong thành phần tấm
lợp proximăng, niken, crom, thạch tín, nhựa, khí đốt dầu mỏ được ghi nhận
làm tăng nguy cơ UTP.
6
Coyle YM và Cs (2006), nghiên cứu trên 81.132 trường hợp UTP ở
Texas - Mỹ từ năm 1995 - 2000, nhận thấy hít phải không khí có chứa kẽm,
đồng, chrom làm tăng tỷ lệ UTP [3], [23].
1.1.3.3. Bức xạ ion hóa
Bức xạ ion có thể gây ung thư ở tất cả các hệ cơ quan trong đó có UTP.
Nguồn bức xạ chính là từ thiên nhiên, các tia vũ trụ, do con người tạo ra trong
chẩn đoán y học, nghiên cứu hạt nhân [3].
1.1.3.4. Vấn đề di truyền trong sinh bệnh học khối u
Các gen chính liên quan đến phát sinh UTP (myc, ras, p53, Rb, HER-
2/neu, Bcl-2) có thể hoạt hóa hoặc mất hoạt hóa UTP. Gen này được coi có
vai trò điều hòa và kiểm tra sự phân chia của tế bào. Người ta cho rằng gen
P53 bị biến đổi không “kiểm tra” được sự phân chia tế bào một cách bình
thường [3].
1.1.3.5. Các bệnh phế quản phổi lành tính
Chấn thương xơ sẹo phổi, lao phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đã
được chứng minh làm tăng nguy cơ UTP, đặc biệt là viêm phế quản mạn tính
có dị sản dạng biểu bì [3], [4].
1.1.3.6. Chế độ ăn
Nhiều nghiên cứu cho thấy chế độ ăn nhiều rau xanh, trái cây làm giảm
rệt nguy cơ UTP. Người ta ghi nhận một nồng độ thấp của các vitamin có tác
dụng chống độc trong huyết thanh chẳng hạn như vitamin A và E liên quan
với sự gia tăng xuất hiện UTP. Tuy nhiên, những người ăn thức ăn giàu beta-
caroten làm giảm rõ rệt tỷ lệ mới mắc của UTP [3], [4].
-.#/&01,234&5 !"#[3], [4], [24], [25]
1.1.4.1. Các triệu chứng cơ năng
- Ho khan: là dấu hiệu thường gặp nhất, ho kéo dài, ho khan tiếng một
hoặc ho thành cơn.
7
- Ho ra máu: thường số lượng ít, lẫn với đờm thành dạng dây máu, màu
đỏ hoặc hơi đen hoặc đôi khi chỉ khạc máu đơn thuần.
- Đau ngực: là triệu chứng thường đứng hàng thứ ba sau ho khan và ho
ra máu. Đau ngực thường ở vị trí tương ứng với khối u với nhiều đặc điểm
khác nhau: cảm giác nặng tức ngực, đau giống đau thần kinh liên sườn…
- Khó thở: thường tăng dần. Các nguyên nhân gây khó thở ở BN UTP
bao gồm: u gây tắc nghẽn khí quản, phế quản gốc, do tràn dịch màng phổi,
tràn dịch màng ngoài tim hoặc có bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính kèm theo.
- Hội chứng nhiễm trùng phế quản - phổi
Viêm phổi, áp xe phổi có thể xuất hiện sau chỗ hẹp phế quản do u: u
chèn ép khí phế quản gây ứ đọng đờm, làm tăng khả năng nhiễm trùng.
Những trường hợp này nếu sau điều trị mà tổn thương mờ trên phim còn tồn
tại kéo dài trên 1 tháng hoặc tổn thương có xu hướng phát triển, hoặc tái phát
ở cùng một vị trí nên nghĩ tới chẩn đoán UTP để làm các thăm dò chẩn đoán
như nội soi phế quản.
1.1.4.2. Triệu chứng toàn thân
Bệnh cảnh rất đa dạng có thể không có triệu chứng gì cho đến khi tình
cờ phát hiện kiểm tra sức khỏe khi khám bệnh do một lý do khác, có thể gặp:
gầy sút cân, sốt dao động, mệt mỏi toàn thân, khó thở, đau vai tay, nói khàn
làm cho BN có cảm giác sức khỏe giảm sút.
1.1.4.3. Triệu chứng thực thể
Hội chứng đông đặc, hội chứng ba giảm hay hội chứng hang, hội chứng
do xẹp phổi trên lâm sàng, có khi chỉ thấy hội chứng tràn dịch màng phổi.
1.1.4.4. Triệu chứng ung thư lan rộng tại chỗ
- Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên: biểu hiện bằng đau đầu, chóng
mặt, ù tai, sau đến tím mặt, có thể tím cả nửa người trên, phù mặt, cổ, ngực
(phù áo khoác), tĩnh mạch cổ nổi…
8
- Triệu chứng chèn ép thực quản: khó nuốt hoặc nuốt đau do khối u
hoặc hạch chèn ép thực quản.
- Triệu chứng chèn ép thần kinh:
+ Chèn ép thần kinh giao cảm cổ: đồng tử co lại, khe mắt nhỏ, mắt lõm
sâu làm mi mắt như sụp xuống, gò má đỏ bên tổn thương (Hội chứng Claude -
Bernard - Horner).
+ Chèn ép dây quặt ngược trái: có khi mất giọng, giọng đôi, nói khàn
+ Chèn ép thần kinh giao cảm lưng: tăng tiết mồ hôi một bên.
+ Chèn ép dây thần kinh phế vị: có thể hồi hộp trống ngực, tim đập nhanh.
+ Chèn ép dây thần kinh hoành: nấc, khó thở do liệt cơ hoành.
+ Chèn ép đám rối thần kinh cánh tay: đau vai lan ra mặt trong cánh
tay, có rối loạn cảm giác.
