Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

xác định nồng độ hoạt tính một số yếu tố đông máu ở phụ nữ có thai 3 tháng cuối tại bệnh viện phụ sản hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.32 KB, 19 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thai nghén nhất là giai đoạn cuối người phụ nữ có nhiều thay đổi. Các
thay đổi do thai và phần phụ của thai gây ra. Đồng thời cũng chuẩn bị cho cuộc
đẻ, các cơ quan, hệ thống, trong đó có hệ thống đông cầm máu cũng có những
thay đổi để đảm bảo điều hòa và phát triển của người mẹ và thai nhi [1].
Bình thường có rất nhiều thay đổi về quá trình đông cầm máu với mục
đích là duy trì chức năng của rau thai trong khi mang thai và dự phòng mất
máu trong và sau khi sinh. Thay đổi của hệ thống đông máu dẫn tới xu hướng
làm tăng đông trong suốt quá trình mang thai. Tăng đông bằng cơ chế tăng hầu
hết các yếu tố đông máu, trong đó có yếu tố tăng lên đến 10 lần ở giai đoạn
cuối của thời ký mang thai so với phụ nữ không mang thai [3].
Trong sản khoa cầm máu tốt đóng vai trò quan trọng trong sự thành công
của một cuộc sinh nở dù là sinh thường hay sinh mổ và giảm thiểu tối đa các tai
biến trong sản khoa đặc biệt là băng huyết sau khi sinh. Chảy máu là một biến
chứng thường gặp và rất nguy hiểm khi chuyển dạ và sinh đẻ, nó có thể dẫn
đến hậu quả nghiêm trọng nếu không được chẩn đoán sớm và xử lý kịp thời.
Việc sử dụng các xét nghiệm đông cầm máu trước sinh để phát hiện các rối
loạn đông máu trước khi sinh đẻ, từ đó có kế hoạch dự phòng hoặc lựa chọn
các phương pháp can thiệp một cách tối ưu để hạn chế biến chứng chảy máu
trong và sau khi sinh.
Đã có một số nghiên cứu về lâm sàng và xét nghiệm máu ở phụ nữ mang
thai 3 tháng cuối nhưng chưa có nghiên cứu về nồng độ các yếu tố đông máu
mà chỉ số các yếu tố này rất cần thiết cho bác sỹ lâm sàng làm căn cứ đánh giá
tình trạng bệnh của thai phụ.
Vì vậy, để góp phần vào tìm hiểu và giải thích một số bất thường của bộ
xét nghiệm vòng đầu như xét nghiệm APTT, PT và định lượng fibrinogen
chúng tôi thực hiện chuyên đề: “Nghiên cứu thay đổi nồng độ hoạt tính 1 số
yếu tố đông máu ở phụ nữ mang thai giai đoạn 3 tháng cuối” với mục tiêu
sau: xác định nồng độ hoạt tính một số yếu tố đông máu ở phụ nữ có thai
3 tháng cuối tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội.


2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sinh lý đông cầm máu
1.1.1. Giai đoạn cầm máu ban đầu
Đây là giai đoạn đầu tiên được khởi động ngay sau khi thành mạch bị
tổn thương. Và kết quả cuối cùng của giai đoạn này là tạo ra được nút cầm
máu tiểu cầu để bít vị trí tổn thương. Nhưng nút tiểu cầu thường là cầm máu
không hiệu quả vì không bền vững chỉ mang tính tạm thời.
Vì vậy, đề cầm máu một cách hiệu quả cần phải có giai đoạn đông máu
huyết tương [4].
1.1.2. Giai đoạn đông máu huyết tương
1.1.2.1. Hình thành phức hợp prothrombinase
a. Theo con đường nội sinh:
Là con đường có sự tham gia của đa số các yếu tố đông máu và theo
quy luật diễn tiến mở rộng, do vậy mà rất cơ bản và bền vững.
Khi thành mạch bị tổn thương các sợi collagen được bộc lộ, bề mặt các
sợi cơ này mang điện tích âm sẽ gắn và cố định các yếu tố: XII, prekallikrein,
HMWK, XI vào, ngay sau khi gắn các yếu tố này được hoạt hoá để tạo yếu tố
XIIa, tiếp đó là sự tác động của XIIa để chuyển XI → XIa, nhờ có XIa mà
yếu tố IX→IXa. Yếu tố X được hoạt hóa với sự tham gia của một phức hợp
bao gồm yếu tố XIa, đồng yếu tố VIIIa, Ca
++
và phosoholipid của tiểu cầu.
Giai đoạn này còn có sự hiệp lực của con đường đông máu ngoại sinh nữa.
Yếu tố VIIa không chỉ tác dụng enzym lên yếu tố X mà còn có khả năng hoạt
hóa yếu tố XI tạo nên mối liên hệ giữa đường đông máu nội và ngoại sinh.
b. Theo con đường ngoại sinh
Yếu tố tổ chức (các lipoprotein từ tổ chức bị tổn thương) hoạt hóa yếu
tố VII, yếu tố này trực tiếp hoạt hóa yếu tố X.
Tổ chức tổn thương, các chất hoạt hóa của tổ chức hoạt hóa đông máu

