Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần I: lời mở đầu
Từ thực tiễn tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế đất nớc theo h-
ớng xã hội chủ nghĩa và những kinh nghiệm thu đợc qua quá trình chỉ đạo điều
hành sản xuất kinh doanh chúng ta đã xác định đợc rằng cải cách doanh
nghiệp Nhà nớc hoạt động có hiệu quả hơn.
Trong nhiều năm Đảng và Nhà nớc ta đã kiên trì tập trung tiến hành
công tác sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp Nhà nớc và đã đạt đợc một số két
quả nhất định nh giảm mạnh số lợng doanh nghiệp Nhà nớc, nâng quy mô vốn
bình quân, giảm bớt đợc sự tài trợ của ngân sách, tạo điều kiện thuận lợi cho
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, bớc đầu đã phát huy đợc quyền sản
xuất kinh doanh của đơn vị kinh tế cơ sở, giảm mạnh sự can thiệp hành chính
vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên do đặc điểm và thực trạng doanh nghiệp Nhà nớc của nớc ta
việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nớc vẫn còn phải tiến hành một cách
thận trọng và lâudài vì phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề phức tạp trong cả
lĩnh vực kinh tế và trong lĩnh vực đời sống xã hội mới đạt đợc kếtquả mong
muốn.
Hiện nay, bên cạnh những khó khăn chủ quan xuất phát từ nội bộ nền
kinh tế, thì biến động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đang tiếp
tục lan rộng và theo chiều sâu, cũng sẽ đồng thời ảnh hởng theo chiều hớng
xấu đến nền kinh tế nớc ta. Điều này cho thấy tính cấp bách phải khẩn trơng
nêu cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế để đảm bảo cho sự phát
triển đất nớc một cách ổn định, vững chắc không những cho những năm trớc
mắt mà cho cả tơng lai lâu dài.
Chính phủ đã có chỉ thị số 20/Ttg ngày 21-4-1998 trong đó đã đề ra ch-
ơng trình, kế hoạch cụ thể khai thực hiện và quyết tâm thông qua đợt sắp xếp
này để hình thành một cơ cấu doanh nghiệp hợp lý, mạnh đợc quản lý tốt, mà
trong đó cổ phần hoá là một trong những nội dung quan trọng của quá trình
đổi mới sắp xếp doanh nghiệp Nhà nớc. Sau đây tôi xin trình bày một số nội
dung quan trọng mang tính cấp thiết và những biện pháp để thực hiện quá trình
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc ở Việt Nam.
1
Phần II. Nội dung
A. Cơ sở khoa học và kinh nghiệm cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nớc
I. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc là sự lựa chọn tất
yếu.
1. Thực chất của cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nớc
Hầu hết trong các tài liệucủa các học giả nớc ngoài khi xem xét vấn đề
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc đều bắt đầu từ nhân hoá theo nghĩa rộng và
t nhân hoá theo nghĩa hẹp. Liên hợp quốc có đa ra định nghĩa về t nhân hoá
theo nghĩa rộng: T nhân hoá là sự biếnđổi tơng quan giữa Nhà nớc và thị tr-
ờng trong đời sống kinh tế của một nớc theo hớng u tiên thị trờng. Theo cách
hiểu này thì toàn bộ những chính sách luật lệ, thể chế nhằm khuyến khích, mở
rộng và phát triển kinh tế t nhân hay các thànhphần kinh tế ngoài quốc doanh,
giảm bớt sự can thiệp trực tiếp Nhà nớc vào các hoạt động kinh doanh của các
đơn vị kinh tế cơ sở, dành cho thị trờng vai trò điều tiết đáng kể qua tự do hoá
giá cả đều có thể coi là biện pháp t nhân hoá.
T nhân hoá theo nghĩa hẹp thờng dùng để chỉ quá trình giảm bớt quyền
sở hữu Nhà nớc hoặc sự kiểm soát của Chính phủ trong một xí nghiệp, việc
giảm bớt quyền sở hữu, quyền kiểm soát của Chính phủ có thể thông qua nhiều
biện pháp và nhiều phơng thức khác nhau nhng phổ biến nhất vẫn là biện pháp
cổ phần hoá. Xét về mặt hình thức cổ phần hoá là việc Nhà nớc bán một phần
hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong xí nghiệp cho các đối tợng tổ chức
hoặc t nhân trong và ngoài nớc hoặc cho cán bộ quản lý và công nhân của xí
nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trờng chứng khoán để hình
thành các công ty trách nhiệm hữ hạn hoặc công ty cổ phần. Xét về mặt thực
chát, cổ phần hoá chính là phơng thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển
hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu Nhà nớc trong doanh nghiệp thành
công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù
hợp với nền kinh tế thị trờng và đáp ứng đợc yêu cầu của kinh doanh hiện đại.
2
2. Mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc trong
giai đoạn hiện nay
Theo đề án thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nớc sang công
ty cổ phần ban hành theo quyết định 202- HĐBT của chủ tịch HĐBT (nay là
thủ tớng Chính phủ) thì mục tiêu của cổ phần hoá bao gồm:
- Chuyển một phần quyền sở hữu về tài sản của Nhà nớc
thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Huy động một khối lợng vốn nhất định ở trong và ngoài n-
ớc để đầu t cho sản xuất kinh doanh.
- Tạo điều kiện để ngời lao động thực sự làm chủ doanh
nghiệp.
Với ba mục tiêu đợc nêu ra trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nớc của Chính phủ có thể thấy rằng vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh
trong các doanh nghiệp Nhà nớc cần phải đợc giải quyết một cách cơ bản. sự
lựa chọn cho giải pháp cổ phần hoá là con đờng hiệu quả để giải quyết mộtc
cách cơ bản này đồng thời tạo ra mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền
kinh tế thị trờng và đáp ứng đợc các yêu cầu kinh doanh hiện đại - đó là công
ty cổ phần. Tuy nhiên nếu thực hiện đợc các mục tiêu trên sẽ tạo điều kiện
thực hiện các mục tieu khác nh: giảm gánh nặng trợ cấp từ ngân sách Nhà nớc,
thu hút đợc các nguồn vốn đầu t trong nớc và ngoài nớc để đổi mới công nghệ
và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trờng, hình thành từng bớc thị trờng chứng
khoán và các sở giao dịch chứng khoán.
