Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

đào tạo nguồn nhân lực tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.91 KB, 39 trang )

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 8
1. NGUYỄN THÀNH TÍN
2. TRẦN THỊ MINH CHI
3. NGUYỄN THỊ THANH HẰNG
4. NGUYỄN THỊ HIẾN
5. NGUYỄN THỊ BÍCH KIỀU
6. NGUYỄN THỊ NGUYÊN SA
7. NGUYỄN THỊ TÀI
8. NGUYỄN THỊ XUÂN TUYỀN.

LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỉ XX đi qua, chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI năng động và sáng tạo của thế kỉ mới con
người mới. Đây là giai đoạn tình hình thế giới có nhiều chuyển biến từ đối đầu sang đối thoại,từ 2
cực chuyển sang đa cực,từ xã hội cũ chuyển sang xã hội thông tin,từ nền kinh tế quốc gia sang nền
kinh tế toàn cầu.
Những tiến bộ khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng, những cuộc cách mạng khoa học công
nghệ mới đang từng bước làm thay đổi bộ mặt sản xuất, đời sống xã hội. Một xã hội tồn tại được
hay không một phần quyết định ở việc có thay đổi được sự thay đổi đó hay không, một xã hội tiến
hay lùi cũng là do thấy trước được sự thay đổi đó.
Đi cùng với sự thay đổi đó,vấn đề đầu tư và phát triển nguồn nhân lực là một nhu cầu không thể
thiếu đối với bất kì một quốc gia nào.Nhà kinh tế học James.L.Hages đã nói rằng: “Không còn là
vấn đề chúng ta muốn hay chúng ta nên phát triển tài nguyên nhân sự.Phát triển tài nguyên nhân sự
là vấn đề sống còn của xã hội chúng ta”.Và nguồn nhân lực là một bộ phận quan trọng của tài
nguyên nhân sự.
Hiện nay vấn đề đầu tư phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu được quan tâm hàng đầu ở nước
ta.Với mục đích tạo ra những con người hiện đại có đầy đủ năng lực,kĩ năng,năng động,sáng tạo,có
những yếu tố cần thiết đủ khả năng tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định”Lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” cho đất nước.
C.I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1.ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC.


1.1. Nguồn nhân lực là gì?
- Theo tổ chức lao động quốc tế thì nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ
tuổi có khả năng tham gia lao động .Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp
nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát
triển bình thường.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển
kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao
động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể
các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
- Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả
năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt. Nguồn lao động là tổng số
những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm
việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Như vậy theo khái
niệm này, có một số được tính là nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó là:
Những người không có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm, tức là những người
không có nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ tuổi lao động quy định nhưng đang đi học…
- Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu: nguồn
nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc
gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử
được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai
của đất nước.
1.2. Phát triển nguồn nhân lực.
Trong thời đại hiện nay, con người được coi là một tài nguyên đặc biệt, một nguồn lực của sự phát
triển kinh tế. Bởi vậy, phát triển con người và phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề trung tâm
trong hệ thống phát triển nguồn nhân lực. Vậy phát triển nguồn nhân lực là gì?
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn hiện tại để tiến hành
các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới, vì mục tiêu
phát triển. Đầu tư phát triển bao gồm:
- Đầu tư tài sản vật chất (Tài sản thực)

- Đầu tư phát triển tài sản vô hình.
Phát triển nguồn nhân lực bao gồm đào tạo, giáo dục và sử dụng tiềm năng con người
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống
Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn
nhân lực. Biểu hiện ở sự hình thành và hoàn thiện từng bước về thể lực, kĩ năng, thái độ và nhân
cách nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu phát triển.
Từ những nhận định trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia: chính là sự biến
đổi về số lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến
thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực.Nói một
cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lựclà quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện
con người vì sự tiến bộ kinh tế- xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người, Vậy thực chất của
phát triển nguồn nhân lực là đề cập đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của
nguồn nhân lực của 1 quốc gia.
1.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là một trong những nội dung của đầu tư phát triển
những tài sản vô hình. Nó cũng là việc chi dùng vốn hiện tại, tiến hành các hoạt động làm tăng quy
mô và chất lượng nguồn nhân lực, vì mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm những nội dung cơ bản sau: đầu tư cho hoạt
động đào tạo lực lượng lao động, đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe y tế, đầu tư cải thiện môi
trường, điều kiện làm việc của người lao động.
. 2) Đặc điểm của đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
- Nếu coi đầu tư phát triển nguồn nhân lực là một lĩnh vực đầu tư thì ta cần phân biệt
với các lĩnh vực đầu tư khác, kết quả là sự tăng lên về thể lực, trí lực và kỹ năng về nghề nghiệp. Do
vậy giữa nguồn nhân lực và các loại tài sản khác có mối quan hệ biện chứng tác đông qua lại lẫn
nhau, trong xã hội càng phát triển thì việc đầu tư vào con người càng được coi trọng, ngược lại việc
phát triển nguồn nhân lực thúc đẩy sự phát triển của các nguồn lực khác.
- Ta có thể mua bán, trao đổi và dung vốn tài sản như một khoản thuế chấp khi vay tiền
trong khi đó ta không thể làm như vậy vì vốn con người. Ta chỉ có thể thuê vốn con người, điều này
lí giải vì sao các khản vay tư nhân hạn chế với sinh viên đại học
- Vì tri thức là 1 tài sản vô hình nên rất khó để đo lường chính xác giá trị của nó. Do

vậy hiệu quả của việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực không được thể hiên ngay mà phải trải qua 1
khoảng thời gian dài. Nó giống như 1 chiến lược phát triển dài hạn.
Ngoài ra lợi ích từ đầu tư phát triển nguồn nhân lực có những khác biệt sau:
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực không hề bị giảm giá trong quá trình sử dụng và
càng ngày càng được sử dụng nhiều càng có khả năng thu hồi vốn và tạo lợi nhuận càng cao, nguồn
nhân lực là vô tận, do đó việc đầu tư vào nguồn nhân lực sẽ luôn đem lại hiệu quả to lớn
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực có chi phí tương đối không cao trong khi có khoảng
thời gian sử dụng tương đối lâu, thường là khoảng thời gian làm việc của 1 đời người
- Các hiệu ứng gián tiếp và hiệu ứng lan tỏa của đầu tư và phát triển nhân lực là rất lớn,
như trình độ nhân lưc trung bình ở 1 nước cao hơn cũng cho phép tăng trưởng kinh tế dễ dàng hơn
và điều chỉnh tốt hơn vấn đề về dân số, kế hoạch hóa gia đình….Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
không chỉ là phương tiện để đạt được những mục tiêu to lớn của xã hội( tăng trưởng và phát triển
bền vững…)mà còn hướng tới các mục tiêu của mỗi các nhân trong xã hội( tạo việc làm tăng thu
nhâp, nâng cao chất lượng cuộc sống…)
3. Các chỉ tiêu đánh giá nguồn nhân lực .
3.1. Các chỉ tiêu đánh giá số lượng nguồn nhân lực
Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá số lượng nguồn nhân lực nhưng tiêu biểu thì người ta hay dùng các
chỉ tiêu sau:
-Tỷ lệ nguồn nhân lực trong dân số.
-Tỷ lệ lực lượng lao động trong dân số
-Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người trong độ tuổi lao động.
-Tỷ lệ lao động có việc làm trong lực lượng lao động.
3.2.Các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng của nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu, trong đó có các chỉ tiêu chủ yếu sau:
• Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khỏe của nguồn nhân lực.
Một người có sức khoẻ không đơn thuần là người đó không có bệnh tật. Sức khoẻ theo định nghĩa
chung nhất chính là trạng thái thoải mái về vật chất, tinh thần, là tổng hoà nhiều yếu tố tạo nên giữa
bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần.
Chúng ta có thể đánh giá tình trạng sức khoẻ qua một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Tuổi thọ bình quân.

