Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

khotailieu.com_XXS71930x

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.97 KB, 72 trang )

Lời mở đầu
Hiện nay, Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch
hoá tập chung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện đó nhiều loại hình doanh nghiệp , nhiều
loại hình kinh tế cùng tồn tại, cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Cũng
trong giai đoạn này Việt Nam không ngừng mở rộng mối quan hệ hợp tác vủa
mình với các nước trên Thế Giới, nhằm phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước
ngoài, đưa Việt Nam sánh vai cùng các cường quốc Năm châu như Bác Hồ hằng
mong ước. Sau bao nhiêu khó khăn và nỗ lực của Đảng và Nhà nước cùng với
toàn thể nhân dân Việt Nam trong năm 2006 vừa qua Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế Giới WTO, mở ra nhiều cơ hội cũng
như thách thức với dân tộc Việt Nam.
Để tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh
doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng của mỗi doanh nghiệp phải
đạt được hiệu quả cao. Hiệu quả là mục tiêu phấn đấu cuối cùng của mỗi đơn vị kinh
doanh. Điều đó hoàn toàn chính đáng và là lý do cơ bản để các doanh nghiệp cùng
tồn tại và phát triển trên thị trường. Rất nhiều các Công ty các doanh nghiệp hiện
nay không khỏi bỡ ngỡ trước những thay đổI do sự kiện này đem lại, như các điều
ước Quốc Tế, các luật định do WTO đề ra với các nước thành viên và những cam kết
do Việt Nam đề ra khi trở thành thành viên của WTO.
Về phương diện lý luận, vấn đề hoàn thiện hoạt động kinh doanh nói chung, kinh
doanh xuất nhập khẩu nói riêng có rất nhiều quan điểm khác nhau. Vì vậy, việc
nghiên cứu hoàn thiện xuất nhập khẩu của doanh nghiệp trong điều kiện Việt
Nam gia nhập WTO là rất cần thiết trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, với sự giúp đỡ tận tình
của giáo viên hướng dẫn PTS.TS Nguyễn Thị Xuân Hương, các nhân viên trong
công ty xuất nhập khẩu hàng không- AIRIMEX , tôi chọn đề tài: Cơ hộI thách
thức và những giảI pháo hoàn thiện hoạt động Xuất Nhập Khẩu của Tổng Công ty cổ
phần Xuất nhập khẩu Hàng không-AIRIMEX làm chuyên đề khóa luận tốt nghiệp.
1
1


Chương I: Lý luận chung về hợp đồng Xuất Nhập Khẩu trong điều kiện Việt
Nam là thành viên của WTO.
I. XUẤT NHẬP KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA XUẤT NHẬP KHẨU ĐỐI VỚI
VIỆT NAM KHI LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO
1. Khái niệm chung về xuất nhập khẩu:
Hiện nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với khoảng 200 quốc gia và vùng
lãnh thổ, Việt Nam đã kí 86 hiệp định thương mại song phương, 46 hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư, 46 hiệp định tránh thuế hai lần với các quốc gia và vùng lãnh
thổ.Trong đó hiệp định thuơng mại Việt Nam – Hoa Kỳ là một hiệp định đựoc đàm
phán và lý kết trên cơ sở các hiệp định của WTO. Nếu trong năm 1990 kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam mới đạt 2,4 tỷ USD thì tới năm 2003 kim ngạch xuất khẩu
đã đạt 20,176 tỷ USD, tăng 39% so với kim ngạch xuất khẩu năm 2000; sang năm
2004 kim ngạch xuất khẩu đạt 25 tỷ USD, tăng mỗi năm trung bình trên 20%, có năm
tăng 30%( gấp 8 lần so với năm 1990). Đến nay, số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu
đã tăng lên 16.200 doanh nghiệp so với 12 doanh nghiệp năm 1987 và 495 doanh
nghiệp năm 1991.
Theo điều 3 của Luật Thương mại 2005 thì:
1. Hoạt động thương mại là tất cả các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, trong
đó bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
2. Hàng hóa bao gồm:
a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai.
b) Tất cả những vật gắn liền với đất đai.
3. Thói quen trong hoạt động thương mại là tất cả các quy tắc xử sự có nội
dung rõ ràng được hình thành và lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài giữa các
bên, được các bên mặc nhiên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng thương mại.
4. Tập quán thương mại là những thói quen được thừa nhận rộng rãi trong
2
2

hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội
dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hoạt động thương mại.
5. Mua bán hàng hoá là tất cả các hoạt động thương mại, theo đó bên bán có
nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán;
bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá
theo thỏa thuận.
6. Cung ứng dịch vụ là một trong các hoạt động thương mại, theo đó một
bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một
bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có
nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa
thuận.
7. Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán
hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương
mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại.
8. Các hoạt động trung gian thương mại là tất cả các hoạt động của thương
nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được
xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác
mua bán hàng hoá và đại lý thương mại.
Điều 27. Mua bán hàng hoá quốc tế
1. Mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu,
nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.
2. Mua bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng
văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
Điều 28. Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá
1. Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam
hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực
hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
2. Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ
3

3
nước ngoài hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu
vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
3. Căn cứ vào các điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ và các điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định
cụ thể danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, danh mục hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu theo giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và thủ tục cấp
giấy phép.
Điều 29. Tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập hàng hoá
1. Tạm nhập, tái xuất hàng hóa là việc hàng hoá được đưa từ nước ngoài hoặc
từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan
riêng theo quy định của pháp luật vào Việt Nam, có làm thủ tục nhập khẩu vào Việt
Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam.
2. Tạm xuất, tái nhập hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc
đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải
quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và
làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam.
2. Vai trò của Xuất Nhập Khẩu :
Toàn cầu hoá hiện đang là một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ
quốc tế hiện đại.Toàn cầu hóa nói chung và toàn cầu hoá kinh tế- thương mại quốc tế
nói riêng được cho rằng đó là một xu thế khách quan, thậm chí không thể cưỡng lại
được và là một xu thế không thể không tính đến, dù quốc gia đó đang ở bậc thang
phát triển nào. Một nước muốn có cơ hội phát triển, muốn khai thác tối đa lợi thế so
sánh của mình thì nước đó không thể đứng ngoài xu thế chung của thời đại. Hội nhập
thương mại quốc tế càng cao thì các nền kinh tế phụ thuộc lẫn nhau càng rộng lớn.
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước trên thế giới.
Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương lai -
với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh doanh dịch
vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế
4