Mô hình công ty cổ phần đã đáp ứng đợc một cách khá lý tởng sự tách
biệt giữa 2 mặt sở hữu: giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng ( hay quyền kinh
doanh) trong doanh nghiệp, là mô hình hữu hiệu để huy động và sử dụng vốn
đầu t cũng nh di chuyển linh hoạt các nguồn vốn sang lĩnh vực khác nhau, theo
yêu cầu phát triển trong nền kinh tế thị trờng, là nơi lựa chọn các cơ hội đầu t
và phân tán rủi ro với tất cả mọi ngời vì vậy các mụctiêu của cổ phần hoá
thực chất là nhằm chuyển hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu Nhà nớc
toàn phần trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần hỗn hợp Nhà nớc t nhân
hoặc công ty cổ phần t nhân và tạo điều kiện xác lập thị trờng tài chính mà cốt
lõi là thị trờng chứng khoán để chuyển phơng thức vay mợn từ ngân hàng sang
huy động vốn trên thị trờng tài chính.
3
Thay đổi cơ cấu sở hữu trong doanh nghiệp cũng có nghĩa là thu hút các
nguồn vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội vào trong doanh nghiệp nh-
ng cũng cần pải thấy rằng vấn đề đa dạng hoá sở hữu trong các doanh nghiệp
cổ phần hoá không thể diễn ra trong thời gian ngắn mà nó sẽ hình thành từng
bớc cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trờng.
Đồng thời với quá trình đa dạng hoá trong doanh nghiệp Nhà nớc là việc
chuyển sang huy động vốn bằng phơng thức bán cổ phiếu trong các công ty cổ
phần. Khả năng huy động vốn trong nhân dân có những hạn chế nhất định. Nh-
ng ngay cả khả năng huy động vốn nớc ngoài cũng gặp nhiều trở ngại kể từ khi
có luật Đầu t nớc ngoài, vốn đầu t của nớc ngoài tuy có tăng lên đáng kể trong
thời gian gần đây với nhiềudự án liên doanh quy mô lớn. Tính chung trong thời
gian 7 năm 1988-1994 chính phủ Việt Nam đã cấp giấy phép cho 1200 dự án,
với tổng số luôn gần 12tỷ USD. Tuy nhiên số vốn đầu t thực tế là 3,6 tỷ USD
so với nhiêu nớc trong khu vực thì khả năng thu hút nớc ngoài ở nớc ta hiện
nay còn rất thấp các nguồn vốn này phần lớn là liên doanh hoặc đầu t trực tiếp
còn dới hình thức cổ phiếu thì hầu nh cha thực hiện đợc do thiếu các điều kiện
cần thiết.
Vì vậy trong giai đoạn làm thí điểm Nhà nớc cần ban hành một số văn
bản cụ thể quy định các điều kiện và cách thức các tổ chức và có nhân nớc
ngoài mua bán, chuyển nhợng cổ phiếu và tham gia quản lý các công ty cổ
phần đợc thành lập ở Việt Nam, trong đó cácdoanh nghiệp (DNNN) Nhà nớc
đợc cổ phần hoá.
Nh vậy, quá trình thực hiện các mục tiêu cổ phần hoá các DNNN sẽ tạo
ra các mô hình công ty cổ phần trong đó cổ phần của Nhà nớc chiếm những tỷ
lệ khác nhau. Về cơ bản sẽ đi đến hai loại: công ty cổ phần hỗn hợp Nhà nớc t
nhân và Công ty cổ phần t nhân cũng giống nh ở các nớc số doanh nghiệp Nhà
nớc ở nớc ta đó là mô hình và phơong thức đổi mới hữu hiệu để đặt các DNNN
trên cơ sở thị trờng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thòi
Nhà nớc vẫn thực hiện đợc sự kiểm soát và điều tiết định hớng hoạt động nền
kinh tế. Đây thực sự là một xu hớng khách quan trong quá trình cổ phần hoá
các doanh nghiệp Nhà nớc ở nớc ta.
4
II. Kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN của một số nớc
Để có thể hình dung những vấn đề gì đợc đặt ra và giải quyết trong quá
trình cổ phần hoá DNNN chungs ta sữ đi sâu xem xét kinh nghiệm của một số
nớoc sau.
Xem xét những vấn đề cụ thể thông qua khảo cứu các trờng hợp cổ phần
hoá DNNN của nhật bản và Hàn Quốc vì có sự tơng đồng và tiêu biểu cho các
nớc có những điều kiện quan niệm kiểu châu á.
1. Quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Nhật Bản
Giống nh các nớc t bản khác, Nhật Bản cũng có khu vực các DNNN sở
hữu toàn phần hay từng phần của Nhà nớc. Đến năm 1985 khi bớc vào quá
trình cổ phần hoá rộng khắp ỏ Nhật Bản khu vực này có khoảng 120 DNNN
lớn thuộc trung ơng và gần 1000 DNNN thuộc địa phơng, chiếm 11% t bản cố
định và 9,2 tổng số lao động trong toàn bộ nền kinh tế.