3
đi đến hình thành fibrin sẽ thúc đẩy nhanh con đường đông máu nội sinh bằng
sự hoạt hóa đồng yếu tố VIII và đồng yếu tố V.
1.1.2.2. Hình thành thrombin
Thromboplastin nội và ngoại sinh hoạt hóa tác động chuyển
prothrombin thành thrombin
Thrombin đóng vai trò quan trọng trong các phản ứng của quá trình
đông máu. Thrombin hoạt hoá nhiều cơ chất, tác động vào nhiều khâu của quá
trình đông máu với mục đích chủ yếu là tạo thành fibrin như:
- Chuyển fibrinogen thành fibrin.
- Hoạt hoá làm tăng tốc độ hình thành chính nó.
- Hoạt hóa yếu tố XIII để ổn định sợi huyết.
- Hoạt hóa yếu tố VIII, V như vậy làm gia tốc sự hình thành yếu tố Xa
bằng cả 2 con đường nội và ngoại sinh.
- Hơn nữa, nó tác động lên tế bào bằng cách cố định lên tế bào và hoạt
hóa chúng như: hoạt hóa tiểu cầu, kích thích tế bào nội mạc sản xuất ra
prostacylin ức chế chất hoạt hóa plasminogen do nội mạch sản xuất và tăng sự
phát triển tế bào do nội tiết tố sinh trưởng đặc hiệu, nó kích thích tăng sinh
nguyên bào sợi (fibroblast).
1.1.2.3. Hình thành fibrin
Thrombin tác động thủy phân fibrinogen thành fibrinopeptid A và B.
Như vậy, fibrinogen được chuyển thành fibrin monome. Với sự thay đổi về
điện tích, xuất hiện các lực hút tĩnh điện fibrin monomer thành fibrin polyme.
Yếu tố XIII được hoạt hóa bởi thrombin và có ion Ca
++
đã làm ổn định
fibrin polyme. Fibrin được ổn định có đặc tính cầm máu nghĩa là có khă năng
bịt vết thương ở thành mạch làm ngưng chảy máu. Cục sợi huyết là những
khối gen hóa được tạo thành bởi lưới fibrin có đường kính khoảng 1
micromet. Mạng lưới này bao bọc hồng cầu, bạch cầu nhất là tiểu cầu. Một