- Chiều cao và cân nặng trung bình của người lao động.
- Chỉ tiêu phân loại sức khoẻ.
- Chỉ tiêu dân số trong độ tuổi lao động không có khả năng lao động và suy giảm sức khoẻ.
- Một số chỉ tiêu cơ bản về y tế, bệnh tật: tỉ suất chết, tỉ suất dân số trong độ tuổi bị mắc
HIV/AIDS…
• Chỉ tiêu trình độ văn hoá của nguồn nhân lực.
Đây là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực, và có tác
động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội, phản ánh mà nguồn lao động cung cấp cho xã
hội trong thời kỳ mới – thời kỳ hội nhập. Trình độ văn hoá cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng
một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào thực tiễn. Những chỉ tiêu đó là:
- Tỉ lệ người lớn biết chữ.
- Tỉ lệ đi học chung.
- Tỉ lệ đi học ở các cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông.
• Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kĩ thuật của nguồn nhân lực.
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào đó (nó biểu hiện trình
độ đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học), có khả năng chỉ đạo quản lý
một công việc chuyên môn nhất định. Do đó, trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực được đo
bằng:
- Tỉ lệ cán bộ tổ chức.
- Tỉ lệ cán bộ cao đẳng, đại học
- Tỉ lệ cán bộ trên đại học.
• Chỉ số phát triển con người HDI (Human Development Index )
HDI là thước đo tổng hợp về sự phát triển con người trên ba phương diện sức khoẻ, tri thức và thu
nhập. Ba chỉ tiêu thành phần phản ánh các khía cạnh sau:
- Một cuộc sống dài lâu và khoẻ mạnh, được đo bằng tuổi thọ trung bình.
- Kiến thức được đo bằng tỉ lệ người lớn biết chữ (với quyền số 2/3) và tỉ lệ nhập học các cấp giáo
dục tiểu học, trung học và đại học (với quyền số 1/3)
Chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế mà còn nhấn mạnh đến chất
lượng cuộc sống và sự công bằng xã hội
4-Nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực.

4.1. Vĩ mô:
Trên quan điểm vĩ mô, nhà nước luôn luôn có những chính sách để đầu tư phát triển nguồn
nhân lực hiệu quả nhất. Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực có vai trò hết sức
quan trọng việc phát triển mọi mặt kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi quốc gia. Về cơ bản, đầu tư phát
triển nguồn nhân lực bao gồm những nội dung sau:
- Đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo ( chính quy, không chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi
dưỡng nghiệp vụ…)
- Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khoẻ.
- Đầu tư cho tiền lương.
-Đầu tư cải thiện môi trường làm việc của người lao động.
4.1.1. Đầu tư cho giáo dục:
Cùng với khoa học – công nghệ, vốn đầu tư, chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quyết
định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế – xã hội. Kinh tế nước ta có khả
năng cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới, thu hút được mạnh mẽ các nguồn đầu tư,
đều phụ thuộc phần lớn vào chất lượng nguồn nhân lực. Và giáo dục – Đào tạo có vai trò quyết định
đối với việc hình thành quy mô và chất lượng nguồn nhân lực. Chính vì vậy, đầu tư nguồn nhân lực
cũng là đầu tư vào giáo dục-đào tạo của đất nước. Đầu tư cho giáo dục đào tạo bao gồm các nội
dung sau đây.
4.1.1.1. Đầu tư cho chương trình giảng dạy.
Chương trình giảng dạy là những nội dung sẽ được đưa vào giảng dạy tại các trường học, là
những kiến thức mà người học sẽ trực tiếp thu nhận. Nên đầu tư vào chương trình giảng dạy ở mỗi
nước cần được coi trọng, và phải được xem là nhiệm vụ hàng đầu trong công cuộc đầu tư vào giáo
dục đào tạo. Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
- Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo.
- Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông.
- Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.
- Giáo dục đại học và sau đại học (trong Luật gọi chung là giáo dục đại học), đào tạo
trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.Ngoài ra, bên cạnh hệ thống giáo
dục quốc dân của Việt nam thì còn có các cơ sở giáo dục khác đóng góp vào phát triển nguồn nhân
lực. Các cơ sở giáo dục khác bao gồm:

- Các lớp độc lập: lớp mẫu giáo, lớp xoá mù chữ, lớp ngoại ngữ, lớp tin học, lớp dành
cho trẻ em vì hoàn cảnh khó khăn không được đi học ở nhà trường, lớp dành cho trẻ tàn tật, khuyết
tật, lớp dạy nghề và lớp trung cấp chuyên nghiệp được tổ chức tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ.
- Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp; trung tâm dạy nghề; trung tâm giáo dục
thường xuyên; trung tâm học tập cộng đồng.
- Viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với
trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ. Quan điểm giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu được
khẳng định từ nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục trong quá trình phát triển đất nước, là nhân tố
quyết định sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
4.1.1.2. Đầu tư về đội ngũ cán bộ giảng dạy và phương pháp dạy học.
Để tạo ra đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, trước hết cần đầu tư cho đội ngũ giáo viên,
giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục, là những người hướng dẫn và trực tiếp truyền thụ kiến thức cho
học sinh, sinh viên. Phương pháp giáo dục cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng hiệu
quả tiếp thu kiến thức của học sinh, sinh viên…Phương pháp dạy học có phù hợp, và thực sự cuốn
hút mới có thể làm người học hứng thú với việc học. Ở nước ta hiện nay đã hình thành và phát triển
nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau như:
- Phương pháp giáo dục truyền thống: Giáo viên là người truyền đạt một chiều đến học
sinh, mà không có tương tác ngược lại giữa học sinh tới giáo viên. Giáo viên đọc, học sinh chép và
hầu như chỉ học lượng kiến thức mà giáo viên cho ghi, không có sự sáng tạo.
- Phương pháp giáo dục hiện đại: Giáo viên là người thiết kế tổ chức còn bản thân học
sinh là người tự tìm hiểu kiến thức. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn còn học viên phải tự học hỏi,
tự tìm tòi qua sách báo và các phương tiện khác. Theo phương pháp này thì học sinh chủ động hơn
trong cách học, vì vậy tăng khả năng sáng tạo, tìm tòi của học sinh, sinh viên.
4.1.1.3. Đầu tư về cơ sở hạ tầng vật chất cho giáo dục.
Giáo dục là sự nghiệp chung, Nhà nước chăm lo xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục và
ban hành những chính sách phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Một trong
những nội dung đầu tư giáo dục đào tạo là đầu tư cho cơ sở hạ tầng giáo dục. Nhà nước ta hiện nay
đã đầu tư ngân sách cho giáo dục một phần không nhỏ, trong đó có đầu tư xây dựng trường học,
trang thiết bị trường học phục vụ cho việc dạy và học, các công cụ cho phương pháp giảng dạy mới