Các doanh nghiệp Nhà nớc có 100% vốn gồm các doanh nghiệp trực
thuộc Bộ hoặc các tổ chức tự quản địa phơng; loại DNNN có một phần vốn
góp dới hình thức Công ty cổ phần hỗn hợp Nhà nớc t nhân
Quá trình cổ phần hoá DNNN ở Nhật Bản có một phong canchs riêng so
với các nớc tây âu. Đầu những năm 1980 ở Nhật Bản đã thành lập uỷ ban lâm
thời trực thuộc thủ tớng. Nhiệm vụ của uỷ van này là nghiên cứu tình hình hoạt
động và phát triển khu vực kinh tế Nhà nớc đề xuất các vấn đề về cổ phần hoá
và những kiến nghị về giải pháp để thay đổi sự can thiệp của Nhà nớc. Uỷ ban
lâm thời sau một thời gian nghiên cứu , khảo sát trên cơ sở phân tích tình trạng
hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nớc đã đa ra một danh mục các doanh
nghiệp sẽ cổ phần hoá dới nhiều hình thức. Trong đó có 16 Công ty quốc
doanh thuộc Trung ơng đã đợc triển khai cổ phần hoá sau năm 1995 với 3 tr-
ờng hợp chuyển thành dạng Công ty cổ phần Nhà nớc t nhân 13 trờng hợp
chuyển thành Công ty cổ phần t nhân
Trong phạm vi nghiên cứu về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc chúng
tâ sẽ chỉ đi vào xem xét có tính chất điển hình một Công ty quốc doanh lớn đã
đợc tiến hành cổ phần hoá nh thế nào. Đó là Công ty điện thoại điện tín quốc
gia (Nippon telephone and Teleglph -NTT). Có thể thấy mục đích của quá
trình đi đến quyết định cổ phần hoá Công ty quốc doanh lớn này(1) là tăng c-
5
ờng hiệu quả quản lý(2) thúc đẩy cạnh tranh thông qua việc điều chỉnh lại luật
lệ để xoá bỏ độc quyền, giảm cớc phí thôngtin và vận tải (3) giảm bớt gánh
nặng tài chính của chính phủ: (4) cải thiện mối quan hệ giữa ngời chủ và ngời
làm công bằng thay đổi các quan hệ lợi ích trong Công ty cổ phần.
+ Tiến hành cổ phần hoá của Công ty NTT
Công ty NTT cũng làm ra một lợi nhuận đáng kể ngay cả trớc khi nóđợc
cổ phần hoá. Sự thu lợi này dựa trên địa vị độc quyền mà nó có đợc nhờ quy
định của Nhà nớc trong ngành thông tin viễn thông. Trớc tiên để nâng cao hiệu
quả hoạt động cuât ngành này Nhà nớc đã bãi bỏ các quy định về độc quyền
vào năm 1985 cho phép ra đời các đối thủ cạnh tranh của NTT. Ba đối thủ
cạnh tranh của NTT tronglĩnh vực điện thoại từ năm 1986 goij là các cơ sở tải
thông tin mới (Newcommon caviers - Nccs). Cacs Công ty mới thâm nhập thị
trờng gây ra tác động kiến thiết cạnh tranh và buộc NTT phải giảm giá cớc
đàm thoại vì các Công ty mới này đã định giá trên các thuyến đặc biệt thấp
hơn 20% so với NTT. Vì vậy trong năm gần đây sau khi tiến hành cải tổ và cổ
phần hoá giá cớc phí song lợi nhuận thờng kỳ khoảng 500 tỷ yên, đứng hàng
thứ 2 ở Nhật Bản.
Để có đợc thành tích này là do sự thay đổi là do sự thay đổi quy chế
NTT thành Công ty cổ phần cho phép Công ty đợc quyền tự chủ tiến hành
những cải cách về tổ chức nh áp dụng hệ thống các chi nhánh tự chủ, mở rộng
mạng lới tiêu thụ sản phẩm bằng việc xây dựng các Công ty nhánh và khai
thjác các hình thức dịch vụ mới sắp xếp và tổ chức lại ccs chi nhánh và các
viện nghiên cứu khoa học công nghệ, áp dụng các nguyên tắc trả theo khả
năng . ngoài ra thi hành các biện pháp giảm chi phí nh tổ chức lại lao động hợp
lý và tinh giảm chế biến đợc 6000 công nhân; tiến kiệm vốn đầu t bằng việc
mua sắm các thiết bị có hiệu quả cao nh tổ chức mạng lới dịch vụ thông tin
hợp lý
theo luật pháp thành lập Công ty việc cổ phần hoá Công ty NTT phải có
một phần ba tổng số vốn của Công ty (khoảng 780.000 tỷ yên) thuộc sở hữu
chính phủ, số còn lại đợc bán cho các đối tợng t nhân. Trong các năm 1986-
1988 với 3 đợt phát hành Chính phủ đã bán đợc 5,4 triệu cổ phần trong tổng số
16,5 triệu cổ phần tơng đơng khoảng 35% tổng số cổ phần củ Công ty NTT
nhờ việc bán này Nhà nớc đã thu về 1.200 tỷ yên. nếu đem so sánh ngân sách
Nhật Bản trong năm tài chính 1991 khoảng 70.000 tỷ yên, thì nó chiếm
6
khoảng 15% ngân sách. Số tiền này dùng thanh toán các khoản nợ Nhà nớc trả
nợ cho các hoạt động công cộng và kích thích hoạt động kinh doanh t nhân.
ngoài ra, chính phủ còn có nguồn thu nhập dới hình thức lợi tức twf các cổ
phần của mình trong Công ty NTT, cha kể một khoản thuế tawng do hoạt động
kinh doanh có hiệu quả của Công ty.
Nhờ việc bãi bỏ các quy định độc quyền và tiến hành cổ phần hoá để
chuyển Công ty NTT sang hình thức Công ty côt phần đã thúc đầy chúng tôi
đầu t mạnh hơn trơcs: năm 1988 là 1.713 tỷ yên, năm 1989 là 1.736 tỷ yên và
năm 1990 là 1823 tỷ yên. điều này gián tiếp góp phần tácđộng đến việc phát
triển mạnh mẽ Công ty và tăng trởng chung của đất nớc mà không phải dựa
vào nguồn vốn tài trợ của ngân sách.
2. Quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Hàn Quốc.
Khu vực kinh tế Nhà nớc đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự phát
triển kinh tế của Hàn Quốc trong 30 năm qua kê từ nam 1960 trở lại đây
Sự cân thiệp mạnh mẽ của Chính phủ vào quá trình phát triển kinh tế
trong những năm 1960 là sự lựa chọn tất yếu vì nhiệm vụ đẩy nhanh phát triển
kinh tế đặt ra lúc bây giờ không thêt đạt đợc bằng cách nhờ cậy vào giới kinh
doanh t nhân còn ít vốn và thiếu kinh nghiệm.
