Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và chức năng thông khí của bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính giai đoạn ổn định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (996.39 KB, 109 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) được đặc trưng bởi sự tắc
nghẽn luồng khí thở ra không hồi phục hoàn toàn. Sự cản trở thông khí này
thường tiến triển từ từ và là hậu quả của sự tiếp xúc lâu ngày với các chất và
khí độc hại. Quá trình viêm, mất cân bằng của hệ thống proteinase, anti -
proteinase, sự tấn công của các gốc oxy tự do, làm phá hủy cấu trúc đường
thở và nhu mô phổi dẫn đến làm suy giảm chức năng hô hấp [1], [3], [4], [5].
BPTNMT trước và nay vẫn đang là một thách thức lớn về sức khỏe đối
với y học toàn cầu vì tính chất phổ biến, tiến triển kéo dài, chi phí điều trị cao
và hậu quả gây tàn phế. Theo TCYTTG (World Health Organization –
WHO) tỷ lệ tử vong do BPTNMT gia tăng theo thời gian, năm 1990 trên thế
giới có khoảng 2,2 triệu người chết vì BPTNMT chiếm 8% tổng số người chết
do bệnh tật, là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 6. Năm 2000 có 2,7
triệu người chết vì BPTNMT [2]. Hiện nay BPTNMT đang là nguyên nhân
gây tử vong đứng hàng thứ tư. WHO dự đoán số người mắc bệnh sẽ tăng 3 - 4
lần trong thập kỷ này, gây ra 2,9 triệu người chết mỗi năm và đến năm 2020
BPTNMT sẽ là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 3 [7], [8]. Với tính
chất tiến triển trầm trọng như vậy BPTNMT đang trở thành mối lo ngại về
sức khỏe và là mục tiêu quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới.
Năm 1997, trong một nỗ lực để mang lại sự chú ý nhiều hơn đến căn
bệnh này WHO phối hợp với viện Tim Phổi và Huyết học Hoa Kỳ (National
Heart, Lung and Blood Institute - NHLBI) đã hình thành Sáng kiến toàn cầu
về BPTNMT (Global initiative for Chronic Obstructive Lung Disease -
GOLD). Từ năm 2001, GOLD đã đưa ra khuyến cáo về quản lý và điều trị
BPTNMT. Khuyến cáo đã giúp các nhân viên y tế, các cơ quan chăm sóc sức
2
khỏe hiểu biết về cơ chế bệnh sinh, mối liên quan đến hút thuốc lá và các
khuyến nghị cụ thể về việc quản lý và chiến lược phòng chống căn bệnh này.
Hướng dẫn GOLD chỉ ra rằng đo thông khí phổi là xét nghiệm quan
trọng nhất trong việc chẩn đoán BPTNMT. Các bản hướng dẫn trước của


GOLD phân loại mức độ của BPTNMT thành 4 giai đoạn bằng cách sử dụng
kết quả đo thông khí phổi và việc điều trị dựa trên cơ sở phân chia mức độ
theo cách này tức là dựa vào giá trị của FEV1. Do vậy từ trước tới nay chưa
đánh giá bệnh nhân một cách toàn diện hay nói cách khác chưa có sự cá thể
hóa trong việc điều trị cho bệnh nhân BPTNMT.
Đã có nhiều thay đổi trong vòng 10 năm qua kể từ khi báo cáo đầu tiên
của GOLD được công bố. Dựa trên kết quả của nhiều nghiên cứu trên thế
giới, GOLD 2011 ấn phẩm gần đây nhất đã đưa ra một cách tiếp cận đa chiều
để phân loại BPTNMT nhằm đưa ra phương án điều trị thích hợp hơn. Các
yếu tố được xem xét bao gồm: Triệu chứng, khả năng thể chất, tần suất mắc
đợt cấp và kết quả đo thông khí phổi. Nhiều đợt cấp thường xuyên có thể gây
ra sự suy giảm chức năng phổi vĩnh viễn và trầm trọng.
Ở Việt Nam đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu áp dụng hướng dẫn
GOLD vào công tác điều trị. Tuy nhiên hướng dẫn GOLD 2011 còn rất mới, nên
hiện nay có rất ít thầy thuốc áp dụng cách phân loại này trong điều trị bệnh nhân
mắc BPTNMT giai đoạn ổn định. Xuất phát từ tình hình thực tế trong việc quản
lý, điều trị và phòng ngừa BPTNMT và sự sẵn có các công cụ để đánh giá bệnh
nhân một cách toàn diện. Chúng tôi thực hiện đề tài với mục đích:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và chức năng thông khí của
bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính giai đoạn ổn định.
2. Nghiên cứu áp dụng phân loại mức độ nặng bệnh phổi tắc nghẽn mạn
tính giai đoạn ổn định theo hướng dẫn GOLD 2011.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TỔNG QUAN VỀ BPTNMT
1.1.1. Định nghĩa BPTNMT
BPTNMT là một bệnh lý đặc trưng bởi tình trạng tắc nghẽn lưu lượng
thở. Sự tắc nghẽn này có tính tiến triển và không hồi phục hoàn toàn hoặc chỉ
hồi phục một phần, thường phối hợp với sự tăng phản ứng đường thở do