- Các triệu chứng do u lan tỏa khác:
+ Chèn ép ống ngực: gây tràn dưỡng chấp màng phổi, cũng có thể kèm
với phù cánh tay trái hoặc tràn dưỡng chấp ổ bụng.
+ Tổn thương tim: tràn dịch màng tim, rối loạn nhịp tim.
+ Hạch thượng đòn: hạch kích thước 1- 2 cm, chắc, di động hoặc số ít
trường hợp hạch thành khối lớn xâm nhiễm vào tổ chức dưới da.
+ Một số trường hợp tổn thương ung thư di căn thành ngực phát triển
và đẩy lồi da lên, hoặc UTP xâm lấn vào màng phổi rồi phát triển lan ra ngoài
gây sùi loét da thành ngực.
1.1.4.5. Các hội chứng cận ung thư
Hội chứng cận ung thư gồm những biểu hiện toàn thân không do di
căn, xuất hiện ở các bệnh ác tính. Hội chứng này là tập hợp những triệu chứng
gây ra do các chất được sản sinh bởi các u, chúng có thể là những biểu hiện
9
đầu tiên hoặc những biểu hiện nổi trội của bệnh lý ác tính. Tần suất mắc hội
chứng này khoảng 2% đến 20% ở các bệnh lý ác tính (xem phụ lục 2).
1.1.4.6. Triệu chứng di căn của ung thư
Di căn là biểu hiện bệnh lý hay gặp và là triệu chứng thường xảy ra vào
giai đoạn muộn của ung thư nói chung và UTP nói riêng. Di căn có thể xảy ra
sớm hay muộn tùy thuộc vào loại tế bào ung thư. Một số tác giả cho thấy di
căn ung thư rất phong phú và biểu hiện trên lâm sàng dưới nhiều hình thức
khác nhau:
- Di căn xương: thường gặp xương dẹt, xương sườn, xương chậu, phát
hiện bằng chụp X quang, xạ hình xương toàn thân.
- Di căn não: BN thường có biểu hiện đau đầu, nôn, liệt khu trú, tri giác
chậm chạp.
- Di căn gan: đau hạ sườn phải, gan to bề mặt lổn nhổn, phát hiện bằng
siêu âm hoặc chụp CLVT ổ bụng.
- Di căn hạch: hạch ngã ba khí quản, hạch cựa khí quản, hạch thượng
đòn, hạch ức đòn chũm. Đối với hạch ngoại vi thường chọc hút hoặc sinh
thiết hạch làm xét nghiệm giải phẫu bệnh.
Đánh giá toàn trạng bệnh nhân để có định hướng điều trị
Bảng 1.1. Đánh giá toàn trạng dựa theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới
Bậc 0 Hoạt động bình thường
Bậc 1 Mệt, hoạt động bị hạn chế ít
Bậc 2 Nằm tại giường dưới 50% thời gian ban ngày
Bậc 3 Nằm tại giường trên 50% thời gian ban ngày
Bậc 4 Nằm liệt giường
10
6.#/&0&71,234
1.1.5.1. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh
Các thăm dò chẩn đoán hình ảnh có một vai trò quan trọng trong chẩn
đoán và đánh giá giai đoạn UTP. Một số phương pháp chẩn đoán hình ảnh
hiện được sử dụng bao gồm: siêu âm, chụp X quang, chụp CLVT, chụp cộng
hưởng từ (MRI), chụp PET Scan và chụp PET - CT, siêu âm nội soi Dưới
đây, chúng tôi xin trình bày khái quát một vài phương pháp được ứng dụng
trên lâm sàng [26 - 34].
89!"#&:
Phim X quang phổi chuẩn thẳng và nghiêng trái là xét nghiệm quan
trọng cho mọi bệnh nhân UTP. Trong một số trường hợp phim chụp X quang
cho phép chẩn đoán xác định ung thư phổi. Biểu hiện trên phim X quang UTP
cũng rất đa dạng thường có các khối mờ ở phổi, bờ không đều, có hình ảnh
chân cua, có khi kèm hình ảnh di căn Nhiều tác giả thống nhất dựa vào các
hình ảnh sau đây:
Hình ảnh trực tiếp: [26], [27].
- Đám mờ thường có đường kính trên 3 cm, hoặc nốt mờ đường kính
>10mm, bờ không rõ, có múi, hoặc tua gai. Khi hoại tử có thể có hình hang
thành dày, bờ trên gồ ghề, nham nhở lệch tâm.
Dấu hiệu hình bóng Felson: trong trường hợp u nằm ở thùy giữa phổi
phải hoặc phân thùy lưỡi phổi trái cùng bình diện với tim, khối hình như dính
liền và không thấy bờ viền ngăn cách với tim (dấu hiệu hình bóng dương
tính). Khi thấy đám mờ chồng lên hình ảnh của tim, chứng tỏ u nằm khác
bình diện của tim (u thùy dưới phổi).
11
Dấu hiệu cổ ngực: u phân thùy 3 phổi luôn nằm phía dưới xương đòn.
Nếu thấy u liên tục từ bờ dưới xương đòn lên phía trên xương đòn thì u nằm ở
phân thùy 2 phía sau của phổi.
Dấu hiệu hội tụ rốn phổi về bản chất cũng là dấu hiệu hình bóng Felson.
Hình xâm lấn thành ngực: những u ở ngoại vi nằm sát thành ngực xâm
lấn, phá hủy thành ngực, hủy xương sườn. Một số ít trường hợp có thể thấy u
lồi hẳn ra ngoài thành ngực.
Hình ảnh mặt trời mọc: U phổi nằm ở ranh giới vùng tràn dịch màng
phổi. Phần u ở trên vùng tràn dịch màng phổi tạo hình mặt trời mọc.