như giảng dạy bằng slide, thảo luận, hội thảo…Đặc biệt ngân sách cho đầu tư phát triển hệ thống
trường học đào tạo nghề tăng cao…Việc đào tạo nghề đang được nước ta coi là quốc sách đầu tư
quan trọng, là nhân tố cho việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh việc đầu tư nâng
cao chất lượng cơ sở hạ tầng giáo dục tại thành thị, nhà nước quan tâm đến việc xây dựng trường
học tại vùng sâu vùng xa miền núi, hay hải đảo.
4.1.2. Đầu tư cho y tế .
Để có thể sống, học tập và làm việc một cách hiệu quả và năng suất thì con người cần phải có sức
khoẻ tốt. Có thể khẳng định rằng đầu tư chăm sóc sức khoẻ con người hay đầu tư vào lĩnh vực y tế
cũng là đầu tư phát triển.
4.1.2.1. Đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng khám chữa bệnh.
Nhu cầu khám chữa bệnh của người dân thì ở đâu cũng có, vì vậy hệ thống bệnh viện cần
đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh mọi nơi, mọi lúc. Hệ thống bệnh viện có thể chia làm 3 tuyến
chính: Đảm bảo cung cấp đủ TTBYT cho bệnh viện các tuyến (tuyến cơ sở, tuyến địa phương và
tuyến trung ương).
• Tuyến trung ương: bao gồm những bệnh viện tập trung đội ngũ y bác sĩ lành nghề,
máy móc thiết bị hiện đại chuyên khám chữa những ca bệnh nguy hiểm, phức tạp Đầu tư cơ sở
hạ tầng bệnh viện bao gồm xây dựng phòng khám, trang bị giường bệnh và những dụng cụ y tế cơ
bản, đảm bảo đầy đủ để có thể khám chữa bệnh cho người dân.
• Tuyến địa phương: là những bệnh tuyến huyện, tuyến tỉnh có đội ngũ y bác sĩ trình
độ cao hơn, đáp ứng hầu hết nhu cầu khám chữa bệnh trong địa phương trực thuộc.
• Tuyến cơ sở: thường là các trạm y tế xã, phường với trang thiết bị thô sơ, nhân viên
y tế thường chỉ là y tá, y sĩ trình độ không cao lắm, chỉ có thể đáp ứng nhu cầu tạm thời, sơ cứu
trong những trường hợp khẩn cấp.
Đặc biệt, đầu tư phát triển nguồn nhân lực thì không thể không đầu tư phát triển y tế và
chăm sóc sức khoẻ người lao động. Dịch vụ y tế được coi là hàng hoá không thể thẩm định được. Vì
vậy, đầu tư vào lĩnh vực này cũng có nhiều điểm khác biệt với các ngành khác.
4.1.2.2. Đầu tư sản xuất, lắp đặt trang thiết bị y tế (TTBYT).
TTBYT bao gồm các loại thiết bị, dụng cụ, vật tư, phương tiện vận chuyển chuyên dụng
phục vụ cho hoạt động chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân. Nghề y là một nghề đặc biệt mà ở đó cơ
sở vật chất, phương tiện hành nghề chiếm vị trí cực kỳ quan trọng - bác sĩ giỏi nhưng không có máy

móc, TTBYT hiện đại, tiên tiến thì hiệu quả khám chữa bệnh cũng khó có hiệu quả cao. Đầu tư
TTBYT phải dựa trên các tiêu chí sau:
Phát triển công nghiệp trang thiết bị y tế nhằm nâng cao dần tỷ trọng hàng hoá sản xuất trong
nước và tiến tới tham gia xuất khẩu. Để thực hiện được những mục tiêu trên, chính phủ cần có
những chính sách khuyến khích nghiên cứu và phát triển TTBYT trong nước, tìm tòi, sáng tạo
những phương pháp chữa trị bệnh mới có hiệu quả ngày càng cao. Bên cạnh đó cũng cần có chính
sách ưu đãi đối với hàng hoá TTBYT như giảm thuế nhập khẩu, cũng cố và phát triển hợp lý hệ
thống mua bán hàng hoá TTBYT Đồng thời hỗ trợ hoạt động đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật
chuyên ngành, đảm bảo cho việc vận hành và bảo dưỡng TTBYT luôn làm việc hiệu quả, lâu dài.
Đặc biệt là chính phủ phải có chính sách huy động vốn cho lĩnh vực này, vì TTBYT thường là
những máy móc, dụng cụ có kỹ thuật phức tạp, hiện đại, yêu cầu kỹ thuật cao nên giá thành tương
đối lớn. Có biện pháp thúc đẩy sản xuất, chế tạo TTBYT trong nước giúp hạ giá thành cũng như chi
phí về trang thiết bị.
4.1.2.3. Đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên y tế.
Nếu như khoa học cần có các nhà nghiên cứu, phát minh thì ngành y tế cũng không thể thiếu đội
ngũ nhân viên y tế. Máy móc thiết bị có hiện đại bao nhiêu mà không có bác sĩ thì cũng không thể
hoạt động được. Vì vậy, một đội ngũ nhân viên y tế lành nghề, có lương tâm trong mỗi cơ sở y tế
luôn luôn là mục tiêu phấn đấu của xã hội.
.• Ðào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên ngành để khai thác sử dụng, bảo dưỡng, sửa
chữa và kiểm chuẩn trang thiết bị y tế.
• Từng bước hiện đại hoá TTBYT nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức
khoẻ cho người dân.
4.1.3. Đầu tư cho tiền lương :
. Có thể khẳng định tiền lương là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng tới quyết định làm việc của
người lao động. Tăng lương cũng chính là tăng đầu tư nguồn nhân lực.
+ Tăng lương chính là một trong các biện pháp tăng đầu tư cho nguồn nhân lực, đáp ứng nhu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Tăng lương chính là việc đầu tư cho con người. Đầu tư cho con người chính là một trong
những hình thức đầu tư phát triển mang lại hiệu quả cao nhất, vì đây là việc đầu tư để nâng cao
nguồn nhân lực.