VPQMT hoặc khí phế thũng gây ra [9], [10], [11] trong đó:
- VPQMT được định nghĩa là tình trạng ho khạc đờm kéo dài liên tục ít
nhất là 3 tháng trong một năm và ít nhất 2 năm liên tục mà sự ho khạc này
không do một bệnh tim hay bệnh phổi nào khác gây ra (WHO 1983), đây là
một định nghĩa có tính chất lâm sàng.
- Khí phế thũng là tình trạng căng giãn bất thường và vĩnh viễn của các
khoảng chứa khí tận cùng của các tiểu phế quản tận kèm theo sự phá hủy các
vách mà không gây xơ hóa, đây là một định nghĩa về mặt giải phẫu bệnh lý.
Trong báo cáo năm 2001, GOLD đă đề cập đến các yếu tố nguy cơ gây
bệnh trong định nghĩa về BPTNMT đó là sự tiếp xúc với các chất khí độc hại
và BPTNMT đã được định nghĩa như sau: BPTNMT là một t́ình trạng bệnh lý
đặc trưng bởi sự giảm lưu lượng thở không hồi phục. Sự giảm lưu lượng này
thường tiến triển và đi kèm đáp ứng viêm bất thường của phổi với các chất và
khí độc hại [10]. Trong báo cáo GOLD 2011, định nghĩa BPTNMT không
thay đổi đáng kể nhưng được viết lại cho rõ ràng hơn: “BPTNMT là một bệnh
có thể phòng ngừa và điều trị được, đặc trưng bởi sự giới hạn luồng khí thở ra
dai dẳng và thường tiến triển, là hậu quả của phản ứng viêm mạn tính trong
đường dẫn khí của phổi đối với hạt và khí độc. Các cơn kịch phát và bệnh
đồng mắc góp phần làm bệnh nặng ở mỗi bệnh nhân” [12].
4
1.1.2. Cơ chế sinh bệnh học
Cơ chế bệnh sinh của BPTNMT khá phức tạp và ngày càng có những hiểu
biết mới, nhất là với những thành tựu của sinh học phân tử [2], [13], [14], [15], [16],
[17]. Có 4 vấn đề trong cơ chế bệnh sinh của BPTNMT là:
• Tăng đáp ứng viêm của đường thở.
• Mất cân bằng giữa protease và kháng protease.
• Mất cân bằng giữa hệ thống oxy hóa và kháng oxy hóa.
• Sự biến đổi của các chất trung gian hóa học.
Tăng đáp ứng viêm của đường thở
Đặc điểm nổi bật của BPTNMT là tình trạng viêm nhiễm thường xuyên,

biểu hiện quá mức ở toàn bộ đường dẫn khí và nhu mô phổi. Những đợt bùng
phát của bệnh càng làm cho hiện tượng viêm nặng nề hơn. Các tế bào chủ yếu
tham gia vào quá trình viêm tại phổi gồm: Đại thực bào, bạch cầu đa nhân
CNHH
FEV1/ FVC < 70%
Bệnh sử
Ho khạc đờm, khó thở,
hút thuốc lá
Bụi khí độc
Khói thuốc, bụi than,
môi trường
Đáp ứng viêm
ĐTB, ĐN TT, xơ hóa
đường thở, nhu mô
BPTNMT
Tắc nghẽn không hồi phục
Hạn chế lưu lượng thở ra
Tiến triển do đáp ứng viêm
với khói bụi độc hại
5
trung tính và các lympho T (CD 8). Các tế bào này được hoạt hóa để tăng khả
năng đại thực bào, nhưng đồng thời cũng giải phóng ra nhiều chất hóa học
trung gian như leukotriene B4, interleukin 8 (IL8), yếu tố hoạt tử u α (TNF
-α) … Các chất này có khả năng phá hủy cấu trúc của phổi, làm mất đàn hồi
của phổi thúc đẩy thêm giãn phế nang. Hít phải khói bụi, các chất khí độc, hút
thuốc lá có thể gây ra viêm cũng như phá hủy cấu trúc phế quản và phổi. Hầu
như tất cả các yếu tố nguy cơ gây BPTNMT đều là tác nhân khởi phát phản
ứng viêm mạn tính tại phổi.
Mất cân bằng giữa proteinase và kháng proteinase:
Là cơ chế bệnh sinh quan trọng nhất làm phát triển khí thũng phổi và mất độ

đàn hồi phổi. Theo Barnes P.J và cộng sự trong BPTNMT sự cân bằng bị
nghiêng về hướng tăng ly giải protein do tăng các protease.
Cơ chế mất cân bằng giữa các chất oxy hóa và kháng oxy hóa:
Chứng cứ về mất cân bằng này xảy ra trong BPTNMT ngày càng
nhiều. Những dấu ấn kích hoạt oxy hóa được tìm thấy trong dịch trên bề
mặt biểu mô phế quản, trong hơi thở và trong nước tiểu của người hút
thuốc lá và bệnh nhân BPTNMT. Các gốc oxy hóa này có thể trực tiếp gây
tổn thương tổ chức hoặc ức chế α1- PI. Kích hoạt oxy hóa không những
làm tổn thương tổ chức phổi mà còn tham gia làm mất cân bằng protease -
kháng protease. Các chất oxy hóa còn hỗ trợ cho quá trình viêm và đóng
góp vào việc làm tắc nghẽn đường thở.
Các chất trung gian gây viêm liên quan đến BPTNMT:
Hóa chất trung gian Lipid: Leukotriene (LB4) hấp dẫn BC đa nhân và lympho
T. Các chemokine: Interleukin8 (IL8) hấp dẫn BC đa nhân và BC mono.
Các cytokine tiền viêm: Yếu tố hoại tử u (TNF - α), IL - 1β và IL - 6 khuếch
đại quá trình viêm góp phần gây ảnh hưởng toàn thân của BPTNMT.
6
Hướng dẫn GOLD năm 2001 đã tóm tắt cơ chế sinh bệnh học của
BPTNMT theo sơ đồ:
Sơ đồ sinh bệnh học của BPTNMT (GOLD 2001) [10]
Đáp ứng viêm, tu
bổ đường hô hấp
Bệnh lý BPTNMT
Protease
Oxy hóa
Kháng proteaseKháng oxy hóa
Viêm ở phổi
Các yếu tố cơ địa
khói thuốc và khí độc
đđđộc

7
1.1.3. Tình hình BPTNMT
1.1.3.1. Tình hình BPTNMT trên thế giới
Theo WHO ước tính trên toàn cầu, chỉ số lưu hành của BPTNMT là
9,34/1000 đối với nam giới và 7,33/1000 ở nữ giới, với các số liệu nghiên cứu
trên thế giới đã chỉ ra tỷ lệ mắc bệnh khác nhau giữa các khu vực trên thế giới
[14] Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở những quốc gia mà hút thuốc còn phổ biến.
Tỷ lệ bệnh thấp nhất ở nam giới là 2,96/1000 dân ở Bắc Phi và Trung Đông
và tỷ lệ thấp nhất ở nữ giới là 1,79/1000 dân ở các quốc gia và vùng đảo Châu
Á [18], [19].
Tại Mỹ tỷ lệ tử vong do BPTNMT tăng đều đặn vài thập kỷ qua, năm
1995 có khoảng gần 14 triệu người mắc BPTNMT tăng 41,5% so với năm
1984. Theo Mannino DM và cộng sự khảo sát có tính quốc gia trên mẫu đại
diện ở những người > 25 tuổi cho thấy tỷ lệ mắc bệnh là 8,8 % [20].
Châu Âu: Nhiều nghiên cứu hiện nay cho thấy tỷ lệ mắc BPTNMT là
khoảng 9% người trưởng thành, chủ yếu ở người hút thuốc lá [21]. Theo
Tzanakis N (2004) nghiên cứu trên 888 đối tượng trên 35 tuổi ở Hy Lạp
thấy tỷ lệ lưu hành của BPTNMT là 8,4% trong đó tỷ lệ mắc ở nam là
11,6% và ở nữ 4,8% [22].
Theo nghiên cứu tại 12 nước ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương ước
tính trên tỷ lệ hút thuốc thấy tỷ lệ mắc thấp nhất là ở Hồng Kông và
Singapore chiếm 3,5%, cao nhất ở Việt Nam chiếm tỷ lệ 6,7% [23]. Theo Ran
P.X. (2005), tỷ lệ mắc BPTNMT ở Trung Quốc là 8,2%, tỷ lệ mắc ở nam
12,4% và nữ 5,1% [24]. Nghiên cứu dịch tễ học ở Trung Quốc và Hồng Kông
cho thấy tỷ lệ mắc BPTNMT ở những đối tượng hút thuốc lá ở Trung Quốc là
14% và Hồng Kông là 17% [25].
8
1.1.3.2. Tình hình BPTNMT ở Việt Nam
Việt Nam là một nước có tỷ lệ hút thuốc khá cao (> 50% dân số người
lớn) và cũng là nước có mức độ ô nhiễm môi trường cao và điều kiện bảo hộ