Hình ảnh gián tiếp: do sự phát triển của u trong lòng phế quản làm hẹp
lòng phế quản, thường nhìn thấy trên phim X quang phổi chuẩn. Biểu hiện
trên phim tùy thuộc vào u gây tắc phế quản hoàn toàn gây xẹp phổi hoặc viêm
phổi sau tắc hoặc tắc bán phần có thể chỉ gây hiện tượng”cạm khí ” hoặc xẹp
phổi còn thông khí [26], [27], [28].
Dấu hiệu hình chữ S của Golden (“S” sign of Golden) hay còn gọi là đường
cong Morton thường gặp ở u trung tâm, thùy trên phổi phải gây xẹp phổi làm
cho rãnh liên thùy giữa vồng lên từ trong ra ngoài trông giống hình chữ S.
Trong một số trường hợp, phim chụp X quang phổi chuẩn cho phép chẩn
đoán xác định các UTP, đánh giá được mức độ xâm lấn trung thất, thành
ngực, cột sống, có thể thấy hình tràn dịch màng phổi: là biểu hiện của tình
trạng u phổi xâm lấn hoặc di căn màng phổi. Các biểu hiện thấy trên phim
chụp X quang phổi bao gồm từ mờ góc sườn hoành cho đến mờ cả một bên
phổi tùy theo mức độ tràn dịch. Chụp phim X quang là một kỹ thuật phổ biến
ở hầu hết các cơ sở y tế. Tuy nhiên, đa số các trường hợp UTP cần được chỉ
định chụp CLVT, đặc biệt ở những trường hợp UTP giai đoạn sớm, u còn
nhỏ, hoặc u ở những vị trí bị các thành phần trung thất che khuất. Các biểu
hiện khác nhau tuỳ theo u ở trung tâm hay ngoại vi.
12
;!&< 1=!># ?@AB2! C.B2B.!*D
Năm 1973, Hounsfield cho ra đời chiếc máy chụp CLVT đầu tiên dùng
để chụp CLVT sọ não. Gần đây, sự ra đời của các máy chụp CLVT đa đầu dò
(MSCT) mở ra kỷ nguyên mới cho chụp CLVT. Trên phim chụp CLVT ngực có
thể xác định được vị trí, mật độ, cấu trúc, sự phát triển, xâm lấn, mức độ lan tràn
của tế bào ung thư vào hạch trung thất, di căn xa. Bên cạnh giá trị xác định chẩn
đoán, chụp CLVT có giá trị đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá giai đoạn
bệnh, xác định BN còn chỉ định phẫu thuật hay không [29], [30], [31], [32].
Độ nhạy của chụp CLVT tuy cao 70 - 97%, nhưng độ đặc hiệu lại thấp (60
-80%) do không cho phép chẩn đoán phân biệt u lành với u ác [3].
Các hình ảnh tổn thương trên phim chụp CLVT ở những bệnh nhân UTP
có thể gặp bao gồm [29], [37].
Nốt mờ hoặc đám mờ
Nốt mờ là những tổn thương có đường kính < 4cm.
Đám mờ là nhũng tổn thương có đường kính ≥ 4cm. Trên phim chụp
CLVT có thể phát hiện những nốt, đám mờ đường kính ≤ 2cm. Ngoài việc xác
định kích thước tổn thương còn có thể giúp cho việc đánh giá tỷ trọng của khối
u. Quanh u có thể thấy bờ không đều, có thể thấy các đường ly tâm xuất phát từ
u gọi là vành tua gai. Bình thường u phổi có tỷ trọng 20 - 40 HU ( Hounsfield).
U phổi có xu hướng ngấm thuốc nhiều hơn các tổn thương dạng kén, u lao
Có thể thấy vùng hoại tử nằm lệch tâm thành dày không đều [29].
Chụp CLVT ngoài việc phát hiện những tổn thương thứ phát mà trên
phim X quang không nhìn thấy còn phát hiện những tổn thương xâm lấn vào
các cơ quan lân cận:
•Hình xâm lấn màng phổi
Tràn dịch màng phổi ở bệnh nhân UTP có thể là do ung thư di căn
màng phổi hoặc cũng có thể là tràn dịch màng phổi lành tính do viêm phổi sau
13
tắc nghẽn phế quản. Dấu hiệu điển hình là hình ảnh các nốt mờ dạng tổ chức
trên bề mặt màng phổi hoặc hình ảnh dày màng phổi.
•Xâm lấn trung thất
Để xác định tình trạng xâm lấn trung thất của những UTP, cần phải dựa
trên phim chụp CLVT ngực có tiêm thuốc cản quang. Trong những trường
hợp khó xác định nên chụp cắt lớp ngực với máy chụp đa đầu dò kết hợp kỹ
thuật tái tạo ảnh không gian ba chiều, giúp xác định chính xác hơn tình trạng
xâm lấn trung thất, khí quản, động mạch phổi.
•Hình xâm lấn thành ngực
Chụp CLVT cho phép chẩn đoán xâm lấn thành ngực với độ nhạy: 70 -
90 và độ đặc hiệu: 60 - 90%. Các dấu hiệu gợi ý xâm lấn thành ngực bao
gồm: phá hủy xương sườn, u lớn lan vào thành ngực, dày màng phổi…[3].
•Xẹp phổi xung quanh và viêm phổi sau tắc nghẽn phế quản
Chụp CLVT rất có giá trị trong phân biệt giữa u phổi với vùng phổi xẹp
xung quanh do u gây ra. Sau tiêm thuốc cản quang, vùng phổi xẹp có tỷ trọng
cao hơn do ngấm thuốc cản quang hơn u nguyên phát. Tuy nhiên, rất khó xác
định ranh giới và phân biệt được u với vùng phổi xẹp hoặc viêm trong những
trường hợp u nhỏ, nằm trong lòng phế quản [31], [32].
•Di căn hạch do ung thư
Xác định hạch trung thất có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chẩn
đoán giai đoạn bệnh và tiên lượng. Những bệnh nhân có hạch trung thất N
1
hoặc N
2
vẫn có thể có chỉ định phẫu thuật, nhìn chung tất cả những trường
hợp hạch trung thất đối bên không có chỉ định phẫu thuật [33].
