Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Thực hiện pháp luật về thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.19 KB, 82 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích
dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ
NGUYỄN PHÚC THIỆN
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi gửi lời cảm ơn đến tập thể các giáo sư, các nhà khoa học, các
thầy giáo, cô giáo của Học viện Khoa học xã hội đã tận tình truyền đạt kiến thức chỉ
bảo tôi trên con đường học tập và nghiên cứu khoa học.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, đã dành nhiều
tâm huyết, trí tuệ của mình, giúp định hướng khoa học và luôn động viên khích lệ
tôi hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.
Xin cám ơn bạn bè, đồng nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học
Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, Bộ Tài nguyên và Môi trường, đã giúp tôi tìm kiếm
tài liệu, cung cấp thông tin có liên quan đến đề tài, cũng như góp ý kiến để luận văn
của tôi được tốt hơn.
Hà Nội, tháng 04 năm 2014
Tác giả luận văn

NGUYỄN PHÚC THIỆN
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG 1 10
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT 10
THU HỒI ĐẤT ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 10
1.1. Quan niệm thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội


ở Việt Nam 10
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất 10
1.1.2. Mục đích thu hồi đất 11
1.1.3. Sự cần thiết phải thu hồi đất 12
1.1.4. Các trường hợp bị thu hồi đất 15
1.2. Quan niệm về các dự án phát triển kinh tế - xã hội 16
1.2.1. Các quan niệm khác nhau về dự án 16
1.2.2. Đặc điểm của dự án phát triển kinh tế - xã hội 17
1.2.3. Tầm quan trọng của các dự án phát triển kinh tế - xã hội trong phát
triển đất nước 18
1.3. Quan niệm về thực hiện pháp luật về thu hồi đất 19
1.3.1. Các quan niệm khác nhau về thực hiện pháp luật về thu hồi đất 19
1.3.2. Chủ thể, khách thể, hình thức, cơ chế điều chỉnh và vai trò của thực
hiện pháp luật về thu hồi đất 22
1.3.2.2. Khách thể của thực hiện pháp luật thu hồi đất 24
1.3.2.3. Hình thức thực hiện pháp luật về thu hồi đất 24
1.3.2.4. Cơ chế thực hiện pháp luật về thu hồi đất 26
1.3.2.5. Vai trò của thực hiện pháp luật về thu hồi đất 28
1
1.4. Một số điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật khi Nhà nước thu hồi
đất 31
1.4.1. Điều kiện đảm bảo về chính trị, tư tưởng 31
1.4.2. Điều kiện đảm bảo về pháp lý 32
1.4.3. Điều kiện đảm bảo về kinh tế và việc làm cho người bị thu hồi đất 33
1.4.4. Điều kiện đảm bảo về cơ chế chính sách và trình độ, năng lực, phẩm
chất của cán bộ, công chức 34
2. Việc thực hiện pháp luật về thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh
tế - xã hội phải có cơ chế điều chỉnh hợp lý có hiệu quả mà đặc biệt là chủ
thể, khách thể, hình thức và vai trò thực hiện pháp luật về thu hồi đất 34
CHƯƠNG 2 36

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT ĐỐI
VỚI CÁC DỰ ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 36
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 36
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về thu hồi đất đối với các dự án
phát triển kinh tế - xã hội 36
2.1.1 Hệ thống văn bản pháp luật về thực hiện thu hồi đất đối với các dự
án phát triển kinh tế - xã hội 36
2.1.2. Thẩm quyền thu hồi đất 39
2.1.3. Trình tự, thủ tục thu hồi đất 41
2.1.4. Vấn đề bồi thường, hỗ trỡ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất 47
2.1.4.1. Đối tượng bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất 47
2.1.5. Đánh giá thực trạng pháp luật về thu hồi đất 52
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về thu hồi đất đối với các dự án phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay 54
2.2.1. Những thành tựu đạt được 54
2.2.2. Những tồn tại, bất cập 57
2
CHƯƠNG 3 68
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ THU HỒI ĐẤT ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ- XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 68
3.1. Phương hướng bảo đảm thực hiện pháp luật về thu hồi đất đối với
các dự án phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay 69
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về thu hồi đất đối với các
dự án phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay 69
3.2.1. Cần gấp rút hoàn thành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đất
đai năm 2013 69
3.2.2. Rà soát các loại quy hoạch 70
3.2.3. Công khai, minh bạch trình tự, thủ tục thu hồi đất 71
3.2.4. Tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế định giá đất cho phù hợp với giá thị

trường đảm bảo lợi ích của người bị thu hồi đất 71
3.2.5. Đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật cho người dân khi thu hồi đất 71
3.2.6. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thu hồi đất 72
3.2.7. Nhanh chóng ổn định cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất 73
3.2.8. Giải pháp về tổ chức bộ máy 73
3.2.9. Phải có chính sách cụ thể về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho
những người bị thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã
hội 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là
tư liệu sản xuất không gì có thể thay thế được của sản xuất nông – lâm nghiệp, là
nền tảng để xây dựng các khu kinh tế, các công trình kết cấu hạ tầng, xây dựng các
công trình sản xuất kinh doanh, xây dựng các khu đô thị và khu dân cư. Cùng với sự
phát triển của xã hội thì nhu cầu sử dụng đất ngày một tăng lên. Việc sử dụng hiệu
quả đất đai, đảm bảo sự bền vững về môi trường và hiệu quả về kinh tế - xã hội
ngày càng có ý nghĩa.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ “Hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật, chính sách về đất đai nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích
của người sử dụng đất, lợi ích của của nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng
có hiệu quả nguồn đất đai cho sự phát triển; khắc phục tình trạng lãng phí và tham
nhũng đất đai”[41, tr109-110].
Khoản 3 Điều 54 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức,
cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc
phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu
hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật.”
Ở nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa; vấn đề phát
triển kinh tế - xã hội được coi là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu,

đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Để triển
khai được các dự án đầu tư phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước
phải thu hồi đất và thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho các hộ dân có
đất bị thu hồi. Tuy nhiên, công tác thu hồi đất vẫn đang là vấn đề hết sức phức tạp
và nhạy cảm, có nhiều khó khăn, tồn tại, vướng mắc bởi nó liên quan đến quyền và
lợi ích của nhiều chủ thể và để lại một số hạn chế như: giảm sút đáng kể diện tích
đất nông nghiệp, người dân mất đất, mất việc làm, cuộc sống gặp nhiều khó khăn.
Đặc biệt khi thu hồi đất để phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội còn gặp
không ít các khó khăn trong việc đền bù, giải phóng mặt bằng, khó khăn trong vấn
4
đề định giá đất, bồi thường thiệt hại chưa phù hợp từ đó gây ra sự căng thẳng, bức
xúc trong nhân dân. Điển hình có một số vụ việc nổi cộm gần đây gây xôn xao dư
luận là việc thu hồi đất như dự án Ecopark ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, hay
vụ một người nông dân nổ sung bắn một số cán bộ của Trung tâm phát triển quỹ đất
thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình… [30]. Qua đó cho thấy, có nhiều trường hợp
người dân không chấp nhận việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quyết định thu
hồi đất do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, dẫn đến khiếu kiện kéo dài,
nhiều dự án phải thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế thu hồi đất.
Nhà nước ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về thu hồi đất, trong đó
đã quy định cụ thể về trình tự thủ tục, thẩm quyền, các mức bồi thường, tài sản và
các chính sách hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; giao nhiệm vụ, trách
nhiệm cho các cơ quan chức năng có liên quan đến việc thu hồi đất; nghĩa vụ quyền
lợi của người bị thu hồi đất. Có thể nói một cách khái quát rằng, tuy các quy định
pháp luật về thu hồi đất nhiều và thường xuyên thay đổi, nhưng còn thiếu đồng bộ,
chưa hoàn chỉnh, chưa thống nhất và chưa tạo được đầy đủ căn cứ pháp lý để triển
khai trong thực tiễn, đặc biệt là cơ chế thực hiện pháp luật về thu hồi đất không
được đảm bảo thống nhất, thiếu công khai, công bằng và minh bạch.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về thu
hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay” làm
luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề thực hiện pháp luật về thu hồi đất có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam,
nhất là đối với nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc
thu hồi đất trực tiếp đụng chạm đến lợi ích người bị thu hồi đất, lợi ích của nhà
nước, lợi ích của nhà đầu tư và nên thời gian qua đã nhận được sự quan tâm nghiên
cứu của giới khoa học pháp lý.
Nhiều các công trình, sách báo pháp lý nghiên cứu về vấn đề này dưới khía
cạnh lý luận và thực tiễn; tiêu biểu có một số công trình nghiên cứu của các tác giả:
Đinh Thị Huê, “Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
5
nước thu hồi đất ở tỉnh Hà Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ năm (2011); Đỗ Quang
Dương, “Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất giải phóng mặt bằng ở quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” Luận văn thạc
sĩ năm (2013); Nguyễn Thị Phương Thảo, “Pháp luật về bồi thường về đất khi thực
hiện các dự án kinh tế và thực tiễn áp dụng tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An”,
Luận văn thạc sĩ (2012); Nguyễn Văn Diện, “Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất”, Luận văn thạc sĩ năm 2006; Hoàng Thị Nga, “Pháp luật về
thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam hiện nay” Luận văn thạc sĩ
năm 2011; Nguyễn Minh Tuấn, “Thu hồi đất vì mục đích kinh tế ở Việt Nam hiện
nay”, Luận văn thạc sĩ năm 2013; Ts Nguyễn Thị Nga, “Pháp luật về trình tự, thủ
tục thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nay sinh
trong quá trình áp dụng”, Tạp chí Luật học, số 11/2010; Ts Trần Quang Huy,
“Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, số 10/2010; Ts
Nguyễn Quang Tuyến, “Công khai minh bạch để bảo vệ quyền lợi của người bị thu
hồi đất”, Tạp chí Luật học, số 3/2012… Nhìn chung, các công trình này đã đi sâu
nghiên cứu từng khía cạnh của vấn đề thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất hoặc tập trung nghiên cứu về thực trạng pháp luật
về thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ở một số địa phương nhất định. Kế thừa
những thành quả nghiên cứu của các công trình kể trên, Luận văn đi sâu tìm hiểu
một cách hệ thống, toàn diện và tập trung về thực hiện pháp luật về thu hồi đất đối

với các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn:
Luận văn có mục đích làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về
thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, thông qua thực
tiễn, đánh giá thực trạng pháp luật để đưa ra giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật
về thu hồi đất nhằm giải quyết tốt hơn nữa mối quan hệ hài hòa lợi ích giữa Nhà
nước, người bị thu hồi đất và chủ đầu tư.
6
Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn có các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về thu hồi
đất đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích, đánh giá và luận giải thực trạng thực hiện pháp luật về thu hồi đất
ở Việt Nam hiện nay; chỉ ra những yếu kém, khó khăn, bất cập, yêu cầu và đòi hỏi
từ thực tiễn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao bảo đảm thực hiện pháp luật về thu
hồi đất ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Hệ thống quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về thực
hiện pháp luật về thu hồi đất.
- Các văn bản quy phạm pháp luật thực định về thực hiện thu hồi đất đối với
các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
- Thực tiễn, thực hiện pháp luật về thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh
tế - xã hội.
* Phạm vi nghiên cứu:
Do tính phức tạp rộng lớn của đề tài, Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở
việc tìm hiểu các quy phạm pháp luật về thực hiện pháp luật về thu hồi đất, thời
gian đánh giá từ khi có Luật Đất đai 2003 đến nay, trên phạm vi cả nước, trong đó