lao động còn thấp đó chính là những yếu tố nguy cơ cao gây BPTNMT [23].
Không chỉ là bệnh thường gặp, tỷ lệ mắc BPTNMT trong dân số hiện nay
đang gia tăng nhanh chóng, theo dự đoán năm 2012 căn bệnh này sẽ gây tử
vong rất cao và chỉ đứng sau bệnh mạch vành, ung thư và tai biến mạch não.
Hiện nay BPTNMT đang đứng hàng thứ 6 trong 10 bệnh thường gặp.
Theo nghiên cứu của Ngô Quý Châu và cộng sự (2006) nghiên cứu trên 2583
đối tượng tại Hà Nội thấy tỷ lệ mắc chung cho cả 2 giới là 2,0%, trong đó tỷ
lệ mắc ở nam là 3,4% và nữ 0,7% [26]. Từ năm 1996 - 2000 tỷ lệ các bệnh
nhân mắc BPTNMT vào điều trị tại khoa Hô Hấp bệnh viện Bạch Mai là
25,1%, đứng đầu các bệnh lý về phổi [27]. Nghiên cứu của Lê Thị Vân Anh
(2006) tại thành phố Bắc Giang thấy tỷ lệ mắc BPTNMT là 2,3% trong đó
nam 3,0% và nữ 1,7% [28]. Ngô Quý Châu và cộng sự nghiên cứu trên 2976
đối tượng dân cư tuổi ≥ 40 thuộc ngoại thành thành phố Hải Phòng. Kết quả
cho thấy, tỷ lệ mắc BPTNMT chung cho hai giới là 5,65%; trong đó nam:
7,91% và nữ: 3,63% [29].
Theo Đinh Ngọc Sỹ và cộng sự trong điều tra dịch tễ BPTNMT toàn
quốc năm 2006 cho biết trong cộng đồng dân cư từ 15 tuổi trở lên có khoảng
1,4 triệu người mắc BPTNMT, tỷ lệ mắc BPTNMT là 2,2%; nam: 3,5%; nữ:
1,1%. Bệnh có xu hướng tăng theo tuổi, liên quan đến hút thuốc lá và sử dụng
nhiên liệu đốt hữu cơ [30]
Theo thống kê của dự án phòng chống BPTNMT quốc gia (2013) cho
thấy tỷ BPTNMT trong cộng đồng dân cư trên toàn quốc từ 40 tuổi trở lên có
tỷ lệ mắc BPTNMT là 4,2%, trong đó nam là: 7,1% và nữ là: 1,9%. Chia theo
khu vực thì nông thôn là: 4,7%, thành thị là: 3,3% và miền núi là: 3,6%.
9
1.1.4.1. Khúi thuc lỏ, thuc lo
õy c coi la yờu tụ nguy c hang õu cua BPTNMT. Ngi hut
thuục co nguy c bõt thng chc nng phụi nhiờu hn. Theo thụng kờ cua
Hiờp hụi Lụng ngc My, 15% sụ nhng ngi hut thuục co triờu chng lõm
sang cua BPTNMT va 80 - 90 % bờnh nhõn BPTNMT ờu co hut thuục.Theo

Craig A.P v cng s (2000) thy rng nhng ngi hỳt thuc cú t l mc
BPTNMT cao hn nhng ngi khụng hỳt thuc, tc st gim FEV1
nhng ngi hỳt thuc nhanh hn nhng ngi khụng hỳt thuc [31].
Theo Barnes v cộng sự (1997) 85% bệnh nhân BPTNMT nghiện thuốc
lá th ờng có tiền sử hút thuốc lá > 20 bao - năm, những ng ời n y th ờng
có bất th ờng chức năng hô hấp, tốc độ giảm FEV1 h ng năm nhanh hơn, tỷ
lệ tử vong do BPTNMT nhiều hơn so với ng ời không hút thuốc [2].
Khúi thuc lỏ nh hng xu n chuyn ng lụng chuyn ca biu mụ
hụ hp, c ch chc nng i thc bo ph nang v tng sinh cỏc tuyn ch
nhy. Thuc lỏ gõy tng khỏng lc ng hụ hp, gim hot tớnh antiprotease
v kớch thớch bch cu phúng thớch men tiờu protein. B thuc lỏ cú ý ngha
c bit quan trng i vi bnh nhõn BPTNMT c bit l nhúm mc
BPTNMT giai on sm. Nú lm thay i tc gim FEV1, sau khi b
thuc lỏ tc gim FEV1 s quay v bng vi tc gim ca ngi bỡnh
thng theo tui.
Hut thuục la thu ụng: Tre em trong gia inh co ngi hut thuục la bi cac
bờnh ng hụ hõp vi ty lờ cao hn tre em sụng trong gia inh khụng co ngi
hut thuục. Tip xỳc thng xuyờn vi khúi thuc ca nhng ngi hỳt thuc trong
cựng nh hoc cựng mụi trng lm vic lm tng t l mc BPTNMT [32].
1.1.4.2. ễ nhim mụi trng
Mt s nghiờn cu cho thõy BPTNMT con gp nhiờu nhng vung
cụng nghiờp, ngi cụng nhõn tiờp xuc thng xuyờn va lõu dai vi cac
10
loại bụi vô cơ như silic, bụi than, hóa chất, kim loại rất dễ bị BPTNMT.
Nông dân tiếp xúc với bụi hữu cơ như các loại bụi thực vật, nấm mốc, độc
tố vi khuẩn cũng có nguy cơ dễ mắc BPTNMT. Ngoài ra tình trạng ô
nhiễm vi khí hậu ở trong nhà khi đốt bếp than, lò sưởi cũng là yếu tố nguy
cơ dễ bị BPTNMT [12], [33], [34], [35].
1.1.4.3. Nhiễm trùng hô hấp khi còn là trẻ em
Nhiễm trùng đường hô hấp ở trẻ em dưới 8 tuổi gây tổn thương lớp tế