Tiêu chuẩn xác định hạch trung thất trên những BN có u phổi bao gồm
những hạch có đường kính > 1cm. Hạch trung thất được chia thành:
14
- N
1
: hạch quanh phế quản cùng bên và/hoặc hạch rốn phổi và hạch trong
phổi cùng bên, bao gồm cả sự xâm lấn trực tiếp của u vào các hạch đó.
- N
2
: hạch trung thất cùng bên và/hoặc hạch dưới cựa khí phế quản.
- N
3
: hạch trung thất đối bên, hạch rốn phổi đối bên.
•Một số hình ảnh tổn thương khác trên phim chụp CLVT ngực ở
bệnh nhân UTP
- Hình ảnh lưới - nốt: gặp trong trường hợp UTP di căn theo đường bạch mạch.
- Hình ảnh nhiều nốt mờ lan tỏa: gặp trong ung thư tiểu phế quản
phế nang.
- Hội chứng lấp đầy phế nang gặp trong viêm phổi sau tắc nghẽn phế quản.
• Tổn thương thứ phát
Trong UTP việc phát hiện những tổn thương thứ phát có vai trò quan
trọng trong chẩn đoán giai đoạn bệnh. Khi thấy tổn thương thứ phát cùng bên
phổi, bệnh được xếp ở T
3
(cùng thùy) hay T
4
(khác thùy), ở giai đoạn này, BN
có thể còn chỉ định phẫu thuật. Khi có tổn thương ở phổi đối bên với u
nguyên phát, bệnh được xếp giai đoạn M
1
, lúc này BN không còn chỉ định
phẫu thuật.
EF G@HIJHC #&IC3B&C2#D
MRI là một phương pháp rất có giá trị trong thăm khám lồng ngực với
các trường hợp thăm khám đỉnh phổi, cơ hoành và cột sống, đánh giá xâm lấn
tại chỗ của khối u vào mạch máu, di căn xâm lấn tủy xương, xác định đánh
giá giai đoạn UTP. Ưu điểm nổi bật của MRI là tương phản cao đánh giá tổn
thương mô mềm và hình ảnh đa bình diện, đánh giá mạch máu mà không bị
ảnh hưởng bởi bức xạ ion hóa. Tuy nhiên nó còn nhiều hạn chế trong chẩn
đoán bệnh lý nhu mô phổi do độ phân giải không gian kém hơn nhiễu do
chuyến động sinh lý của phổi [34], [35].
15
;!!K9L&L9
Thời kỳ trước khi có chụp CLVT để chẩn đoán ung thư phế quản cần
chụp phế quản cản quang có lipiodol để phát hiện các tổn thương có chèn ép
phế quản hay không. Một số hình ảnh đặc trưng: phế quản cắt cụt, phế quản bị
chít hẹp một phần, phế quản bị đẩy lệch vị trí bình thường của nó, phế quản bị
chít hẹp phối hợp với phế quản giãn, tổn thương trung thất do sự di căn hoặc
xâm lấn trực tiếp của khối u vào trung thất. Tuy nhiên hiện nay ít sử dụng
phương pháp này.
M#+,2
Siêu âm thường ít sử dụng để phát hiện khối u. Tuy nhiên siêu âm được
chỉ định trong những tổn thương đặc của nhu mô phổi hoặc màng phổi sát
thành ngực. Ví dụ u phổi ngoại vi, sát thành ngực siêu âm để hướng dẫn cho
chọc hút tế bào hoặc sinh thiết phổi xuyên thành ngực.
Siêu âm để chẩn đoán xác định tràn dịch màng phổi, đánh giá tình trạng
vách hóa khoang màng phổi, hướng dẫn cho chọc tháo hoặc chọc dò dịch
màng phổi.
NM&>4NO@B3# .BN2#33#BB2B.!*M&D
PET Scan là kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh tương đối mới dựa trên nguyên
lý tế bào ung thư phổi có khả năng hấp thu chuyển hoá glucose cao hơn các tế
bào bình thường. Dựa vào đặc tính này, người ta sử dụng các chất phóng xạ
gắn glucose (18FDG = 18F-fluoro-deoxy-D-glucose) trong PET Scan. Các
glucose có gắn chất phóng xạ, sau khi được phosphoryl hóa, chúng không bị
chuyển hóa tiếp và được lưu giữ trong tế bào. Sử dụng máy quét PET để phát
hiện sự tích luỹ bất thường của các chất phóng xạ. Do vậy PET Scan được
xem là kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh dựa trên chức năng chuyển hóa của tổ chức.
16
PET - CT là phương pháp chẩn đoán hình ảnh kết hợp giữa chụp CLVT
và PET Scan. Chụp CLVT rất có giá trị trong đánh giá kích thước u, tình
trạng xâm lấn tới các tổ chức bên cạnh, PET có độ nhạy cao trong đánh giá
tổn thương di căn tới trung thất và các cơ quan khác. Kỹ thuật chụp CLVT
dựa trên việc tạo ảnh không gian 3 chiều, còn kỹ thuật PET tạo hình ảnh dựa
chủ yếu trên hoạt động chức năng của các tế bào. Do vậy, hệ thống kết hợp
PET - CT làm gia tăng mức độ chính xác trong chẩn đoán UTP và phát hiện
các tổn thương thứ phát ở các cơ quan khác [36], [37], [38]. Theo Mai Trọng
Khoa (2010) PET/CT (+) với giải phẫu bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ là
96,8%; độ nhạy cao (96,8%); phát hiện tổn thương di căn vào hạch trung thất
50%, vào xương 26,7% [38].