protein tiểu cầu là actomyosin sẽ tác động làm cục máu co lại.
1.1.3. Giai đoạn tiêu sợi huyết
4
Mục đích cơ bản của giai đoạn này là làm tan fibrin trả lại sự thông
thoáng của thành mạch.
Quá trình tiêu sợi huyết được kiểm soát bởi những chất có tính ức chế
các yếu tố họat hoá plasminogen và những chất làm bất hoạt plasmin. Nhờ đó
mà ngăn ngừa được sự mất fibrinogen và những yếu tố đông máu khác.
1.2. Đông cầm máu ở phụ nữ có thai.
Khi có thai, cơ thể người phụ nữ có nhiều thay đổi lớn về giải phẫu, sinh
lý và sinh hóa.
Khối lượng máu tăng cao nhất vào tháng thứ 7 thai nghén, sau đó khối
lượng máu hằng định trong những tuần lễ cuối của thai nghén. Sau đẻ, khối
lượng máu giảm nhanh và dần dần trở lại bình thường. Do khối lượng huyết
tương tăng nhiều hơn huyết cầu nên số lượng hồng cầu trong máu hơi giảm.
Tỷ lệ huyết sắc tố giảm, hematocrit giảm. Độ nhớt của máu cũng giảm, máu
có xu hướng loãng làm cho máu thiếu máu nhược sắc và giảm áp lực thẩm
thấu. Các mạch máu mềm, dài và to ra, dễ giãn, do đó huyết áp động mạch
không tăng. Thông thường huyết áp hơi giảm trong 3 tháng giữa và giai đoạn
đàu của 3 tháng cuối sau đó tăng lên. Ngược lại, huyết áp tĩnh mạch ở nửa
dưới của cơ thể tăng lên do tĩnh mạch chủ bụng bị tử cung chèn ép.
Phụ nữ mang thai có sự thay đổi hệ thống đông cầm máu theo hướng
tăng đông để giảm thiểu nguy cơ chảy máu trong thời gian mang thai và đặc
biệt trong lúc chuyển dạ.
Các yếu tố đông máu
Hầu hết nồng độ các yếu tố đông máu đều tăng trong thời kỳ mang thai.
Yếu tố VII có thể tăng gấp 10 lần, yếu tố VIII tăng đáng kể trong quá trình
thai nghén.
Yếu tố von Willerbrand, yếu tố mang yếu tố VIII và đóng vai trò quan
trọng trong sự dính tiểu cầu, cũng tăng lên trong quá trình thai nghén bình

thường (V.A H). Mức yếu tố Willebrand tăng lên trong quá trình thai kỳ phản
5
ánh sự tăng tổng hợp protein của nhau thai giàu mạch máu. Trên lâm sàng, sự
tăng cao bất thường của yếu tố von Willebrand giúp dự báo biến chứng sản
khoa như tăng huyết áp thai kỳ hoặc nhiễm độc thai nghén, đó là bằng chứng
của tổn thương nội mạc mạch máu. Thật vậy, định lượng yếu tố von
Winllebrand thuộc vào bilan sinh học theo dõi thai nghén có nguy cơ.
Yếu tố II, V, IX, X, XII đều tăng trong quá trình thai nghén. Yếu tố XIII,
yếu tố ổn định sợi huyết tăng rất sớm trong quý đầu thai kỳ, nhưng sau đó lại
giảm và ổn định ở mức bình thường. Yếu tố XI là yếu tố duy nhất có nồng độ
giảm. Điều này có thể giải thích là trong thai nghén bình thường, sự giảm yếu
tố XI để cân bằng với sự tăng các yếu tố đông máu khác (V. A. Holmês)
Fibrinogen bình thường 2-4g/l, khi có thai tăng khoảng 50% (3-6g/l).
Nồng độ fibrinogen tăng lên góp phần làm cho tốc độ máu lắng khi có thai
tăng lên.
Sự thay đổi nồng độ các yếu tố đông máu có thể được giải thích do sự
thay đổi nồng độ các hormon, đặc biệt là sự tăng nồng độ estrogen trong thời
kỳ mang thai.Vì vậy, hiểu biết về sự thay đổi nồng độ các yếu tố trong thời kỳ
mang thai giúp cho việc đánh giá chính xác tình trạng đông cầm máu của
bệnh nhân.
1.3. Các nghiên cứu về rối loạn đông máu ở phụ nữ có thai
1.3.1. Nghiên cứu trên thế giới
Liu XH, Jiang YM, Shi H và cộng sự nghiên cứu 232 phụ nữ mang thai
thấy PT(s), INR, APTT(s), r APTT giảm, SLTC giảm dần trong thời kỳ mang
thai. Ngược lại, các sản phẩm thoái giáng của fibrin huyết tương tăng lên
đáng kể trong thời kỳ thai nghén.
Mehmet A. Osmana ao lu (2003) xác định vai trò của các chất ức chế
đông máu trong cơ chế sinh bệnh của tiền sản giật thông qua việc nghiên cứu
20 trường hợp nhẹ, 25 trường hợp nặng và 45 phụ nữ mang thai có huyết áp
bình thường. Kết quả là Protein S, Protein C và nồng độ Fibrinogen thay đổi