đi sâu phân tích các quy định hiện hành về thu hồi đất.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra của đề tài, luận văn nghiên cứu dựa trên cơ
sở phương pháp luận về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm tư tưởng của Đảng cộng sản Việt
Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới và
hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
7
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, bình luận, so sánh…để tìm hiểu về một số vấn đề
lý luận về thực hiện pháp luật về thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế -
xã hội.
- Phương pháp đánh giá, đối chiếu, diễn giải, tổng hợp, quy nạp để tìm hiểu
về thực trạng thực hiện pháp luật về thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế -
xã hội ở Việt Nam hiện nay, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật thu hồi đất
đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng thời, tác giả kết hợp lý luận và thực tiễn, đối chiếu để làm nổi bật những
vấn đề hiện tại với nội dung các quy định pháp luật được nghiên cứu. Việc kết hợp
các phương pháp nghiên cứu, xem xét các vấn đề lý luận gắn với thực tiễn cho phép
nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách toàn diện, khách quan trong các mối quan hệ
qua lại, gắn bó, tác động với nhau trong những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể nhất
định đối với vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp về khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Luận văn nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật
về thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về thu hồi đất đối với các dự án phát
triển kinh tế - xã hội hiện nay ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật khi
Nhà nước thu hồi đất.
- Góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho các cơ quan đưa ra những quyết

sách đảm bảo cho pháp luật về thu hồi đất được thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh,
thống nhất trên địa bàn cả nước trong thời gian tới.
- Luận văn còn là một tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, và các nhà
quản lý, sinh viên, học viên… và tất cả những ai quan tâm đến việc thực hiện pháp
luật về thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
8
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương sau đây:
Chương 1
Một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật thu hồi đất đối với các dự án
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay
Chương 2
Thực trạng thực hiện pháp luật về thu hồi đất đối với các dự án phát triển
kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay
Chương 3
Phương hướng và giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về thu hồi đất đối
với các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay
9
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
THU HỒI ĐẤT ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Quan niệm thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế -
xã hội ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất
Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
và thống nhất quản lý, nắm giữ quyền quyết định số phận pháp lý về đất đai. Đây là
quyền năng duy nhất và tuyệt đối của đại diện chủ sở hữu, nó bao trùm lên toàn bộ
vốn đất trong phạm vi quốc gia, ngoài Nhà nước không ai được phép định đoạt. Thu

hồi đất là một trong những hành vi pháp lý thể hiện quyền định đoạt đó. Nếu giao
đất, cho thuê đất làm phát sinh quan hệ đất đai thì thu hồi đất để lại hậu quả làm
chấm dứt quan hệ đất đai đối với người sử dụng đất.
Từ điển Tiếng Việt phổ thông định nghĩa:“Thu hồi là việc thu về lại, lấy lại
cái trước đó đã đưa ra, đã cấp phát hoặc bị mất vào tay kẻ khác”[38, tr881]. Từ đó,
ta có thể hiểu thu hồi đất là việc Nhà nước lấy lại đất đã giao, đã cho thuê vì lý do
nào đó. Thu hồi đất thể hiện quyền lực Nhà nước, người đại diện chủ sở hữu toàn
dân về đất đai.
Khoản 5 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 đưa ra khái niệm thu hồi đất: “Thu hồi
đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc
thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo
quy định của Luật này”.
Khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai 2013 đưa ra khái niệm:“Nhà nước thu hồi
đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà
nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm
pháp luật về đất đai”.
Các khái niệm nêu trên, thu hồi đất xét về mặt hình thức là văn bản hành
10
chính; nhưng xét về mặt nội dung, là việc sử dụng quyền lực nhà nước để thu lại
quyền sử dụng đất đã được giao cho cá nhân, tổ chức nhằm phục vụ lợi ích của Nhà
nước và xã hội. Thu hồi đất có những đặc điểm sau đây:
- Việc thu hồi đất do cơ quan quản lý hành chính nhà nước tiến hành theo
một thủ tục, trình tự nhất định. Thẩm quyền thu hồi đất được xác định theo thẩm
quyền giao đất, cơ quan có thẩm quyền giao đất nào thì có quyền thu hồi đối với
loại đất đó.
- Thu hồi đất được thực hiện thông qua quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Xác định rõ chủ thể bị thu hồi, lý do thu hồi, diện tích thu hồi,
mục đích thu hồi làm căn cứ cho việc chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai giữa Nhà
nước và người sử dụng đất.
- Phương pháp mệnh lệnh được dùng trong mọi trường hợp thu hồi đất. Đây là

quan hệ một bên là Nhà nước với một bên là người sử dụng đất, hai chủ thể này
không có sự bình đẳng với nhau về mặt pháp lý. Tuy nhiên, bên cạnh phương pháp
mệnh lệnh hành chính là phương pháp thuyết phục, giáo dục đặc biệt là thu hồi đất
để phục vụ trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng và lợi ích công cộng.
- Thu hồi đất là một biện pháp pháp lý quan trọng nhằm thể hiện quyền sở hữu
toàn dân đối với đất đai mà nhà nước là người đại diện chủ sở hữu. Để thực hiện nội
dung này, quyền lực nhà nước được thể hiện nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước,
xã hội và lập lại kỷ cương của Nhà nước trong trường hợp vi phạm Luật Đất đai.
1.1.2. Mục đích thu hồi đất
Cùng với các biện pháp thực hiện chức năng quản lý về đất đai như: điều tra,
đo đạc, lập bản đồ địa chính; quy hoạch, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
đất đai, tổ chức thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật này; thanh tra, kiểm tra
việc sử dụng đất … thì thu hồi đất có mục đích sau:
Thứ nhất, tạo quỹ đất để phục vụ cho các dự án kinh tế - xã hội và các dự án
khác. Thu hồi đất góp phần vào việc giải phóng mặt bằng, phân phối lại quỹ đất để
sử dụng cho mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
11
Thứ hai, thu hồi đất là một trong những biện pháp quan trọng nhằm tăng
cường sự quản lý nhà nước đối với đất đai, đảm bảo cho việc sử dụng đất đai một
cách hợp lý và tiết kiệm, đặc biệt trong một số trường hợp, thu hồi đất giúp cho việc
ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm về đất đai như: đất không sử dụng đúng
mục đích, người sử dụng đất không thực hiện đúng nghĩa vụ đối với Nhà nước, lấn,
chiếm đất, đất được giao không đúng thẩm quyền.
Thứ ba, Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp khác như tổ chức kinh tế
được nhà nước giao đất không thu tiền mà giải thể, phá sản, người sử dụng đất tự
nguyện trả lại đất khi không có nhu cầu sử dụng …
Nhà nước là đại diện quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai, chính vì vậy Nhà
nước thu hồi đất vì mục đích của quốc gia, vì cộng đồng xã hội. Thu hồi đất là một
trong những hoạt động thể hiện quyền định đoạt đất đai của Nhà nước. Do đó, thu