;!MN (Sing photon Emission Computed Tomography)
Là phương pháp chẩn đoán không xâm nhập sử dụng đồng vị phát tia
gama để ứng dụng xạ hình (99m TC MIBI), có giá trị trong chẩn đoán di căn
hạch trung thất dể xác định giai đoạn UTP chính xác. Trong nhiều nghiên cứu
cho thấy độ nhạy 87,7% – 89,8%, độ đặc hiệu 100%, độ chính xác > 90%.
Ngoài ra còn giúp chẩn đoán di căn xương và lập kế hoạch điều trị [3], [39].
Siêu âm ổ bụng tìm di căn gan, hạch ổ bụng
Chụp CT Scanner hoặc MRI sọ não trong trường hợp tìm di căn xa
1.1.5.2. Các kỹ thuật lấy bệnh phẩm chẩn đoán mô bệnh học
Nội soi phế quản
Nội soi phế quản (NSPQ) là một kỹ thuật thăm dò xâm nhập cho phép
đánh giá hình thái bên trong của cây phế quản [40]. Có NSPQ ống cứng và
NSPQ ống mềm. Trong chẩn đoán thường sử dụng NSPQ ống mềm còn soi
phế quản ống cứng thường ứng dụng trong điều trị. Nội soi phế quản huỳnh
quang với hệ thống ánh sáng xanh thay vì ánh sáng trắng giúp định vị tổn
17
thương và sinh thiết chính xác hơn. Siêu âm nội soi là kỹ thuật mới cho hình
ảnh rõ nét của trung thất, rốn phổi, mạch máu tổn thương các lớp khác nhau
của niêm mạc phế quản.
Trong ung thư phổi, NSPQ cho phép đánh giá sự xâm lấn hay lan tỏa của
u trong lòng phế quản. Sự xâm lấn này có thể thấy được ở ngay khí quản,
carina, phế quản gốc hay các phế quản phân thùy.
Các tổn thương có thể gặp ở UTP khi soi phế quản là: dạng u sùi: 22 -
55%; dạng thâm nhiễm: 13 - 42% chít hẹp: 24 - 30%: bít tắc hẹp lòng phế
quản: 9,5%; dạng loét - chảy máu và dạng đè ép từ ngoài. Tuy nhiên không
thấy tổn thương cũng chiếm tỷ lệ khoảng 3 - 20%. Ngoài ra, qua soi phế quản
chúng ta cũng đánh giá được tình trạng liệt dây thanh âm trong những trường
hợp u chèn ép dây thần kinh quặt ngược thanh quản [2], [40], [41], [42].
Song song với việc soi phế quản, chúng ta có thể phối hợp các phương
pháp lấy bệnh phẩm như chải, rửa phế quản, chọc hút xuyên thành phế quản
hay sinh thiết tổn thương, phục vụ cho chẩn đoán tế bào và mô bệnh học. Kết
quả phụ thuộc vào vị trí khối u và các thủ thuật xâm nhập được áp dụng để lấy
bệnh phẩm [43]. Theo Nguyễn Chi Lăng (1992), thủ thuật chải rửa phế quản tỷ
lệ phát hiện được ung thư là 50,88%, sinh thiết xuyên thành phế quản phát hiện
được 58,69% [44]. Theo Đồng Khắc Hưng (1995), qua sinh thiết phế quản đối
với UTP trung tâm: tỷ lệ dương tính là 77,9%; UTP ngoại vi: tỷ lệ dương tính
58,1%. Cũng theo tác giả này, sinh thiết phế quản có độ nhạy 74,2%, độ đặc
hiệu 71,4%, sinh thiết xuyên thành phế quản Se 70,3%, Sp 66,7% [45]. Ngoài
nội soi chẩn đoán còn kết hợp điều trị các khối u trong lòng khí phế quản
bằng phương pháp áp lạnh, điện đông thường sử dụng máy nội soi ống cứng.
Tuy nhiên, đây là một phương pháp xâm nhập, tuỳ thuộc vào tình trạng
sức khoẻ và sự hợp tác của bệnh nhân, đôi khi có thể có tai biến nặng như tràn
khí màng phổi, chảy máu trong và sau soi phế quản, suy hô hấp [41], [42].
18
Sinh thiết xuyên thành ngực
Sinh thiết phổi xuyên thành ngực dưới sự hướng dẫn của siêu âm, X
quang hoặc CLVT là những phương pháp rất có giá trị để chẩn đoán tế bào
và mô bệnh học cho các BN có nghi ngờ tổn thương ác tính ở phổi nhất là
sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của CLVT. STXTN có vai trò
đặc biệt quan trọng trong chẩn đoán các u ở ngoại vi, khi mà NSPQ không
tiếp cận được. Hiện nay, kỹ thuật STXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT
được coi kỹ thuật có giá trị chẩn đoán cao và an toàn cho những tổn thương
ở phổi và trung thất [46].
Các phương pháp khác
- Xét nghiệm tế bào học đờm, dịch màng phổi và sinh thiết màng phổi
(sinh thiết mù hoặc qua nội soi màng phổi) là xét nghiệm để xác định sự di
căn của UTP. Kết quả của các xét nghiệm này tùy từng nghiên cứu. Theo Bùi
Xuân Tám, Tô Kiều Dung (1996), giá trị của sinh thiết màng phổi trong chẩn
đoán bệnh lý màng phổi do ung thư có Se 90%, Sp 100% [11].
- Nội soi trung thất là một phương pháp xâm nhập có giá trị để xác
định giai đoạn hạch của UTP và vét hạch khi phẫu thuật. Nội soi trung thất
có độ nhậy từ 85 - 93%; độ đặc hiệu từ 85 - 100%. Tuy nhiên, hiện nay
người ta không soi trung thất nhất loạt mà thường thực hiện ngay trước khi
phẫu thuật nhằm giảm tỷ lệ mở lồng ngực vô ích, giảm tỷ lệ tử vong sau
phẫu thuật [3], [47].