+ Định hướng chính sách tiền lương cũng sẽ liên quan đến việc đổi mới cơ chế hoạt động và
cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng được thu phí dịch vụ tính đủ tiền
lương và từng bước tính đủ về chi phí hoạt động.
4.1.4. Đầu tư cải thiện môi trường làm việc.
Môi trường làm viêc ảnh hưởng như thế nào tới quyết định làm việc của người lao động và
nhà nước cũng như doanh nghiệp phải đầu tư như thế nào để có được môi trường làm việc tốt nhất
cho người lao động, nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực. Môi trường làm việc tốt là môi trường
làm việc mà người lao động cảm thấy hứng thú với công việc của mình trong môi trường đó.
4.2. Vi mô.
4.2.1. Các doanh nghiệp đầu tư cho nâng cao trình độ người lao động.
Giáo dục – Đào tạo có vai trò quyết định đối với việc hình thành quy mô và chất lượng
nguồn nhân lực cho doanh nghiệp và các nhà tuyển dụng. Nghiên cứu nội dung đầu tư vào giáo dục-
đào tạo ở tầm vi mô gồm những nội dung sau:
4.2.1.1. Đầu tư cho việc đào tạo nguồn nhân lực tại nhà trường đáp ứng nhu cầu của
doanh nghiệp:
Giáo dục đại học và kỹ thuật nghề nghiệp là bộ phận chủ yếu tạo ra nguồn nhân lực trình độ
kỹ thuật, nghiệp vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chương trình giảng dạy
ở các trường kỹ thuật nghề còn chưa hiệu quả, các loại hình dạy nghề còn chưa đa dạng. Hiện nay
đào tạo tại các trường chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp, giải quyết việc này cần sự
nỗ lực của 3 phía: nhà tuyển dụng, người học, nhà trường.
4.2.1.2. Đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực của chính các doanh nghiệp.
Hiện tượng “khát” nhân lực có tay nghề diễn ra ở hầu hết các khu công nghiệp và khu chế
xuất và điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp
xác định rằng đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Doanh nghiệp nhận thức rõ hơn về trách
nhiệm của doanh nghiệp với việc đào tạo nhân lực Và ngày càng quan tâm đến việc tham gia vào
công tác đào tạo, khắc phục tình trạng thừa lao động chưa được đào tạo, thiếu lao động có kỹ năng
theo tiêu chuẩn công nghiệp. Nhà tuyển dụng không chỉ nói rõ nhu cầu của họ với nhà trường về các
kỹ năng họ yêu cầu, mà còn trực tiếp tham gia vào công tác đào tạo. Hiện nay dù việc các doanh
nghiệp tham gia đào tạo còn gặp nhiều khó khăn nhưng họ vẫn liên tục xây trường học, mở nhiều
lớp đào tạo kỹ năng, tặng học bổng cho sinh viên các trường đại học và kỹ thuật chuyên nghiệp,

thực hiện các dự án giáo dục cộng đồng.
4.2.2. Doanh nghiệp đầu tư cho y tế
Thông thường đầu tư trong lĩnh vực y tế do chính phủ bỏ vốn là chủ yếu. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp cũng không được xem nhẹ hoạt động này trong nội bộ doanh nghiệp mình. Doanh nghiệp
muốn phát triển thì phải có đội ngũ nhân viên có đủ sức khoẻ để làm việc với hiệu quả tốt nhất. Xét
trên góc độ doanh nghiệp, đầu tư phát triển y tế bao gồm:
4.2.2.1. Đầu tư phát triển cơ sở vật chất trạm y tế trong công ty.
Đầu tư cơ sở vật chất trên tầm vóc doanh nghiệp thì mức độ tuỳ thuộc vào quy mô doanh nghiệp.
Cơ bản là phải đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của lao động trong cơ quan, có thể xử lý tạm
thời những ca nghiêm trọng nhằm làm giảm nguy cơ xấu cho người bệnh.
4.2.2.2. Đầu tư hoạt động tổ chức khám chữa bệnh định kì cho người lao động.
Tổ chức khám chữa bệnh định kì cho nhân viên vừa đảm bảo phát hiện kịp thời và chữa đúng
bệnh, vừa làm an tâm người lao động, giúp họ yên tâm sản xuất, kinh doanh. Doanh nghiệp nên lập
kế hoạch khám bệnh cho nhân viên thường xuyên, khám toàn diện và kỹ càng, đảm bảo sức khỏe
người lao động.
4.2.2.3. Tuyên truyền phòng chống dịch bệnh.
Các doanh nghiệp cần chú ý tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho nhân viên về những bệnh
thường gặp. Tổ chức các buổi giáo dục phòng chống bệnh tật, đảm bảo môi trường làm việc lành
mạnh, giảm nguy cơ nhiễm bệnh.
4.2.3. Tiền lương, tiền thưởng trong doanh nghiệp
4.2.3.1. Tiền lương.
Doanh nghiệp với các chiến lược riêng của mình cũng đã có những tác động nhất định tới
tiền lương nhằm khuyến khích người lao động làm việc với hiệu quả và năng suất cao nhất. Đối với
doanh nghiệp thì tiền lương là một khoản chi phí cấu thành chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Tiền
lương phải trả cho công nhân là yếu tố cấu thành nên giá trị sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp
cung cấp. Các doanh nghiệp cũng đã sử dụng tiền lương làm đòn bẩy để nhằm khuyến khích người
lao động làm việc hiệu quả hơn và thu hút nhân tài cho doanh nghiệp mình. Nhận thức rõ được tầm
quan trọng của vấn đề tiền lương tới thái độ và cung cách, hiệu quả làm việc của người lao động.
Trong những năm gần đây, hầu hết các doanh nghiệp đều có những chiến lược với việc trả lương.
Việc trả mức lương như thế nào cho người lao động cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Tùy vào