bào biểu mô đường hô hấp và các tế bào lông chuyển, làm giảm khả năng
chống đỡ của phổi. Nhiễm vi khuẩn tái diễn nhiều lần, các di chứng của bệnh
lao phổi cũng là các yếu tố nguy cơ phát triển của BPTNMT [16], [36].
1.1.4.4. Yếu tố cơ địa di truyền
Cơ địa dị ứng và tăng tính phản ứng của phế quản là yếu tố nguy cơ làm phát
triển BPTNMT. Sự thiếu hụt alpha1 - antitrypsin là yếu tố di truyền được xác định
chắc chắn gây BPTNMT. Tuy nhiên chỉ có < 1% dân số Bắc Âu bị khí phế thũng
có thiếu hụt yếu tố này.
1.1.5. Chẩn đoán BPTNMT
1.1.5.1. Chẩn đoán xác định
Cần xem xét chẩn đoán BPTNMT ở bất kỳ bệnh nhân nào có ho, khạc
đờm, hoặc khó thở và/hoặc có tiền sử phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ của
BPTNMT (hút thuốc, tiếp xúc với bụi và hoá chất, khói do nấu bếp và sưởi
ấm, ô nhiễm không khí). Khẳng định chẩn đoán dựa vào sự rối loạn thông khí
tắc nghẽn không hồi phục hoàn toàn thấy được bằng đo thông khí phổi với
nghiệm pháp giãn phế quản [37].
Thăm dò CNTK có vai trò rất quan trọng trong chẩn đoán xác định,
trong phân chia giai đoạn, theo dõi điều trị và tiên lượng bệnh [38].
11
Xét nghiệm thông khí phổi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán BPTNMT. Tuy
nhiên không có CNTK không có nghĩa là không chẩn đoán được BPTNMT
Tiêu chuẩn chẩn đoán BPTNMT theo GOLD 2006 [37]:
 Tiền sử: Tiếp xúc với yếu tố nguy cơ
 Lâm sàng: Ho, khạc đờm mãn tính kéo dài nhiều năm, tiến triển từ từ
khó thở dai dẳng, lúc đầu là khi gắng sức, sau khó thở cả khi nghỉ ngơi
 Kết quả đo thông khí phổi có biểu hiện rối loạn thông khí tắc nghẽn
không hồi phục hoàn toàn:
Chỉ số Tiffneau (FEV1/VC) < 70% và/hoặc chỉ số Gaensler (FEV1/
FVC) < 70 % sau test HPPQ.
1.1.5.2. Chẩn đoán đợt cấp

 Khái niệm một đợt cấp:
Theo định nghĩa của GOLD (2009): Đợt cấp của bệnh là khi các triệu
chứng nặng lên trong 2 ngày liên tiếp đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp
điều trị mới [39].
 Chẩn đoán đợt cấp theo tiêu chuẩn của Anthonisen N. R (1987) [40]
- Khó thở tăng
- Tăng số lượng đờm khạc ra.
- Đờm chuyển thành mủ.
Tác động của đợt cấp lên người bệnh là rất nặng nề, tần suất đợt cấp
càng nhiều thì bệnh càng nhanh dẫn đến suy hô hấp và suy tim. Tiền sử đợt
cấp là yếu tố đơn dự báo mạnh nhất nguy cơ mắc các đợt cấp trong tương lai
(độc lập với giai đoạn của GOLD) [41].
12
1.2. TỔNG QUAN VỀ CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU PHÒNG CHỐNG BPTNMT
1.2.1. Sự ra đời của GOLD
BPTNMT từ trước và đến nay vẫn đang là thách thức lớn về sức khỏe
đối với y học toàn cầu. Gánh nặng của BPTNMT dự kiến sẽ ngày càng
trầm trọng trong những thập kỷ tới bởi sự gia tăng tiếp tục của việc tiếp
xúc với những nguy cơ gây bệnh. Năm 1997 WHO phối hợp với NHLBI đề
ra sáng kiến toàn cầu về phòng chống BPTNMT viết tắt là GOLD (Global
Initative for Chronic Obstructive Lung Disease) được xây dựng nhằm huy
động nỗ lực trên toàn thế giới để đối phó với căn bệnh này. Mục đích là
nâng cao nhận thức về nguy cơ của BPTNMT, cải thiện việc phòng ngừa
và kiểm soát bệnh thông qua sự phối hợp của nhiều chuyên gia hàng đầu
trên thế giới ở mọi khía cạnh chăm sóc sức khỏe. Một mục tiêu quan trọng
hơn nữa đó là nhằm khuyến khích sự quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nữa
về căn bệnh phổ biến này.
Năm 2001 GOLD đã đưa ra khuyến cáo về quản lý, điều trị BPTNMT và
lấy ngày 15 tháng 11 là ngày BPTNMT toàn cầu.
Trong báo cáo này GOLD nhấn mạnh đến việc giảm các yếu tố nguy cơ,