hồi đất là một biện pháp bảo vệ quyền sở hữu đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ
sở hữu.
1.1.3. Sự cần thiết phải thu hồi đất
“Đất là mẹ, sức lao động là cha đã sản sinh ra mọi của cải vật chất” Mác đã
khẳng định như vậy [8, tr189]. Đúng là như thế, cha ông ta đã từng nói “tấc đất, tấc
vàng”. Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của dân tộc ta, nó còn là tư liệu
sản xuất không gì có thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp.
Diện tích đất trong cả nước hiện nay có khoảng 33.096 nghìn ha, đứng thứ 59
trong hơn 200 nước trên thế giới, là một trong những nước có diện tích đất đai bình
quân đầu người thấp trên thế giới (khoảng 0,37 ha đất tự nhiên/người và 0,28 ha đất
nông nghiệp/người). Trong đó diện tích đất nông nghiệp là trên 26.226 nghìn ha
(chiếm 79,24% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước), diện tích đất phi nông
nghiệp là trên 3.705 nghìn ha (chiếm 11,20% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước),
diện tích đất chưa sử dụng là trên 3.164 nghìn ha (chiếm 9,56% tổng diện tích đất tự
nhiên của cả nước) [6]. Qua đó ta thấy diện tích đất chưa sử dụng còn khá nhiều mà
chỉ tập trung vào khu vực có điều kiện khó khăn. Mặt khác, dân số với khoảng gần
12
90 triệu người, là nước đông dân thứ 13 trên thế giới. Nhưng dân cư phân bố không
đồng đều, phần lớn là tập trung vào các khu đô thị, các thành phố lớn: đặc biệt là Hà
Nội sau khi sáp nhập tỉnh Hà Tây (3490 người/km
2
, gấp gần 100 lần mật độ chuẩn),
thành phố Hồ Chí Minh (2909 người/km
2
)[18]. Dân cư chủ yếu tập trung đông ở
những nơi kinh tế phát triển, có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Trong khi những khu
vực vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, điều kiện khó khăn thì dân cư ít sinh sống và
đây cũng là những vùng mà có diện tích đất bỏ hoang chưa đưa vào sử dụng còn rất
lớn. Ngược lại, ở những thành phố lớn thì tình trạng “đất chật, người đông” mà
người dân chưa thích ứng với việc ở chung cư đã gây trở ngại rất lớn trong quá trình

công nghiệp hóa - hiện đại hóa phát triển đất nước.
Sau khi Việt Nam gia nhập (WTO), chúng ta đã đạt được những thành tựu to
lớn về kinh tế - xã hội, đã và đang tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, tạo ra
nhiều cơ hội đầu tư mới cho nhà đầu tư trong và ngoài nước. Khi nắm được thông
tin Việt Nam sẽ gia nhập (WTO), nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã “đón đầu” sự
kiện, tích cực đầu tư vào Việt Nam. Chính vì vậy, từ năm 2006 nguồn vốn FDI vào
Việt Nam đã tăng mạnh. Tính đến 12/2013, cả nước đã có 289 Khu công nghiệp
(KCN) được thành lập hoặc cấp Giấy chứng nhận đầu tư, với tổng diện tích đất tự
nhiên khoảng 81.068 ha, diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 52.838 ha
(chiếm khoảng 66% tổng diện tích đất tự nhiên). Các Khu công nghiệp được thành
lập trên 60 tỉnh, thành phố, chủ yếu tập trung tại các vùng kinh tế trọng điểm nhằm
phát huy lợi thế về vị trí địa lý và tiềm năng phát triển kinh tế của các vùng. Ngoài ra,
để tạo điều kiện phát triển công nghiệp địa phương, một số KCN được thành lập tại
các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hơn như khu vực Trung du miền núi
phía Bắc, Tây Nguyên Các KCN được thành lập phù hợp với quy hoạch phát triển
các KCN cả nước cũng như quy hoạch sử dụng đất và phát triển công nghiệp của địa
phương. Vùng Đông Nam Bộ có số lượng Khu công nghiệp được thành lập nhiều
nhất với 98 KCN (chiếm 34% cả nước), tiếp đến là vùng Đồng bằng sông Hồng với
73 KCN (chiếm 25% cả nước) và vùng Đồng bằng sông Cửu Long với 54 KCN
(chiếm 19% cả nước) [5]. Dự kiến từ nay đến năm 2015, cả nước sẽ có thêm 113
khu công nghiệp được thành lập mới với tổng diện tích quy hoạch là 29.200 ha và
13
27 khu công nghiệp mở rộng với tổng diện tích hơn 6.000 ha. Các KCN chủ yếu tập
trung ở 3 vùng kinh tế trọng điểm: Nam - Trung - Bắc, đặc biệt là ở một số tỉnh, thành
phố có điều kiện kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng giao thông thuận lợi như: Thành phố
Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Hải Phòng, Quảng
Ninh, Vĩnh Phúc [9]. Chính vì vậy, nhu cầu về đất đai cho các dự án đầu tư trong và
ngoài nước là một vấn đề rất cần thiết và quan trọng.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nên việc
chuyển đổi mục đích sử dụng đất, triển khai các dự án lớn để phát triển kinh tế - xã