6
không có giá trị nhưng sự giảm AT III và số lượng tiểu cầu dường như có ý
nghĩa trong việc dự đoán tiền sản giật.
G. M. Savelia, V. S Efimove và cộng sự năm 1994 nghiên cứu sự biến
đổi quá trình đông máu ở phụ nữ có thai có nguy cơ tiền sản giật cho thấy bất
thường trong hoạt động của AT III là điểm đánh dấu của sự tăng đông và bắt
đầu hơn 2 tuần trước khi bắt đầu các dấu hiệu lâm sàng của tiền sản giật.
Một nghiên cứu của Kam PC, Thompson SA cho thấy nguyên nhân
gi¶m tiểu cầu do thai là thường gặp nhất, chiếm trên 75% các trường hợp
giảm tiểu cầu trong thai kỳ.
Lain KY, Robert JM 2002 nhận thấy tiền sản giật và hội chứng HELLP
là nguyên nhân gây giảm tiểu cầu trong thai kỳ, chiếm 21% các trường hợp.
Theo Cunningham FG số lượng tiểu cầu sẽ về bình thường 3- 5 ngày sau sinh.
1.3.2. Nghiên cứu trong nước.
Đoàn Thị Bé Hùng (2007) nghiên cứu tỷ lệ và nguyên nhân các rối loạn
đông máu thường gặp trong sản khoa tại Bệnh viện Hùng Vương cho thấy tỷ
lệ các rối loạn đông máu trước sinh qua các bất thường các xét nghiệm PT,
APTT, Fibrinogen, số lượng tiểu cầu theo thứ tự 31,8%, 13,6%, 17,3%, 46,4%.
Tỷ lệ nguyên nhân gây rối loạn đông máu thường gặp ở sản phụ trước sinh là
bệnh lý giảm tiểu cầu (46,4%), bệnh lý tiền sản giật (18,2%), hội chứng HELLP
(8,2%), rau bong non (6,4%), các nguyên nhân khác (2,7%) [2].
Trần Thị Khảm (2008) đã nghiên cứu một số chỉ số hoá sinh huyết học
ở sản phụ TSG tại Bệnh viện phụ sản trung ương cho thấy SLTC, nồng độ
fibrinogen có liên quan chặt chẽ với bệnh lý TSG nhẹ và TSG nặng.
Như vậy ở Việt Nam cho tới nay chưa có nghiên cứu nào về tình trạng
đông cầm máu ở phụ nữ có thai. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này là rất cần
thiết, giúp cho công tác quản lý thai sản cũng như xử trí các tai biến sản khoa
được tốt hơn.
CHƯƠNG 2
7

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Gồm 102 phụ nữ mang thai 3 tháng cuối đủ tiêu chuẩn nghiên cứu (phụ
nữ có thai từ tuần thứ 28 trở đi đến khám tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội từ
tháng 5 năm 2011 đến tháng 11 năm 2012).
Lựa chọn ngẫu nhiên theo cách sau: khi loại bỏ những mẫu có bất
thường một trong những xét nghiệm sàng lọc, mẫu còn lại được xếp theo thứ
tự và lấy mẫu ở vị trí có khoảng cách giữa 2 vị trí là 19 mẫu. Đó là ở vị trí 1,
20, 40, 60, 80, 100….
Tiêu chuẩn loại trừ:
Loại trừ khỏi nhóm nghiên cứu các thai phụ: có các bệnh lý liên quan
đến rối loạn đông cầm máu bẩm sinh, những thai phụ đang điều đang điều trị
các thuốc ảnh hưởng đến quá trình đông cầm máu.
2.2 Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang có đối
chứng. Mỗi thai phụ có một phiếu nghiên cứu theo mẫu thống nhất.
2.2.2. Các thông số nghiên cứu:
2.2.2.1. Thông tin chung
- Tuổi mẹ, nơi cư trú, tuổi thai.
- Khám nội khoa, sản khoa
- Hỏi tiền sử bệnh tật
- Khám lâm sàng
- Bệnh lý mẹ: đái tháo đường, tăng huyết áp
- Thứ tự lần sinh: lần 1, lần 2, lần 3…
- Các dấu hiệu tiền sản giật: phù, tăng huyết áp, protein niệu.
2.2.2.2. Thông số đông cầm máu:
8
- Thực hiện một số xét nghiệm đông cầm máu:
•Định lượng yếu tố của con đường đông máu nội sinh VIII, IX, XI và XII,

