Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn tác động của thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.07 KB, 88 trang )










LUẬN VĂN:
Tác động của thuế GTGT tới hoạt
động kinh doanh của các doanh
nghiệp Việt nam













Lời nói đầu

Thuế GTGT áp dụng ở Việt nam từ năm 1999 thay cho thuế doanh thu là một
loại thuế mới có sự thay đổi căn bản về cách tính thuế, biện pháp hành thu. Việc ban
hành thuế GTGT là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của


Việt nam.
Về mặt lý thuyết, thuế GTGT mang tính khoa học rất cao, có khả năng tạo được
công bằng trong việc thu thuế, thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến quản lý, tăng năng
suất lao động, hạ giá thành để cạnh tranh thuận lợi ở trong và ngoài nước. Điểm nổi
bật của thuế GTGT là khắc phục được nhược điểm thu trùng lắp, chồng chéo qua
nhiều khâu của thuế doanh thu. Từ lâu sự chồng chéo này của thuế doanh thu đã gây
nhiều kêu ca, phàn nàn của hầu hết cơ sở kinh doanh và người tiêu dùng vì nó ảnh
hưởng tiêu cực đến giá cả hàng hoá. Thuế doanh thu tính trên toàn bộ giá bán qua từng
khâu có nghĩa là trong trường hợp mua cao, bán hạ, doanh nghiệp vẫn phải nộp thuế
doanh thu. Ngược lại thuế GTGT chỉ thu trên giá trị tăng thêm mà doanh nghiệp tạo ra,
thậm chí doanh nghiệp còn được hoàn thuế đầu vào cao hơn thuế đầu ra. Hơn nữa thuế
GTGT còn có tác dụng góp phần thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích phát triển sản xuất,
chống thất thu có hiệu quả, bảo đảm nguồn thu cho NSNN.
Sau hơn 2 năm thực hiện luật thuế GTGT, chúng ta đã đạt được một số kết quả
đáng khích lệ. Tuy nhiên do thuế GTGT là một phương pháp đánh thuế tiên tiến nhưng
còn rất mới đối với Việt Nam nên không tránh khỏi những vướng mắc trong quá trình
thực hiện.
Hơn lúc nào hết, nghiên cứu kinh nghiệm thế giới, phân tích thực tế ở Việt Nam
để nhanh chóng phát hiện những vấn đề nảy sinh, tìm ra được những giải pháp thích
hợp là điều kiện cực kỳ quan trọng đảm bảo sự thành công toàn diện và vững chắc của
việc triển khai thuế GTGT ở Việt Nam.


Qua một thời gian nghiên cứu, kết hợp với những hiểu biết của bản thân em chọn
đề tài “Tác động của thuế GTGT tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
Việt nam” để nghiên cứu.
Đề tài bao gồm 3 chương:
Chương I: Thuế và thuế GTGT đối với hoạt động của các doanh nghiệp
Chương II: Tác động của thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp

Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của thuế GTGT đối với
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam



















CHƯƠNG i
THUế Và THUế GTGT Đối với hoạt động
của các doanh nghiệp

i. KHáI QUáT Về THUế.
1. Sự ra đời của và bản chất của thuế.
1.1 Nguồn gốc xuất hiện của thuế.
Nhà nước là bộ máy quyền lực dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối
với giai cấp khác.

Theo quan điểm của Ăng ghen, Nhà nước có hai đặc trưng chủ yếu :
- Một là : phân chia dân cư theo khu vực để quản lý.
- Hai là : thiết lập những quyền lực công cộng và để duy trì những quyền lực
công cộng đó cần phải có sự đóng góp của công dân, đó là thuế.
Trước xã hội nô lệ, khi điều kiện làm việc còn mông muội, năng suất lao động
còn thấp, con người rất khó nhọc mới tìm ra tư liệu cần thiết cho đời sống, lúc đó xã
hội chưa biết đến thuế, càng đến xã hội văn minh thuế càng phát triển.
Như vậy khái niệm về thuế xuất hiện và phát triển cùng với sự xuất hiện và phát
triển của Nhà nước. Hai khái niệm Nhà nước và thuế đi với nhau rất mật thiết, gắn bó
như hình và bóng - không thể thiếu được. Nhà nước sử dụng thuế để phục vụ cho mục
đích của mình: Nhà nước giai cấp bóc lột thu thuế để phục vụ cuộc sống xa hoa, đài
các của bọn thống trị áp bức, còn đối với Nhà nước nào thực sự của dân, do dân và vì
dân, Nhà nước đó thu thuế của dân để trở lại phục vụ cuộc sống của người dân cho
công bằng và hợp lý hơn, đảm bảo quyền sống của con người đầy đủ và tốt đẹp hơn .


Lịch sử phát triển của thuế cũng đã chứng minh đó là quá trình phát triển ngày
càng hoàn thiện và hợp lý trong thực hiện nhiệm vụ phân phối sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân, nhờ đó để đi dần tới chỗ động viên thu nhập của người dân một cách
công bằngvà ngày càng hợp lý hơn, từ đó yêu cầu các luật thuế phải được xây dựng
hợp lý, đầy đủ và ngày càng hoàn thiện. Để cho chính sách thuế góp phần động viên
công bằng hợp lý thu nhập quốc dân được tạo ra trong toàn xã hội và nhất là khi nền
sản xuất hàng hoá phát triển mạnh mẽ, mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, giữa
các cá nhân với nhau và với xã hội ngày càng mật thiết, chặt chẽ hơn thì sự phân phối
thu nhập quốc dân trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách thuế
mà ở đó có sự liên kết trong một tổng thể thống nhất cùng tham gia trong quá trình
phân phối đó.
1.2 Bản chất của thuế .
Có thể hiểu thuế là khoản đóng góp mang tính bắt buộc được Nhà nước quy định
thành luật để mọi người dân và các tổ chức kinh tế phải thực hiện nộp vào NSNN theo