4
nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc biệt quan
trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Hai là: Khi tham gia hoạt động xuất nhập khẩu với các nước trên thế giới thì môi
trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan
trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà
còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và
công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và
chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo
đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước ngoài
có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày càng nổi trội: năm
2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch
xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ba là: Tham gia các hoạt động xuất nhập khẩu với cá nước trên Thế Giới chúng ta có
được vị thế bình đẳng như các các nước phát triển khác trong việc hoạch định chính
sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế
mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của
doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta,
vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý điều hành của ta.
Bốn là: Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế kinh
tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính các hoạt
động Xuất Nhập Khẩu với các nước trên Thế giới và hội nhập vào nền kinh tế thế
giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của
ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới,
việc Việt Nam tham gia vào các hoạt động Xuất Nhập Khẩu và gia nhập WTO sẽ
nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả
5

5
đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
II. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TRONG ĐIỀU
KIỆN VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO
1. Nghiên cứu thị trường trong nước và Quốc tế để xác định mặt hàng Xuất Nhập
Khẩu
Trong lịch sử hình thành và phát triển của Tổng công ty cổ phần xuất nhập
khẩu hàng Không phần lớn các hoạt động của là nhập khẩu ủy thác và được người ủy
thác cung cấp sẵn địa chỉ của người nhập khẩu nên các hoạt động nghiên cứu thị
trường kém và thường nằm trong thế bị động. Nhưng trong điều kiện hiện nay, khi
nước ta bắt đầu chính sách mở cửa và có nhiều thay đổi trong cơ chế quản lý thị
trường, chính phủ đã cho phép các công ty trong nước mở rộng thị trường ra nước
ngoài và cho phép các công ty nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam. Do vậy mảng
kinh doanh nhận ủy thác của công ty ngày càng được thu hẹp, Công ty chỉ nhận đặt
hàng với các Công ty có tiếng khác và uy tín trên thị trường, đồng thời đây là những
người bạn lâu năm của công ty. Hơn nữa, các công ty thuê chỉ định ủy thác trước đây,
trong điều kiện thị trường mới cũng mở rộng lĩnh vực kinh doanh, đảm nhiệm công
việc của công ty ủy thác trước đây, bớt được chi phí đi thuê ủy thác, nhằm tăng doanh
thu cho công ty mình. Hơn nữa trong những năm trở lại đây công ty bắt đầu thực hiện
một hình thức kinh doanh mới, đó là đấu thầu mua bán hàng nhập khẩu, do đó công
tác nghiên cứu thị trường lại càng trở nên quan trọng hơn. Do đó trước mắt công ty
thiết lập riêng một bộ phận chuyên trách công tác nghiên cứu thị trường, nhiệm vụ
này là làm mọi cách để mở rộng thị trường kinh doanh của công ty. Bộ phận này
cũng ko nháp thiết phải được lập thành một phòng ban riêng biệt, nó có thể là một bộ
phận của phòng Marketing, phòng nghiệp vụ hay phòng kinh doanh, gồm một nhóm
cán bộ chuyên môn về nghiên cứu thị trường phục vụ cho nghiệp vụ đặc trưng của
mỗi phòng. Trước đây, bạn hàng của Công ty chủ yếu là các công ty thuộc bộ phận
quản lý của Tổng công ty Hàng Không Việt Nam, nhưng hiện nay Công ty không
những nghiên cứu và chiếm lĩnh thị trường trong nước mà còn vươn ra thị trường

6
6
nước ngoài. Nhận nhập khẩu các linh kiện, máy móc thiết bị từ nước ngoài vào Việt
Nam. Công ty cũng có văn phòng đại diện tại Liên Bang Nga, đây cũng là trụ sở
chính của công ty tại Châu Âu, phụ trách công việc tìm hiểu thị trường quốc tế, kí kết
các hợp đồng xuất nhập khẩu Quốc Tế. Trong tương lai, công ty sẽ kí kết nhiều hợp
đồng hơn nữa với các đối tác nước ngoài để mở rộng thị trường kinh doanh sang thị
trường tiềm năng như Châu Âu, Châu Mỹ…
Hiện nay khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại
Thế Giới WTO, cơ hội đuợc tham gia các hoạt động thương mại với các nước trên
Thế Giới sẽ ngày càng phát triển. Airimex sẽ có cơ hội ký kết các hợp đồng lớn với
tất cả các quốc gia trên Thế Giới. Việc này đi đôi với những thay đổi trong tất cả các
lĩnh vực của hoạt động xuất nhập khẩu, những thay đổi là tất yếu và Việt Nam cũng
như Airimex không còn cách nào khác là phải thích nghi nếu muốn tồn tại và phát
triển. Có rất nhiều cách nhằm thay đổi một mặt hàng sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm
đáp ứng đòi hỏi về đặc điểm thực thể của sản phẩm ở thị trường mới. Đó là những
thay đổi từ đơn giản như bao bì, cách thức giao hàng phân phối sản phẩm liên quan
đến sản phẩm và dịch vụ Hàng Không cho đển những thay đổi phức tạp như toàn bộ
thiết kế phần chính yếu của sản phẩm. Có những thay đổi là hiển nhiên không cần nỏ
công nghiên cứu thị trường như với nước có hệ thống điện áp khác nhau thì các đồ
điện tử phải được lắp thích hợp với các loại điện áp đa dạng. Còn với những nước có
trình độ công nghiệp thấp thì sản phẩm phải được đã dạng hóa. Cũng có thể có thay
đổi do yêu cầu của luật pháp nước đó thì mác hiệu sản phẩm phải được in ra nhiều
loại ngôn ngữ. Một số loại thay đổi cần thiết khác lại thực hiện sau khi đã nghiên cứu
cmột cách công phu thị trường mục tiêu.
Nếu như những thay đổi của sản phẩm là do nguyên nhân phải phù hợp với
các nhân tố chính trị, công nghệ, khí hậu của thị trường mục tiêu thì ác quyết định về
kích cỡ, bao bì đóng gói tiêu chuẩn chất lượng an toàn nhiều khi là để phù hợp với
pháp luật. Mà mỗi nước luật pháp lại quy định khác nhau. Do vậy Airimex phải thật
thận trọng trong các hoạt động xuất nhập khẩu với các đối tác nước ngoài, không