hội diễn ra mang tính quy luật. Vì vậy, Nhà nước cần lấy đi một phần đất nông
nghiệp để xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị mới và xây dựng kết cấu hạ tầng
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Tuy nhiên, việc lấy đất nông
nghiệp đã giao cho nông dân sử dụng ổn định lâu dài để chuyển thành đất xây dựng
là một vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, cần cân nhắc và đòi hỏi có sự giải quyết
thấu tình, đạt lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thu hồi đất.
Hoạt động thu hồi đất đã hiện thực hóa quyền quản lý của Nhà nước về đất
đai, đảm bảo lợi ích chính đáng cho người sử dụng đất. Đồng thời việc thu hồi đất
đảm bảo tiến độ của các dự án pháp triển kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu sử
dụng đất của Nhà nước và xã hội cũng như thể hiện thái độ của Nhà nước trong
trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không chấp hành quyết định
thu hồi đất đúng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, từ đó góp phần rất
quan trọng để phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Thông qua hoạt động thu hồi
đất, quyền lực của Nhà nước được thể hiện nhằm mục đích đảm bảo lợi ích của Nhà
nước, của xã hội, thiết lập kỷ cương trong quan lý nhà nước về đất đai.
Các quy định của Luật Đất đai về thu hồi đất đã phần nào phù hợp với điều
kiện mới của đất nước và đã được thực thi trong cuộc sống, thúc đẩy phát triển kinh
tế góp phần ổn định chính trị xã hội. Việc sử dụng đất có hiệu quả hơn trong việc
xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp, dịch vụ và xây dựng đô thị hóa
làm thay đổi bộ mặt đô thị theo hướng văn minh hiện đại. Quản lý nhà nước về đất
đai có phần tiến bộ, phát huy tốt nguồn nội lực to lớn và quý giá của đất nước vào
công cuộc phát triển kinh tế xã hội và hội nhập của nước ta.
14
1.1.4. Các trường hợp bị thu hồi đất
Thứ nhất, thu hồi đất vì mục đích, nhu cầu Nhà nước và xã hội. Đất nước ta đang
trong tiến trình hội nhập, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Nhà nước với tư
cách là chủ đầu tư lớn nhất có nhiệm vụ xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng xã
hội, cơ sở kinh tế, sử dụng đất vào mục đích an ninh quốc phòng, mục đích công cộng,
bảo vệ chủ quyền quốc gia cùng với các chủ đầu tư khác có nhu cầu về sử dụng đất rất
lớn. Trong khi đó, diện tích đất mà Nhà nước có nhu cầu sử dụng lại do các cá nhân, tổ

chức, hộ gia đình đang có quyền sử dụng do được Nhà nước giao đất, cho thuê đất. Vì
vậy, Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất trong các trường hợp sau đây: Nhà nước sử
dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh; Nhà nước sử dụng đất vào mục đích công
cộng, lợi ích quốc gia; Nhà nước sử dụng đất vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội
để xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao.
Thứ hai, thu hồi đất vì lý do đương nhiên. Trường hợp này, không xuất phát từ
nhu cầu của Nhà nước, cũng không phải do lỗi của người sử dụng đất mà đơn thuần
là các lý do đương nhiên dẫn tới việc Nhà nước thu hồi đất. Nhà nước tiến hành thu
hồi đất trong các trường hợp sau: tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử
dụng đất mà bị giải thể, phá sản. Người sử dụng tự nguyện trả lại đất. Cá nhân sử
dụng đất chết mà không có người thừa kế. Đất đai được Nhà nước giao, cho thuê có
thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời hạn.
Thứ ba, thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai. Trong quá trình sử dụng
đất, người sử dụng do vô ý hoặc cố ý có hành vi vi phạm pháp luật đất đai. Thu hồi
đất được xem là một biện pháp chế tài của Nhà nước nhằm tước đi quyền sử dụng
đất của người vi phạm. Các vi phạm này rất đa dạng nhưng có thể khái quát thành
một số trường hợp cụ thể như sau: người sử dụng đất không đúng mục đích, không
có hiệu quả; người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất đai; đất được giao không đúng đối
tượng và không đúng thẩm quyền; đất bị lấn chiếm; người sử dụng cố ý không thực
hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước; đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong
mười hai tháng liền, đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong mười tám
15
tháng, đất trồng rừng không được sử dụng trong vòng hai bốn tháng; đất được Nhà
nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời
hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất hơn hai bốn tháng liền so với tiến
độ ghi trong dự án đầu tư kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa và không được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó.
Như vậy, có thể thấy các dạng vi phạm rất đa dạng và phức tạp. Nhằm hạn chế
tình trạng lãng phí đất, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật đất đai cần rà soát
để thu hồi đất nhanh chóng và có biện pháp thiết thực, phối hợp đồng bộ giữa Bộ