từng thời kỳ nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của bộ máy Nhà nước. Cũng có
thể hiểu: thuế là hình thức động viên, phân phối và phân phối lại sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân do các tổ chức kinh tế và người dân tạo ra để hình thành quỹ tiền tệ
tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
2. Vai trò của thuế.
Trong nền kinh tế thị trường, thuế có các vai trò chủ yếu sau:
2.1. Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN.
ở nước ta trong thời kỳ bao cấp thuế thường mới chỉ đảm bảo được khoảng 50%-
60% tổng số thu của NSNN. Một phần thu quan trọng của NSNN lúc đó còn phải dựa
vào viện trợ, vay nợ. Đến nay nguồn thu từ nước ngoài, nhất là các khoản viện trợ cho
không đã giảm nhiều, quan hệ kinh tế đối ngoại đang chuyển sang cơ chế có vay, có
trả, có đi, có lại hai bên cùng có lợi. Hệ thống thuế phải bảo đảm đến 80%- 90% tổng
số thu của NSNN, có phần tích luỹ cho nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng và trả nợ.


2.2 Thuế góp phần quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Chính sách thuế được áp dụng thống nhất sẽ từng bước bảo đảm sự cạnh tranh
lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần phục vụ có hiệu quả chủ trương giải
phóng mọi tiềm năng để phát triển sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các
ngành nghề, các địa phương, các vùng, giữa thị trường trong và ngoài nước.
Tuỳ tình hình cụ thể, Nhà nước sử dụng công cụ thuế để góp phần điều tiết nền
kinh tế, bao gồm cả sản xuất, lưu thông, dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, điều chỉnh các
thành phần kinh tế phát triển theo định hướng phát triển của Nhà nước, điều chỉnh các
quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân (giữa tích luỹ và tiêu dùng, tiền và hàng,
giữa cung và cầu, nhập và xuất). Thuế còn có vai trò quan trọng trong việc kiểm kê,
kiểm soát, thúc đẩy hạch toán kinh doanh, sắp xếp lại tổ chức lao động, tăng năng suất,
hạ giá thành tăng hiệu quả kinh tế.
2.3 Thuế góp phần thực hiện sự bình đẳng, điều hoà thu nhập, bảo đảm công
bằng xã hội.
Vai trò điều hoà thu nhập của thuế thể hiện ở sự kết hợp hài hoà giữa việc động

viên phù hợp với khả năng và tính chất của hoạt động sản xuất, kinh doanh với việc
tăng cường hiệu lực của hệ thống thuế bằng các chế độ, biện pháp thuế.
Yêu cầu bình đẳng về động viên đóng góp được thể hiện qua việc áp dụng chính
sách thuế thống nhất giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư, sự cân bằng
về thuế, trước hết phải xuất phát từ nhận thức đầy đủ và xác định đúng đắn quyền lợi,
nghĩa vụ của mỗi công dân, mỗi tổ chức kinh tế đối với Nhà nước, người đại diện cho
quyền lực và lợi ích của toàn xã hội.
II. thuế giá trị gia tăng.
1. Khái niệm.
Theo điều 1 của luật thuế GTGT: “Thuế GTGT là thuế gián thu tính trên khoản
giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông
đến tiêu dùng”.


Trong đó giá trị tăng thêm là khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ phát
sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và khoản giá trị tăng thêm
này do người tiêu dùng chịu.
2. Mục đích.
Mục đích của thuế GTGT là nhằm khuyến khích chuyên môn hoá cao, khuyến
khích các nhà doanh nghiệp đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, tăng năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, tạo tích luỹ cao cho doanh nghiệp,
tăng tỷ lệ huy động cho NSNN. Thuế GTGT góp phần khuyến khích mạnh mẽ sản
xuất hàng hoá xuất khẩu vì mức thuế hàng xuất khẩu 0%, ngoài ra còn được thoái trả
lại toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước, tạo điều kiện cạnh tranh trên thị
trường khu vực và thế giới. Thuế GTGT hàng nhập khẩu có tác dụng thiết thực bảo vệ
sản xuất kinh doanh hàng nội địa, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá theo hướng xuất khẩu.
3. Nội dung của thuế GTGT.
3.1 Đối tượng áp dụng.
3.1.1 Phạm vi áp dụng.
Xét về góc độ kinh tế, thuế GTGT đánh trên phần giá trị tăng thêm phát sinh qua

các khâu trong quá trình luân chuyển sản phẩm hàng hoá, do đó mọi hoạt động kinh
doanh thuộc phạm vi hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh thuộc phạm vi hoạt
động của quá trình sản xuất kinh doanh nêu trên đều thuộc đối tượng nộp thuế.
Như vậy phạm vi áp dụng của thuế GTGT có thể bao gồm :
- Hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
- Hoạt động sản xuất mặt hàng thuộc diện đánh thuế TTĐB.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nói chung bao gồm cả sản xuất
nông nghiệp đang thuộc diện chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp.
1.1.2. Đối tượng nộp thuế .
Tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
chịu thuế GTGT ở Việt Nam không phân biệt ngành nghề, hình thức tổ chức kinh


doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng
hoá chịu thuế GTGT (gọi chung là người nhập khẩu) đều là đối tượng nộp thuế GTGT.
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ bao gồm :
- Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo luật doanh
nghiệp, luật DNNN và luật hợp tác xã.
- Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức, đơn vị sự nghiệp khác.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp
tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các công ty nước ngoài và tổ
chức nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam.
- Cá nhân, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh, nhóm người kinh doanh độc lập và
các đối tượng kinh doanh khác.
3.2. Căn cứ và phương pháp tính thuế
3.2.1. Căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất.