Các doanh nghiệp Nhà nớc đợc hình thành trong quá trình quôc shữu
hoá và xây dựng mới đã trở thành một công cụ can thiệp trực tiếp của chính
phủ nhằm phát triển nhữngngành công nghiệp chiến lợc, mặc dù cơ cũng sử
dụng nhiều côngcụ tài chính và tiền tệ để khuyến khích các hoạt động sản xuất
kinh doanh trong những ngành này nhờ giảm thuế đẩy nhanh khấu hao u tiên
phân phối các nguồn đầu t.
Trongnhững năm 1980 các chính sách của Chính phủ đều tập trung vào
khuyến khích thị trờng và phát triển khu vực kinh tế t nhân. tuy vậy khu vực
kinh tế Nhà nớc hiện vẫn tạo ra 11% GDP và chiếm khoảng 23% tổng số vốn
đầu t của cả nớc chủ yếu tập trung ở các ngành công nghiệp chiến lợc và các
trang thiết bị đắt giá.
Có thể hiình dung sự chuyển dịch cơ cấu đầu t và sản xuất của kinh tế
Nhà nớc qua các số liệu về tổng sản phẩm khu vực kinh tế Nhà nớc qua các số
liệu về tổng sản phẩm kiểm tra phân theo ngành kinh tế. Sự chuyển dịch này
7
cho thấy sự thay đổi trong quan niệm của Chính phủ về những lĩnh vực mà
kinh tế Nhà nớc cần nắm giữ.
(Bảng 1) (đơn vị %)
1964 1970 1975 1980 1986
Nông lâm ng nghiệp 1,9 1,2 0,1 0,3
Mỏ và khai thác quặng 8,3 3,0 2,5 0,,8 2,5
Công nghiệp chế biến 34,5 39,2 46,6 37,6 15,8
điện khí đốt và nớc 1,5 13,9 12,1 19,5 31,1
Xây dựng 0,9 2,2 3,3 4,6 5,9
Bán buôn bán lẻ 4,1 1,6 1,9 1,3 0,1
Vận tải, kho tàng, thông tin 24,5 21,6 13,2 5,6 28,9
Dịch vụ tài chính bất động sản 14,4 16,2 19,2 19,1 11,2
Dịch vụ dân sự, cá nhân và xã hội 0,4 1,2 1,,2 1,2 1,2
Tổng số 100 100 100 100 100
Trong những năm 1970 các xí nghiệp Nhà nớc trong ngành chế tạo
chiếm trên dới 40% tổng sản phẩm của cả khu vực kinh tế Nhà nớc còn trong
các ngành thuộc hạn tầng cơ sở nh điện nớc, vận tải, thông tin liên lạc, dịch vụ
tài chính và bảo hiểm khoảng 54% . Đến năm 1986 tỷ trọng của ngành công
nghiệp chế toạ giảm suống còn 15,8% còn tỷ trọng các ngành hạ tầng cơ sở đã
tăng lên 71,2% đặc biệt ngành điệnm khí đốt, nơcs chiếm 31,1%, ngành vận
tải thông tin liên lạc 28,9%
Sự thay đổi trong cơ cấu các lĩnh vực hoạt động của khu vực kinh tế Nhà
nớc liên quan một phần đến quá trình t nhân hoá và cổ phần hoá của Chính phủ
nhằ kích thích việc chuyển mạnh nền kinh tế hoạt động trên cơ sở thị trờng.
Ngay từ những năm 1986-1973, Chính phủ đã thực hiện việc cổ phần hoá 11
DNNN trong đó có hãng hàng không đầu tiên, Công ty thép Inchon, Ngân
hàng thơng mại Triều tiên. phần lớn các doanh nghiệp trên hình thành từ quá
trình quốc hữu hoá nên Chính phủ muốn cải tổ thành các xí nghiệp này hoạt
động có hiệu quả bằng cách bán các côt phần không hạn chế của mình cho các
hãng t nhân và các tổ chức tài chính.
Trong những năm 1981-1983, Chính phủ đã thực hiện chơng trình cổ
phần hoá lần thứ hai nh là một bộ phận của thực hiện chính sách đẩy mạnh nền
kinh tế hớng theo thị trờng. Trong thời kỳ này Chính phủ đã bán cổ phần của
mình ở 6 doanh nghiệp Nhà nớc và 4 tổ chức tài chính thông qua bán đấu giá
công khai. Số tiền thu đợc qua các đợt cổ phần hoá đều đợc Chính phủ đầu t
8
vào các xí nghiệp xét thấy cần phải đợc kiểm soát để điều tiết nền kinh tế đạt
đợc sự tăng trởng nhanh và ổn định.
Chơng trình cổ phần hoá toàn dân các doanh nghiệp Nhà nớc lớn nên
giứ vị trí độc quyền, đang ssợc sự quan tâm của nhiều nớc Nớc Anh đã có
những bớc đi tiên phong vấn đề này Chính phủ Hàn Quốc cũng đã tuyên bố
một chơng trình này đạt tới 10 tỷ USD. Riêng công ty Gang Thép PoHang đã
có hơn 3 triệu ngời tham gia mua cổ phần. Chính phủ Hàn Quốc đã đặt ra cho
trơng trình cổ phần hoá toàn dân 7 doanh nghiệp lớn của Nhà nớc những mục
tiêu sau.
Thứ nhất: phân phối lợi nhuận của các doanh nghiệp Nhà nớc chô quần
chúng có thu nhập thấp nhằm đạt đến sự công bằng hơn giữa các tầng lớp nhân
dân. Chính phủ đã phân chia toàn bộ số cổ phần đem bán của các doanh
nghiệp trêntheo tỷ lệ công nhân làm việc trong cacs doanh nghiệp Nhà nớc đợc
quyền mua 20% giá trị cổ phần đem bán. các gia đình nghèo có thu nhấp thấp
nhất (dới 600.000Won/tháng) nông dân kkhông quá 2 ha đát và 20 con bò sã,
các ng dân, những ngời về hu đ ợc mua 75% giá trị cổ phần đem bán, số còn
lại 5% giá trị cổ phần bán cho mọi ngời theo giá trị thoả thuận trên thị trờng
chứng khoán. các cổ phần của Công ty Gang thép PaHang bán với giá
15000Won, trong khi giá thị trờng là 40000Won.