Tài nguyên và các Bộ, ngành liên quan trong việc thu hồi đất.
1.2. Quan niệm về các dự án phát triển kinh tế - xã hội
1.2.1. Các quan niệm khác nhau về dự án
Từ khi có thuật ngữ dự án ra đời, người ta thường dùng nó để chỉ những quá
trình, những hoạt động rất khác nhau trong từng lĩnh vực cụ thể. Chúng ta đã được
biết đến rất nhiều dự án như dự án “Xây dựng đường cao tốc Láng – Hòa lạc, đường
cao tốc Thăng Long – Nội Bài, đường cao tốc Hà nội – Lào Cai, xây dựng cầu Nhật
Tân, cầu Vĩnh Tuy”, dự án “Xây dựng đường dây 500kw xuyên Bắc Nam”, dự án
“Xây dựng thủy điện Sơn La”, dự án đào tạo phát triển nguồn nhân lực, dự án cải
cách hệ thống hành chính, dự án cải tạo nâng cấp môi trường đô thị, dự án tăng
cường tiềm lực và phát triển công nghệ quốc phòng… Các dự án này được tiến
hành trong những lĩnh vực khác nhau, với nội dung và hoạt động cụ thể cũng khác
nhau, nhưng chúng ta đều gọi là dự án. Mỗi dự án đều được xác định rõ thời gian
bắt đầu và kết thúc, cũng như thỏa mãn các yêu cầu cụ thể của nền kinh tế hoặc một
tổ chức nhất định.
Các nhà khoa học trong lĩnh vực kinh tế cũng như các nhà quản lý đã đưa ra
nhiều quan niệm khác nhau về dự án. Mỗi một quan niệm nhấn mạnh về một số
khía cạnh của một dự án cùng các đặc điểm quan trọng của nó trong từng hoàn cảnh
cụ thể [ 34, tr79].
Nếu xét về hình thức, dự án là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi
tiết và có hệ thống một dự kiến đầu tư trong tương lai.
16
Nếu xét ở góc độ nội dung, dự án được hiểu là một ý đồ để tiến hành một công
việc cụ thể nào đó nhằm đạt mục tiêu xác định trong khuôn khổ nguồn lực nhất định
và khoảng thời gian nhất định.
Nếu xét về góc độ kế hoạch, dự án được hiểu là một kế hoạch chi tiết về đầu tư
phát triển, là đơn vị kế hoạch độc lập nhỏ nhất trong hệ thống kế hoạch hóa, làm cơ
sở cho việc ra quyết định về đầu tư phát triển.
Xét từ giác độ quan sát các hoạt động cần thiết cho một dự án thì dự án được
hiểu là hàng loạt các hoạt động cần thiết nhằm xác định mục tiêu, tiến hành các

nghiên cứu khả thi, dự đoán chi phí, hoàn thiện các thủ tục và thiết kế cuối cùng,
cũng như việc lắp đặt và hoàn thiện các điều kiện làm việc. Một dự án nhất định sẽ
bị giới hạn về thời gian, về con người cùng các nguồn lực khác để hoàn thành mục
tiêu đã được xác định.
Luật Đấu thầu năm 2005 tại khoản 7 Điều 4 đưa ra khái niệm về dự án như
sau: “Dự án là tập hợp các đề xuất để thực hiện một phần hay toàn bộ công việc
nhằm đạt được mục tiêu hay yêu cầu nào đó trong một thời gian nhất định dựa trên
nguồn vốn xác định”
Như vậy, một dự án có thể được xem xét như là một chuỗi các công việc và
nhiệm vụ: Có mục tiêu cụ thể được hoàn thành trong những điều kiện nhất định;
được xác định rõ thời gian bắt đầu và kết thúc; có hạn chế nhất định về tài chính; sử
dụng các nguồn lực nhất định về phương tiện, thiết bị, con người.
Đến nay dự án đã được dùng rất rộng rãi và phổ biến cho tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Với mỗi lĩnh vực, dự án được phân chia thành các loại dự án khác
nhau, sẽ được cụ thể hóa một cách chi tiết hơn cho phù hợp với đặc điểm riêng có của
lĩnh vực đó. Tuy nhiên tính chất chung vốn có của dự án thì vẫn tồn tại và được thể
hiện rõ nét trong tất cả các lĩnh vực.
1.2.2. Đặc điểm của dự án phát triển kinh tế - xã hội
- Dự án được xác định rõ ràng về mục tiêu phải đạt được, thời hạn bắt đầu và
thời hạn kết thúc cũng như nguồn lực cần có với một số lượng, cơ cấu, chất lượng
17
và thời điểm giao nhận.
- Dự án là một thực thể độc lập trong một môi trường xác định với các giới hạn
nhất định về quyền hạn và trách nhiệm.
- Dự án có tính logic được thể hiện ở mối quan hệ biện chứng giữa các bộ
phận cấu thành dự án. Một dự án thường có 4 bộ phận:
Một là: Mục tiêu của dự án bao gồm có hai cấp mục tiêu: Mục tiêu phát triển
và mục tiêu trực tiếp. Mục tiêu phát triển là mục tiêu dự án góp phần thực hiện,
được xác định trong kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
của vùng. Mục tiêu trực tiếp là mục tiêu cụ thể mà dự án phải đạt được trong khuôn

khổ nguồn lực nhất định và trong khoảng thời gian nhất định.
Hai là: Kết quả dự án là những đầu ra cụ thể của dự án được tạo ra từ các hoạt
động của dự án, kết quả là điều kiện cần thiết để đạt được mục tiêu trực tiếp của dự án.
Ba là: Các hoạt động của dự án là những công việc do dự án tiến hành nhằm
chuyển hóa các nguồn lực thành các kết quả của dự án. Mỗi hoạt động dự án đều
đem lại kết quả tương ứng.
Bốn là: Nguồn lực cho dự án là các đầu vào về vật chất, tài chính, sức lao
động cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án. Nguồn lực là tiền đề để tạo nên
dự án.
1.2.3. Tầm quan trọng của các dự án phát triển kinh tế - xã hội trong phát triển
đất nước
Dự án phát triển kinh tế - xã hội là công cụ để triển khai thực hiện các nhiệm
vụ của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển một cách hiệu quả
nhất. Là phương tiện để gắn kết giữa kế hoạch và thị trường, nâng cao tính khả thi
của kế hoạch, đồng thời đảm bảo khả năng điều tiết thị trường theo định hướng xác
định của kế hoạch. Góp phần giải quyết quan hệ cung cầu về vốn trong phát tiển
kinh tế - xã hội và giải quyết quan hệ cung cầu về sản phẩm, dịch vụ trên thị trường.
Cải thiện đời sống dân cư và cải biến bộ mặt kinh tế - xã hội của từng vùng và của
cả nước.
Do có tầm quan trọng như trên, dự án phát triển kinh tế - xã hội được xem như
18
một công cụ triển khai thực hiện các kế hoạch phát triển những vấn đề bức xúc về
kinh tế và xã hội. Là một phương pháp kế hoạch hóa được áp dụng nhiều nước trên
thế giới, trong quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế hệ thống kế hoạch hóa rất
được coi trọng ở Việt Nam hiện nay. Nó là công cụ để triển khai thực hiện nhiệm
vụ, mục tiêu của kế hoạch với hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.
1.3. Quan niệm về thực hiện pháp luật về thu hồi đất
1.3.1. Các quan niệm khác nhau về thực hiện pháp luật về thu hồi đất
Khi ban hành quy phạm pháp luật Nhà nước mong muốn sử dụng chúng để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ lợi ích và mục đích của Nhà nước và xã hội. Điều đó