Giá tính thuế : Theo quy định tại điều 7 luật thuế GTGT và điều 6 của Nghị
định số 79/2000/NĐ-CP, giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ được xác định như
sau:
- Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra hoặc cung ứng
cho đối tượng khác là giá bán chưa có thuế GTGT.
- Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng (+) với thuế
nhập khẩu, giá nhập khẩu tại cửa khẩu làm căn cứ tính thuế GTGT được xác định theo
các quy định về giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu.
Trường hợp hàng hoá nhập khẩu được miễn, giảm thuế nhập khẩu thì giá tính
thuế GTGT là giá hàng hoá nhập khẩu cộng với (+) thuế nhập khẩu xác định theo mức
thuế phải nộp sau khi đã được miễn giảm.


- Đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cơ sở kinh doanh xuất để tiêu dùng không
phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hoặc cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
không chịu thuế GTGT thì phải tính thuế GTGT đầu ra. Giá tính thuế tính theo giá bán
của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cùng loại.
- Đối với dịch vụ do phía nước ngoài cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng ở
Việt nam, giá tính thuế GTGT là giá dịch vụ phải thanh toán cho phía nước ngoài.
Dịch vụ cho thuê tài sản bao gồm cho thuê nhà, xưởng, kho tàng, bến bãi,
phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị.
Giá để tính thuế GTGT là giá cho thuê chưa có thuế. Trường hợp cho thuê theo
hình thức thu tiền từng kỳ hoặc thu trước tiền thuê cho một thời hạn thuê thì thuế
GTGT tính trên số tiền thu từng kỳ hoặc thu trước, bao gồm cả các khoản thu dưới
hình thức khác như thu tiền để hoàn thiện, sửa chữa, nâng cấp nhà cho thuê theo yêu
cầu của bên thuê.
- Đối với các hàng hoá, dịch vụ khác là giá do Chính phủ quy định.

Thuế suất: Luật thuế GTGT hiện nay quy định 4 mức thuế suất : 0%, 5%, 10%,
20% trong đó :

- Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu.
- Thuế suất 5%, 10%, 20% đối với hàng hoá, dịch vụ.
3.2.2. Phương pháp tính
Thuế GTGT cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo một trong hai phương
pháp: Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên thuế GTGT.
Trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ
thuế có hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ thì cơ sở phải hạch
toán riêng hoạt động kinh doanh này để tính thuế trực tiếp trên GTGT.
Đối tượng áp dụng và việc xác định thuế phải nộp theo từng phương pháp sau :
Phương pháp khấu trừ thuế
 Đối tượng áp dụng: Là các đơn vị, tổ chức kinh doanh bao gồm các doanh
nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các công ty


cổ phần, hợp tác xã và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng
tính thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT.
Xác định số thuế GTGT phải nộp
Số thuế GTGT
phải nộp
=
Thuế GTGT
đầu ra
-
Thuế GTGT
đầu vào
Trong đó:

Thuế GTGT
đầu ra
=

Giá tính thuế
của hàng hoá,
dịch vụ chịu
thuế bán ra
x
Thuế suất thuế
GTGT của hàng
hoá, dịch vụ đó.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi
bán hàng hoá, dịch vụ phải tính thuế và thu thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra.
Khi lập hoá đơn bán hàng hóa, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có
thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ
ghi giá thanh toán, không ghi giá chưa có thuế và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng
hóa, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn chứng từ.
Doanh thu
chưa có thuế
= Giá bán -
Thuế tính trên
giá bán
Ví dụ : Doanh nghiệp bán sắt, thép
Giá bán chưa có thuế GTGT đối với sắt 6 là 4.600.000 đ/tấn
Thuế GTGT 5% 230.000 đ/tấn
Khi bán, có một số hoá đơn doanh nghiệp chỉ ghi giá bán 4.800.000 đ/tấn
Thuế GTGT tính trên doanh số bán được xác định:
4.800.000 đ/tấn x 5% = 240.000 đ/tấn
Doanh thu được xác định lại bằng:
4.660.000 đ (= 4.800.000đ - 240.000đ)
Doanh nghiệp mua thép cũng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với
hoá đơn mua không ghi thuế GTGT này.



Thuế GTGT đầu
vào
=
Tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn
GTGT mua hàng hoá, dịch vụ
Đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, được khấu trừ
thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào phát sinh kể từ tháng được áp dụng nộp
thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; Đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào tháng trước
được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế thì không được tính khấu trừ
thuế GTGT đầu vào.
Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT
 Đối tượng áp dụng
- Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt nam.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn
chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
- Cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ.
Xác định thuế GTGT phải nộp:
Số thuế GTGT
phải nộp

=
GTGT của hàng
hóa, dịch vụ
chịu thuế

x
Thuế suất thuế GTGT
của hàng hoá, dịch vụ

đó

GTGT của
hàng hoá, dịch
vụ

=
Doanh số của
hàng hoá, dịch
vụ bán ra

-
Giá vốn của hàng hoá,
dịch vụ bán ra
Giá trị gia tăng xác định đối với một số ngành nghề kinh doanh như sau:
- Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh bán hàng là số chênh lệch giữa doanh
số bán với doanh số vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh.
Trường hợp cơ sở kinh doanh không hạch toán được doanh số vật tư, hàng hoá,
dịchvụ mua vào tương ứng với doanh số hàng bán ra thì được xác định như sau:
Giá vốn Doanh số Doanh số Doanh số


hàng bán
ra
= tồn đầu kỳ + mua trong
kỳ
- tồn cuối kỳ

Ví dụ : Một cơ sở A sản xuất đồ gỗ, trong tháng bán được 150 sản phẩm tổng
doanh số bán là 25 triệu đồng.