Với cách phân phối mà công nhân làm việc trong doanh nghiệp đợc lựa
chọn cổ phần hoá rất hoan ngênh vì họ có cơ hội thu nhập đợc một khoản đáng
kể mà vẫn đảm bảo an toàn về việc làm cho họ. Những ngời nằm trong chơng
trình cổ phần hoá toàn dân cũng hoan nghênh vì họ quan tâm đến khoản
chênh lệch giá mua và bán trên thị trờng vì Chính phủ cố tình bán giá thấp cho
họ.
Thứ 2: Nhờ cách thực hiện trên Chính phủ muốn nhằm hữu sản hoá ngời
lao động tạocho họ cơ hội cải thiện thu nhập của mình. Những ngời có thu
nhập thấp muốn tham gia vào chơng trình cổ phần hoá toàn dân đợc đề nghị
mở tài khoản tiết kiệm qua các quỹ ký thác cổ phần nhân dân để thẩm tra trớc
và tạo điều kiện giúp vốn cho nhứng ngời này. những ngời mua cổ phần nhờ sự
trợ giúp của quỹ ký thác cổ phần nhân dân phải giữ cổ phần đó ít nhất trong
vòng 3 năm
Thứ 3: Tăng cờng sức tham gia của quần chúng vào quản lý các doanh
nghiệp Nhà nớc tao sức ép cảu các cổ đông để doanh nghiệp tự chủ hoạt động
9
kinh doanh hạn chế sự can thiệp của Chính phủ bằng những mệnh lệnh quan
liêu làm phơng hại đến hiệu quả của doanh nghiệp đồng thời điều này đợc coiu
nh chiến lợc nhằm ngăn ngừa những bất đồng có thể xãy ra của gới lao độg và
các đảng phái chính trị ủng hộ ngời lao động trong quá trình cổ phần hoá
Thứ 4: Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ở các doanh nghiệp đợc
cổ phần hoá hoàn toàn vì chúng là những công ty lớn có vị trí chiến lợc trong
công nghiệp và trong tiêu dùng công cộng của xã hội. Trong các doanh nghiệp
thực hiện cổ phần hoá
Toàn dân Chính phủ vẫn giữ vai trò cổ đông đa số những giá cổ phiếu
trên thị trờng chứng khoán sẽ đóng vai trò nh một chỉ bảo và gây ra sức ép
đáng kể đối với việc quản lý hiệu quả các doanh nghiệp này.
Thứ 5: với quá trình cổ phần hoá
Toàn dân Chính phủ muốn thức đẩy sự phát triển vững chắc của thị tr-
ờng chứng khoán trong nóc tạo điều kiện cho quá trình phân phối vốn một
cách hợp lý, hiệu quả trong các khu vực, các ngành kinh tế của đất nớc
Thứ 6: Một mục tiêu quan trọng nữa của chơng trình này là ngn ngừa
khả năng gia tăng tập trung quyền lực của một vài nhóm kinh doanh lớn nếu
các doanh nghiệp Nhà nớc quan trọng này nằm trong tay các nhóm t nhân có
nguồn lực và sức mạnh tài chính chi phối.
3. Một số điểm rút ra từ kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nớc trên thế giới
Kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nớc trên thế giới có thể gợi ý một số vấn
đề có tính chất chung cho quá trình tiến hành cổ phần hoá Các doanh nghiệp
Nhà nớc ở nớc ta.
Thứ nhất: Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá
Sự triển khai có tính chất toàn cầu quá trình cổ phần hoá Có tính chất
mạnh mẽ từ những nam 80 đến nay đã chứng tỏ rằng hầu hết các Chính phủ
đều thấy sự cần thiết phải xem xét và xác lập lại mối quan hệ giữa khu vực
kinh tế Nhà nớc và khu vực kinh tế t nhân theo hớng giảm bớt mức độ sở hữu
và kiể soát trực tiếp của Nhà nớc giannhf sự điều tiết mạnh mẽ hơn cho cơ chế
thị trờng. Sự khắc phục những biện hiện tợng trì trệ trong nền kinh tế do hoạt
động kém hiệu quản của khu vực kinh tế Nhà nớc, thâm hụt ngân sách kéo dài
và gánh nặng nợ của Nhà nớc ngày càng tăng đã buộc hầu hết các Chính phủ
có khu vực kinh tế Nhà nớc chiếm tỷ trọng lớn trong tổng t bản xã hội đều phải
10
tìm cách giảm bớt xuống một tỷ trọng nhất định trong nền kinh tế bằng các ph-
ơng pháp t nhân hoá và cổ phần hoá. Sự giảm bơt này nhằm mục đích tạo ra
một tơng quan hợp lý giữa sở hữu Nhà nớc và sở hữu t nhân, giữa điều tiết cảu
Nhà nớc và thị trờng đối với hoạt động của các doanh nghiệp.
Tiến trình đổi mới kinh tế Việt Nam không thể có nội dung cơ cấu nền
kinh tế trong đó có vấn đề thu hẹp sở hữu Nhà nớc và hạn chế sự can thiệp
trực tiếp của Nhà nớc trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với sỡ hữu t nhân và sỡ hữu hỗn
hợp, coi trọng hơn vai trò điều tiết của cơ chế thị trờng. Vì vậy tiền hành cổ
phần hoá các doanh nghiệp Nhà nớc Việt Nam là một vấn đề không thể bỏ qua
một nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và cũng là một đòi hỏi khách
quan để chuyển sang nền kinh tế thị trờng dựa trên các độg lực của thị trờng và
vai trò định hớng của Nhà nớc.