- Nội soi màng phổi là một thủ thuật thăm dò trực tiếp khoang màng
phổi. Thủ thuật này có thể được thực hiện với sự hỗ trợ của video mà ngày
nay người ta gọi là soi lồng ngực video. Sinh thiết qua nội soi màng phổi là
một phương pháp chẩn đoán thích hợp được lựa chọn đạt hiệu quả cao đối với
BN tràn dịch màng phổi kéo dài, nếu xét nghiệm dịch màng phổi và sinh thiết
19
màng phổi mù nhiều lần không có chẩn đoán xác định. Tuy nhiên phương
pháp này còn ít được sử dụng do bệnh nhân cần phải trải qua cuộc gây mê.
- Ngoài ra, còn có thể sinh thiết hạch thượng đòn, hạch nách, hạch bẹn,
sinh thiết thân đốt sống, sinh thiết u gan để xác định sự di căn của UTP.
- Các chất chỉ điểm ung thư (Tumor marker). Hiện nay trên thế giới có
rất nhiều marker đã được nghiên cứu trên các bệnh nhân ung thư như CEA
(kháng nguyên ung thư biểu mô nguyên phát), NSE (enzym enolase đặc hiệu),
SCC (kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy). CYFRA 21 - 1 và nhiều
kháng nguyên khác. Mặc dù không có giá trị chẩn đoán xác định và độ đặc
hiệu không cao nhưng định lượng các marker này có giá trị trong đánh giá
hiệu quả của phương pháp điều trị và theo dõi tái phát [21], [48].
P,1BQ#2RS/T& !"#
Theo phân loại mô bệnh học của Tổ chức Y tế Thế giới năm 1999 cho u ở phổi
và màng phổi, tổn thương được chia thành 9 týp và các biến thể như sau [49], [50].
1. Ung thư biểu mô vảy
Các biến thể: dạng nhú; tế bào sáng; tế bào nhỏ; tế bào dạng đáy.
2. Ung thư biểu mô tế bào nhỏ
3. Ung thư biểu mô tuyến Acó các dạngAdạng nangU dạng nhúU tiểu phế
quản phế nangUkhông chế nhàyU chế nhàyUhỗn hợp chế nhày và không chế
nhày hay loại tế bào trung gianUung thư biểu mô tuyến đặc với chất nhày.
UTBM tuyến với các dưới nhóm phức hợp.
4. Ung thư biểu mô tế bào lớn
Biến thể: UTBM tế bào lớn thần kinh nội tiết; UTBM tế bào lớn thần
kinh nội tiết phối hợp; UTBM tế bào dạng đáy; UTBM dạng biểu mô lympho;
UTBM tế bào sáng; UTBM tế bào lớn với kiểu hình dạng u cơ trơn.
20
5. Ung thư biểu mô tuyến - vảy
6. Ung thư biểu mô với các thành phần đa hình thể, sarcome và dạng
sarcome: UTBM với các tế bào hình thoi và/hoặc tế bào khổng lồ; UTBM đa
hình thể; UTBM tế bào hình thoi; UTBM tế bào khổng lồ; UTBM – sarcome;
Ung thư nguyên bào phổi; Các loại khác.
7. U carcinoidAU carcinoid điển hình; U carcinoid không điển hình.
8. Ung thư biểu mô dạng tuyến nước bọt: UTBM dạng biểu bì - nhày; UTBM
túi dạng tuyến bạch huyết; Các nhóm khác.
9. Ung thư biểu mô không xếp loại
Trên thực hành lâm sàng thường gặp 4 loại trên: UTBMV, UTBMT,
UTBMTBN, UTBMTBKN
V,1BQ#H>4##WBQ CBX>4O$YYZ
Hệ thống xếp giai đoạn chỉ dựa trên một yếu tố duy nhất đó là phạm vi
giải phẫu của bệnh, những yếu tố khác như triệu chứng lâm sàng, đặc điểm
sinh học phân tử của u không được tính đến, sự gia tăng mức độ T phản ánh u
lớn hoặc sự xâm lấn nhiều hơn ở ngoại vi (màng phổi tạng, thành ngực) hoặc
nhiều hơn ở trung tâm (phế quản gốc hoặc phế quản thùy, trung thất). Trong
UTP, giai đoạn hạch tùy thuộc vào vị trí hạch có di căn (tương phản với số
lượng của hạch). Giai đoạn lâm sàng được biểu thị bởi tiền tố “c”, giai
đoạn tổ chức học được biểu thị bởi tiền tố “p”, ngoài ra, UICC còn định
nghĩa hệ thống phân loại cho sự xuất hiện hoặc vắng mặt phần tồn dư của u
sau điều trị [51,52,53].
Phân nhóm giai đoạn TNM
Mặc dù nhận ra có nhiều nhóm nhỏ mới trong các ký hiệu T và M nhưng
nhóm giai đoạn đã không được thêm bất kỳ nhóm nhỏ mới nào. Tuy nhiên,
định nghĩa những nhóm giai đoạn đã trở nên phức tạp hơn bởi thêm những
dưới nhóm của ký hiệu T và M [52], [53] (xem phần phụ lục 3).
21
$[\
$])##/2^#&B "#
Tích tuổi và lão hóa là những quá trình sinh lý tự nhiên diễn ra trong
sự phát triển của mỗi con người. Về mặt sinh học, cơ thể bắt đầu có các
dấu hiệu suy giảm chức năng từ khi bước vào tuổi 30. Từ thời điểm này, tỷ
lệ các bệnh mạn tính và mức độ phụ thuộc trong việc thực hiện các hoạt
động hằng ngày sẽ tăng lên [54].
Đại hội đồng quốc tế về người già tại Vienna năm 1982 cũng đã thống
nhất quy định những công dân từ 60 tuổi trở lên được gọi là người già [55]. Tuy
nhiên, dưới góc độ xã hội, ranh giới tuổi già có thể được sử dụng một cách linh
hoạt ở nhiều nước khác nhau. Các nước phát triển vẫn theo quy định riêng của
mình để lấy mốc 65 tuổi trở lên để chỉ người già [54], [55].