Giá trị vật tư, nguyên liệu mua ngoài để sản xuất 150 sản phẩm là 19 triệu đồng,
trong đó :
Nguyên liệu chính (gỗ) 14 triệu
Vật liệu và dịch vụ mua ngoài khác 5 triệu
Thuế suất thuế GTGT là 10% , thuế GTGT cơ sở A phải nộp được tính như sau:
GTGT của sản phẩm bán ra
25 triệu đồng – 19 triệu đồng = 6 triệu đ
Thuế GTGT phải nộp
6 triệu đồng x 10% = 0,6 triệu đồng
- Đối với xây dựng, lắp đặt là số chênh lệch giữa tiền thu về xây dựng, lắp đặt
công trình, hạng mục công trình trừ (-) chi phí vật tư nguyên liệu, chi phí động lực,
vận tải, dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phục vụ cho hoạt động xây dựng, lắp đặt
công trình, hạng mục công trình.
- Đối với hoạt động vận tải là số chênh lệch giữa tiền thu cước vận tải, bốc xếp
trừ (-) chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt
động vận tải.
- Đối với hoạt động kinh doanh vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ, GTGT là số chênh
lệch giữa doanh số bán ra, vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ trừ (-) giá vốn của vàng, bạc, đá
quý, ngoại tệ bán ra.
3.3. Các quy định khác
Hoá đơn chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ.
Từ hai phương pháp tính thuế có hai loại hoá đơn phù hợp với từng phương pháp
tính thuế và phù hợp với trình độ quản lý, kế toán của đối tượng nộp thuế. Đối tượng
nộp thuế theo phương pháp khấu trừ sử dụng hoá đơn thuế GTGT được khấu trừ, đối


tượng nộp thuế theo phương pháp tính thuế GTGT được sử dụng hoá đơn thông
thường.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
thuế sử dụng hoá đơn GTGT. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh

doanh phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy định trên hoá đơn và ghi rõ: Giá bán chưa
có thuế, phụ thu và phí tính ngoài giá bán (nếu có), thuế GTGT, tổng giá thanh toán đã
có thuế. Nếu cơ sở kinh doanh bán hàng hoá, dịch vụ không ghi tách riêng số bán và
thuế GTGT, chỉ ghi chung giá thanh toán thì thuế GTGT đầu ra phải tính trên giá
thanh toán. Cơ sở kinh doanh không được tính khấu trừ thuế GTGT (trừ trường hợp
hàng hóa, dịch vụ đặc thù được dùng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế
GTGT).
Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng và
các cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, sử
dụng hoá đơn thông thường. Giá bán hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn là giá thực
thanh toán đã có thuế GTGT (đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT).
Cơ sở kinh doanh muốn sử dụng hoá đơn, chứng từ khác với quy định chung,
phải đăng ký với Bộ Tài Chính (Tổng cục thuế) và chỉ được sử dụng khi đã được
thông báo bằng văn bản cho sử dụng. Mọi trường hợp doanh nghiệp đăng ký sử dụng
hoá đơn theo mẫu quy định.
Các cơ sở kinh doanh phải thực hiện việc quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ
theo quy định về chế độ hoá đơn, chứng từ do Bộ Tài Chính ban hành. Các cơ sở kinh
doanh phải thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ
theo quy định của pháp luật.
Mã số thuế
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý đối tượng nộp thuế, thủ tướng Chính
phủ ra quyết định số 75/1998/QĐ-Ttg ngày 4/4/1998 quy định về mã số đối tượng nộp
thuế.
Các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế là đối tượng nộp thuế theo
pháp luật Việt Nam đều phải thực hiện kê khai, đăng ký thuế với cơ quan thuế để cấp


mã số xác định đối tượng được nộp thuế (gọi tắt là mã số thuế). Mã số thuế được sử
dụng để nhận diện đối tượng nộp thuế. Mỗi một đối tượng nộp thuế chỉ được cấp một
mã số thuế duy nhất trong suốt quá trình hoạt động từ khi thành lập đến khi chấm dứt

hoạt động. Mã số thuế đã được cấp sẽ không được sử dụng lại để cấp cho đối tượng
nộp thuế khác.
Các đối tượng nộp thuế phải ghi mã số của mình trên mọi giấy tờ giao dịch,
chứng từ hoá đơn mua, bán, trao đổi kinh doanh, trên các sổ sách kế toán, trên các giấy
tờ kê khai thuế, chứng từ nộp thuế và các biểu mẫu kê khai với các cơ quan quản lý
Nhà nước theo quy định của pháp luật. Các đơn vị được sử dụng hoá đơn tự in phải in
sẵn mã số thuế của mình ở góc trên bên phải của từng tờ hoá đơn.
Hoàn thuế GTGT
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế
được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau:
- Cơ sở kinh doanh trong 3 tháng liên tục trở nên có luỹ kế số thuế đầu vào được
khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra được hoàn thuế. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào
chưa được khấu trừ hết của thời gian xin hoàn thuế.
- Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá xuất khẩu nếu có số thuế đầu vào
chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở nên thì được xét hoàn thuế theo tháng, hoặc
chuyến hàng (nếu xác định được thuế GTGT đầu vào riêng của chuyến hàng).
Đối với hàng hoá uỷ thác xuất khẩu, gia công xuất khẩu qua một cơ sở khác ký
hợp đồng gia công xuất khẩu, đối tượng hoàn thuế là cơ sở có hàng hoá đi uỷ thác
xuất khẩu, cơ sở trực tiếp gia công hàng hoá xuất khẩu.
- Đối với cơ sở mới thành lập, đầu tư tài sản mới đã đăng ký theo phương pháp
khấu trừ nhưng chưa có phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra, nếu
thời gian đầu tư từ một năm trở nên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Số
thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có giá trị lớn từ 200 triệu đồng trở
nên thì được xét hoàn thuế từng quý.


- Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể,
phá sản có thuế GTGT nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn lại số thuế
GTGT nộp thừa.
- Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền

theo quy định của pháp luật.
Cơ quan thuế có trách nhiệm hướng dẫn đối tượng được hoàn thuế lập đúng, đủ
các hồ sơ đề nghị hoàn thuế theo đúng quy định. Chịu trách nhiệm kiểm tra, xem xét
hồ sơ và giải quyết hoàn thuế trong thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hoàn
thuế của đơn vị gửi đến. Trường hợp phải kiểm tra, xác minh, bổ sung hồ sơ… thì thời
gian tối đa là 30 ngày. Nếu không đủ thủ tục và điều kiện hoàn thuế phải trả lời cho
đơn vị biết trong khoảng thời gian 7 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ.
Sau khi hoàn thuế, trường hợp nghi vấn hoặc cần tổ chức, kiểm tra, thanh tra lại
cơ sở để xác định đúng số hoàn thuế thì cơ quan thuế quyết định kiểm tra hoặc thanh
tra.
Khấu trừ thuế
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
thuế được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào như sau:
- Thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ.
- Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào đồng thời cho sản xuất,
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì chỉ được
khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng
hoá, dịchvụ chịu thuế GTGT.
- Thuế đầu vào được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai, khấu trừ
khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó.
- Các cơ sở sản xuất, kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ
thuế được tính khấu trừ thuế GTGT đầuvào theo tỷ lệ (%) tính trên giá hàng hoá, dịch
vụ mua vào không có hoá đơn GTGT theo quy định như sau:


Tỷ lệ 2% đối với hàng hoá là nông sản lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến, đất
đá cát sỏi và các loại phế liệu mua vào không có hoá đơn.
Tỷ lệ 3% đối với hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT mua của cơ
sở sản xuất, kinh doanh nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT có hoá

đơn bán hàng.
3.4. Cơ chế vận hành
3.4.1 Để hiểu được cơ chế vận hành của thuế GTGT trước tiên cần phải nhận rõ được
bản chất của thuế GTGT. Thuế GTGT là một loại thuế đánh trên diện rộng, tính trên
giá và đánh trên nhiều giai đoạn khác nhau. Thực vậy:
- Thuế GTGT là loại thuế đánh trên diện rộng, bởi lẽ qua loại thuế này về mặt lý
thuyết mọi hàng hoá và dịch vụ đều có thể đưa vào diện đánh thuế.
- Thuế GTGT là một loại thuế tính trên giá thể hiện ở chỗ tiền thuế phải được
tính trên một tỷ lệ % nhất định trên giá cả mà không phải là số tiền cố định trên hàng
hoá và dịch vụ.
- Thuế GTGT đánh trên nhiều giai đoạn khác nhau từ sản xuất, phân phối đến
tiêu thụ các loại hàng hoá và dịch vụ.
3.4.2 Tác động của thuế GTGT đối với các doanh nghiệp và đối với người tiêu
dùng có sự khác nhau:
Đối với các doanh nghiệp: Thuế GTGT gắn liền với 2 yếu tố riêng biệt độc lập
với nhau.
- Yếu tố có liên quan đến chế độ khấu trừ thuế, tức là liên quan đến bộ phận thuế
GTGT đánh trên các nghiệp vụ mua hàng hoá và dịch vụ đầu vào, kể cả nghiệp vụ mua tài
sản cố định .ở đâydoanh nghiệp cần thiết phải chia ra làm 2 khoản:
Thuế GTGT có thể khấu trừ .
Thuế GTGT không thể khấu trừ.
- Yếu tố liên quan đến chế độ tính thuế, tức là gắn liền với bộ phận thuế GTGT
thu được (thuế GTGT đánh trên các nghiệp vụ bán hàng hoá và dịch vụ đầu ra kể cả
nghiệp vụ bán tài sản cố định).


Chênh lệch giữa thuế GTGT thu được và thuế GTGT có thể khấu trừ rơi vào một
trong hai trường hợp:
Nếu là số dương (sau một thời kỳ tính thuế) thì đây là số thuế doanh nghiệp phải nộp.
Nếu là số âm (sau một thời kỳ tính thuế) thì đây là số thuế doanh nghiệp được

Nhà nước thoái trả.
Cơ chế vận hành của thuế GTGT đối với các doanh nghiệp được thể hiện qua mô
hình sau:



doanh thu tính thuế
nhân (x)
thuế suất
bằng (=)
thuế tính trên doanh thu
trừ (-)
thuế tính trên doanh số mua hàng
( VAT được khấu trừ )
bằng (=)





Ví dụ : Giả định thuế suất 10%
Doanh thu bán hàng 200.000; thuế GTGT 20.000
Doanh số mua hàng 150.000; thuế GTGT 15.000
Thuế GTGT phải nộp 5.000
Doanh số bán hàng 180.000; thuế GTGT 18.000
Doanh số mua hàng 200.000; thuế GTGT 20.000
Thuế GTGT được thoái trả 2.000
Đối với người tiêu dùng cuối cùng.
Nếu như thuế GTGT có ảnh hưởng trung tính đối với các hoạt động sản xuất kinh
doanh (từ khâu sản xuất đến khâu bán lẻ) thì nó lại là một loại thuế đánh vào người

tiêu dùng cuối cùng (toàn bộ gánh nặng về thuế GTGT, nói cách khác, do người tiêu
dùng cuối cùng chịu) bởi lẽ đối với họ chỉ phát sinh hành vi mua sau đó không phát
sinh hành vi bán.
Thuế GTGT phải nộp
(nếu kết quả là số
dương
)

Thuế GTGT được
thoái trả
(nếu kết quả là số
âm
)



4. Điều kiện áp dụng

Công tác kế toán và hoá đơn chứng từ ở doanh nghiệp. Hoá đơn chứng từ là
căn cứ pháp lý để thực hiện việc tính thuế, kê khai thuế GTGT. Cơ sở tính thuế là giá
trị tăng thêm vì vậy muốn xác định được giá trị tăng thêm thì doanh nghiệp phải thực
hiện ghi chép đầy đủ để xác định được đầu vào, đầu ra. Mặt khác đối với doanh nghiệp
thực hiện theo phương pháp khấu trừ, không có hoá đơn thuế GTGT của bên bán thì sẽ
không được khấu trừ phần thuế GTGT đã nộp ở khâu trước.