những phải tìm hiểu thật kỹ mọi vấn đề có liên quan như đã nêu ở trên mà trong quá
7
7
trình tìm hiểu xem xét phải hoàn toàn dựa theo các điều lệ mà WTO đã ban hành và
bên phía Việt Nam đã cam kết thực hiện.
2. Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu
- Hợp đồng: là các thỏa thuận được lập dưới hình thưc văn bản được lý kết giữa công
ty CP XNK Hàng Không với các đối tác khác để mua hoặc bán hàng hóa và dịch vụ.
- Hợp đồng bán: là hợp đồng trong đó công ty CP XNK Hàng không là người bán
hàng hóa dịch vụ ( Bao gồm cả hợp đồng của Công ty CP XNK Hàng không làm đại
diện, đại lý phân phối hàng hóa và dịch vụ cho các Hãng nước ngoài và hợp đồng
xuất khẩu )
- Hợp đồng mua: là hợp đồng trong đó công ty CP XNK Hàng không là người mua
hàng hóa và dịch vụ có thể bao gồm một hoặc một số trong các loại hợp đồng sau:
+Hợp đồng xuất nhập khẩu vật tư, hàng hóa và dịch vụ từ nước ngoài.
+Hợp đồng mua bán hoàng hóa vật tư có sẵn tại Việt Nam hay do Việt Nam sản
xuất.
+Hợp đồng thuê dịch vụ lắp đặt hay dịch vụ liên quan trong nước hay ngoài nước.
+Hợp đồng môi giới tư vấn ( nếu có ).
+ Hợp đồng vận tải, hợp đồng bảo hiểm hàng hóa.
+Hợp đồng liên doanh, liên kết.
2.1. Giao dịch và ký kết hợp đồng:
Chuyên viên thực thi dự án có trách nhiệm theo dõi sát và thường xuyên các
thông tin có liên quan đến việc xét chọn chào hàng từ phía khách hàng để nắm được
tính thời sự của dự án và làm rõ hồ sơ chào hàng ( nếu có ).
- Trong trường hợp chào hàng của công ty không được xét chọn: lập tức làm ngay thủ
tục rút bảo lãnh chào hàng / dự thầu sớm nhất có thể. Trách nhiệm rút bảo lãnh này
thuộc về chuyên viên thực thi dự án, phải đảm bảo đưa ngay bảo lãnh về lại phòng
TC-KT để xử lý kịp thời.
- Trong trường hợp chào hàng của công ty được xét chọn: trong trường hợp người ký

kết hợp đồng không phải là giám đốc Công ty thì người được giám đốc công ty ủy
quyền bằng văn bản mới có quyền ký kết hợp đồng. Khi trình giám đốc công ty ký
8
8
giấy ủy quyền ký kết hợp đồng, phải trình kèm theo phương án kinh doanh đã được
các cấp có thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp quản lý. Người được ủy quyền chịu
trách nhiệm trước giám đốc công ty và pháp luật nhà nước về công việc được ủy
quyền.
Tùy tình hình cụ thể , trưởng phòng nghiệp vụ có thể báo cáo lãnh đạo công ty lập
đơn hàng mua hàng trước để dảm bảo đáp ứng tiến độ dự án. ( Hợp đồng mua chi tiết
sẽ được ký sau hợp đồng bán ).
2.2. Thương thảo và ký kết hợp đồng lắp đặt, dịch vụ và các hợp đồng khác
Nếu có ( trong trường hợp công ty không có điều kiện tự làm ): Căn cứ vào hồ
sơ mời chào hàng và chào hàng: Cần lưu ý chọn đối tác có chức năng, có trình độ,
khả năng và kinh nghiệm phù hợp, có giấy phép thực hiện công việc như quy định tại
Mục 2.1 trên.
3. Thực hiện hợp đồng
a. Ngay sau khi các hợp đồng liên quan đến dự án được ký kết, chuyên viên thực thi
dự án phảI bàn giao ngay một bộ đầy đủ hồ sơ hợp đồng ngay cho phòng Tài chính –
Kế toán để phối hợp thực hiện.
b. Chuyên viên thực thi dự án căn cứ vào nội dung các hợp đồng đã ký để theo dõi và
kết hợp với phòng Tài chính – kế toán thực hiện hợp đồng theo đúng nội dung đã ký
và đảm bảo đáp ứng tiến độ của dự án. Trường hợp việc thực hiện Hợp đồng phải có
giấy phép của Cơ quan nhà nước hữu quan thì ngay sau khi hợp đồng đã được ký kết,
chuyên viên thực hiện dự án phải tiến hành các thủ tục xin phép.
c. Phòng Tài chính – kế toán chịu trách nhiệm làm thủ tục thanh toán căn cư vào đề
nghị của phòng nghiệp vụ đảm bảo đúng tiến độ thanh toán quy định trong hợp đồng
mua và làm thủ tục đòi tiền người mua theo đúng quy định trong hợp đồng bán.
d. Phòng Tài chính – kế toán chịu trách nhiệm chính trong việc chủ động cân đối, bố
trí sử dụng vốn và/ hoặc vay vốn ( nếu có ) căn cứ vào yêu cầu thanh toán của dự án,