đặc biệt là vấn đề cai thuốc lá. Ở mức độ quốc gia và quốc tế nên tập trung cố
gắng để giảm tình trạng ô nhiễm không khí, xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật và triển khai áp dụng các văn bản đó để bảo vệ môi trường [10].
Bản hướng dẫn GOLD được cập nhất mỗi năm một lần và có những sửa
đổi căn bản 5 năm một lần (2001, 2006, 2011). GOLD đã mang lại cho các
nhà lâm sàng một cái nhìn toàn diện về bệnh, hướng dẫn chẩn đoán sớm dựa
trên cơ sở các hiểu biết về các yếu tố nguy cơ gây bệnh đã được phát hiện.
13
1.2.2. Phân loại giai đoạn BPTNMT qua các thời kỳ
1.2.2.1. Phân loại theo GOLD 2001- 2010
GOLD 2001
Tháng 4/2001 GOLD đưa ra hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự phòng
bệnh, nhấn mạnh việc cải thiện triệu chứng và tình trạng sức khỏe là mục tiêu
điều trị. Phân loại BPTNMT được chia thành 4 giai đoạn bằng cách sử dụng kết
quả đo thông khí phổi, với sự nhấn mạnh đặc biệt về FEV1 và FEV1/FVC [10].
 Giai đoạn nguy cơ (0): Bệnh nhân chỉ có triệu chứng ho khạc kéo dài, các
chỉ số thông khí phổi bình thường.
 Giai đoạn nhẹ (I): Ho khạc kéo dài
- Chỉ số Gaensler (FEV1/FVC) < 70%
- Chỉ số FEV1≥ 80% SLT
 Giai đoạn trung bình (II) : Chia làm 2 mức độ:
 II A: Ho khạc đờm kéo dài, lâm sàng có khó thở hoặc không khó thở
- Chỉ số Gaensler (FEV1/FVC) < 70%
- 50% ≤ FEV1< 80% SLT
 II B: Các triệu chứng lâm sàng như mức độ II A
- Chỉ số Gaensler (FEV1/FVC) < 70%
- 30% ≤ FEV1 < 50% SLT
 Giai đoạn nặng (III)
- Lâm sàng có suy hô hấp hoặc suy tim phải.
- Chỉ số Gaensler (FEV1/FVC) < 70%

- FEV1 < 30% SLT
GOLD 2003
Phân loại giai đoạn BPTNMT theo GOLD 2003 [14]
 Giai đoạn 0 (nguy cơ): Bệnh nhân chỉ có triệu chứng ho khạc kéo dài, các
chỉ số thông khí phổi bình thường.
 Giai đoạn nhẹ (I): Ho khạc kéo dài
- Chỉ số Gaensler (FEV1/FVC) < 70%
- Chỉ số FEV1≥ 80% SLT
14
 Giai đoạn trung bình (II) : Ho khạc đờm kéo dài
- Chỉ số Gaensler (FEV1/FVC) < 70%
- 50% ≤ FEV1< 80% SLT
 Giai đoạn (nặng III) : Ho khạc đờm kéo dài, có thể có khó thở
- Chỉ số Gaensler (FEV1/FVC) < 70%
- 30% ≤ FEV1 < 50% SLT
 Giai đoạn rất nặng (IV): Lâm sàng có ho khạc đờm, khó thở.
- Chỉ số Gaensler (FEV1/FVC) < 70%
- FEV1 < 30% SLT, hoặc FEV1 < 50% SLT, lâm sàng có suy hô
hấp hoặc suy tim phải
GOLD 2006
Năm 2006 GOLD cung cấp một định nghĩa sửa đổi về BPTNMT và nhận
định nó là một bệnh có thể phòng ngừa và điều trị được. Trong báo cáo này
GOLD vẫn tiếp tục sử dụng cùng một tỷ lệ cố định là 0,7 cho FEV1/FVC (đo sau
khi sử dụng thuốc giãn phế quản) để xác định tắc nghẽn và chú trọng hơn đến vai
trò của viêm trong BPTNMT. GOLD 2006 chia BPTNMT thành 4 giai đoạn,
nhưng đã thay đổi các đặc điểm của các giai đoạn và bỏ giai đoạn 0 [37].
Các giai đoạn theo GOLD 2006
 Giai đoạn I (nhẹ): FEV1/FVC < 70%, FEV1 ≥ 80% SLT.
 Giai đoạn II (trung bình): FEV1/FVC < 70%, 50% ≤ FEV1 < 80% SLT.
 Giai đoạn III (nặng): FEV1/FVC < 70%, 30% ≤ FEV1 < 50% SLT.

 Giai đoạn IV (rất nặng): FEV1/FVC < 70%, FEV1 < 30% SLT.
hoặc: 30% < FEV1 < 50% SLT, kèm theo các triệu chứng của suy hô hấp
mạn tính.
Không còn giai đoạn 0 vì giai đoạn này chưa phải là bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính, nhưng ý nghĩa dự phòng của nó với cộng đồng vẫn còn
nguyên giá trị, một số các trường hợp sẽ chuyển thành bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính.
15
1.2.3. Điều trị BPTNMT theo 4 giai đoạn (GOLD 2006) [37]
Giai đoạn I:
BPTNMT nhẹ
Giai đoạn II:
BPTNMT trung bình
Giai đoạn III:
BPTNMT nặng
Giai đoạn IV:
BPTNMT rất nặng
- FEV1/FVC < 70%,
- FEV1 ≥ 80% SLT.
- Có hoặc không có
triệu chứng ho, khạc
đờm mạn tính
- FEV1/FVC < 70%
- 50% ≤ FEV1 < 80%
SLT.
- Có hoặc không có triệu
chứng mạn tính (ho,
khạc đờm, khó thở)
- FEV1/FVC < 70%
- 30% ≤ FEV1 <

50% SLT.
- Có hoặc không có
triệu chứng mạn tính
(ho, khạc đờm, khó
thở)
- FEV1/FVC < 70%,
- FEV1 < 30% SLT hoặc
có dấu hiệu lâm sàng của
suy hô hấp hoặc suy tim
phải.
- Tránh các yếu tố nguy cơ như hút thuốc lá, bụi, hóa chất. Giáo dục về bệnh và cách
theo dõi điều trị, tiêm phòng vaccine cúm 1 lần/ năm
- Dùng các thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn khi cần thiết (salbutamol,
terbutaline, ipratropium hoặc theophilin).
- Dùng thường xuyên các thuốc giãn phế quản tác dụng kéo
dài nếu có.
- Phục hồi chức năng hô hấp.
- Hít corticoid nếu các triệu chứng và chức năng hô
hấp cải thiện đáng kể khi dùng thuốc này hoặc có
các đợt cấp tái phát ≥ 3 lần/năm
- Điều trị oxy dài hạn tại nhà nếu có suy hô hấp mạn
tính.
- Xét điều trị phẫu thuật
16
1.3. PHÂN LOẠI GIAI ĐOẠN BPTNMT THEO GOLD 2011
Trước GOLD 2011 việc đánh giá giai đoạn BPTNMT dựa chủ yếu vào
kết quả thu được từ đo chức năng hô hấp cụ thể là mức độ bệnh được đánh giá
chỉ dựa trên kết quả của giá trị FEV1. Tuy nhiên cách phân loại này không
đánh giá được toàn diện tình trạng sức khỏe của người bệnh, BPTNMT là
bệnh lý toàn thân, nhiều yếu tố độc lập đi kèm có giá trị tiên lượng bao gồm:

Mức độ khó thở, tần suất đợt cấp, chất lượng cuộc sống.
Năm 2011, GOLD cho ra đời bản chỉnh sửa mới. Bản chỉnh sửa này dựa
trên nền tảng từ những luận điểm ban đầu kết hợp với những kiến thức mới.
Nền tảng thứ nhất đó là mục tiêu điều trị được chia thành 2 nhóm qua nhiều
lần phân tích nghiên cứu. Nhóm 1 là mục tiêu chủ yếu hướng đến việc giảm
bớt và giảm thiểu ngay tức thì các tác động của triệu chứng bệnh, nhóm 2 là
các mục tiêu giảm thiểu nguy cơ của các tác nhân gây hại cho sức khỏe có thể
ảnh hưởng đến bệnh nhân trong tương lai. Nền tảng thứ hai đó là hệ thống
đơn giản và trực quan để phân loại mức độ nghiêm trọng của BPTNMT [12].
Theo GOLD 2011 BPTNMT thường đi kèm với các bệnh lý khác mà có
thể ảnh hưởng đáng kể đến tiên lượng bệnh. Các bệnh tim mạch là những
bệnh đi kèm chủ yếu và có lẽ cũng là bệnh lý nguy hiểm và thường thấy nhất.
Ngoài ra các bệnh lý đi kèm khác hay gặp là đái tháo đường, loãng xương, hội
chứng trầm cảm thường không được chẩn đoán đúng mức. Nguy cơ ung thư
phổi cũng hay gặp ở bệnh nhân BPTNMT, nhiều nghiên cứu cho thấy đây là
nguyên nhân chính dẫn đến tử vong ở những bệnh nhân BPTNMT nhẹ [12].
Ở những tài liệu trước đây những gợi ý về kiểm soát BPTNMT chỉ dựa
vào kết quả đo CNTK. Tuy nhiên có một minh chứng rõ ràng rằng mức độ
FEV1 chỉ là một mô tả nghèo nàn về tình trạng bệnh và vì vậy việc kiểm soát
BPTNMT dựa trên cả những tác động của bệnh (gánh nặng triệu chứng và
17
mức độ hạn chế hoạt động) kèm những rủi ro trong tương lai của tiến triển
bệnh (đặc biệt là những đợt cấp) được gợi ý.
Hệ thống được xây dựng dựa trên FEV1 được gọi là hệ thống xếp giai
đoạn tại một thời điểm. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều bệnh nhân chức năng
hô hấp chỉ tương đương bệnh mức độ nhẹ, nhưng triệu chứng lâm sàng rất
nặng, rầm rộ, chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng nhiều, điểm CAT cao hơn
cả những trường hợp có chức năng hô hấp kém. Theo GOLD 2011, liên quan
giữa chức năng hô hấp với điểm CAT, mMRC và tần xuất đợt bùng phát là
liên kết yếu, điều đó cho thấy không thể chỉ dựa đơn thuần vào chức năng

hô hấp để phân giai đoạn BPTNMT, mà cần căn cứ thêm vào mức độ khó
thở, tình trạng sức khỏe, và số lần xuất hiện đợt cấp trong 12 tháng vừa
qua của bệnh nhân [12].
GOLD 2011 đánh giá giai đoạn BPTNMT với hai tiêu chí:
 Nhóm nhiều triệu chứng và ít triệu chứng:
- Khi cả điểm CAT < 10 và MRC < 2: Ít triệu chứng
- Khi điểm CAT ≥ 10 hoặc MRC ≥ 2: Nhiều triệu chứng
 Nhóm nguy cơ cao:
- Khi cả FEV1 ≥ 50% và số lần xuất hiện đợt cấp trong 12 tháng trước <
2: Nguy cơ thấp
- Khi cả FEV1 < 50% và/hoặc số lần xuất hiện đợt cấp trong 12 tháng
trước ≥ 2: Nguy cơ cao.
Ở một vài bệnh nhân hai cách đánh giá nguy cơ này có thể không cho cùng
một kết quả. Trong trường hợp đó, nguy cơ nên được xác định bằng phương
pháp nào chỉ ra nguy cơ cao hơn.
Từ đó xếp bệnh nhân vào một trong bốn nhóm:
18
Hình 1.1. Đánh giá kết hợp GOLD 2011
[12]
 GOLD A: Ít triệu chứng, nguy cơ thấp.
 GOLD B: Nhiều triệu chứng, nguy cơ thấp.
 GOLD C: Ít triệu chứng, nguy cơ cao.
 GOLD D: Nhiều triệu chứng, nguy cơ cao.
Điểm mạnh trong hướng dẫn GOLD 2011:
Đánh giá đa phương tiện, không chỉ còn chú ý đến FEV1, đánh giá ảnh
hưởng trên bệnh nhân, ít trọng tâm và bệnh đơn độc. Phối kết hợp các bệnh lý
kèm theo trong đánh giá các yếu tố nguy cơ, cá thể hóa việc đánh giá.
Thay đổi chiến lược điều trị BPTNMT theo hướng cá thể hóa và bám sát
mục tiêu điều trị.
19

1.4. ĐIỀU TRỊ BPTNMT DỰA VÀO PHÂN LOẠI THEO GOLD 2011 [12]
Bảng 1.1: Hướng dẫn điều trị BPTNMT theo GOLD 2011
Nhóm Lựa chọn đầu Lựa chọn thay thế Lựa chọn khác
A
SAMA hoặc
SABA (khi cần)
LAMA
hoặc LABA
hoặc SAMA + SABA
Theophylline
B
LAMA
hoặc LABA
LAMA + LABA
Theophylline, SABA
và/hoặc SAMA
C
ICS + LAMA
hoặc LABA
LAMA + LABA
Theophylline, SABA
và/hoặc SAMA
Cân nhắc PDE4.inh
D
ICS + LAMA
hoặc LABA
ICS + LAMA + LABA
hoặc ICS+LABA + PDE4.inh
hoặc LAMA + PDE4. inh
hoặc ICS + LAMA