•Định lượng yếu tố của con đường đông máu ngoại sinh II, V, VII và X.
2.2.3. Phương tiện và vật liệu nghiên cứu.
- Khám lâm sàng: thu thập thông tin theo mẫu bệnh án nghiên cứu
thống nhất (Phụ lục II)
- Lấy mẫu máu xét nghiệm:
Vừa 1,8 ml máu chống đông bằng 0,2 ml chất chống đông natri citrate
3,8%, tiến hành các XN tại khoa HH-TM Bệnh viện BM.
- Thực hiện phân tích xét nghiệm:
Định lượng các yếu tố đông máu trên máy CA-1500 Sysmex của Nhật Bản.
2.2.4. Các kỹ thuật xét nghiệm và tiêu chuẩn đánh giá:
Các kỹ thuật xét nghiệm được thực hiện theo quy trình đang được áp
dụng tại Khoa Huyết học-Truyền máu Bệnh viện Bạch Mai.
Định lượng yếu tố đông máu: II, V, VII, và X [6]
◊ Nguyên lý: sau khi pha trộn với tỉ lệ 1/1 giữa huyết tương và thuốc thử
cung cấp đầy đủ các yếu tố cần thiết ngoại trừ yếu tố cần định lượng, thì
tiến hành làm như xét nghiện PT. Khi đó thời gian đông chỉ phụ thuộc vào
yếu tố cần đo trong huyết tương bệnh nhân.
◊ Huyết tương bệnh nhân và huyết tương chứng được pha loãng với tỉ lệ
1/10 để tăng độ nhạy với yếu tố đông máu cần đo và giảm ảnh hưởng của
các yếu tố ức chế. Pha loãng ở nhiều nồng độ khác nhau để loại trừ tác
dụng của kháng đông lưu hành.:
◊ Đánh giá kết quả: hoạt tính của các yếu tố đông máu được thể hiện bằng tỉ
lệ % so với giá trị bình thường
9
◊ Hoạt tính các yếu tố đông máu nói chung bình thường 50%-150%, giảm
khi < 30% có nguy cơ chảy máu trên lâm sàng.
Định lượng yếu tố đông máu VIII, IX, XI, XII [6]
◊ Nguyên lý: sau khi pha trộn với tỉ lệ 1/1 giữa huyết tương và thuốc thử
cung cấp đầy đủ các yếu tố cần thiết ngoại trừ yếu tố cần định lượng, thì
tiến hành làm như xét nghiện APTT. Khi đó thời gian đông chỉ phụ thuộc

vào yếu tố cần đo trong huyết tương bệnh nhân.
◊ Huyết tương bệnh nhân và huyết tương chứng được pha loãng với tỉ lệ
1/10 để tăng độ nhạy với yếu tố đông máu cần đo và giảm ảnh hưởng của
các yếu tố ức chế. Pha loãng ở nhiều nồng độ khác nhau để loại trừ tác
dụng của kháng đông lưu hành
◊ Đánh giá kết quả: hoạt tính của các yếu tố đông máu được thể hiện bằng tỉ
lệ % so với giá trị bình thường.
2.3. Xử lý số liệu
* Các số liệu trên được xử lý theo phương pháp thống kê y học trên
chương trình SPSS 16.0.
* Mô tả kết quả:
- Các biến số định lượng được trình bày theo giá trị trung bình và độ lệch
chuẩn (
X
SD).±
- Các biến số được trình bày theo tỷ lệ %
* Đánh giá sự khác biệt: So sánh giá trị trung bình của hai nhóm độc
lập: t-test
2.4. Đạo đức nghiên cứu.
- Mọi thông tin thu thập được đảm bảo bí mật cho bệnh nhân, chỉ phục
10
vụ mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu đuợc sự đồng ý và phê duyệt của lãnh đạo Khoa HH-TM
và Bệnh viện Phụ sản Hà Nội.
- Từ kết quả nghiên cứu, lựa chọn thông tin có ích cho việc điều trị và tư
vấn cho bệnh nhân.
11
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm hoạt tính yếu tố đông máu của thai phụ 3 tháng cuối
Bảng 3.1. Hoạt tính một số YTĐM thuộc con đường đông máu ngoại sinh

ở thai phụ 3 tháng cuối.
Nhóm NC
YTĐM (%)
Nhóm thai phụ Nhóm chứng
p
n
SDx
±
n
SDx
±
Yếu tố II 10
2
93,41±18,66
45
111,60 ± 11,94
<0,01
Yếu tố V 10
2
79,36±30,22
45
103,92 ± 15,29
<0,01
Yếu tố VII 10
2
155,93±54,12
45
95,85 ± 16,83
<0,01
Yếu tố X 10