Công tác quản lý của cơ quan thuế: Thực hiện luật thuế mới không những tác
động đến công tác quản lý của các doanh nghiệp mà cả cơ quan thuế cũng phải cải tiến
phương pháp quản lý như: Cấp mã số thuế, áp dụng tin học vào công tác thuế, phát
hành và quản lý hoá đơn chứng từ, phát huy tinh thần tự giác của doanh nghiệp trong
việc tự tính thuế, tự kê khai thuế và nộp thuế theo thông báo vào kho bạc Nhà nước.

Qua đó quản lý được đối tượng nộp thuế, hạn chế được thất thu ngân sách và tiêu cực
trong lĩnh vực thuế.
5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện thuế GTGT

Quan điểm tư tưởng: Nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới việc thực hiện thành
công thuế GTGT ở nước ta là quan điểm và sự quyết tâm của chúng ta đối với việc
thực hiện loại thuế mới này bởi nó định hướng cho tư tưởng, nhận thức của chúng ta
và ảnh hưởng trực tiếp tới tư tưởng, nhận thức của các doanh nghiệp và mọi tổ chức cá
nhân trong xã hội, những người nộp thuế GTGT.

Công tác tuyên truyền thực hiện: Khi áp dụng thuế doanh thu, các doanh
nghiệp đã quen với việc mua bán thanh toán theo giá đã có thuế. Khi chuyển sang thực
hiện thuế GTGT, việc mua bán được căn cứ trên giá chưa có thuế, do đó khó có thể
tránh khỏi tình trạng lúng túng trong việc xác định giá bán chưa có thuế nếu không
được tuyên truyền, hướng dẫn cụ thể. Mặt khác sẽ có một số doanh nghiệp do không
hiểu hoặc cố tình coi thuế GTGT là một loại thuế mới sẽ cộng thêm vào giá hiện hành
làm tăng giá, gây tâm lý tiêu cực của người tiêu dùng đối với thuế GTGT.

Tổ chức thực hiện:


- Bộ máy quản lý, đội ngũ cán bộ: Hiện nay bộ máy quản lý thuế của nước ta
được tổ chức theo ngành dọc từ TW đến cấp huyện. Hệ thống này được phân chia vừa
theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế, tức là có bộ phận quản lý lĩnh vực thuế
doanh thu, thuế lợi tức và có bộ phận quản lý doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế tư nhân. Một cán bộ thuế phải đảm nhận
nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế do đó không có điều kiện
chuyên sâu vào một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, quy
trình quản lý thuế phải thay đổi, cơ quan thuế phải tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế,
hoàn thuế, trình độ của một số cán bộ thuế còn thấp sẽ không đủ đáp ứng yêu cầu.

Hơn nữa do chế độ “chuyên quản “ được chuyển sang chế độ tự kê khai của
doanh nghiệp cho nên nếu như không có những biện pháp kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ
hơn hiện nay thì tình trạng thất thu thuế khó có thể hạn chế được.
- Công tác quản lý hành chính thuế: Hiện nay còn thô sơ, thủ công là chính cho
nên việc xử lý dữ liệu còn chậm chạp, có nhiều khả năng xảy ra sai sót cả do nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan của cán bộ thu thuế. Trong khi đó đối với
việc quản lý thuế GTGT, thông tin cần lưu trữ lớn, đòi hỏi phải xử lý nhanh, chính
xác. Hiện nay ngành thuế vẫn chưa có một chương trình hoàn chỉnh về xử lý thông tin
thống nhất và nối kết trong một hệ thống máy tính trên phạm vi toàn quốc để truy cập
đầu ra và đầu vào của doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc thu nộp thuế được thuận lợi.
- Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan: Hiện nay việc thu thuế doanh
thu và thuế xuất nhập khẩu được tách rời nhau: Thuế xuất nhập khẩu do cơ quan hải
quan thu, thuế doanh thu do cơ quan thuế trong nước thu mà không có sự phối hợp
thường xuyên trao đổi thông tin giữa các cơ quan này. Khi áp dụng thuế GTGT thì
hàng nhập khẩu khi nhập khẩu vào Việt nam ngoài thuế nhập khẩu phải nộp thuế
GTGT, hàng xuất khẩu thì được hoàn thuế GTGT. Do đó để xác định đúng số thuế
phải thu cần phải có sự liên hệ chặt chẽ hơn nữa giữa ngành thuế nội địa và cơ quan
hải quan trong việc quản lý hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện chịu thuế
GTGT. Tương tự như vậy, đối với hàng xuất khẩu được hoàn thuế GTGT đã nộp cũng
cần phải có sự phối hợp đồng bộ để việc hoàn thuế được thực hiện đúng, đủ và kịp
thời, tránh tình trạng ứ đọng vốn của doanh nghiệp.



Tình hình sản xuất, kinh doanh: Luật thuế GTGT được thông qua giữa tháng
5/1997 trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội nước ta đang trên đà phát triển vững chắc
mạnh mẽ. Có quan điểm cho rằng mặc dù thuế GTGT sẽ phải nộp cao hơn thuế doanh
thu đối với một số ngành nghề nhưng trong hoàn cảnh kinh tế đang lên, quá trình hội
nhập được đẩy nhanh, doanh nghiệp có thể đạt được lợi nhuận cao để bù đắp được rủi
ro thiệt thòi trong việc phải nộp thuế mới. Tuy nhiên chỉ 2 tháng sau khi luật thuế