chiến lược phát triển của doanh nghiệp, điều kiện làm việc của người lao động mà nhà quản lý
doanh nghiệp sẽ có những điều chỉnh mức lương phù hợp nhằm đạt hiệu quả của người lao động, và
chi phí phù hợp nhất cho sản phẩm hay dịch vụ mà công ty cung cấp.
4.2.3.2. Tiền thưởng.
Tiền thưởng cho nhân viên là một nét văn hóa trong kinh doanh của người Việt Nam. Các
doanh nghiệp cũng đã tận dụng tốt điều này để khuyến khích người lao động gắn bó với doanh
nghiệp. Tiền thưởng cũng là một yếu tố quan trọng khẳng định thương hiệu của doanh nghiệp,
những doanh nghiệp ăn nên làm ra thường có mức thưởng lớn cho nhân viên của mình. Tiền
thưởng có thể bằng tiền hoặc một giá trị như cổ phiếu. Có nhiều loại tiền thưởng:
o Tiền thưởng hoàn thành nhiệm vụ đột xuất :
o Tiền thưởng phát minh, sáng kiến.
o Tiền thưởng cuối năm là khoản tiền mà một xí nghiệp hay hãng công ti thưởng cho
người làm công vào dịp cuối năm
o Tiền thưởng hoàn thành kế hoạch là khoản Tiền thưởng dành cho đơn vị hoặc cá nhân
đã hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh về giá trị, khối lượng và tiến độ
4.2.4. Đầu tư cải thiện môi trường làm việc của công nhân trong doanh nghiệp.
Môi trường làm việc chính là yếu tố quyết định tới thái độ hứng thú làm việc của người lao
động, việc giám sát và phản hồi của nhân viên mang lại rất nhiều điều cho doanh nghiệp. Hiện nay
một số doanh nghiệp cũng đã có những khoản đầu tư thích hợp để cải thiện môi trường làm việc cho
người lao động.Việc này giúp cho nhân việc có thể thư giãn đầu óc, tạm dừng suy nghĩ về công
việc. Điều này sẽ làm nhân viên cảm thấy bớt căng thăng trong giờ làm việc. Và những không gian
làm việc, mang tính cộng tác còn thu hút nhiều nhân viên triển vọng đến làm việc. Doanh nghiệp
cần đầu tư:
- Đầu tư tăng cường điều kiện lao động.
- Đầu tư tăng cường bảo hộ lao động.
- Đầu tư giảm tai nạn lao động.
- Đầu tư cho bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội.
5. Vai trò của đầu tư phát triển nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người: là một trong những nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát
triển kinh tế-xã hội. Vai trò của nguồn nhân lực thể hiện trong các mặt sau:

5.1. Vĩ mô:
5.1.1. Nguồn nhân lực là động lực phát triển kinh tế - xã hội:
Cùng với khoa học – công nghệ, vốn đầu tư, nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự
thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế – xã hội ở nước ta. Chỉ có nguồn lực con người
mới tạo ra động lực cho sự phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy được tác dụng chỉ có
thể thông qua nguồn lực con người. Không thể không khẳng định vai trò của con người trong việc
sáng tạo ra công cụ lao động, rồi vận hành và cải tiến chúng trong quá trình lao động, từ đó thúc đẩy
quá trình sản xuất. Nguồn lực của con người chính là tổng hợp năng lực được huy động vào trong
quá trình sản xuất. Năng lực đó chính là động lực quan trọng cho sự phát triển. Với mỗi quốc gia,
nguồn nhân lực là nguồn lực dồi dào cần cho sự phát triển. Đặc biệt, đối với nước ta có nền kinh tế
đang phát triển, với dân số đông,và dân số trẻ là tiềm năng cho nguồn nhân lực dồi dào. Nếu biết
khai thác hợp lý nó sẽ tạo nên một động lực to lớn cho sự phát triển.
5.1.2. Nguồn nhân lực là mục tiêu của sự phát triền KT-XH:
Phát triển KT-XH là nhằm phục vụ nhu cầu của con người, cải thiện đời sống con người ,
làm xã hội ngày càng hiện đại , văn minh. Con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh
thần của xã hội, nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng.
Có thể khẳng định rằng nhu cầu tiêu dùng của con người cũng là nhân tố quyết định tác động đến
quá trình sản xuất , định hướng cho sản xuất thông qua quá trình vận động cung cầu trên thị trường .
Trên thị trường nhu cầu tiêu dùng của một loại hàng hóa nào đó tăng lên lập tức thu hút lao động
cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó và ngược lại. Đời sống con người ngày càng được cải thiện thì
nhu cầu cùa con người cả về vật chất và nhu cầu tinh thần cũng tăng lên , những nhu cầu đa dạng đó
làm tác động tới sự phát triền của xã hội vì con người không chỉ la mục tiêu của sự phát triển KT-
XH mà còn tạo điều kiện cho sự hoàn thiện mình.
5.1.3. Nguồn nhân lực là nhân tố năng động nhất , quyết định nhất của sự phát triển
Lịch sử phát triển của loài người , từ thời kỳ đồ đá đến thời kỳ hiện đại đã chứng minh rằng
trải qua quá trình lao động hàng triệu năm của con người đã làm tăng động lực phát triền xã hội.
Như vậy động lực , mục tiêu của sự phát triền và tác động của sự phát triển tới bản thân con người
cũng nằm trong chính bản thân con người .Điều đó lý giải tại sao con người được coi là nhân tố
quan trọng nhất , quyết định nhất đến sự phát triển.
5.2. Vi mô:

Nguồn nhân lực có ảnh hường rất lớn đến hoạt động của Doanh nghiệp: Một doanh nghiệp
muốn có sức mạnh để phát triển cần phải có được đội ngũ lao động có trình độ tay nghề thỏa mãn
nhu cầu công việc , và chất xám cũng như nhân lực kỹ thuật đủ để luôn đổi mới sản xuất, nâng cao
năng suất lao động Để đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại
hóa nói chung, cũng như vì sự phát triển của mỗi doanh nghiệp , việc tuyển dụng nhân lực của mỗi
doanh nghiệp phải có những đòi hỏi cao và chất lượng , về kỹ năng mềm cũng như chuyên môn của
người lao động
C.II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC.
1.1. Về phía nhà nước
Ở Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức còn quá
yếu. Có người tính rằng, hiện vẫn còn khoảng 80% số công chức, viên chức làm việc trong các cơ
quan công quyền chưa hội đủ những 5 tiêu chuẩn của một công chức, viên chức như trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng công việc. Có 63%
tổng số sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có việc làm, không ít đơn vị nhận người vào làm, phải
mất 1-2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên có việc làm, thì cũng không đáp ứng được công
việc. Bằng cấp đào tạo ở Việt Nam chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận. Năm 2010,
trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có
8,4 triệu người có bằng cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15
tuổi trở lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ cấu đào tạo
hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại học và trên Đại học là 1, trung học chuyên
nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là 0,92; trong khi trên thế giới, tỷ lệ này là 1-4-10. Số liệu về
tăng trưởng GDP so sánh 6 tháng đầu năm từ 2010-2013 cho thấy tốc độ tăng trưởng đã giảm từ
6.16% trog nửa đầu năm 2013. Mặc dù vậy tốc độ tăng trưởng này ít dao động hơn so với sự thay
đổi liên tục trong tăng trưởng về lao động. Đặc biệt 6 tháng đầu năm 2013 lực lượng lao động đã
giảm 1.9% so với cùng kì năm 2012. Đây là dấu hiệu cho thấy xu hướng suy giảm về lực lượng lao
động theo cơ cấu nhân khẩu học.
Đầu tư cho giáo dục:
1.1.1. Tình hình vốn đầu tư cho giáo dục và đào tạo từ năm 2006 đến năm 2010.
1.1.1.1Tình hình vốn đầu tư cho giáo dục và đào tạo từ năm 2006 đến năm 2010
2006 2007 2008 2009 2010