hoặc mua/vay ngoại tệ dự trữ cho việc thanh toán cho dự án ( trong trường hợp xu
hướng ngoại tệ thị trường biến đông bất lợi ) và báo cáo giám đốc công ty xem xét
quyết định.
9
9
4. Đánh giá hoạt động xuất nhập khẩu
- Ngay sau khi mỗi hợp đồng được thực hiện hoàn chỉnh, chuyên viên tài chính có
trách nhiệm tập hợp đầy đủ số liệu ( có sự phối hợp của chuyên viên thực thi dự án
của Phòng Nghiệp Vụ ) tiến hành lập Bảng tổng kết Hợp đồng để đánh giá hiệu quả
của Hợp đồng và rút kinh nghiệm, nếu có. Báo cáo tổng kết hợp đồng phải thông qua
kế toán trưởng, trưởng phòng KH-HC-LĐTL và trưởng phòng Nghiệp vụ trước khi
trình giám đốc Công ty.
- Hàng quý hoặc sáu tháng một lần phòng tài chính – Kế toán, phòng nghiệp vụ và
phòng KH-HC-LĐTL tổ chức cuộc họp liên tịch để xem xét các bản tổng kết Hợp
đồng và rút kinh nghiệm, đồng thời xem xét các bản tổng kết Hợp đồng và rút kinh
nghiệm, đồng thời xem xét khả năng báo cáo Giám đốc Công ty về việc thưởng phạt
vật chất đối với các bộ phận và các cá nhân tùy thuộc vào hiệu quả của mỗi hợp
đồng.
- Lập báo cáo thưởng, phạt đối với hiệu quả thực hiện hợp đồng, nếu có. Báo cáo này
do phòng nghiệp vụ lập và trước khi gửi lên Giám đốc Công ty xem xét phải có chữ
ký chấp nhận đề nghị của trưởng phòng nghiệp vụ, trưởng phòng KH-HC-LĐTL và
kế toán trưởng của Công ty.
1
1
III. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA WTO VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
VÀ NHỮNG CAM KÉT CỦA VIỆT NAM
1. Một số quy định của WTO đối với hoạt động Xuất Nhập Khẩu của Việt Nam:
1.1. Những quy định về thuế quan của WTO
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế quan
Thuế quan là thuế lấy vật phẩm xuất khẩu qua biên giới quốc gia hay quá cảnh

làm đối tượng thu thuế, tạo thành khoản thu nhập thuế của Nhà nước do hải quan
thực hiện.
Theo tiêu chí khác nhau, có thể phân loại và gọi tên thuế quan theo nhiều cách.
Ví dụ: theo hướng lưu thông hàng hoá xuất nhập khẩu có thuế quan xuất khẩu, thuế
quan nhập khẩu, thuế quá cảnh; theo phương pháp đánh thuế có thuế quan tính theo
giá, thuế quan tính theo lượng, thuế quan hỗn hợp; theo mức ưu đãi có thuế quan
thông thường, thuế quan ưu đãi, thuế quan ưu đãi đặc biệt, thuế quan đãi ngộ Tối huệ
quốc... Mặc dù có thể phân ra nhiều loại thuế như vậy nhưng thuế quan nói chung có
những đặc điểm chủ yếu sau:
- Tạo nguồn thu cho ngân sách.
- Bảo hộ thúc đẩy sản xuất nội địa phát triển.
- Cản trở sự phát triển của thương mại.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, WTO cũng như các tổ chức kinh tế quốc tế khác,
luôn coi mục tiêu quan trọng của mình là tự do thương mại, huỷ bỏ cắt giảm rào cản
thương mại, trong đó có thuế quan.
1.1.2. Quy định về thuế quan
WTO thừa nhận thuế quan là công cụ bảo hộ hợp pháp duy nhất để bảo hộ sản
xuất trong nước, còn các hàng rào phi thuế phải được bãi bỏ. Sở dĩ là do thuế quan là
biện pháp bảo hộ ít bóp méo thương mại nhất và cũng là biện pháp mang tính minh
bạch hơn cả.
 Thuế hoá: chỉ sử dụng thuế quan
Do tính rõ ràng dễ đàm phán cắt giảm của thuế quan, các thành viên WTO thoả
thuận một cách thức mới cho việc tiếp cận thị trường là "chỉ sử dụng thuế quan". Các
1
1
biện pháp hạn chế số lượng tồn tại trước vòng Uruguay nay phải tiến hành "thuế
hoá" (Tariffication) tức là chuyển biện pháp phi thuế đó thành một mức thuế quan bổ
sung có tác dụng tương đương. Mức thuế đạt được sau khi thuế hoá tiếp tục được
ràng buộc và cắt giảm thông qua đàm phán. Trong tương lai 95% số hàng hoá trong
mậu dịch quốc tế sẽ được điều tiết chủ yếu bằng công cụ thuế quan.

 Cắt giảm thuế
Từ khi ra đời đến nay, GATT, nay là WTO, bỏ ra rất nhiều nỗ lực để cắt giảm
thuế quan đánh vào hàng hoá nhập khẩu. Có thể thấy trong tất cả 8 vòng đàm phán
từ năm 1947 đến năm 1994, chủ đề chính vẫn là cắt giảm và ràng buộc thuế quan.
Với các nước phát triển thì việc thực hiện cắt giảm thuế quan không phải là khó
khăn. Nhưng với các nước đang phát triển, có nguồn thu ngân sách hạn hẹp và sức
cạnh tranh của sản xuất trong nước yếu kém thì đây là một vấn đề nan giải. Tuy
vậy, các thành viên của GATT đã đạt được thoả thuận giảm thuế cho 89.000 hạng
mục hàng hoá. Riêng ở vòng đàm phán Uruguay, các cam kết cắt giảm và ràng
buộc thuế quan đối với hàng nhập khẩu của các nước thành viên lên tới 22.500
trang văn bản.
Bảng 1: Mức thuế trung bình trước và sau Vòng Uruguay
Đơn vị: %
Tên nước
Nơi đến
Các nước
công nghiệp
Các nước đang
phát triển
Các nước có nền
kinh tế chuyển
đổi
Trư
ớc
S
a
u
M

c

g
i

m
Trư
ớc
S
a
u
M

c
g
i

m
Trư
ớc
S
a
u
M

c
g
i

m
Các nước công
nghiệp

5,5 3,
0
4
5
14,
9
1
0,
2
8
10,4 7,
7
2
6
1
1
7
Mỹ 4,4
1,
9
5
7
13,
6
1
0,
2
2
5
8,3

6,
1
2
7
EU 5,8
3,
5
4
0
18,
4
1
3,
8
2
5
10,6
7,
9
2
5
Nhật 6,2
3,
6
4
2
14,
1
9,
3

3
4
14,0
1
0,
9
2
2
Nước khác 4,9
2,
4
5
1
12,
4
9,
0
3
5
9,6
7,
0
2
7
Nước đang phát
triển
6,9
4,
8
3

0
10,
0
7,
1
2
9
12,1
8,
8
2
7
Mỹ la-tinh 4,4
3,
2
2
7
13,
4
1
0,
1
2
5
5,1
2,
9
4
3
Châu Á 7,8

5,
2
3
3
9,6
6,
7
3
0
13,7
9,
7
2
9
Châu Mỹ 8,4
6,
7
2
0
2,5
1,
1
5
6
5,0
2,
8
4
4
Châu Âu 9,5