hoặc LAMA + LABA
Theophylline
SABA +/or SAMA
Carbocysteine

GOLD đã dựa vào các kết quả của các nghiên cứu trên thế giới để đưa ra
các khuyến cáo chính thức cho cách tiếp cận mới này [42],
Nghiên cứu ECLIPSE - Một phân tích đơn biến, trong nghiên cứu này
các nhà nghiên cứu đã dùng bộ câu hỏi, kết quả CNTK, test gắng sức để xác
định các dưới nhóm BPTNMT tương ứng BPTNMT giai đoạn II - IV của
GOLD trên 2138 bệnh nhân. Phát hiện các thông số tiên lượng được tiến triển
của bệnh trong vòng 3 năm trong các dưới nhóm BPTNMT tương ứng
BPTNMT giai đoạn II - IV của GOLD. Các kết quả thu được cho thấy [42]:
- Đợt cấp xuất hiện thường xuyên hơn (và nặng hơn) khi mức độ nặng của
BPTNMT tăng.
20
- Tần suất đợt cấp trong năm theo dõi đầu tiên là 0,85 trên bệnh nhân
BPTNMT giai đoạn II; 1,34 trên bệnh nhân giai đoạn III và 2,00 trên
bệnh nhân giai đoạn IV.
- Đợt cấp thường xuyên (≥ 2 trong năm theo dõi đầu tiên): 22 % bệnh
nhân giai đoạn II; 33% bệnh nhân giai đoạn III; 47% bệnh nhân giai
đoạn IV
Yếu tố đơn độc tiên lượng đợt cấp tốt nhất trong tất cả các giai đoạn
của BPTNMT là tiền sử mắc đợt cấp.
Nghiên cứu INSPIRE cho thấy thuốc giãn cơ trơn phế quản kháng
cholinergic tác dụng kéo dài (long - acting anti - muscarinic agents - LAMA)
ức chế giải phóng leukotrien B4 từ đại thực bào phế nang, tế bào TCD4 và
TCD8 ở bệnh nhân BPTNMT, thuốc còn làm giảm tiết đờm do đó làm giảm
nguy cơ nhiễm trùng phổi, tiotropium có thể ức chế hoạt động của virus trong
phổi do đó có thể làm giảm đợt cấp của BPTNMT [43].

Casaburi và cộng sự (2005) nghiên cứu điều trị tiotropium ở bệnh nhân
BPTNMT thấy chỉ số SGRQ cao hơn so với nhóm chứng (49% so với 30%),
tỉ lệ đợt cấp giảm 22% - 44%, khó thở cải thiện (31% so với 18%). Kết hợp
giữa LABA và LAMA có hiệu quả lâm sàng tốt hơn dùng đơn thuần [44].
Van Noord và cộng sự cho thấy điều trị kết hợp salmeterol và ipratropium
bromide có hiệu quả vượt trội so với điều trị salmeterol đơn thuần [45].
Cazzola và cộng sự nghiên cứu sử dụng formoterol kết hợp với
tiotropium thấy khởi phát tác dụng nhanh hơn so với dùng tiotropium đơn
thuần và giảm rõ rệt nhu cầu sử dụng các thuốc giãn phế quản, cải thiện
chức năng phổi tốt hơn khi dùng kết hợp LABA và ICS ở bệnh nhân
BPTNMT [46].
Nghiên cứu UPLIFT: Một phân tích dưới nhóm đặc hiệu của thử nghiệm có
đối chứng ngẫu nhiên. Tiotropium (n = 2986), Control (n = 3006) cho thấy:
21
SGRQ là tốt hơn mọi thời điểm trên nhóm dùng tiotropium so với nhóm
đối chứng. Thời gian đến đợt cấp đầu tiên và thời gian đến đợt cấp phải nhập
viện cũng dài hơn ở nhóm dùng tiotropium so với nhóm chứng [47], [48].
Sự kết hợp giữa LABA, LAMA và ICS là liệu pháp điều trị mới trong
điều trị BPTNMT. Sự kết hợp này cho thấy có hiệu quả cải thiện chức năng
phổi, chất lượng cuộc sống tốt hơn và giảm tỉ lệ nhập viện.
Shawn D. Aaron và cộng sự cho thấy sau một năm điều trị kết hợp
salmeterol/fluticasone cộng tiotropium cải thiện chức năng phổi, chất lượng
cuộc sống và giảm tỉ lệ nhập viện rõ rệt so với dùng tiotropium đơn thuần ở
những bệnh nhân BPTNMT trung bình và nặng [49].
GOLD 2011 khuyến cáo mỗi chế độ điều trị dược lý cần được riêng biệt hóa
cho từng bệnh nhân theo mức độ trầm trọng của các triệu chứng, nguy cơ đợt cấp,
các bệnh lý đi kèm, mức độ sẵn có của thuốc và phản ứng của người bệnh.
1.5. TỔNG QUAN VỀ CÁC CÔNG CỤ ĐO LƯỜNG TÌNH TRẠNG
SỨC KHỎE Ở BỆNH NHÂN BPTNMT
1.5.1. Bộ câu hỏi CAT

Bộ câu hỏi CAT được xây dựng bởi Jones P.W và cộng sự vào năm 2009,
đã được dịch sang tiếng Việt với sự đồng thuận của tác giả.
CAT là bộ câu hỏi giúp người bệnh tự điền nhanh và dễ dàng. CAT cung
cấp khung thảo luận với người bệnh, giúp thầy thuốc hiểu và đánh giá được
mức độ tác động của bệnh trên cuộc sống người bệnh. Từ đó giúp thầy thuốc
có nhiều thông tin hơn trong việc lập kế hoạch điều trị. CAT được áp dụng
cho các giai đoạn của GOLD, CAT không phải là công cụ chẩn đoán nên
không thể thay thế cho đo CNTK. CAT và đo CNTK có thể bổ xung lẫn
nhau trong đánh giá lâm sàng, từ đó đảm bảo rằng người bệnh được quản
lý tối ưu. Nội dung bộ câu hỏi CAT gồm 8 câu hỏi phù hợp nhất với khả
22
năng của người bệnh, do vậy người bệnh có thể hiểu và trả lời dễ dàng,
không cần phải hỗ trợ người bệnh hoàn tất bộ câu hỏi. Điểm được tính
riêng cho từng triệu chứng và tổng điểm chung. Điểm của mỗi câu thay đổi
từ 0 - 5. Tổng điểm tối đa là 40 điểm. Trong đó tổng điểm ≤ 10 bệnh không
ảnh hưởng đến sức khỏe, từ 11- 20 điểm: Bệnh gây ảnh hưởng mức độ nhẹ,
từ 21- 30 điểm: Bệnh gây ảnh hưởng mức độ trung bình, từ 31- 40 điểm:
Bệnh gây ảnh hưởng nặng [50].
1.5.2. Thang điểm mMRC
Là thang đo đánh giá mức độ khó thở theo Hội đồng nghiên cứu Y Khoa
Anh Quốc (Modified Medical reseach Council - mMRC), chia 5 mức độ [51]:
Độ 0: Khó thở khi gắng sức nhiều.
Độ 1: Khó thở khi leo cầu thang một tầng, đi nhanh hoặc leo dốc.
Độ 2: Khó thở khi đi chậm hơn người cùng tuổi.
Độ 3: Khó thở khi đi bộ 100m.
Độ 4: Khó thở khi gắng sức nhẹ như thay quần áo.
1.6. Các yếu tố thuận lợi để áp dụng phân loại GOLD 2011 ở Việt nam
1.6.1. Nhận thức về BPTNMT trong cộng đồng
Từ năm 2010 chương trình phòng và điều trị BPTNMT đã được đưa
vào chương trình mục tiêu y tế quốc gia và Bộ Y Tế đã giao cho bệnh