Vốn đầu tư toàn xã hội 163.500 180.400 217.600 258.700 324.000
Tốc độ tăng - 10,34 20,62 18,89 25,24
Vốn đầu tư cho GD-ĐT 25.822 34.088 37.552 54.223 68.968
Tốc độ tăng cho GD-ĐT - 31.7 10.2 44.4 27.2
Tỷ trọng vốn đầu tư cho
GD-ĐT
6,3 5,3 5,8 4,8 4,7
Qua bảng tổng kết tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo trên ta thấy
rằng trong giai đoạn 2006-2010 thì tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội tăng lên đáng kể. Cùng với
sự gia tăng đó, vốn đầu tư cho giáo dục và đào tạo cũng không ngừng tăng lên.
Đảng và nhà nước luôn giành một lượng vốn khoản 20% vốn ngân sách nhà nước hàng năm để
đầu tư phát triển ngành giáo dục. Nhưng với 20% vốn ngân sách hàng năm không đủ để đáp ứng
nhu cầu đầu tư phát triển các ngành giáo dục. Ngoài vốn ngân sách, nhà nước luôn đổi mới cơ
chế chính sách cho phù hợp với điều kiện mới nhằm thu hút các nguồn vốn khác giành cho đầu
tư phát triển ngành giáo dục như vốn ODA, FDI, nguồn vốn cho vay từ ngân hàng thế giới…
Đặc biệt là nguồn vốn ODA đóng góp phần lớn vào việc đáp ứng cho giáo dục. Thống kê cho
thấy nguồn vốn ODA chiếm 5% tổng số vốn ngân sách nhà nước giành cho giáo dục
1.1.2 Đào tạo giáo dục bằng nguồn ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước giành cho giáo dục ngày càng tăng: năm 2007 so với 2006 là 17,61% và
các năm tiếp theo là 18,17%;22,91% đến năm 2010 là 24% và con số này sẽ tiếp tục tăng trong
tương lai. Theo cơ chế phân cấp ngân sách của từng địa phương, vẫn còn một số sở GD-ĐT không
được thông báo vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngành trên địa bàn, điều này ảnh hưởng trực tiếp
đến việc tham gia quản lý, điều hành và đánh giá thực hiện vốn đầu tư hàng năm, cũng như việc xây
dựng quy hoạch, kế hoạch tăng cường cơ sở vật chất cho toàn ngành.
1.1.3. Đầu tư cho giáo dục đào tạo theo cấp bậc

Nhìn
vào bản
tổng kết
trên ta

thấy
rằng tỷ
trọng
vốn đầu
tư phát triển giáo dục và đào tạo ở cấp phổ thông chiếm vị trí rất cao, trung bình gần 80% tổng vốn
đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo. Còn vốn đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở bậc trung học
chuyên nghiệp chiếm vị trí thấp nhất, trung bình khoảng 1,3% trong tổng vốn đầu tư phát triển. Điều
này cũng cho thấy rằng cơ cấu vốn đầu tư cho các cấp bậc học, bậc học phần nào cũng tương xứng
với quy mô của từng cấp học và bậc học đó trong hệ thống giáo dục quốc dân.
1.1.4. Những thành tựu đạt được.
Giáo dục và đào tạo được xác định là quốc sách hàng đầu, vì lẽ đó trong những năm qua cùng với
sự nỗ lực riêng của ngành giáo dục và đạo tạo, cùng với sự góp công sức của toàn xã hội đã đạt
được những thành tựu quan trọng. cụ thể như :
Quy mô giáo dục và đào tạo được mở rộng, đa dạng hóa các hình thức giáo dục và đạo tạo đồng
thời không ngừng nâng cao dân trí và tăng cường cơ sở vật chất hạ tần nhà trường.
2006 2007 2008 2009 2010
Tổng vốn đầu tư 100 100 100 100 100
Vốn đầu tư cho
GDMN
10 11,5 11,7 11,9 12,4
Vốn đầu tư cho
GDPT
81 80 80 79,6 79
Vốn đầu tư cho
THCN
1,2 1,3 1,2 1,3 1,5
Vốn đầu tư cho
CĐ-ĐH
7,8 7,2 7,1 7,2 7,2
Hình thành một hệ thống giáo dục và đạo tạo quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng

hóa với đầy đủ các cấp học.
Với sự đầu tư cho phát triển GD-ĐT thì kết quả là một mạnh lưới các trường phổ thông được xây
dựng rộng khắp trên cả nước. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trường nội trú cho con em các
dân tộc ít người. Bên cạnh đó, một hệ thống các trường lớp trung tâm dạy nghề phát triển dưới
nhiều hình thức, các trường đại học và cao đẳng được thành lập ở hầu hết các khu dân cư lớn của cả
nước, các vùng, các địa phương. Số trường lớp được xây dựng mới theo chuẩn quốc gia ngày càng
tăng.bên cạnh đó hệ thống giáo dục đã bắt đầu được đa dạng hóa cả về ngoại hình, phương thức và
nguồn lực từng bước hòa nhập với xu thế chung của giáo dục thế giới. từ một hệ thống chỉ có các
trường mở, các phương thức đào tạo từ xa, phương thức liên kết đào tạo với nước ngoài. Thực hiện
thu học phí với hầu hết các cấp học và trình độ đào tạo sau phổ cập.
-Tốc độ phát triển giáo dục và đào tạo không ngừng tăng lên.
Những năm qua tốc độ phát triển giáo dục và đào tạo đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. sự
gia tăng không ngừng qua các năm ở tất cả các cấp bậc học của các trường học, đáng kể nhất phải
kể đến đó là tốc độ phát triển về số lượng trường học ở bậc trung học phổ thông. Bên cạnh đó tốc độ
phát triển đội ngũ giáo viên và học sinh cũng không ngừng tăng lên. Sự gia tăng đáng kể nhất vẫn
tập trung ở cấp trung học phổ thông. Từ kết quả đạt được như trên của tốc độ phát triển giáo dục và
đào tạo đã phần nào khẳng định sự đúng đắn của công cuộc đầu tư phát triển cho giáo dục và đào
tạo.
- Chất lượng giáo dục và đào tạo có chuyển biến trên một số mặt.
Nhờ đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo trong những năm qua chất lượng giáo dục đã không
ngừng tăng. Bên cạnh đó trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh,
sinh viên được nâng cao, giáo dục trung học phổ thông chuyên đạt trình độ cao của khu vực thế
giới, số học sinh đạt các giải quốc gia và quốc tế ở một số môn học ngày càng tăng. Giáo dục đại
học đã từng bước vươn lên, đào tạo được một đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học kỹ thuật từ cử
nhân, thạc sỹ cho đến tiến sĩ, đã và đang công tác có những cống hiến quan trọng trong hầu hết các
lĩnh vực kinh tế, xã hội
1.1.5. Những yếu kém.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nhìn chung ngành giáo dục nước ta còn yếu kém về
chất lượng, mất cân đối về cơ cấu, hiệu quả giáo dục chưa cao, giáo dục chưa gắn bó chặt chẽ với
thực tiễn, đào tạo chưa gắn với sử dụng, đội ngũ giáo viên còn yếu, cơ sở vật chất còn thiếu, chương