GTGT được ban hành thì cuộc khủng hoảng kinh tế - tiền tệ khu vực đã ập đến, gây
nhiều thách thức, khó khăn đối với doanh nghiệp Việt nam. Đây là một thách thức lớn
đối với nước ta trong quá trình thực thi luật thuế GTGT vào thời điểm này.
III. Thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT. Sự cần thiết áp dụng thuế
GTGT ở Việt Nam
1. Thuế doanh thu
1.1. Những nội dung cơ bản của thuế doanh thu
Thuế doanh thu là một loại thuế gián thu đánh vào phần doanh thu của các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong xã hội.
Mọi tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế có hoạt động sản xuất, xây
dựng, vận tải, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ và các hoạt động kinh doanh khác (gọi
chung là cơ sở kinh doanh) có doanh thu đều phải nộp thuế doanh thu. Căn cứ tính
thuế là doanh thu và thuế suất.
Doanh thu là toàn bộ tiền hàng, tiền gia công, tiền dịch vụ sau khi thực hiện việc
bán hàng, trả hàng gia công hoặc cung ứng dịch vụ chưa trừ một khoản phí tổn nào và
đã hạch toán vào kết quả tiêu thụ trong kỳ, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa
thu được tiền.
Doanh thu tính thuế là doanh thu được quy định phù hợp với đặc điểm của từng
hoạt động. Cụ thể:
Doanh thu đối với hoạt động sản xuất, thương mại, ăn uống là tiền bán hàng.
Doanh thu đối với hoạt động gia công là số tiền gia công bao gồm tiền công, tiền
nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và các chi phí khác.


Doanh thu đối với hoạt động đại lý bán hàng hoặc uỷ thác mua hàng là tiền hoa
hồng được hưởng.
Doanh thu đối với hoạt động dịch vụ là số tiền dịch vụ bao gồm mọi khoản chi
phí cho hoạt động dịch vụ.
Doanh thu đối với hoạt động tín dụng là khoản chênh lệch giữa thu lãi và tiền
vay, tiền lãi gửi với trả lãi tiền vay, trả lãi tiền gửi. Doanh thu đối với hoạt động dịch

vụ khác thuộc lĩnh vực ngân hàng là tiền thu được hoặc tiền hoa hồng được hưởng đối
với dịch vụ đó.
Doanh thu đối với hoạt động bảo hiểm là tiền thu về phí bảo hiểm nhận của
khách hàng.
Cơ sở kinh doanh có doanh thu bằng ngoại tệ được nộp thuế bằng ngoại tệ hoặc
đồng Việt Nam, quy đổi theo tỷ giá mua vào và do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
công bố tại thời điểm nộp thuế.
Trong trường hợp trao đổi hàng hoá, dịch vụ hoặc tự cung ứng hàng hoá, tự cung
ứng dịch vụ thì hàng hoá dịch vụ trao đổi hoặc tự cung ứng phải được tính thành tiền
tại thời điểm phát sinh theo giá thị trường để làm căn cứ tính thuế.
Thuế suất doanh thu được quy dịnh cụ thể cho 6 ngành nghề sản xuất, xây dựng,
vận tải, thương nghiệp, ăn uống và dịch vụ. Đối với các ngành nghề, danh mục sản
phẩm sản xuất kinh doanh đã được quy định chi tiết trong biểu thuế thì áp dụng đúng
theo thuế suất đã quy định. Cơ sở kinh doanh nhiều ngành nghề thì phải hạch toán
riêng doanh thu của từng ngành nghề, sản phẩm. Nếu không hạch toán riêng được phải
áp dụng thuế suất cao nhất trong số những ngành nghề đó để tính thuế trên tổng doanh
thu của các ngành nghề sản phẩm đã tiêu thụ.
Hộ kinh doanh nhỏ được tính và nộp thuế theo chế độ khoán doanh thu từng thời
kỳ 3 tháng hoặc 6 tháng. Mức doanh thu khoán được cơ quan thuế ấn định căn cứ theo
tài liệu kê khai của hộ kinh doanh, tài liệu điều tra của cán bộ thuế được thảo luận
công khai trong các tổ kinh doanh và công bố trước khi áp dụng.
Hộ kinh doanh nhỏ là hộ có doanh thu tính thuế bình quân tháng đối với từng
ngành nghề:


Ngành sản xuất, thương mại: Đến 6 triệu đồng.
Ngành ăn uống: Đến 3 triệu đồng.
Ngành sản xuất, gia công, xây dựng, vận tải, dịch vụ: Đến 2 triệu đồng.
Ngoài ra, chương IV luật thuế doanh thu còn quy định việc giảm thuế, miễn thuế
doanh thu trong các trường hợp:

Người già yếu, tàn tật hoặc kinh doanh lặt vặt chỉ đủ bảo đảm mức sống tối thiểu
cho bản thân.
Cơ sở kinh doanh gặp khó khăn lớn do thiên tai, địch hoạ, tai nạn bất ngờ.
Cơ sở kinh doanh hoạt động ở miền núi, hải đảo, khai thác thuỷ sản vùng biển xa
bờ, cơ sở nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới, cơ sở sản xuất mới đi vào
hoạt động, chạy thử dây chuyền sản xuất mới, cơ sở sản xuất mặt hàng thay thế hàng
nhập khẩu nếu gặp khó khăn được xét giảm thuế không quá 2 năm. Riêng cơ sở kinh
doanh hoạt động ở miền núi, hải đảo, thời gian được hoàn thuế không quá 3 năm.
Luật thuế doanh thu cũng quy định cụ thể trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ sở kinh
doanh và quyền hạn, trách nhiệm cơ quan thuế, việc đăng ký, kê khai nộp thuế, việc xử
lý vi phạm, giải quyết khiếu nại về thuế.
1.2. ưu điểm của thuế doanh thu
- Tính toán đơn giản: Hàng tháng các cơ sở sản xuất kinh doanh tính số thuế
doanh thu phải nộp bằng doanh thu nhân thuế suất thuế doanh thu.
- Thuế doanh thu được thu dứt điểm từng lần bán hàng không phải theo dõi thuế
đã nộp ở khâu trước.
- Nguồn thu ngân sách giữa các địa phương tương đối ổn định.
1.3. Nhược điểm của thuế doanh thu
- Thuế doanh thu có quá nhiều mức thuế suất (11 mức thuế suất) gồm 0%,
0,5%,1%, 2%, 4%, 6%, 8%, 10%, 15%, 20%, 30% nên việc tính thuế không chính xác
và áp dụng nhiều mức thuế suất vào từng loại hoạt động rất phức tạp. Việc áp dụng
nhiều mức thuế suất dẫn đến tình trạng những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều
mặt hàng với các mức thuế suất khác nhau tìm cách dồn doanh thu vào mặt hàng có