Theo Tổ chức Y tế Thế giới sắp xếp các lứa tuổi như sau: [55].
45 - 59: người trung niên
60 - 74: lớn tuổi
75 - 90: người già
Trên 90 tuổi: người già sống lâu
Trước đây, Việt Nam chưa có quy định về mốc xác định tuổi già, phần
lớn hiểu tuổi già là tuổi về hưu (60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với nữ).
Trong những năm gần đây, nước ta thống nhất sử dụng quy ước của Liên Hợp
Quốc coi người già là những người từ 60 tuổi trở lên và sử dụng khái niệm
“người cao tuổi” với ý nghĩa mang tính kính trọng, động viên và tích cực hơn để
thay thế cho thuật ngữ “người già”, song về mặt khoa học thì cả 2 khái niệm này
được dùng với ý nghĩa như nhau [56]. Với sự ra đời của pháp lệnh về người cao
tuổi (NCT) ngày 28 tháng 4 năm 2000 tại điều 2 quy định NCT: những công
dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên không phân biệt nam, nữ [57].
22
Vì vậy trong nghiên cứu này chúng tôi lựa chọn người cao tuổi là từ
60 tuổi trở lên.
$$_1/^#&B "#F#/ 2>4K#=#
Cùng với việc gia tăng tuổi thọ, số NCT đang tăng lên nhanh chóng. Xu
hướng già hóa dân số đã đụng chạm đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Theo
số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới, năm 1950, toàn thế giới mới chỉ có 214 triệu
người từ 60 tuổi trở lên, chiếm 8,5% dân số, nhưng đến những năm 2000, con số
NCT đã tăng lên đến 580 triệu. Trong khi tỷ lệ phát triển dân số toàn cầu đang
giảm dần thì tỷ lệ phát triển của NCT hằng năm tiếp tục tăng, từ 2,3%/ năm (giai
đoạn 1995 đến 2005). Với mức tăng này, trung bình mỗi tháng lại có thêm
750.000 người bước vào tuổi già và dự đoán đến năm 2020, thế giới có
khoảng 1 tỷ NCT [2]. Tốc độ tăng dân số NCT cũng không đồng đều giữa các
quốc gia. Ở Hoa Kỳ, năm 1900 NCT chỉ chiếm 4,1% dân số (với 2,5 triệu
người) nhưng đến năm 1985 đã tăng lên 12% (28,5 triệu người) và dự báo đến
năm 2020 NCT có thể chiếm tới 24,6% dân số (khoảng 65 triệu người [58].
Tương tự, ở Anh, tỷ lệ người cao tuổi cũng tăng từ 8% (năm 1901) lên tới
20% vào năm 1998 [54]. Riêng ở các nước châu Á, số lượng NCT đã tăng lên
gấp đôi trong vòng hai mươi năm từ năm 1980 đến năm 2000 và dự đoán đến
năm 2005 sẽ tăng lên gấp đôi thêm một lần nữa. Trong vòng năm mươi năm
tới (1975 đến 2025) NCT ở các nước phát triển sẽ chỉ tăng 89% còn ở các
nước đang phát triển sẽ tăng đến 347%, khi đó ba phần tư số NCT trên toàn
thế giới sẽ sống tại các nước kinh tế thấp [58].
Ở Việt Nam, dân số đang biến đổi theo mô hình của một nước đang phát
triển. Số lượng người cao tuổi (NCT) tăng khá nhanh từ 1989 trở lại đây. Năm
1950, cả nước ta mới chỉ có 1,95 triệu NCT, chiếm 6,5% dân số); năm 1989 đã
tăng lên 4,63 triệu (chiếm 7,2% dân số) và năm 1999 là 6,12 triệu (chiếm 8,1%
dân số) [59], [60]. Trong 2 thập kỷ vừa qua, số trẻ em sinh ra hằng năm có xu
23
hướng đang giảm dần và số lượng NCT vẫn gia tăng đều đặn. Từ năm 1989 đến
năm 1999 trung bình mỗi năm dân số chỉ tăng 2% nhưng NCT tăng đến 5%. Áp
lực dân số NCT ở nước ta sẽ ngày càng gay gắt hơn và dự đoán đến năm 2020
cả nước sẽ có khoảng 12,3 triệu NCT, chiếm khoảng 10% dân số. Nước ta sẽ
chuyển dịch dần cơ cấu dân số trẻ sang cơ cấu dân số già [59]. Sự thay đổi cơ
cấu dân số này sẽ dẫn tới sự thay đổi mô hình bệnh tật.
$(M#1`T&F^#&B "#
Già là một hiện tượng tự nhiên liên quan đến quá trình biệt hóa và
trưởng thành. Tăng trưởng và thoái triển kế tiếp nhau theo một trương trình
của sự phát triển quy định cho từng cá thể, từ 60 tuổi trở đi biểu hiện thoái
triển càng rõ nét. Nói cách khác già hóa là một quá trình được đặc trưng bới
những quy luật riêng bên trong, đồng thời có đặc thù nào đó mang tính cá thể,
được thể hiện bởi nhịp độ phát triển của nó, đó là đặc điểm mức độ biến đổi
theo tuổi của các hệ thống khác nhau lúc cao tuổi. Mặc dù còn chưa thống
nhất ý kiến về mặt sinh học, nhưng từ góc độ sinh lý, thì già hóa ở người là sự
giảm dần dự trữ hằng định nội mô của mọi hệ thống cơ quan. Sự suy giảm
này thấy rõ từ tuổi 39, tuy tốc độ và mức độ khác nhau nhưng quá trình này
diễn ra một cách từ từ và tuần tiến [61].
Già hóa liên quan đến những biến đổi nhịp sinh lý của các tổ chức.