viện Bạch Mai phụ trách dự án này. Với mục tiêu nhằm xây dựng hệ
thống cơ sở, mạng lưới quản lý, nâng cao nhận thức chất lượng chẩn đoán
và điều trị, dự phòng BPTNMT. Gần ba năm qua dự án đã được triển khai
ở 25 địa phương trên toàn quốc. Các địa phương này được cấp máy đo
CNHH, ống nghe, huyết áp và các trang thiết bị y tế cần thiết khác. Dự án
đã tổ chức được nhiều lớp đào tạo tại các tỉnh thực hiện dự án với > 2000
học viên. Nội dung đào tạo: Chẩn đoán, điều trị dự phòng BPTNMT, kiến
thức cơ bản về đo và phân tích kết quả CNTK.
23
Dự án đã tổ chức các buổi khám sàng lọc tại các phường xã của tỉnh
thực hiện dự án, thu hút được 52.056 người đến khám, phát hiện được > 500
bệnh nhân BPTNMT mới.
1.6.2. Sẵn có các công cụ đánh giá
 Hô hấp kế đã được trang bị ở nhiều cơ sở y tế.
 Thang điểm đánh giá BPTNMT đã được dịch ra tiếng Việt và kiểm định
trên dân số Việt Nam: mMRC, CAT.
 Nhân viên y tế đã quan tâm nhiều đến việc khai thác tiền căn đợt cấp
BPTNMT.
1.6.3. Sẵn có các phương tiện can thiệp trong COPD
 Điều trị không dùng thuốc: Cai thuốc lá có tài liệu hướng dẫn, thuốc hỗ
trợ cai thuốc lá.
 Điều trị dùng thuốc: Thuốc sẵn có LAMA (tiotropium), ICS/LABA
(fluticasone/salmeterol, budesonide/formoterol) và được BHYT chi trả.
Đây là những yếu tố thuận lợi để áp dụng phân loại GOLD 2011 trong chẩn
đoán, điều trị, dự phòng BPTNMT tại bệnh viện Bạch mai trong thời gian tới
và áp dụng ở các tuyến y tế cơ sở trong tương lai.
24
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU

Địa điểm: Tại phòng khám quản lý BPTNMT - Bệnh viện Bạch Mai.
Thời gian nghiên cứu: Từ 01/1/2013 đến 30/9/2013.
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.2.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Bệnh nhân được chẩn đoán BPTNMT theo tiêu chuẩn chẩn đoán của
GOLD 2011.
Tiêu chuẩn chẩn đoán BPTNMT
 Tiền sử: Tiếp xúc với yếu tố nguy cơ
 Lâm sàng: Ho, khạc đờm mạn tính kéo dài nhiều năm, tiến triển từ từ
dai dẳng
 Kết quả đo thông khí phổi có biểu hiện rối loạn thông khí tắc nghẽn
không hồi phục hoàn toàn: Chỉ số Tiffneau (FEV1/VC) < 70% và/hoặc
chỉ số Gaensler (FEV1/FVC) < 70 % sau test HPPQ.
 BPTNMT giai đoạn ổn định khi bệnh nhân không có các triệu chứng
của đợt cấp:
- Các triệu chứng hô hấp nặng lên, khó thở tăng lên: Tím môi và đầu
chi, da xanh tái, tinh thần lú lẫn, tăng số lượng đờm, đờm chuyển
thành mủ, sốt.
- Không có tràn khí màng phổi, tắc mạch phổi, tình trạng suy tim
nặng lên, không có các triệu chứng của bệnh đồng mắc nặng lên.
2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ
 Bệnh nhân được chẩn đoán hen phế quản.
 Bệnh nhân không đo được CNHH.
25
 Bệnh nhân không có khả năng trả lời các câu hỏi do tình trạng suy hô
hấp, rối loạn tâm thần.
 Bệnh nhân đang trong đợt cấp.
 Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1 Thiết kế nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả cắt ngang.

2.3.2 Cỡ mẫu nghiên cứu: Áp dụng cỡ mẫu thuận tiện.
2.3.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.3.1. Phỏng vấn theo thang đo mMRC [51] (phụ lục 1) và bộ câu hỏi
CAT [50] (phụ lục 2)
2.3.3.2. Khám lâm sàng
Khai thác tiền sử, bệnh sử, đặc điểm kinh tế xã hội như: Tuổi, giới, nghề
nghiệp, tình trạng tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ, tiền sử mắc và điều trị các
bệnh phối hợp, số đợt cấp/12 tháng trước, khám lâm sàng toàn diện, đo huyết
áp, chiều cao, cân nặng….
Chỉ tiêu lâm sàng:
 Tuổi, giới, nghề nghiệp.
 Tiền sử hút thuốc lá, thuốc lào: Thời gian hút, tính chỉ số bao – năm =
số bao/ngày x số năm hút.
 Số đợt cấp trong 12 tháng trước: Bệnh nhân được ghi nhận có tiền sử
đợt cấp BPTNMT khi:
 Bệnh nhân phải nhập viện vì các triệu chứng : Khó thở, ho, sốt
 Bệnh nhân có giấy ra viện với chẩn đoán: Đợt cấp BPTNMT.
 Triệu chứng cơ năng: Ho, khó thở
 Khám phổi: Phát hiện lồng ngực hình thùng, các loại ran ở phổi (ran
rít, ran ngáy, ran nổ, ran ẩm), tần số thở

×