7,
3
2
3
18,
6
1
4,
9
2
0
16,0
1
3,
9
1
3
Nước có nền kinh
tế
chuyển đổi
5,9
3,
6
3
9
20,
8
1
5,
7

2
5
0,4
0,
3
2
5
Nguồn: World Bank
 Ràng buộc thuế quan
Thực tế, có thể gặp tới 3 loại ràng buộc thuế quan tương ứng với mức độ
ràng buộc:
- Thuế suất ràng buộc cao hơn thuế suất thực tế đang áp dụng. Trường hợp này
hay gặp ở các nước đang phát triển. Mức thuế ràng buộc được gọi là mức thuế trần.
1
1
Vì giữa mức thuế thực tế và mức thuế trần có một khoảng cách nên nước cam kết
ràng buộc thuế hoàn toàn có thể tăng thuế suất thực tế của mình mà vẫn không vi
phạm cam kết.
- Thuế suất ràng buộc bằng thuế suất thực tế áp dụng.
- Thuế suất ràng buộc thấp hơn thuế suất thực tế áp dụng.
Đối với các sản phẩm nông nghiệp, các nước thành viên cam kết ràng buộc thuế
quan đối với 100% các mặt hàng, Hầu như tất cả các hạn chế khác đều được quyền
chuyển sang thuế. Còn trong lĩnh vực công nghiệp, các nước phát triển tăng mức cam
kết ràng buộc từ 77% lên 99% mặt hàng, các nước đang phát triển cũng tăng từ 21%
lên 73%, các nước có nền kinh tế chuyển đổi tăng từ 73% lên 98%. Các con số này
đảm bảo mức độ tiếp cận thị trường an toàn hơn cho các nhà đầu tư và kinh doanh
quốc tế.
WTO có thể chấp nhận việc phá bỏ cam kết ràng buộc thuế trong một số trường
hợp ngoại lệ nhưng sau đó, nước phá bỏ cam kết ràng buộc thuế phải đền bù cho
phần thương mại mà các bạn hàng bị mất đi.

 Không phân biệt đối xử
Thuế quan phải được áp dụng trên nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN) cho tất cả
các thành viên WTO. Mà chế độ MFN của WTO, là chế độ MFN đa phương, vô điều
kiện. Vì thế, nếu một nước, thông qua đàm phán, giảm thuế quan cho một mặt hàng
nhất định của một nước khác thì cũng phải giảm thuế quan cho mặt hàng đó của tất
cả các thành viên của WTO còn lại một cách vô điều kiện và ngay lập tức. Đây là một
điều hết sức quý giá vì bất kỳ một quốc gia nào gia nhập WTO vào thời điểm hiện
nay sẽ được hưởng ngay lập tức và vô điều kiện kết quả của suốt hơn 50 năm với 8
vòng đàm phán ròng rã cắt giảm thuế quan đa phương mà không phải mất một công
sức gì. Quốc gia đó đương nhiên được hưởng thuế quan MFN và các ưu đãi liên quan
tới thủ tục về thuế khác của tất cả các thành viên của WTO dựa trên cơ sở không
phân biệt đối xử.
1.2. Những quy định về các biện pháp phi thuế quan của WTO
1
1
1.2.1. Cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu
Nguyên tắc tự do hoá thương mại của WTO không cho phép các nước sử dụng
biện pháp cấm xuất khẩu hay cấm nhập khẩu vì điều đó ảnh hưởng đến luồng lưu
chuyển hàng hoá giữa các quốc gia, hạn chế sự phát triển của thương mại thế giới.
Do đó, Điều XI GATT 1994 quy định: "Không một nước thành viên nào được sử
dụng một biện pháp cấm hay hạn chế nào trừ thuế quan, dù mang hình thức hạn
ngạch, giấy phép nhập khẩu hay xuất khẩu hoặc các biện pháp khác nhằm vào việc
nhập khẩu từ bất kỳ một nước thành viên khác" (Điều XI.1 - GATT 1994).
1.2.2. Hạn ngạch
Hạn ngạch là biện pháp hạn chế số lượng xuất, nhập khẩu. Có hai loại hạn
ngạch:
- Hạn ngạch xuất khẩu (Export quotas): là các hạn chế về giới hạn trần do nước
xuất khẩu áp đặt cho tổng giá trị hoặc tổng khối lượng của một số sản phẩm nhất
định. Hạn ngạch xuất khẩu được đặt ra để bảo vệ các nhà sản xuất và tiêu dùng trong
nước khỏi sự thiếu hụt tạm thời của các sản phẩm và để cải thiện giá của các sản

phẩm trên thị trường thế giới bằng việc thu hẹp nguồn cung cấp chúng.
- Hạn ngạch nhập khẩu (Import quotas): là sự hạn chế trực tiếp về khối lượng
hoặc giá trị nhập khẩu của những loại hàng hoá nhất định được phép mang từ nước
ngoài vào trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Ở các nước phát triển,
hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng để bảo vệ nông nghiệp, ví dụ hạn ngạch nhập
khẩu pho-mát, đường ở Mỹ và EU. Còn các quốc gia đang phát triển quy định hạn
ngạch nhập khẩu để bảo vệ sản xuất nội địa, hỗ trợ sản xuất hàng thay thế nhập khẩu
mà phần lớn là công nghệ chế tạo hay công nghiệp chế biến và để cân bằng cán cân
thanh toán.
Việc quy định hạn ngạch hoàn toàn không có lợi cho tiêu dùng. Xã hội phải bỏ
ra khoản chi phí cho việc bảo hộ sản xuất nội địa kém hiệu quả. Hạn ngạch cản trở tự
do lưu thông hàng hoá trên thị trường thế giới. Vì vậy, Điều XI GATT 1994 quy định:
"Không một nước thành viên nào được sử dụng một biện pháp cấm hay hạn chế nào
trừ thuế quan, dù mang hình thức hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu hay xuất khẩu
1
1
hoặc các biện pháp khác nhằm vào việc nhập khẩu từ bất kỳ một nước thành viên
khác" (Điều XI.1 - GATT 1994).
Khi áp dụng hạn ngạch, các nước còn phải tuân theo nguyên tắc không phân
biệt đối xử. Tức là việc hạn chế hàng xuất, nhập khẩu phải được áp dụng cho những
mặt hàng tương tự xuất khẩu đi hoặc nhập khẩu từ tất cả các nước thành viên WTO
(Điều XIII.1).
Điều XIII.2 còn quy định khi áp dụng hạn ngạch nhập khẩu với một sản phẩm,
các nước sẽ cố gắng đạt đến sự phân bổ sản phẩm đó gần sát nhất với thực trạng
thương mại khi không có hạn ngạch, theo các quy định sau:
- Khi có thể tiến hành được, phải xác định và công bố tổng hạn ngạch cho phép
nhập khẩu cũng như công bố mọi thay đổi liên quan.
- Khi không thể xác định được tổng hạn ngạch, các hạn chế về số lượng có thể
được áp dụng bằng giấy phép nhập khẩu không hạn ngạch để thay thế.
- Khi hạn ngạch được phân bổ giữa các nước xuất khẩu, nước áp dụng hạn