Những biến đổi theo tuổi quan trọng nhất: giảm biên độ các tiến trình sinh lý
nhịp ngày đêm như thân nhiệt, cortisol huyết tương và giấc ngủ; mất đồng bộ
khác nhịp hoặc “lệch nội pha”…Khả năng phục hồi sinh lý chậm chạp đối với
hầu như tất cả các cơ quan, hệ thống. Suy giảm bài tiết các hormone là một
trong những mốc đánh dấu già hóa sinh học. Sự biến đổi nhịp tim, huyết áp
động mạch, tần số điện não, tần số nghe, dao động và run sinh lý theo tuổi…
Sự biến đổi rõ nhất ở hệ thống thần kinh và tuần hoàn.
24
Sự già hóa biểu hiện rõ bằng sự mất khả năng thích nghi, khả năng điều
hòa các bộ phận hơn là sự suy kém chức năng riêng lẻ của từng bộ phận. Tốc độ
già hóa phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố nội môi. Việc duy trì cân bằng nội môi
cực kỳ quan trọng, vì nếu nó rối loạn thì cuộc sống sẽ không tồn tại được. Sự già
hóa kéo theo hàng loạt những thay đổi sinh lý ở các hệ thống khác nhau.
Khi phân tích những biến đổi nẩy sinh trong quá trình lão hóa cơ thể của
hệ thống hô hấp, việc trước tiên phải chú ý đến là còng lưng và biến dạng
lồng ngực. Calci hóa và mất dần tính đàn hồi sụn sườn sẽ làm giảm khả năng
di động các khớp cột sống - xương sườn. Sự thu theo các sợi cơ, đặc biệt là cơ
gian sườn và cơ hoành, việc tăng sinh các tổ chức xơ, ngưng đọng mỡ giữa
các sợi cơ… đã tạo nên những đặc điểm chung biến đổi lồng ngực lúc về già.
Lồng ngực bị thu hẹp lại, bên sườn trở nên đặc cứng, thành dạng thùng tròn,
mất khả năng tăng dung tích so với lúc trẻ. Các trị số thông khí giảm rất sớm.
thông khí tối đa giảm dần, có thể tới 40% ở người cao tuổi. Dung tích sống hô
hấp giảm dần, thể tích cặn tăng 13cm
3
/ m
2
mỗi năm [61]. Do phổi bị biến đổi,
như giảm kích thước, thể tích ít di động, giảm tính chun của các sợi đàn hồi
cũng như thu teo của chúng làm biến dạng các phế nang, giữa các phế nang
không còn vách ngăn, giãn ống phế nang. Hiện tượng xơ hóa phổi tăng lên,
tăng các sợi collagen ở các vách ngăn phế nang làm hạn chế tính đàn hồi tổ
chức phổi… Những biến đổi tràn khí ở người già sẽ phát triển, kèm theo là
giảm bề mặt trao đổi khí của phổi [61].
Sự khá biệt chức năng quan trọng nhất khi tuổi già là sự bảo vệ của phổi
chống lại các tác nhân gây nhiễm trùng bị suy giảm. Ho là một trong những
phản xạ bảo vệ cơ học quan trọng nhất, nhưng ở tuổi này không còn mạnh mẽ
nữa - dung tích kín tối đa không đủ khả năng cho ho bật ra mạnh để tống
những gì không cần thiết ra ngoài.
25
Chức năng phổi giảm dần theo tuổi, đạt đỉnh cao nhất lúc 30 tuổi và
chính đỉnh điểm cao nhất này sẽ quyết định khả năng của những biến đổi sau
này do những thay đổi khi tuổi cao [58], [59].
$-aaS/ 7 F^#&B "#
Các nguyên nhân chính gây tử vong ở người già theo một thống kê năm
1997 ở Mỹ cho thấy trong số hơn 1,7 triệu người tử vong ở nhóm tuổi ≥ 65,
có 35,1% là tử vong do các bệnh tim; 22,1% là do ung thư, 8,1% do bệnh
mạch não [58], [59], [61].
Khi các quốc gia tiến hành công nghiệp hóa, việc thay đổi lối sống và
làm việc chắc chắn sẽ dẫn đến những thay đổi về mô hình bệnh tật. Việc
chuyển từ mô hình các bệnh nhiễm trùng là chủ yếu sang mô hình các bệnh
không lây truyền là chủ yếu, diễn ra nhanh nhất ở các nước đang phát triển,
trong đó các bệnh mạn tính như bệnh tim mạch, ung thư và trầm cảm nhanh
chóng trở thành nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tàn phế.
$6b&W#c2 !"#F^#&B "#
Ở người cao tuổi thường gặp một số loại ung thư: ung thư phế quản (phổi),
ung thư tuyến tiền liệt, ung thư đại, trực tràng, ung thư dạ dày, gan, mật.
Ung thư phổi là bệnh đứng hàng thứ hai trong các bệnh về Hô hấp trong
số bệnh nhân điều trị nội trú tại Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai. Số
lượng bệnh nhân ngày càng tăng lên theo từng năm: từ 1969 đến 1972 có 89
trường hợp UTP, từ 1974 đến 1978 có 186 trường hợp, từ 1981 đến 1985 có
285 trường hợp, từ 1996 đến 2000 có 639 trường hợp, chiếm 16,6% tổng số
các bệnh nhân điều trị, đứng hàng thứ hai sau bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
[3]. Theo Hoàng Hồng Thái nghiên cứu 419 BN ung thư phổi điều trị tại khoa
Hô hấp từ tháng 1 năm 2006 đến tháng 7 năm 2007 độ tuổi trung bình là 61,5
± 12,53. Tuổi trên 40 chiếm 95,94% [10]. Như vậy, NCT mắc ung thư phổi
ngày càng tăng. Một điều khác với quan niệm trước đây khi điều trị UTP cho
người cao tuổi người ta cần xem xét đến vấn đề tuổi tác thể trạng nhưng ngày