mức thuế suất thấp. Vì vậy thuế doanh thu của từng cơ sở khó chính xác tuyệt đối và
gây ra tình trạng thất thu thuế cho Nhà nước.
- Thuế doanh thu đánh trùng nhiều lần trên một giá trị và thuế đánh trên thuế.
Một hàng hoá, dịch vụ qua càng nhiều lần luân chuyển thì chịu thuế doanh thu càng
nhiều, thuế ở khâu sau tính trên cả phần thuế đã nộp ở khâu trước.

- Thuế doanh thu không có sự thống nhất, ràng buộc lẫn nhau do thuế được thu
độc lập với nhau từ sản xuất đến lưu thông và tiêu dùng. Vì vậy không kiểm tra thuế
đã nộp ở các khâu trước.
- Không khuyến khích các cơ sở sử dụng tốt chế độ hoá đơn chứng từ và thực
hiện chế độ hạch toán kế toán do nộp thuế ở khâu sau không được khấu trừ thuế khâu
trước.
- Thuế doanh thu quy định nhiều trường hợp miễn giảm không đúng tính chất của
thuế gián thu. Loại thuế này do người tiêu dùng chịu nhưng người sản xuất hoặc người
bán hàng lại được hưởng chế độ miễn giảm. Đó là sự mất công bằng giữa đối tượng
nộp thuế và đối tượng chịu thuế.
2. Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
Việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam vì những lý do cơ bản sau:
2.1. Thuế doanh thu đã bộc lộ những nhược điểm không còn phù hợp
Với những tồn tại của thuế doanh thu, việc áp dụng luật thuế doanh thu không
còn phù hợp. Mặt khác, thuế doanh thu không còn phù hợp với đường lối đổi mới nền
kinh tế, đẩy mạnh CNH-HĐH đòi hỏi phải thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT
nhằm khắc phục những nhược điểm của thuế doanh thu.
Việt Nam đang chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT
theo định hướng XHCN. Trong cơ chế thị trường, giá cả hàng hoá do cung-cầu quyết
định, nếu duy trì cơ chế nhiều thuế suất thì chỉ làm tăng thêm khó khăn, phức tạp trong
quản lý và tạo kẽ hở cho trốn lậu thuế. Thuế doanh thu nhiều mức thuế suất bảo hộ đến
từng ngành hàng, mặt khác chỉ phù hợp với thời kỳ kế hoạch hoá, giá cả hàng hoá dịch
vụ đều do Nhà nước thống nhất quản lý.


2.2. Do yêu cầu hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực
Thời đại ngày nay, mỗi quốc gia không thể tồn tại biệt lập để có thể phát triển
nền kinh tế- xã hội mà cần có sự hợp tác song phương, đa phương. Đó là xu hướng
hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng phát triển. Tất yếu dẫn đến yêu cầu đối với mỗi
nước là phải cải cách cơ chế chính sách của mình. Trong đó cải cách thuế được xem là

một nội dung có tầm quan trọng hàng đầu nhằm có thể phát huy tác dụng công cụ thuế
điều tiết vĩ mô nền kinh tế phù hợp thông lệ trong khu vực và quốc tế. Đặc biệt, trong
tình hình Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN và từng bước hội nhập AFTA, APEC.
Biện pháp hữu hiệu là phải cải cách thuế theo xu hướng chung: Hạ thuế suất đi đôi với
mở rộng diện tính thu thuế, hạn chế đối tượng miễn giảm thuế, vừa khuyến khích sản
xuất phát triển, vừa tạo điều kiện động viên được sự đóng góp đại đa số tầng lớp nhân
dân. Trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực
và thế giới, thuế cũ không còn phù hợp mà cần thiết phải thay đổi.
Nhiều nước trong khu vực và thế giới đã áp dụng thuế GTGT để khắc phục sự
trùng lắp của thuế doanh thu và tăng doanh thu cho NSNN như: Thuỵ Điển áp dụng từ
1/1/1989, Inđônêxia áp dụng tháng 4/1985, Đài Loan áp dụng tháng 4/1996, Philippin
áp dụng tháng 1/1998, Nhật Bản áp dụng tháng 4/1989, Thái Lan áp dụng tháng
1/1995…
Để có hệ thống chính sách phù hợp, đồng bộ, hoàn thiện và luôn theo kịp sự vận
động, phát triển với thực tế của nền kinh tế là điều cần thiết và cấp bách. Quán triệt
tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình cải cách, đổi mới nền kinh tế đã chú
trọng đến đổi mới hệ thống thuế bao gồm cả chính sách và bộ máy hành thu để bảo
đảm hệ thống pháp luật thuế luôn phù hợp và thực thi có hiệu quả. Tiếp theo cải cách
thuế bước I (1990-1996) Quốc hội, Chính phủ đã tiến hành ngay cải cách thuế bước II
nhằm khắc phục những bất cập, đưa hệ thống thuế bắt kịp với thực tế phát triển của
nền kinh tế nước ta. Khâu đột phá có tính chất quyết định của công cuộc cải cách thuế
bước II là việc Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 11 (từ 2/4-10/5/1997) đã thông qua hai
luật thuế cơ bản đại diện cho hai loại thuế, đó là luật thuế GTGT (đại diện cho loại
thuế gián thu), thuế thu nhập doanh nghiệp (đại diện cho loại thuế trực thu). Hai luật
thuế này được áp dụng từ ngày 1/1/1999 thay thế luật thuế doanh thu và thuế lợi tức.

×