trình, phương pháp giáo dục và công tác quản lý chậm đổi mới, một số hiện tượng tiêu cực, thiếu kỷ
cương chậm được khắc phục.
Chất lượng giáo dục còn thấp, một mặt chưa tiếp cận được với trình độ tiên tiến trong khu
vực và trên thế giới, mặt khác chưa đáp ứng được với các ngành nghề trong xã hội. Học sinh, sinh
viên tốt nghiệp còn hạn chế về tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng thích ứng với nghề
nghiệp, các kỹ năng mềm như: tinh thần hợp tác, khả năng giao tiếp, khả năng làm việc nhóm, khả
năng tự tổ chức công việc… còn hạn chế.
Hiệu quả hoạt động giáo dục chưa cao. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cuối cấp so với số lượng
học sinh nhập học đầu năm còn thấp, thấp nhất là ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Tỷ lệ lao động đã
qua đào tạo còn thấp; còn nhiều học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp chưa có việc làm. Việc tăng
quy mô đào tạo trong những năm gần đây là chủ yếu vẫn diễn ra ở bậc đại học, tỷ lệ học sinh,sinh
viên cao đẳng kỹ thuật công nghệ và trung học chuyên nghiệp và học nghề còn thấp và tăng chậm.
Cơ sở giáo dục nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp tập trung quá nhiều vào các thành
phố lớn, khu công nghiệp lớn. Giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn rất
khó khăn, chưa chú trọng đúng mức đến các hình thức giáo dục giành cho người đang lao động.
Đội ngũ nhà giáo thiếu về số lượng và nhìn chung thấp về chất lượng, chưa đáp ứng được
yêu cầu vừa phải tăng nhanh quy mô vừa đảm bảo nâng cao hiệu qủa và chất lượng giáo dục. Đặc
biệt là đội ngũ giáo viên ít có điều kiện thường xuyên tiếp cận, cập nhật tri thức và thành tựu khoa
học công nghệ mới của thế giới.
Chương trình giáo dục, giáo trình, phương pháp dạy chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa.
Chương trình giáo dục còn mang nặng tính lý thuyết, nặng về thi cử, chưa thực sự chú trọng đến
tính sáng tạo, phát triển năng lực thực hành và hướng nghiệp, chưa gắn bó chặt chẽ với nhu cầu của
thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội cũng như nhu cầu của người hoc, chưa gắn bó hiệu quả với
nghiên cứu khoa học- công nghệ triển khai ứng dụng.
Công tác quản lý giáo dục còn kém hiệu quả. Một số hiện tượng tiêu cực, thiếu kỉ cương
trong giáo dục đào tạo chưa được ngăn chặn kịp thời. Các hiện tượng thương mại hóa giáo dục như
mua bằng, bán điểm, tuyển sinh vượt chỉ tiêu, thu chi sai nguyên tắc làm ảnh hưởng đến uy tín của
nhà trường, của các giáo viên. Hiện tượng gian lận trong kiểm tra, thi cử của học sinh, sinh viên ảnh
hưởng xấu đến nhân cách và thái độ lao động của người sau này. Nhìn chung, chất lượng hiệu quả
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của

đất nước trong giai đoạn mới.
Việc chưa sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngân sách nhà nước
+ Nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư phát triển ngành giáo dục và đào tạo chưa đáp
ứng được nhu vầu vốn đầu tư của ngành.
+ Tiến độ giải ngân chậm: tiến độ giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước bao gồm
nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài (vốn ODA) còn chậm, chưa đảm bảo được kế
hoạch thực hiện. Vốn ODA chiếm 5% tổng nguồn ngân sách nhà nước giành cho giáo dục và đào
tạo. Các dự án sử dụng vốn ODA đầu tư phát triển ngành giáo dục đào tạo có tiến độ giải ngân quá
chậm và sự đầu tư chồng chéo giữa các dự án.
+ Nguồn vốn giành cho đầu tư giáo dục phân bổ dàn trải, quá trình đầu tư chưa có trọng
điểm.
+ Các nhu cầu đầu tư phát triển rất lớn, ngân sách nhà nước có hạn. Vì vậy, nếu như
không có sự bố trí hợp lý các chương trình dự án thì thời gian thực hiện của dự án sẽ kéo dài, dẫn
đến thất thoát lãng phí nguồn vốn.
+ Vấn đề thiết kế quy hoạch các dự án chưa hiệu quả, chưa có sự chủ động và vẫn còn
chịu ảnh hưởng của nhà tư vấn nước ngoài, đặc biệt là các dự án có sử dụng nguồn vốn ODA .
+ Quy trình, thủ tục thanh toán phức tạp, mất thời gian, quá nhiều khâu, nhiều ngành,
nhiều cấp liên quan.
1.2. Đầu tư cho y tế.
Việt Nam là nước có tỷ trọng chi cho phát triển y tế vào mức thấp nhất trên thế giới. Y tế là lĩnh
vực được quan tâm nhiều trong những năm gần đây nhưng so với những ngành khác chi cho y tế
vẫn còn rất thấp.
Trong những năm qua, chi ngân sách cho lĩnh vực y tế vẫn còn nhiều mặt hạn chế.
Ngân sách Nhà nước chi cho y tế về tuyệt đối hàng năm có tăng nhưng về tỷ lệ so với GDP, so với
tổng chi ngân sách nhà nước thì không những quá thấp (chỉ bằng một nửa mức chi trung bình của
các nước có thu nhập trung bình) mà còn có xu hướng giảm không đáp ứng được nhu cầu chi của
ngành y tế.
Phần trăm chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp y tế trong giai đoạn 2000-2006
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
% 3.17 3.24 3.14 2.96 2.81 2.9 3.74 4.11 4.03