Thứ hai: Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá
Quá trình cổ phần hoá phản ánh các sắc thái khác nhau về mục tiêu,
cách tổ chức bớc đi và các biện pháp cụ thể do những đặc điểm về hoàn cảnh
chình trị, kinh tế xã hội của mỗi nớc cũng nh quan niệm xây dựng và phát triển
nền kinh tế cảu mỗi Chính phủ quy định. Sự tơng đồng về quá trình cổ phần
hoá ở mỗi nớc chủ yếu là những vấn đề có tính kỹ thuật về tài chính, phơng
pháp và các điều kiện thực hiện còn những vấn đề về quan điểm tổ chức và vận
dụng thì hết sức khác nhau và linh hoạt ở mỗi nớc. ở các nứoc có nền kinh tế
thị trờng phát triển nhất là đã có sự hoạt động mạnh mẽ của thị trờng chứng
khoán thì việc tiến hành cổ phần hóa gặp nhiều thuận lợi hơn so với những nớc
có nền kinh tế chậm phát triển và thị trờng chứng khoán cha hình thành. Chẳng
hạn nh ở các nớc đang phát triển và Đông ÂU do thiếu những điều kiện hết sức
quan trọng nêu trên đã buộc các nớc này tiến hành cổ phần hóa với những ph-
ơng pháp đặc thù và quá trình phải diễn ra lâu dài và phức tạp hơn nhiều so với
các nơvs t bản phát triển. Cùng với việc tiến hành cổ phần hóa, các nớc này
đồng thời phải thực hiện quá trình chuyển đổi toàn bộ nền kinh tế và các doanh
nghiệp hoạt động trên quan hệ thị trờng tức là khuyến khích cạnh tranh và th-
ơng mại hoá toàn bộ các nhân tố sản xuất.
Trong những điều kiện nh vậy, các tổ chức Ngân hàng, các quỹ tín dụng
hết sức đợc coi trọng vì chúng đóng vai trò đắc lực với t cách là tổ chức tài
chính trung gian hỗ trợ quá trình Cổ phần hoá ở các nớc này.
11
Quan niệm về vai trò và các lĩnh vực cần đợc khu vực kinh tế Nhà nớc
nẵm giữ cũng nh hình thức tổ chức các doanh nghiệp này cũng khác nhau tuỳ
theo đặc điểm của mỗi nớc. ở các nớc t bản phát triển và một số nớc đang phát
triển khu vực kinh tế Nhà nớc chiếm tỷ trọng thấp và các doanh nghiệp Nhà n-
ớc và các doanh nghiệp Nhà nớc tồn tại dới hình thức công ty cổ phần hỗn hợp
Nhà nớc, t nhân hoạt sống trên cơ sở thị trờng chiếm đa số, nên quá trình Cổ
phần hoá các doanh nghiệp này cũng đồng thời là quá trình Nhà nớc bố trí lại
cơ cấu sở hữu và các lĩnh vực cần nắm giữ. Bằng việc dùng số tiền bán cổ phần
để tham dự vào Công ty cổ phần thuộc các lĩnh vực chiến lợc cần đợc kiểm
soát và trợ giúp, Nhà nớc đã thực hiện chuyên môn hoá linh hoạt của đồng thời
hai quá trình đa dạng hoá sở hữu bằng hình thức Cổ phần hoá và Nhà nớc
hoá. Điều này góp phần thực hiện cơ cấu sở hữu lại chế độ sở hữu giữa Nhà n-
ớc với t nhân để xácđịnh mỗi tơng quan hợp lý giữa khu vực kinh tế Nhà nớc
và khu vực kinh tế t nhân trong nền kinh tế thị trờng hỗn hợp. Trong khi đó ở
đa số các nớc đang phát triển và các nớc đông Âu, khu vực kinh tế Nhà nớc
chiếm tỷ trọng lớn và số lợng doanh nghiệp Nhà nớc 100% vốn chiếm hầu nh
tuyệt đối nên quá trinhf Cổ phần hoá t nhân hay công ty cổ phần hỗn hợp Nhà
nớc t nhân để phù hợp với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trờng ở các n-
ớc này.
Nh vậy, ở Việt Nam cũng không thể không chú ý đến tính đặc thù về
điêu kiện quy định mục tiêu, phơng pháp, bớc đi trong quá trình Cổ phần hoá
các doanh nghiệp Nhà nớc. Trong điều kiện nớc ta cha có thị trờng chứng
khoán khu vực kinh tế Nhà nớc còn chiếm tỷ trọng lớn thì có thể học tập kinh
nghiệm tiến hành Cổ phần hoá ở các nơcs tơng đồng (điều kiện). Tuy nhiên sự
vận dụng những kinh nghiện này cũng cần chú y đến tính đặc thù của môixx n-
ớc để sàng lọc và thử nghiệm trong điều kiện của nớc ta.
Thứ ba: Tính chiến lợc của quá trình thực hiện Cổ phần hoá
Nhiều công trình nghiên cứu và kinh nghiệm của nhiều nớc về vấn đề
này đều thấy rằng Cổ phần hoá là một bộ phận của quá trình cải cách toàn bộ
nền kinh tế và vì vậy nó đòi hỏi phải đợc suy xét và hành độg mang tính
chiến lợc cao. Đó là việc phải lựa chọn và cân nhắc trên cơ sở định hớng các
mục tiêu lâu dài về xác lập Cơ cấu kinh tế và tơng quan giữa các lĩnh vực và
khu vực kinh tế để chuyển dịch và phân bổ các nguồn lực và quyền lực cho các
nhóm ngời sở hữu và quản lý khác nhau. điều này giải thích tại sao quá trình
12
Cổ phần hoá DNNN lại đễ gây súc động đến các tầng lớp khác nhau trong xã
hội những ngời chịu ảnh hởng tích cực hay tiêu cực từ những thay đổi này th-
ờng không thể ở về mặt chính trị mà trái lại hành động một cách mẫu mực để
nầng cao và bảo vệ quyền lợi của họ bằng các áp lực chính trị khác nhau. Vì
vậy ở hầu hết các nớc để cho chơng trình đợc thực hiện thành công, Chính phủ
đều lập là một cơ quan đại diện đứng đầu hoàn toàn chiu trách nhiệm đối với
quá trình Cổ phần hoá cơ quan địa diện đứng đầu hoàn toàn chịu trách nhiêm
đối với quá trình Cổ phần hoá cơ quan này phải quản lý toàn bộ quá trình theo
những quan điểm có tính chiến lợc trong việc đánh giá soạn thảo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện kiểm tra và điều chỉnh. Đây là một yếu tố cốt yếu cho sự thành
công của chơng trình Cổ phần hoá ở nhiều nớc.