ngạch có thể thoả thuận với các nước có quyền lợi đáng kể trong việc các sản
phẩm đó về mức phân bổ.
1.2.3. Cấp phép nhập khẩu
Điều 1 Hiệp định ILP đề ra những quy tắc cho việc áp dụng và thi hành các thủ
tục nhà nước về cấp phép nhập khẩu. Hiệp định định nghĩa “việc cấp phép nhập
khẩu” là “các thủ tục hành chính yêu cầu xuất trình đơn xin cấp cho cơ quan quản lý
liên quan, là điều kiện tiên quyết cho việc nhập khẩu hàng hoá”.
Hiệp định ILP bắt buộc nước thành viên công bố quy định về thủ tục cấp phép
nhập khẩu, để các nhà nhập khẩu, xuất khẩu và chính phủ của họ hiểu biết đầy đủ về:
tư cách của những cá nhân, các công ty và các tổ chức làm đơn xin cấp; cơ quan quản
lý hành chính chịu trách nhiệm cấp giấy phép; và những sản phẩm cần có giấy phép.
Hiệp định phân định giấy phép nhập khẩu thành hai loại: loại giấy phép tự động
và loại giấy phép không tự động. Cụ thể:
Cấp phép nhập khẩu tự động (mặc nhiên): các cơ quan hành chính có thẩm
quyền cấp phép một cách tự động mà không được tuỳ ý quyết định và “giấy phép
1
1
được cấp trong tất cả các trường hợp”. Hiệp định yêu cầu việc chấp thuận hoặc cấp
phép lập tức ngay khi chấp nhận đơn và “chỉ trong thời hạn tối đa là 10 ngày làm
việc” bất luận trong trường hợp nào (Điều 2 Hiệp định ILP).
Cấp phép nhập khẩu không tự động (có điều kiện): được sử dụng cho mục đích
chủ yếu của chính phủ là hạn chế nhập khẩu. Chính phủ có thể thực hiện điều này
bằng cách thông báo hạn ngạch hoặc giới hạn định lượng áp dụng đối với hàng hoá
hạn chế. Hiệp định đòi hỏi giấy phép nhập khẩu phải được cấp trong vòng 30 ngày kể
từ lúc nhận đơn, thủ tục nơi cấp phép quy định rằng giấy phép được cấp trên cơ sở
“đến trước giải quyết trước”. Trường hợp trong vòng 60 ngày tính từ ngày ngừng
nhận đơn xin cấp phép thì giấy phép được cấp trên cơ sở “được xem xét đồng thời”
(Điều 3 Hiệp định ILP).
1.2.4. Hàng rào kỹ thuật trong thương mại
(1) Các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn kỹ thuật

Các quy định quốc tế áp dụng cho các tiêu chuẩn sản phẩm được sử dụng trong
thương mại hàng hoá và các thủ tục sử dụng cho việc đánh giá sự phù hợp với các
tiêu chuẩn đó được quy định trong Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật trong thương mại
(Agreement on Technical Barriers to Trade - Hiệp định TBT). Hiệp định đã sử dụng
thuật ngữ “quy định kỹ thuật để chỉ các tiêu chuẩn mà việc tuân thủ là bắt buộc. Còn
thuật ngữ “tiêu chuẩn kỹ thuật” thì được sử dụng để dùng cho các tiêu chuẩn không
bắt.
Cả hai thuật ngữ bao hàm: (i) Các đặc tính của sản phẩm bao gồm cả những đặc
tính liên quan đến chất lượng; (ii) Quy trình và các phương pháp sản xuất (PPMs) có
ảnh hưởng đến đặc tính của sản phẩm; (iii) Thuật ngữ và ký hiệu; và (iv) Các yêu cầu
về đóng gói và ghi nhãn mác được áp dụng cho các sản phẩm.
(2) Đánh giá sự phù hợp
- Kiểm nghiệm sản phẩm: Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO) định nghĩa
một phép kiểm nghiệm, trong khuôn khổ đánh giá tính phù hợp, là “Một thao tác kỹ
thuật bao gồm việc xác định một hay nhiều đặc điểm của một sản phẩm, một công
đoạn hay dịch vụ nhất định theo một quy trình quy định”.
1
1
- Chứng nhận sản phẩm sau khi giám định: ISO định nghĩa chứng nhận là “thủ
tục do một bên thứ ba đưa ra đảm bảo bằng văn bản là một sản phẩm, quá trình hay
dịch vụ phù hợp với các yêu cầu quy định”.
- Đánh giá hệ thống quản lý chất lượng: là đánh giá hệ thống đảm bảo chất
lượng do một bên thứ ba thực hiện nhằm đảm bảo với người mua là nhà sản xuất có
hệ thống hiệu quả và ổn định để có khả năng sản xuất sản phẩm có chất lượng và ổn
định. Đó là một công cụ quản lý sản xuất để kiểm định và giám sát các biến đổi trong
quá trình sản xuất mà dẫn tới những khiếm khuyết của sản phẩm.
- Các thủ tục chứng nhận năng lực: Ngành sản xuất và người tiêu dùng đều tin
tưởng vào các hệ thống đảm bảo phù hợp chất lượng nếu năng lực của phòng kiểm
nghiệm, các đơn vị chứng nhận sản phẩm hay cơ quan đăng ký đảm bảo chất lượng
được một cơ quan kỹ thuật độc lập chứng nhận. Thủ tục do các cơ quan kỹ thuật độc