Nguồn: Tổng cục thống kê
Một thực tế đáng buồn ở nước ta là hiện nay, dù đã có rất nhiều dự án đầu tư cho phát triển cơ sở
y tế từ trung ương đến địa phương nhưng vẫn chưa thể đáp ứng hết nhu cầu của người dân. Đa số
các bệnh viện hiện này đều không đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế. Theo thống kê đầu tư của nhà
nước cho y tế còn quá thấp chỉ 5USD/người/năm, ở vị trí thấp nhất so với các nước trong khu vực
( Malaysia 63 USD/người/năm, Thái Lan 44 USD/người/năm, Lào 8 USD/người/năm, Indonesia 7
USD/người/năm) còn ở các nước phát triển chi phí y tế khoảng 2000 USD/ người/ năm
Trong phần đầu tư cho y tế, Bộ Y tế đánh giá việc phân bổ và sử dụng tỏ ra kém hiệu quả:
41% chi cho thuốc (trong khi thế giới chi cho thuốc 15-30%); 15% chi lương và phụ cấp (thế giới
chi 50-70%) Phân bổ kinh phí cho bệnh viện tính theo giường bệnh không phù hợp với xu thế
nâng cao chất lượng điều trị.
1.2.1. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng y tế.
Do sự chênh lệch về trình độ tay nghề cũng như thiết bị y tế giữa các tuyến nên hầu như ở tuyến
cơ sở không thể đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng đòi hỏi chất lượng của người
dân.
Theo Bộ trưởng Bộ Y tế, nguyên nhân của tình trạng quá tải một phần là hiện cả nước mới chỉ
có 18 giường bệnh trên một vạn dân. Năng lực tuyến y tế cơ sở còn hạn chế. Nhiều bệnh viện tuyến
huyện đã xuống cấp, trang thiết bị lạc hậu, thiếu thốn. Việc quá tải ở các bệnh viện chính là một
nguyên nhân làm giảm chất lượng khám chữa bệnh. Đây là một vấn đề đáng báo động và đang được
dư luận quan tâm rất nhiều.
1.2.2 Đầu tư cho thiết bị y tế
Thực tế ở nước ta phần lớn hệ thống thiết bị y tế ở nước ta đều là thiết bị nhập ngoại với giá cả
khá là đắt. Việc nhập và đưa trang, thiết bị mới vào dịch vụ y tế có vẻ là để tạo ra một dấu ấn, một
nhìn nhận có sự thay đổi về chất lượng điều trị, đối với cả nhà nước và người dân, ở nhiều nơi. Đây
là một hiện tượng mà các bệnh viện đều áp dụng. Nhưng việc sử dụng và vận hành các trang thiết bị
kỹ thuật cao này lại đòi hỏi chi phí lớn và đòi hỏi sau đó việc bù lấp lại đồng vốn bỏ ra.
Để đầu tư đồng bộ và mang lại hiệu quả cao cho ngành y thì các cơ quan chức năng cần có
những chính sách quản lí phù hợp. Đó là việc có những ưu đãi đặc biệt cho hàng hóa thiết bị y tế
như giảm thuế, cấp vốn. Đảm bảo cho hệ thống mua bán hàng hóa thiết bị y tế có điều kiện thuận lợi
để phát triển. Bên cạnh đó cần đào tạo đội ngũ kỹ thuật sử dụng, bảo dưỡng các loại máy móc để nó

có thể hoạt động hiệu quả, lâu dài nhất
1.2.3. Đầu tư cho đội ngũ y bác sỹ.
Đội ngũ y bác sỹ đạt tiêu chuẩn phải là đội ngũ đủ về cả số lượng và chất lượng. Năm 2009 ở
nước ta có trung bình 7,1 bác sỹ / 1 vạn dân, con số này còn khá thấp so với một số nước trong khu
vực. Cũng theo thống kê năm 2009, thành phố Hà Nội có 2.819 bác sĩ, 2.416 y sĩ và 3.750 y tá,
Thành phố Hồ Chí Minh 5.837 bác sĩ, 1.836 y sĩ và 7.566 y tá. Theo thống kê của tổng cục thống kê
thì số lượng nhân viên trong ngành y tế được thống kê ở bảng sau:
Đơn vị: Nghìn người
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Bác sĩ 47.2 50.1 51.5 52.8 54.8 57.3 60.8
Y sĩ 48.7 49.2 49.7 48.8 48.8 49.8 51.8
Y tá 47.8 49.2 51.6 55.4 60.3 65.1 71.5
Hộ sinh 16.2 17.5 18.1 19 20.8 23 25
Bác sỹ/ 1 vạn
dân
5.8 6.1 6.2 6.3 6.5 6.7 7.1
Từ những con số trên thấy số lượng nhân viên y tế đang tăng dần qua các năm. Số bác sỹ trên
một vạn dân đã tăng thể hiện sự phát triển của ngành y tế trong nước song vẫn chưa thể đáp ứng nhu
cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Hiện tượng thiếu bác sỹ ở các cơ sở y tế vẫn diễn ra khá phổ
biển. Mặt khác do chênh lệnh về lương thưởng giữa các tuyến nên đội ngũ nhân viên y tế phân bổ
còn chưa đều, do sự đãi ngộ cao hơn ở các bệnh viện tuyến trên nên phần đông y bác sỹ có chuyên
môn cao đều tập trung chủ yếu ở các bệnh viện trung ương. Ở tuyến trên các trang thiết bị y tế cũng
được đầu tư đầy đủ hơn, họ có cơ hội được làm việc trong môi trường hiện đại, công nghệ kĩ thuật
cao để phát huy hết năng lực và mang lại hiệu quả. Đây cũng là một nguyên nhân khiến cho các cơ
sở y tế ở xã, phường không phát huy được tác dụng trong khi các bệnh viện lớn thường xuyên quá
tải.
Chất lượng của y bác sỹ là vô cùng quan trọng nhưng có thứ quan trọng hơn chính là đạo đức
của người bác sỹ. Họ sẽ là người cùng bệnh nhân đương đầu với những căn bệnh quái ác.
1.2.4. Đầu tư cho y tế dự phòng và giáo dục chăm sóc sức khỏe.
Tổng chi cho y tế dự phòng nước ta chỉ chiếm 10-12% trong tổng đầu tư cho y tế trong khi

khuyến cáo của WHO thì tỷ lệ này phải ở mức tối thiểu là 30%. Theo thống kê cứ một tỷ chi cho y
tế dự phòng thì chúng ta tiết kiệm được 4 tỷ nếu dịch bệnh xảy ra và phải chữa trị. Nếu chúng ta

×