2
136,45±48,23
45
95,25± 20,04
<0,01
Nhận xét: Hoạt tính yếu tố II và V giảm có ý nghĩa thống kê so với
nhóm chứng với p<0,01. Ngược lại, hoạt tính yếu tố VII và X tăng rõ rệt so
với nhóm chứng với p<0,01.
Bảng 3.2. Tỷ lệ thai phụ 3 tháng cuối có bất thường về hoạt tính YTĐM
thuộc con đường đông máu ngoại sinh.
Bất thường
YTĐM (%)
Giảm Bình thường Tăng
n % n % n %
Yếu tố II 0 0 102 100 0 0
Yếu tố V 14 13,7 85 83,3 3 2,9
Yếu tố VII 0 0 65 63,7 37 36,3
Yếu tố X 0 0 76 74,5 26 25,5
Nhận xét: Tỉ lệ thai phụ 3 tháng cuối có hoạt tính yếu tố V giảm là
13,7%, hoạt tính yếu tố VII và X tăng là 36,3% và 25,5%.
12
Bảng 3.3. Hoạt tính một số YTĐM thuộc con đường đông máu nội sinh ở
thai phụ 3 tháng cuối.
Nhóm NC
YTĐM (%)
Nhóm thai phụ Nhóm chứng
p
n
SDx
±

n
SDx
±
Yếu tố VIII 10
2
123,75±45,35
45
90,64 ± 48,88
<0,000
Yếu tố IX 10
2
108,64±25,03
45
67,58±17,63
<0,000
Yếu tố XI 10
2
87,36±23,90
45
95,45±17,41
>0,05
Yếu tố XII 10
2
121,93±64,33
45
60,84±25,79
<0,000
Nhận xét: Hoạt tính yếu tố VIII, IX và XII tăng hơn so với nhóm
chứng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Bảng 3.4. Tỷ lệ thai phụ 3 tháng cuối có bất thường về hoạt tính YTĐM

thuộc con đường đông máu nội sinh.
Bất thường
YTĐM
Giảm Bình thường Tăng
n % n % n %
Yếu tố VIII 4 3,9 70 68,6 28 27,5
Yếu tố IX 0 0 99 97,1 3 2,9
Yếu tố XI 5 4,9 97 95,1 0 0
Yếu tố XII 3 2,9 81 79,4 18 17,6
Nhận xét: Tỷ lệ thai phụ 3 tháng cuối có hoạt tính các yếu tố VIII, IX,
XII tăng lần lượt là 27,5%; 2,9%; và 17,6%.
13
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
4.1. Hoạt tính các YTĐM huyết tương thuộc con đường đông máu ngoại sinh
Kết quả ở bảng 3.1 cho thấy nồng độ hoạt tính các yếu tố II, V, của
nhóm thai phụ 3 tháng cuối giảm hơn so với nhóm chứng với p<0,05. Trong
đó, nồng độ hoạt tính yếu tố V giảm nặng còn khoảng gần 50% so với giá trị
trung bình của nhóm chứng. Nồng độ hoạt tính yếu tố VII, X của nhóm thai
phụ 3 tháng cuối cao hơn so với nhóm chứng với sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p<0,05.
Trong đó, tại bảng 3.2 chúng tôi thấy tỷ lệ bất thường của các yếu tố
đông máu huyết tường thuộc con đường ngoại sinh cả tăng và giảm hoạt tính,
nhưng đối với yếu tố II có xu hướng bình thường là chủ yếu chiếm 88,23%
sau đó đến giảm họat tính 11,76% và không có trường hợp tăng hoạt tính.
Hoạt tính yếu tố V chủ yếu là bình thường chiếm 70,59% tiếp đến
17,65% trường hợp có giảm hoạt tính yếu tố V và chỉ gặp 11,76% trường hợp
có tăng hoạt tính yếu tố V.
Hoạt tính yếu tố VII chủ yếu là bình thường chiếm 58,82% tiếp đến là
tăng hoạt tính gặp 35,29% trường hợp và gặp tỷ lệ nhỏ 5,88% trường hợp có
giảm hoạt tính.