lập như vậy tiến hành đánh giá và công nhận chính thức năng lực chuyên môn của
các cơ quan đánh giá sự phù hợp đã đề cập ở trên được coi là “các thủ tục chứng
nhận năng lực”.
2. Những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO:
2.1. Những cam kết về thương mại
Về dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may
đối với ta khi vào WTO, riêng trường hợp ta vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị
cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trả đũa nhất định.
Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng
dệt may của ta.
Về trợ cấp phi nông nghiệp, ta đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm
theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các
ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo
lưu thời gian quá độ là 5 năm, trừ ngành dệt may.
Về trợ cấp nông nghiệp, ta cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với
nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy
định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại
1
1
hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá
10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa
vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Có thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách của
nước ta cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông nghiệp ở mức này. Các loại trợ cấp
mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO
cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế.
Về quyền kinh doanh bao gồm quyền xuất nhập khẩu hàng hóa, tuân thủ quy
định WTO, ta đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất nhập
khẩu hàng hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ đối với các mặt hàng
thuộc danh mục thương mại nhà nước như: xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa
hình, báo chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời

gian chuyển đổi như gạo và dược phẩm.
Ta đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện
tại VN được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất khẩu chỉ là
quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi
trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia
vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh
hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối,
đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí...
Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, các thành viên WTO đồng ý cho ta thời
gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với
rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên 20
độ cồn ta hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phần trăm. Đối
với bia, ta sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm.
Về một số biện pháp hạn chế nhập khẩu, ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy
phân phối lớn không muộn hơn ngày 31-5-2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý
bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một doanh
nghiệp Nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà. Mức thuế
1
1
nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ô tô cũ ta cho
phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm.
Về yêu cầu minh bạch hóa, ta cam kết ngay từ khi gia nhập sẽ công bố dự thảo
các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ quốc hội và Chính
phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi tối
thiểu là 60 ngày. Ta cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên.
Về thuế nhập khẩu, mức cam kết chung là đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn
bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện
hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong 5-7 năm. Mức thuế bình
quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực
hiện trong 5-7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ

yếu trong vòng 5-7 năm.
Ta cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO
giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các
nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản
phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế.
2.2. Những cam kết về dịch vụ
Về cam kết mở của thị trường dịch vụ. Xét về diện cam kết, trong BTA ta đã
cam kết 8 ngành dịch vụ khoảng 65 phân ngành. Trong thỏa thuận WTO, ta cam kết
đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng 110. Về mức độ cam kết. Thỏa
thuận WTO đi xa hơn BTA nhưng không nhiều. Với hầu hết các ngành dịch vụ, trong
đó có những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch... ta giữ được mức độ
cam kết gần như trong BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, để sớm
kết thúc đàm phán, ta đã có một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với
hiện trạng và đều phù hợp với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các
ngành này.
Trong đó cam kết chung cho các ngành dịch vụ về cơ bản như BTA. Trước
hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh,
trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể mà những ngành như thế là
2
2
không nhiều. Ngoài ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào
làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người
Việt Nam.
Cuối cùng, ta cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần
trong các doanh nghiệp VN nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị trường
ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài mua tối đa 30% cổ
phần.
Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí, ta đồng ý cho phép các doanh nghiệp nước
ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để
đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. Tuy nhiên, ta còn giữ nguyên quyền

quản lý các hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các công ty thăm dò,
khai thác tài nguyên. Ta cũng bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho
các doanh nghiệp VN như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật phẩm
cho dàn khoan xa bờ... Tất cả các công ty vào VN cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí
đều phải đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Dịch vụ viễn thông, ta có thêm một số nhân nhượng so với BTA nhưng ở mức
độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của ta. Cụ thể là cho phép thành lập liên
doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng
mạng, phải thuê mạng do doanh nghiệp VN nắm quyền kiểm soát và nới lỏng một
chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho
viễn thông có gắn với hạ tầng mạng chỉ các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm đa số
vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ
được liên doanh với đối tác VN đã được cấp phép. Như vậy, với dịch vụ có gắn với
hạ tầng mạng, ta vẫn giữ mức cam kết như BTA, một yếu tố quan trọng góp phần bảo
đảm an ninh quốc phòng.
Dịch vụ phân phối, về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt so với các
nước mới gia nhập. Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài là như BTA vào 1-1-2009. Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở
cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá,
2
2
gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép,
xi măng, phân bón... ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. Quan trọng nhất, ta hạn chế
khá chặt chẽ khả năng mở điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể.
Dịch vụ bảo hiểm, về tổng thể, mức độ cam kết ngang BTA, tuy nhiên, ta
đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày
gia nhập.
Dịch vụ ngân hàng, ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước
ngoài không muộn hơn ngày 1-4-2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn được

thành lập chi nhánh tại VN nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ
và vẫn phải chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân VN trong vòng
5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong
ngân hàng VN, không quá 30%. Đây là hạn chế đặc biệt có ý nghĩa đối với ngành
ngân hàng.
Dịch vụ chứng khoán, ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn
nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO
Các cam kết khác, với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế
toán, xây dựng, vận tải..., mức độ cam kết về cơ bản không khác xa so với BTA.
Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn- xuất bản.
2
2
Chương II:Phân tích thực trạng Hoạt động Xuất nhập khẩu của Công ty cổ
phần XNK hàng không AIRIMEX
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TỔNG CÔNG TY CỔ
PHẦN XUẤT NHẬP KHÂU HÀNG KHÔNG.
1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công Ty cổ phần xuất nhập khẩu
Hàng Không
I. Tổng công ty Hàng không dân dụng Việt Nam có đặc trưng chủ yếu là được
hình thành từ các đơn vị quân đội trực thuộc Bộ quốc phòng, và các đơn vị
khác, Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không được thành lập chính
thức ngày 21 tháng 03 năm 1989 theo quyết định số 197/QĐ/TCHK của tổng
cục trưởng Tổng Cục Hàng không dân dụng Việt Nam với tên gọi ban đầu là
“Công ty xuất nhập khẩu chuyên ngành và dịch vụ Hàng không” đội ngũ lao
động chính là Phòng Vật tư kỹ thuật của Tổng cục Hàng không dân dụng Việt
Nam trực thuộc Bộ Quốc Phòng. Công ty là một bộ phận và chịu sự quản lý
trực tiếp của Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam với nhiệm vụ chính là
tiến hành nghiệp vụ xuất nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị thuộc ngành Hàng
không Việt Nam. Lúc mới thành lập, Công ty có 25 cán bộ công nhân viên- là
sĩ quan, công nhân viên quốc phòng, được tổ chức thành 3 phòng: Kế hoạch,