chỉ có thể đạt được khi các quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra được các tổ chức và
cá nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác, đầy đủ. Do vậy, vấn đề không phải
chỉ là ban hành nhiều các văn bản pháp luật, điều quan trọng là phải thực hiện pháp
luật, làm cho các yêu cầu quy định của chúng trở thành hiện thực.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy phạm pháp luật dân chủ và
nhân đạo. Việc thực hiện chúng chính xác, đầy đủ càng thể hiện tính dân chủ và
nhân đạo thực sự của xã hội chúng ta. Chính vì thế việc thực hiện chính xác, đầy đủ
pháp luật xã hội chủ nghĩa là mối quan tâm không chỉ từ phía Nhà nước xã hội chủ
nghĩa mà từ cả mỗi người dân trong xã hội. Họ tự giác thực hiện pháp luật và đòi
hỏi pháp luật phải được các tổ chức, các cá nhân khác tôn trọng, thực hiện chính xác
và đầy đủ. Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hay không hành động) của
con người phù hợp với những quy định của pháp luật. Nói khác đi, các hoạt động
của con người, của các tổ chức mà thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì
đều được coi là biểu hiện của việc thực hiện thực tế các quy phạm pháp luật.
Dưới góc độ pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành vi đó
không trái, không vượt quá phạm vi các quy định của pháp luật, phù hợp với quy
định của pháp luật và có lợi cho xã hội, cho Nhà nước và cho các cá nhân.
Pháp luật gồm rất nhiều các loại quy phạm pháp luật khác nhau và với mỗi loại
thì có những cách thức thực hiện chúng cũng khác nhau: có thể đó là xử sự chủ
động (hành động) nhằm đạt được một cái gì đó như sử dụng quyền hoặc làm nghĩa
19
vụ pháp lý. Ví dụ: Thực hiện nghĩa vụ yêu thương nuôi dưỡng, giáo dục con cái …;
có thể là xử sự thụ động (không hành động) kiềm chế không làm những điều mà
pháp luật cấm… Do vậy, hành vi hợp pháp cũng rất đa dạng chúng có thể được thực
hiện phụ thuộc ý chí của mỗi cá nhân, nhưng cũng có thể chỉ phụ thuộc ý chí của
Nhà nước. Hành vi hợp pháp có thể thực hiện trên cơ sở nhận thức sâu sắc của chủ
thể là cần thiết phải xử sự như vậy và do vậy họ tự giác làm theo. Cũng có thể
chúng được thực hiện do ảnh hưởng của những người xung quanh (thấy người khác
làm như thế thì cũng làm theo) chứ bản thân người thực hiện hành vi đó chưa hoặc
không nhận thức được đầy đủ tại sao phải làm như vậy. Còn có thể có những hành vi

hợp pháp được thực hiện do kết quả của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà
nước hoặc do sợ bị áp dụng những biện pháp đó. Thực hiện pháp luật có thể là hành
vi của mỗi cá nhân nhưng cũng có thể là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội … Trong khoa học pháp lý, có nhiều quan niệm khác nhau về thực hiện
pháp luật. Mặc dù vậy, quan niệm phổ biến hiện nay thừa nhận: “Thực hiện pháp
luật là hành vi thực tế hợp pháp, có mục đích của các chủ thể pháp luật nhằm
hiện thực hóa các quy định pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống”[35, tr183].
Căn cứ vào tính chất các hoạt động thực hiện pháp luật, lý luận chung về nhà
nước và pháp luật thừa nhận 4 hình thức thực hiện pháp luật:
- Tuân thủ pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Các
quy phạm pháp luật cấm được thực hiện ở hình thức này.
- Thi hành pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Các quy phạm pháp
luật bắt buộc được thực hiện ở hình thức này.
- Sử dụng pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi pháp luật cho
phép). Khác với hình thức thi hành pháp luật, ở hình thức này, các chủ thể có thể
thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của
20
mình, không bị bắt buộc phải thực hiện.
- Áp dụng pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà
nước thông qua các cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể
pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các
quy định pháp luật ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan
hệ pháp luật cụ thể. Hình thức này luôn có sự tham gia của Nhà nước.
Thực hiện pháp luật về thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội
là thực hiện pháp luật thông qua hình thức áp dụng pháp luật, theo đó cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành một quyết định hành chính cá biệt để áp dụng đối với
việc thu hồi một diện tích đất cụ thể phục vụ cho việc triển khai một dự án kinh tế -