Đối với nớc ta, thiết nghĩ công cuộc đổi mới quản llý kinh tế nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trờng mở cửa không
thể gắn liền với quá trình cải tổ khu vực kinh tế Nhà nớc. với quy mô rộng lớn
và tính chất quan trọng của chơng trình Cổ phần hoá Chính phủ không thể lập
ra hoặc uỷ quyền cho một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo và giải
quyết toàn bộ các vấn đề đmr bạ thành công của chơng trình Cổ phần hoá các
doanh nghiệp Nhà nớc ở nớc ta.
Thứ 4: Tính quá trình của việc thực hiện cổ phần hoá:
Việc khảo cứu ở các nớc cho thấy, cổ phần hoá diễn ra nh một quá trình
gồm nhiều giai đoạn: chuẩn bị các điều kiện về mặt tổ chức: lựa chọn các mục
tiêu phơng pháp thực hiện kiểm soát và điều chỉnh. Trên thực tế khôngthể có
sự phân định rõ rệt, chắc chắn giữa các giai đoạn. nhiều công trình nghiên cứu
đều cho rằng việc quan niệm Cổ phần hoá nh một quá trình với nhiều gại
đoạn có ý nghĩa chỉ đạo về mặt thực tiến.
- Nó truyền đạt một cách rõ ràng và dễ hiểu những bọn pháp và nhiệm
vụ cơ bản phức tạp đến những ngời còn cha quen với Cổ phần hoá.
- Nó cho phép các nhà phân tích hoạch định và phối hợp chính sách l-
ờng định đợc những gì sẽ xãy ra trong giai đoạn hiện kế tiếp.
- Nó cho thấy cần phải gạt bỏ những ảo tởng nóng vội muốn làm tất cả
trong một lúc của những ngời cực đoan cấp tiến và khuyến khích tính thận
trọng với các giải pháp trình tự phù hợp đối với một công việc còn cha quen
với các quan chức Chính phủ
13
Quá trình vừa làm vừa điều chỉnh và hoàn thiện trong công việc này tỏ
ra thích hợp với cả Chính phủ đang cần thời gian để nắm bắt và kiểm soát cũng
nh công chúng đang cần có thời gian để tin vào sự ổn định lâu dài về chính
sách của Chính phủ. Riêng đối với nhiều nớc đang phát triển và Đông Âu, nơi
mà các điều kiện để cổ phần hoá còn rất thiếu nh kinh tế thị trờng cha phát
triển, thị trờng chứng khoán cha hình thành khu vực kinh tế t nhân còn rất yếu
ớt.. thì tính chất lâu dài, nhiều giai đoạn và phải thực hiện trong nhiều năm là
điều không thể tránh khỏi,. Tính quá trình càng đợc nhấn mạnh khi các Chính
phủ lu ý đến quan hệ tác động nhân quả giữa cổ phần hoá với các điều kiện
cho phép thực hiện để thúc đẩy tiến trình cải cách nền kinh tế. Mặt khác nó
còn bao hàm cả một quá trình đợc tiến hành thờng xuyên liên tục để di chuyển
sở hữu Nhà nớc sang các lĩnh vực khác nhau nhằm cơ cấu lại nền kinh tế giữa
khu vực Nhà nớc và khu vực t nhân trong nền kinh tế thị trờng hỗn hợp.
Cần xác định việc tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc ở Việt
Nam sẽ là một quá trình lâu dài, vừa làm vừa rút kinh nghiệm và có những bớc
đi cụ thể. Trong hoàn cảnh còn thiếu điều kiện quan trọng để cổ phần hoá nh ở
nớc ta thì đây là công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải thực hiện trong nhiều
năm. vì vậy việc quán triệt quan điểm quá trình. Trong quá trình cổ phần hoá
các doanh nghiệp Nhà nớc là cần thiết để chỗng những t tởng và biểu hiện
nóng vội, chủ quan duy ý chí, muốn hoàn thành công việc này trong một lần,
trong thời gian ngắn.
Thứ năm: môi trờng pháp lý của việc thực hiện cổ phần hoá
Với những tính chất cổ phần hoá đã đợc nêu ở trên, các mức đều phải
tạo ra môi trờng pháp lý cần thiết để tiến hành công việc này. Đó là các bộluật
quan trọng có ý nghĩa là những điều kiện xác lập và ổn định kinh tế vĩ mô, tạo
ra khung khổ pháp lý cho sự chuyển hoá và hoạt động của các doanh nghiệp đ-
ợc cổ phần hoá và các công ty nói chung. Hệ thống những văn bản luật ở nhiều
nớc có những tên gọi khác nhau nhng đều tập trung giải quyết một số vấn đề
chung nh Luật công ty, Luật về thị trờng chứng khoán, luật phá sản, Luật lao
động và bảo hiểm. Luật doanh nghiệp Nhà nớc khác với các n ớc có nền
kinh tế thị trờng phát triển, sự không ổn định trong môi trờng kinh tế vĩ mô của
các nớc đang phát triển và đông Âu đang gây cản trở lớn cho quá trình tiến
hànhcn cũngnh thu hút vốn đầu t cổ phần của nớc ngoài. Nhiều chinh sách
đang trong quá trình thay đổ khó đoán trớc về lãi suất, tỷ giá hối đoái, thuế
14
quan, thị trờng lao động càng tăng thêm sự rủi ro và tính không chắc chắn đối
với các nhà đầu t khi tham gia vào các doanh nghiệp đợc cổ phần hoá. Điều đó
khiến các nớc này khẩn trơng xác lập một hệ thống pháp luật tạo khung khổ
cho sự hoạt động ổn định của nền kinh tế thị trờng nói chung và quá trình t
nhân hoá nói riêng. Hiện nay trong quá trình cải cách các nớc Đông Âu đã ban
hành nhiều bộluật trong đó có Luật t nhân hoà và thực hiện hàng loạt các chính
sách về tự do hoá giá cả, lãi xuất, tỷ giá hối đoái để từng b ớc tạo lập những
điều kiện pháp lỹ cho sự ổn định môi trờng kinh tế vĩ mô, góp phần thực hiện
thànhcông quá trình cổ phần hoá ở các nớcnày.