Nghiệp vụ thương mại và Kế toán tài vụ. Cùng với sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và của Ngành Hàng không nói riêng, sau khi luật Hàng không
năm 1991 ra đời, Công ty xuất nhập khẩu chuyên ngành và dịch vụ Hàng
không được đặt dưới sự quản lý của Cục Hàng không dân dụng Việt Nam.
Ngày 30 tháng 07 năm 1994, Bộ Giao thông vận tải ra Quyết định số
1173/QĐ-TCCB-LĐ thành lập Công ty xuất nhập khẩu Hàng không với mã ngành
kinh tế kỹ thuật là 25 ( trong khoảng thời gian này ngành Hàng không Việt Nam trực
thuộc Bộ Giao thông vận tải). Theo quyết định này Công ty XNK Hàng không đặt trụ
sở chính tại 141 Nguyễn Văn Cừ, Phường Bồ Đề, Quận Long Biên, Gia Lâm, Hà Nội
và công ty cũng đặt một chi nhánh tại 108 Đường Hồng Hà, Quận Tân Bình, Thành
2
2
phố Hồ Chí Minh. Công ty đã tiến hành chuyển đổi cổ phần từ Doanh nghiệp, theo
Quyết định số 3892/QĐ – BGTVT ngày 17/10/2005 do bộ trưởng bộ giao thông vận
tải kí xác nhận.
Tổng Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hàng Không là một doanh nghiệp nhà
nước có chế độ hạch toán độc lập và tư cách pháp nhân đầy đủ,công ty có tài khoản
tại các ngân hàng và có con dấu riêng. Nhiệm vụ chính của Công ty là kinh doanh
xuất nhập khẩu vật tư,các máy móc thiết bị phụ tùng cho ngành Hàng không và các
loại vật tư,máy móc thiết bị dân dụng khác… Vốn điều lệ của công ty là 20 tỷ đồng,
tổng số cán bộ công nhân viên là 120 người, thu nhập bình quân là 3,5 triệu đồng/
người/tháng, mức chi trả cổ tức bình quân là 7,2% / năm.
Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 328/TTg về việc thành lập Tổng công ty
hàng không Việt Nam vào ngày 02 tháng 05 năm 1995, mô hình của Tổng Công ty
Hàng không Việt Nam được tổ chức lại theo Tập đoàn kinh doanh ( Tổng Công ty 91)
và cho đến nay Tổng Công ty cổ phần XNK Hàng không được xác định là đơn vị
thành viên hạch toán độc lập của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam theo Nghị định
số 04/CP của Chính phủ ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty
hàng không Việt Nam được ký ngày 25/01/1996.
II. Tên công ty: Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hàng không.

III. Tên giao dịch quốc tế: General Aviation Import-Export Company.
IV. Tên viết tắt: AIRIMEX.
V. Trụ sở công ty: 141 Nguyễn Văn Cừ, phường Bồ Đề, quận Long Biên,
Gia Lâm, Hà Nội.
2. Chức năng và nhiệm vụ hiện nay của Công ty
Nhận rõ nhu của việc cần có một bộ phận chuyên đảm nhận công tác xuất nhập
khẩu thiết bị hàng không và căn cứ vào yêu cầu phát triển của ngành hàng không dân
dụng Việt Nam. Cục trưởng Cục hàng không dân dụng Việt Nam đã ký quyết định
thành lập công ty xuất nhập khẩu chuyên ngành hàng không AIRIMEX số 197
TCHK ngày 1/6/1989 với tiền thân là phòng vật tư kỹ thuật của Tổng Cục Hàng
không dân dụng Việt Nam trực thuộc Bộ quốc phòng.
2
2
Chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là:
+ Xuất nhập khẩu máy bay, phụ tùng máy bay do ngành hàng không dân dụng
Việt Nam ký kết, thực hiện thanh lý các hợp đồng đại lý máy bay, động cơ, trang thiết
bị phụ tùng của máy bay và các thiết bị chuyên dùng cho ngành hàng không.
+ Xuất nhập khẩu nhà xưởng, thiết bị mặt đất cho các sân bay, nhà ga và ngành
quản lý không lưu.
+ Xuất nhập khẩu xăng, dầu, mỡ phục vụ cho ngành hàng không Việt Nam và các
ngành khác có nhu cầu.
+ Tổ chức mở rộng hình thức xuất nhập khẩu cho các mặt hàng khác được nhà
nước cho phép.
+ Được phép nhập một số mặt hàng phi mậu dịch để bán tái xuất tại các nhà ga
quốc tế. Tận dụng trọng tải thừa của hãng hàng không Việt Namvà của các ngành
hàng không nước ngoài xuất khẩu những mặt hàng do Bộ kinh tế đối ngoại uỷ thác.
Tuy nhiên, trong thời gian này công ty vẫn là một đơn vị hạch toán nội bộ, phụ
thuộc vào cấp trên. Khi nhập một lô hàng, công ty phải phụ thuộc vào các cơ quan
khác như cơ quan tài chính, kế hoạch...dẫn tới việc bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và không
đáp ứng được nhu cấu cấp thiết của bạn hàng, thụ động đối với những thay đổi của

thị trường do vậy đã không phát huy tính năng động, sáng tạo của lãnh đạo và cán bộ
công nhân viên của công ty.
Ngày 8/1/1993 Cục trưởng cục hàng không dân dụng Việt Nam đã ra quyết định
số 10/ HKVN cho phếp công ty được hạch toán độc lập. Công ty có những chức năng
nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau:
- Nhập uỷ thác máy bay, động cơ, thiết bị, phụ tùng, linh kiện lẻ cho ngành
hàng không Việt Nam.
- Ký kết thực hiện thanh lý hợp đồngđại tu máy bay, động cơ, trang thiết bị,
phụ tùng máy bay và thiết bị chuyên dùng cho ngành hàng không.
- Nhận uỷ thác trang thiết bị mặt đất, trạm xưởng cho các sân bay, nhà ga và
ngành quản lý không lưu.
2
2

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×