Hoạt tính yếu tố X chủ yếu là bình thường 88,23% tiếp đến tỷ lệ tăng
và giảm hoạt tính chiếm tỷ lệ tương đồng nhau 11,76%.
4.2. Hoạt tính các YTĐM huyết tương thuộc con đường đông máu nội sinh
Kết quả ở bảng 3.3 cho thấy nồng độ hoạt tính các yếu tố VIII, IX, và
XII ở nhóm thai phụ 3 tháng cuối tăng cao hơn ở nhóm chứng sự, khác biệt
này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Hoạt tính yếu tố XI ở nhóm thai phụ 3
14
tháng cuối giảm có ý nghĩa so với nhóm chứng với p<0,01. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi về yếu tố IX (104,43%) cao hơn kết quả nghiên cứu hoạt
tính yếu tố IX (95,12%) của Hoàng Hương Huyền và cộng sự năm (2011) [3]
nghiên cứu trên 571 thai phụ 3 tháng cuối, còn hoạt tính yếu tố VIII
(105,56%) có thấp hơn của Hoàng Hương Huyền và cộng sự (2011), theo tác
giả hoạt tính yếu VIII là 138,77%.
Trong đó, tại bảng 3.4 chúng tôi gặp tỷ lệ hoạt tính yếu tố VIII bình
thường là 82,35%, tỷ lệ tăng là 17,65% trường hợp không có trường hợp nào
giảm hoạt tính yếu tố VIII. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về tỷ lệ bất
thường hoạt tính yếu tố VIII cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Hoàng
Hương Huyền và cộng sự năm (2011) [3] nghiên cứu trên 571 thai phụ 3
tháng cuối, theo tác giả có 16,1% thai phụ 3 tháng cuối có tăng hoạt tính yếu
tố VIII, và cũng không gặp trường hợp nào giảm hoạt tính yếu tố VIII.
Hoạt tính yếu tố IX bình thường ở 64,71%, tăng 29,41% và giảm
5,88% trường hợp. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về tỷ lệ bất thường hoạt
tính yếu tố IX có khác biệt với kết quả nghiên cứu của Hoàng Hương Huyền
và cộng sự năm (2011) [3], theo tác giả có 6,5% thai phụ 3 tháng cuối có tăng
hoạt tính yếu tố IX và không gặp trường hợp nào giảm hoạt tính yếu tố IX.
Hoạt tính yếu tố XI bình thường chỉ có 70,59%, tăng 23,56% và chủ
yếu là giảm 5,88% trường hợp.
Hoạt tính yếu tố XII bình thường là chủ yếu 94,12%, tăng 5,88% và
không gặp trường hợp nào giảm yếu tố XII.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của

một số tác giả nước ngoài như: Holmes.V.A và Wallace. J.M.W năm 2005
đăng trên tạp chí Biochemical Society [14]; Patrick Thornton, Douglas. J
nghiên cứu năm 2009 đăng trên tạp chí Best practice and research clinical
15
obstetrics and gynecology [15].
16
KẾT LUẬN
Qua kết quả phân tích xét nghiệm trên 102 phụ nữ mang thai thuộc quí
2 của thai kỳ đến khám tại Bệnh viện phụ sản Hà Nội. Chúng tôi thu được kết
quả hoạt tính một số yếu tố đông máu như sau:
- Hoạt tính yếu tố II: 80,74±16,93%
- Hoạt tính yếu tố V: 54,08±16,60%
- Hoạt tính yếu tố VII: 149,60±57,64%
- Hoạt tính yếu tố VIII: 105,56±30,56%
- Hoạt tính yếu tố IX: 104,43±22,8%
- Hoạt tính yếu tố XI: 78,01±15,55%
- Hoạt tính yếu tố XII: 91,02±21,05%
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Phan Trường Duyệt, Đinh Thế Mỹ(2000), Lâm sàng sản phụ khoa,
Nhà xuất bản y học, tr. 161-259.
2. Đoàn Thị Bé Hùng(2007), “ Tỷ lệ và nguyên nhân các rối loạn đông
máu thường gặp trong sản khoa tại Bệnh viện Hùng Vương”, Luận văn
thạc sỹ y học, Trường đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Hoàng Hương Huyền, Nguyễn Thị Nữ, Nguyễn Tuấn Tùng, Phạm
Quang Vinh (2011), “Nghiên cứu một số đặc điểm xét nghiệm đông
cầm máu ở phụ nữ có thai ba tháng cuối”, Y học Việt Nam, tập 381; số
đặc biệt; tháng 5/2011; 45-50.
4. Nguyễn Ngọc Minh (2007), “ Thay đổi sinh lý về các chỉ số cầm máu-
đông máu”, Bài giảng huyết học- truyền máu sau đại học, Nhà xuất bản