ở Việt Nam, để tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc và đổi
mới cơ chế kinh tế nói chung không thể không có vấn đề về môi trờng pháp lý
và ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nớc cũng đã ban hành nhiều bộ luật nhằm xác
lập và hoàn thiện môi trờng pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động trong nền
kinh tế thị trờng có định hớng của Nhà nớc. Hiện nay, cần có sự bổ sung, sửa
đổi và ban hành các bộ luật quan trọng nh Luật công ty, Luật đầu t nớc ngoài,
Luật đầu t trong nớc, Luật doanh nghiệp Nhà nớc, Luật thơng mại, Luật phá
sản, luật lao động và bảo hiểm để từng b ớc tạo điều kiện cho quá trình cổ
phần hoá các doanh nghiệp Nhà nớc ở Việt Nam thực hiện có kết quả.
Thứ sáu: phí tổn của quá trình thực hiện cổ phần hoá.
Để thực hiện chơơng trình cổ phần hoá thành công, thực tiễn ở các nớc
đều cho thấy Nhà nớc cần phải chịu một khoản phí tổn nhất định. Điều này nói
lên sự khác nhau cơ bản giữa Nhà nớc và t nhân. Đối với t nhân, sau khi đã bán
cổ phần của mình để thu lợi và không còn trách nhiệm gì đối với doanh nghiệp
thì ngợc lại Nhà nớc vẫn phải quan tâm những vấn đề của doanh nghiệp sau
khi đã cổ phần hoá, cũng nh những vấn đề nảy sinh nh là hậu quả của quá trình
này. Khoản phí tổn đó đợc Chính phủ quan niệm và xử lý khác nhau. Nó có thể
là sự u đãi cổ phiếu khi bán hoặc những chi phí cho việc bảo hiểm trợ cấp thời
gian đào tạo lại nghề và tìm việc mới với những ngời lao động bị mất việc làm
trong các doanh nghiệp đợc cổ phần hoá hoặc những chi phí cho bọ máy thẹ
hiện và cơ quan môi giới, t vấn, quảng cáo cho việc thực hiện quá trình này
Những khoản chi phí này canà thiết và có tác dụng đảm bảo sự ổn định kinh tế,
chính trị, xã hội cho việc thực hiện một chơng trình có tầm quan trọng lâu dài
trong quá trình cải cách kinh tế ở các nớc.
15
Đối với nớc ta cũng cần có sự lỡng định những khoản phí tổn không thể
cắt giảm đợc, nhất là các ấn đề về việc làm mới và đào tạo lại bảo hiểm xã hội
đối với ngời lao động trong các doanh nghiệp đợc cổ phần hoá, các vấn đề về t
vấn, kiểm toán, quảng cáo, môi giới đầu t trong và ngoài nớc đối với vấn đề
cổ phần hoá. Điều nay là hoàn toàn cần thiết để đảm bảo thực hiện chơơng
trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nớc đạt đợc kết quả ở nớc ta.
B. Doanh nghiệp Nhà nớc Việt Nam và thực trạng
của nó
I. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nớc trong
bớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng
ở nớc ta, cũng giống nh các nớc xã hội chủ nghĩa trớc đây thực hiện mô
hình kế hoạc hoá tập trung, lấy việc mở rộngvà phát triển khu vực kinh tế Nhà
nớc bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy khu vực kinh tế Nhà nớc đã đợc phát
triển một cách nhanh chóng, rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực cơ bản với tỷ
trọng tuyệt đối trong nền kinh tế bất kể hiệu quả đích thực mang lại, trong đó
phải kể đến sự ra đời tràn lan của các doanh nghiệp Nhà nớc do địa phơng
quản lý. Sau đây tôi xin trình bầy một số thực trạng doanh nghiệp Nhà nớc ở n-
ớc ta hiện nay.
ở Việt Nam, trớc dây chúng ta có hơn 12000 doanh nghiệp Nhà nớc sau
nghị định 388/HĐBT và chỉ thị 500/Ttg số doanh nghiệp Nhà nớc đã giảm
xuống 6000 doanh nghiệp chiếm hơn 40% GDP. Hầu hết các doanh nghiệp
còn nhỏ bé và dàn trải, chồng chéo về ngành nghề.
Đến nay cả nớc vẫn còn tới 5280 doanh nghiệp Nhà nớc vốn bình quân
mỗi doanh nghiệp Nhà nớc chỉ trên 18 tỷ đồng (khoảng 1,2 triệu USD). Trong
đó số doanh nghiệp Nhà nớc có vấn 5 tỷ đồng trở xuống chiếm 65,445%, số
doanh nghiệp Nhà nớc vốn trên 10 tỷ đồng chỉ dới 21%. Đặc biệt số doanh
nghiệp Nhà nớc địa phơng trực tiếp quản lý quy mô còn nhỏ bé hơn nhiều, số
doanh nghiệp Nhà nớc có vốn dới 1 tỷ đồng (khoảng 70 nghìn USD) còn trên
30%.
Nhiều doanh nghiệp Nhà nớc hoạt động trong tình trạng chồng chéo về
ngành nghề kinh doanh cấp quản lý trên cùng một địa bàn gây cạnh tranh
không đáng có trong chính nộibộkhu vực kinh tế Nhà nớc. doanh nghiệp Nhà
16