xã hội cụ thể. Ví dụ, Ủy ban nhân dân huyện ra quyết định thu hồi 20ha đất nông
nghiệp của 50 hộ gia đình để phục vụ cho dự án xây dựng khu đô thị mới. Nhà nước
thu hồi đất của cá nhân, tổ chức vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng, phát triển kinh tế - xã hội là nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu:
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Do đó, Nhà nước chỉ
tiến hành thu hồi đất của cá nhân, tổ chức để góp phần thực hiện thắng lợi mục
tiêu đó. Tuyệt đối ngăn cấm những trường hợp thu hồi đất phục vụ lợi ích cá nhân,
lợi ích nhóm. Thực tế, trong thời gian qua đã có không ít những dự án thu hồi đất
nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện một cách không minh bạch,
đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội không đáng kể, hoặc vì lợi ích nhóm, có những dự
án đã tiến hành thu hồi đất nhưng lại không triển khai gây ảnh hưởng xấu đến đời
sống của nhân dân, là nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện kéo dài. Do vậy, để đảm bảo
hài hoà giữa lợi ích chung của đất nước với lợi ích của người có đất bị thu hồi, Nhà
nước cần quy định cụ thể những trường hợp thu hồi đất. Bên cạnh đó cần phải tổ
chức thực hiện thu hồi đất một cách công khai, minh bạch và công bằng.
Sẽ là không hiệu quả nếu chúng ta chỉ dừng lại ở việc quy định một cách cụ
thể, chi tiết về thu hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội mà không làm
tốt công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Quá trình tiến hành thu hồi đất phải bảo
đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi. Đặc biệt đối với
trường hợp giao nhà ở, đất ở khu tái định cư phải quán triệt theo nguyên tắc: đảm
21
bảo đủ điều kiện cho người sử dụng tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ.
Từ sự phân tích trên, có thể nêu ra khái niệm thực hiện pháp luật về thu
hồi đất đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội như sau: Thực hiện pháp luật về
thu hồi đất đối với cá dự án phát triển kinh tế - xã hội là quá trình hoạt động có mục
đích, thể hiện ý chí của Nhà nước, do cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia thu hồi đất
bằng hành vi của mình làm cho những quy định pháp luật về thu hồi đất đi vào cuộc
sống, trở thành hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật, bảo đảm nguyên
tắc dân chủ, công khai, minh bạch và công bằng.
1.3.2. Chủ thể, khách thể, hình thức, cơ chế điều chỉnh và vai trò của thực hiện

pháp luật về thu hồi đất
1.3.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật về thu hồi đất
Khi tham gia quan hệ pháp luật về thu hồi đất chủ thể bao gồm: Cơ quan nhà
nước; Tổ chức phát triển quỹ đất; Người có đất bị thu hồi;
Cơ quan nhà nước: tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật về thu hồi đất
gồm UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện và UBND cấp xã.
UBND cấp tỉnh thu hồi đất của các tổ chức. UBND cấp huyện thu hồi đất của
hộ gia đình và cá nhân. UBND cấp xã thu hồi đất công ích của xã bị lấn chiếm,
hoặc cho thuê đã hết thời hạn mà không giao lại.
UBND cấp tỉnh căn cứ vào tình hình địa phương giao việc bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư cho Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư huyện và tổ chức phát triển
quỹ đất. UBND cấp huyện và cấp xã tham gia trực tiếp vào Hội đồng bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư huyện. Thành viên của Hội đồng này gồm: Chủ tịch là lãnh đạo
UBND cấp huyện; Các thành viên là: đại diện cơ quan tài chính; đại diện cơ quan
tài nguyên và môi trường; đại diện cơ quan kế hoạch và đầu tư; chủ đầu tư; đại diện
UBND cấp xã có đất bị thu hồi; đại diện của những hộ gia đình bị thu hồi đất từ 1
đến 2 người; một số thành viên khác do Chủ tịch Hội đồng quyết định cho phù hợp
với thực tế địa phương.
Trách nhiệm của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: giúp UBND cùng
22
cấp lập và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư; Chủ
tịch Hội đồng chỉ đạo các thành viên Hội đồng lập, trình duyệt và tổ chức thực hiện
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; Chủ đầu tư có trách nhiệm giúp Chủ tịch
Hội đồng lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và bảo đảm đầy đủ kinh phí
để chi trả kịp thời tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; đại diện những người bị thu
hồi đất có trách nhiệm phản ánh nguyện vọng của người bị thu hồi đất, người phải
di chuyển chỗ ở và vận động những người bị thu hồi đất thực hiện di chuyển giải
phóng mặt bằng đúng tiến độ; các thành viên khác thực hiện nhiệm vụ theo sự phân
công và chỉ đạo của Chủ tịch Hội đồng phù hợp với trách nhiệm của ngành. Hội
đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chịu trách nhiệm về tính chính xác, hợp lý của

số liệu kiểm kê, tính pháp lý của đất đai, tài sản được bồi thường, hỗ trợ.
Tổ chức phát triển quỹ đất: là đơn vị sự nghiệp có thu do UBND cấp tỉnh
quyết định thành lập ở cấp tỉnh, cấp huyện. Tổ chức này có nhiệm vụ: tạo quỹ đất
để đấu giá quyền sử dụng đất; quản lý quỹ đất đã được giải phóng mặt bằng; tổ
chức thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật; chủ trì hoặc phối
hợp với Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để giải phóng mặt bằng và bồi
thường; dịch vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng; tổ chức phát triển các khu tái
định cư; thực hiện các nhiệm vụ khác theo quyết định của UBND cấp tỉnh.
Người có đất bị thu hồi: Là một chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về thu hồi
đất. Khi tham gia phải thực hiện một số quyền và nghĩa vụ sau:
Quyền: Đăng ký đến nơi ở tái định cư bằng văn bản. Được ưu tiên đăng ký hộ
khẩu cho bản thân, các thành viên khác trong gia đình về nơi ở mới và được ưu tiên
chuyển trường cho các thành viên trong gia đình trong độ tuổi đi học. Được từ chối
vào khu tái định cư không đảm bảo các điều kiện như đã thông báo và niêm yết
công khai. Được cung cấp mẫu thiết kế nhà miễn phí. Được quyền khiếu nại, tố cáo
liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Nghĩa vụ: Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định thu hồi đất và giải phóng mặt
bằng. Thực hiện di chuyển vào khu tái định cư theo đúng thời gian quy định. Xây dựng
nhà, công trình đúng quy hoạch và thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của
23

×