y học Hà nội.
5. Cung Thị Tý (2004), "Cơ chế đông- cầm máu vá các xét nghiệm", Bài
giảng huyết học- truyền máu, Tập I, tr. 228-236.
6. Cung Thị Tý, Nguyễn Thị Nữ (2005), "Đông máu- cầm máu", Kỹ
thuật xét nghiệm huyết học-truyền máu ứng dụng trong lâm sàng, tr. 69-
89
TIẾNG ANH
7. Benjamin Brenner (2004), "Haemostatic changes in pregnancy",
Thrombosis Research 2004, pp. 409- 414.
8. Domenico Prisco, Gabriele Ciuti, Michela Falciani (2005),
"Haemostatic changes in normal pregnancy", Haematologyca reports
2005; 1 (issue 10), pp. 1- 5.
9. Ekaterina H. Uchikova (2004), "Changes in haemostasis during
normal pregnancy", European Journal of Obstetrics and Gynecology,
Volum 119, Issue 2, pp. 185- 188.
10. Federico Cerneca (1997), "Coagulation and fibrinolysis changes in
normal pregnancy", European Journal of Obstetrics and
Gynecology,volum 73, Issue 1, pp. 31- 36.
11. Heilmann L, Rath W, Pollow K (2007), "Hemostatic abnormalities in
patients with severe preeclampsia", Clin Appl Thromb Hemost. Jul;
13(3), pp. 285- 291.
12. Hellgren Margareta (2006), " Hemostasis during normal pregnancy
and puerperium", Department of Obstetrics and Gynecology, pp. 356-
400.
13. Holmes, V.A., Wallacet, J.M.W., (2005), "Haemostasis in normal
pregnancy: a balancing act ", Biochemical Society Transactions volum
33, part 2.
14. Keith R. McCrae, Samuels P, Schreiber AD (1992), “Pregnancy-
associated thrombocytopenia: Pathogenesis and management”, Blood,
pp.2697.

15. Patrick Thornton, Joane Douglas (2009), "Coagulation in pregnancy",
Best Practice, Research Clinical Obstetrics and Gynaecology, pp. 339- 352.
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2
1.1. Sinh lý ông c m máuđ ầ 2
1.1.1. Giai o n c m máu ban uđ ạ ầ đầ 2
1.1.2. Giai o n ông máu huy t t ngđ ạ đ ế ươ 2
1.1.3. Giai o n tiêu s i huy tđ ạ ợ ế 3
1.2. ông c m máu ph n có thai.Đ ầ ở ụ ữ 4
1.3. Các nghiên c u v r i lo n ông máu ph n có thaiứ ề ố ạ đ ở ụ ữ 5
1.3.1. Nghiên c u trên th gi iứ ế ớ 5
1.3.2. Nghiên c u trong n c.ứ ướ 6
CHƯƠNG 2 6
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7
2.1 i t ng nghiên c uĐố ượ ứ 7
2.2 Ph ng pháp nghiên c u.ươ ứ 7
2.2.1. Thi t k nghiên c uế ế ứ 7
2.2.2. Các thông s nghiên c u:ố ứ 7
2.2.3. Ph ng ti n v v t li u nghiên c u.ươ ệ à ậ ệ ứ 8
2.2.4. Các k thu t xét nghi m v tiêu chu n ánh giá:ỹ ậ ệ à ẩ đ 8
2.3. X lý s li uử ố ệ 9
2.4. o c nghiên c u.Đạ đứ ứ 9
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 11
3.1. c i m ho t tính y u t ông máu c a thai ph 3 tháng cu iĐặ để ạ ế ốđ ủ ụ ố 11
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN 13
4.1. Ho t tính các YT M huy t t ng thu c con ng ông máu ngo i ạ Đ ế ươ ộ đườ đ ạ
sinh 13
4.2. Ho t tính các YT M huy t t ng thu c con ng ông máu n i sinhạ Đ ế ươ ộ đườ đ ộ
13

KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17

×